Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 166 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ LỘC

NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA THÀNH NIÊN
TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ LỘC

NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA THÀNH NIÊN
TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 9.38.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Phạm Mạnh Hùng


2. TS. Đặng Quang Phƣơng

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Lộc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 9
1.1. Tình hình nghiên cứu pháp luật Việt Nam về người bị hại chưa thành niên
trong các vụ án hình sự ............................................................................................... 9
1.2. Tình hình nghiên ở nước ngoài .......................................................................... 15
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án .............................. 21
1.4. Về những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu trong luận án ............................ 23
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA
THÀNH NIÊN TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................ 25
2.1. Khái niệm và đặc điểm của người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự ........ 25
2.2. Phân biệt người bị hại chưa thành niên với nguyên đơn dân sự và với người
có quyền lợi liên quan đến vụ án............................................................................... 36
2.3. Quyền và các hình thức bảo đảm thực hiện quyền của người bị hại chưa
thành niên trong các vụ án hình sự............................................................................ 38

Chƣơng 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA
THÀNH NIÊN TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG ....................................................................................................................... 61
3.1. Quy định của pháp luật về người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự .......... 61
3.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật đối với người bị hại chưa thành niên trong các
vụ án hình sự ............................................................................................................. 87
Chƣơng 4: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM GIẢI QUYẾT
ĐÚNG VỤ ÁN HÌNH SỰ CÓ NGƢỜI BỊ HẠI CHƢA THÀNH NIÊN .......... 123
4.1. Các yêu cầu với việc giải quyết vụ án hình sự có người bị hại chưa thành niên .... 123
4.2. Các giải pháp nhằm bảo đảm giải quyết đúng vụ án hình sự có người bị hại
chưa thành niên ....................................................................................................... 125
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 143
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ..................................................................................................... 146
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 147


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự


CQĐT

Cơ quan điều tra

CSĐT

Cảnh sát điều tra

CƯQTE

Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc

ĐTV

Điều tra viên

LHQ

Liên hợp quốC

KSV

Kiểm sát viên

NBH

người bị hại

NCTN


người chưa thành niên

NBHCTN

người bị hại chưa thành niên

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TP

Thẩm phán

Thông tư 01/2011

Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSNDTCTANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12 tháng 7 năm
2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS
đối với người chưa thành niên tham gia tố tụng

THTT

tiến hành tố tụng

TTHS


tố tụng hình sự

VAHS

VAHS

VKS

Viện kiểm sát

VKSNDTC

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Các vụ án xâm hại người chưa thành niên đã được xử lý giai đoạn
2007 – 2017 .................................................................................................. 90
Bảng 3.2: Các tội phạm xâm hại người chưa thành niên đã được xử lý giai
đoạn 2007 – 2017 ......................................................................................... 91
Bảng 3.3: Hình phạt áp dụng đối với các tội phạm xâm hại tình dục người
chưa thành niên đã được xét xử giai đoạn 2013 – 2017 ............................ 105
Bảng 3.4: Hình phạt áp dụng đối với các tội phạm Hiếp dâm trẻ em đã được
xét xử giai đoạn 2013 – 2017 ..................................................................... 106



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quyền con người nói chung và quyền con người trong tư pháp hình sự nói
riêng là một trong những vấn đề được cả cộng đồng nhân loại và mỗi quốc gia quan
tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 là văn bản luật pháp đầu tiên đề
cập đến thuật ngữ ―Quyền con người‖. Hiến pháp đã mở ra bảo đảm quan trọng
trong hệ thống tư pháp với quy định: ―Công dân có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm‖
(Điều 71), ―Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết
tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật‖ (Điều 72).
Quyền trẻ em là lĩnh vực quyền con người cũng được chính thức đề cập
trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp luật, pháp quy của Nhà nước.
Điều 40 Hiến pháp 1992 khẳng định: ―Nhà nước, xã hội, gia đình và công dân có
trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc bà mẹ và trẻ em...‖ . Năm 1998, trong "Báo cáo thực
hiện Công ước về quyền trẻ em giai đoạn 1993-1998‖ gửi Ủy ban về quyền trẻ em
của Liên hợp quốc, Chính phủ cũng đã chỉ rõ: ―Công ước về quyền trẻ em là một
trong những điều ước Liên hợp quốc quan trọng về quyền con người mà Việt Nam
đã phê chuẩn. Hiện tại, thực hiện quyền trẻ em là một trong những trọng tâm của
quyền con người ở Việt Nam‖. Tại Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001, lần đầu tiên
trong các văn kiện của Đảng đã khẳng định về quyền trẻ em : ―...Chính sách chăm
sóc, bảo vệ trẻ em tập trung vào thực hiện quyền trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em
được sống trong môi trường an toàn và lành mạnh, phát triển hài hòa về thế chất, trí
tuệ, tinh thần và đạo đức‖.
Việc chính thức được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 và trong các văn kiện
của Đảng về quyền con người, quyền trẻ em và nghĩa vụ bảo đảm thực hiện của nhà
nước đã tạo nên sự chuyển biến về nhận thức. Quan điểm nhìn nhận trẻ em như một
đối tượng được quan tâm và chăm sóc đặc biệt đang dần dần thay đổi thành trẻ em
là chủ thể của quyền, Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ và bảo đảm việc
thực hiện quyền đó.


1


Trong lĩnh vực tư pháp hình sự quốc tế và của mỗi quốc gia đều chú trọng
đến việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Đặc biệt là quyền của
người bị buộc tội – chủ thể tham gia tố tụng quan trọng cần bảo vệ trong tố tụng
hình sự. Tuy nhiên, tham gia vào quá trình tố tụng hình sự không chỉ có những
người bị buộc tội mà còn có một đối tượng đặc biệt khác mà lâu nay khi nghiên cứu
về quyền con người trong tố tụng hình sự, chúng ta hay ít chú ý đó là quyền của
người bị hại. Bởi trong các chủ thể tham gia tố tụng hình sự thì người bị hại luôn là
chủ thể cần được sự quan tâm đặc biệt từ phía nhà nước mà đại diện là các cơ quan
và người tiến hành tố tụng để giúp họ đòi lại công lý và sự công bằng.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, trọng tâm của vấn đề bảo vệ quyền con
người trong tư pháp hình sự vẫn là người bị buộc tội (người bị bắt, bị tạm giữ, bị
can, bị cáo). Vị trí, vai trò và quyền của người bị hại được ghi nhận rất mờ nhạt.
Việc tham gia tố tụng của người bị hại không chỉ nhằm bảo vệ, khôi phục những
quyền và lợi ích hợp pháp của họ đã bị hành vi phạm tội xâm hại mà còn góp phần
quan trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên phê chuẩn Công ước về
quyền trẻ em của Liên hợp quốc (ngày 20/02/1990), đồng thời cũng là một trong
những quốc gia đã xây dựng cơ chế đầy đủ để chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em
trên cả phương diện tổ chức bộ máy và pháp luật. Trong các chính sách kinh tế, văn
hóa, xã hội chúng ta luôn coi trọng quyền trẻ em. Trong lĩnh vực pháp luật hình sự
và tố tụng hình sự chúng ta cũng luôn đảm bảo các quyền của trẻ em trên phương
diện là kẻ phạm tội, nhưng trường hợp trẻ em là người bị hại trong các vụ án hình
sự lại được ghi nhận rất mờ nhạt.
Sự tham gia của người bị hại chưa thành niên vào quy trình tư pháp hình sự từ
giai đoạn điều tra, truy tố rồi đến xét xử là một tất yếu. Công ước của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em đã khẳng định vấn đề trước tiên và quan trọng nhất, cũng như trong các

vấn đề khác liên quan đến trẻ em, nguyên tắc ―lợi ích tốt nhất của trẻ em‖ phải được coi
là trọng tâm trong việc ứng xử với người chưa thành niên là bị hại. Nguyên tắc này có
tầm quan trọng đặc biệt khi xem xét vai trò của trẻ em trong quy trình tư pháp hình sự.

2


Trong trường hợp trẻ em là người bị hại của tội phạm thì lời khai của các em có thể có
ý nghĩa quyết định đối với việc xử lý thủ phạm. Vì vậy để đảm bảo nguyên tắc này có
nghĩa là đôi khi việc truy tố thủ phạm sẽ gặp nhiều khó khăn hơn.
Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự là một chủ thể tham gia
tố tụng đặc biệt, có vị trí, vai trò rất quan trọng được cả pháp luật hình sự và pháp
luật tố tụng hình sự ghi nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, trong những năm qua tình hình
tội phạm xâm hại chưa thành niên có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số vụ và
người bị hại, quy mô phạm tội, phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi, liều lĩnh,
tính chất mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng và phức tạp. Đây cũng là một
trong những vấn đề được các đại biểu Quốc hội đặc biệt quan tâm và ―bức xúc‖
trong các phiên chất vấn của kỳ họp.
Đứng trước yêu cầu đòi hỏi của thực tế và tình hình tội phạm xâm hại người
chưa thành niên đang diễn ra hết sức phức tạp, công tác hoàn thiện pháp luật và
nâng cao năng lực của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi của
người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự là một đòi hỏi cấp thiết. Vì
vậy, để góp phần vào hoạt động bảo vệ người chưa thành niên trước các hành vi
xâm hại, tác giả đã chọn đề tài: ―Người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình
sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay” để làm luận án tiến sĩ luật học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật
về người bị hại chưa thành niên; Làm rõ thực trạng tình hình tội phạm xâm hại
người chưa thành niên và hoạt động giải quyết các vụ án hình sự có người bị hại

chưa thành niên của các cơ quan tiến hành tố tụng. Từ đó đề xuất các giải pháp có
cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần bảo đảm giải quyết đúng vụ án có người bị hại
chưa thành niên.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, Luận án có nhiệm vụ là:
- Thực hiện tổng quan các vấn đề đã nghiên cứu có liên quan đến nội dung
đề tài, chỉ ra các vấn đề Luận án cần tiếp tục nghiên cứu;

3


- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về người bị hại chưa thành niên
như: Khái niệm, đặc điểm, phân loại và phân biệt người bị hại chưa thành niên với
một số người tham gia tố tụng khác. Nghiên cứu các quy chuẩn chung của pháp luật
quốc tế về quyền của người bị hại chưa thành niên, qua đó so sánh đối chiếu với
quy định của pháp luật Việt Nam để thấy được những điểm chưa tương thích.
Nghiên cứu các hình thức bảo đảm thực hiện quyền của người bị hại chưa thành
niên trong các vụ án hình sự.
- Nghiên cứu, làm rõ những quy định của pháp luật (hình sự và tố tụng hình
sự) Việt Nam về bảo vệ và bảo đảm quyền của người bị hại chưa thành niên. Khảo
sát, đánh giá tình hình tội phạm xâm phạm người chưa thành niên và hoạt động áp
dụng pháp luật đối với loại tội phạm này trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm
2017, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân.
- Đưa ra yêu cầu và đề xuất giải pháp bảo đảm giải quyết đúng các vụ án có
người bị hại chưa thành niên.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận về người bị hại chưa thành
niên trong các vụ án hình sự; quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam về người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự và thực tiễn thi

hành; số liệu liên quan đến Luận án được khảo sát trong phạm vi cả nước từ năm 2007
đến năm 2017 về tình hình khởi tố điều tra, truy tố, xét xử các vụ án xâm hại chưa
thành niên và hoạt động tố tụng trong các vụ án có người bị hại chưa thành niên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là:
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự về bảo vệ và bảo đảm
thực hiện quyền đối với người bị hại chưa thành niên là đối tượng tác động trực tiếp
của tội phạm được quy định thành những tội danh cụ thể. Về thực tiễn áp dụng pháp
luật, tác giả tập trung nghiên cứu đến các vụ án có người bị hại chưa thành niên đã

4


được khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử theo các tội danh quy định tại Bộ luật hình
sự năm 1999.
Đề tài không nghiên cứu và khảo sát các vụ án có người bị hại chưa thành niên
là tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình
sự như ―phạm tội đối với người chưa thành niên‖, ―phạm tội đối với trẻ em‖;
- Về không gian: Luận án nghiên cứu pháp luật về người bị hại chưa thành
niên trong các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay. Đồng
thời, để làm sâu sắc hơn vấn đề nghiên cứu, Luận án cũng có những nghiên cứu về
các quy chuẩn của pháp luật quốc tế về vấn đề quyền của người bị hại chưa thành
niên trong tố tụng hình sự.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam và khảo
sát tình hình khởi tố điều tra, truy tố và xét xử các vụ án có người bị hại chưa thành
niên từ năm 2007 đến năm 2017.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Tác giả có sử dụng các phương pháp luận khoa học xuyên suốt trong quá
trình nghiên cứu toàn bộ luận án mang tính truyền thống đó là chủ nghĩa duy vật

biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Luận án cũng sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu tin cậy khác như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, liên ngành, luật học so sánh và phương
pháp phân tích – dự báo khoa học qua những tài liệu thứ cấp các nước để làm sáng
tỏ các vấn đề cần được nghiên cứu trong phạm vi đề tài. Đặc biệt phương pháp
nghiên cứu tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội được vận dụng tối đa.
Ngoài việc tiếp cận vấn đề nghiên cứu quyền con người của người bị hại chưa thành
niên trong tố tụng hình sự dưới góc độ luật học, chúng tôi đặt vấn đề nghiên cứu
trong mối liên hệ với các ngành khoa học xã hội khác như triết học, xã hội học, đạo
đức và chính trị học. Chẳng hạn để lý giải đặc điểm của người bị hại chưa thành
niên phải dựa trên các kiến thức của nhân học, tâm lý học và xã hội học. Khi nghiên
cứu cơ chế bảo vệ quyền con người của người bị hại chưa thành niên trong tố tụng
hình sự phải đặt nó trong mối quan hệ liên ngành luật học như luật Hiến pháp, đặc
biệt là luật hình sự và tội phạm học. Cụ thể:

5


- Chương 1: Để hệ thống hóa tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến
nội dung Luận án tác giả đã sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê.
- Chương 2: Đề cập đến một số vấn đề lý luận chung về người bị hại chưa
thành niên. Phương pháp nghiên cứu là phân tích văn bản, phân tích thuần túy quy
phạm, tổng hợp, đối chiếu văn bản, so sánh liên ngành và nghiên cứu lịch sử. Ngoài
ra, tác giả còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, tiếp cận đa ngành và liên
ngành luật học để xây dựng khái niệm người bị hại chưa thành niên.
- Chương 3: Đánh giá thực trạng những quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại chưa thành niên trong các vụ
án hình sự ở Việt Nam hiện nay. Các phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng
trong chương này sẽ là tổng hợp, phân tích văn bản, thống kê, khảo sát thực tiễn, sử

dụng số liệu thống kê hình sự của các cơ quan quản lý nhằm tìm hiểu, đánh giá về
thực trạng người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự hiện nay. Từ đó làm
rõ những vướng mắc, tồn tại và nguyên nhân làm tiền đề cho các nhóm giải pháp ở
Chương 4.
- Chương 4: Tác giả tập trung đưa ra các giải pháp trên cơ sở sử dụng
phương pháp phân tích, diễn giả, tổng hợp và dự báo khoa học.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Thứ nhất, Luận án nghiên cứu, tìm hiểu và hệ thống hóa các công trình
nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài liên quan đến người bị hại chưa thành niên.
Từ đó, Luận án tiếp thu những vấn đề đã được nghiên cứu và xác định rõ, chỉ ra
những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Đây là công trình nghiên cứu có hệ thống và
tương đối toàn diện về người bị hại chưa thành niên trong các vụ án hình sự theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích, tổng hợp và tiếp thu có chọn lọc các quan điểm
của các công trình đã được công bố, Luận án đã tiếp tục khẳng định sự tồn tại khách
quan và cần được pháp luật bảo vệ của người bị hại chưa thành niên trong lĩnh vực
tư pháp hình sự Việt Nam. Đồng thời làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về người
bị hại chưa thành niên như đặc điểm tâm sinh lý, sự khác biệt và quyền được bảo vệ

6


của người bị hại chưa thành niên. Luận án cũng đối chiếu so sánh với các chuẩn
mực quốc tế để thấy được những ―khiếm khuyết‖ của pháp luật Việt Nam về vấn đề
người bị hại chưa thành niên trong vụ án hình sự.
Thứ ba, Luận án đưa ra một bức tranh tổng thể về thực trạng xâm hại người
chưa thành niên và những quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng như việc các
cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết các vụ án có người bị hại chưa thành niên.
Thông qua đó chỉ ra những vướng mắc, sai lầm và nguyên nhân của tình trạng này.
Đây là cơ sở thực tiễn để Luận án đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao

chất lượng giải quyết vụ án có người bị hại chưa thành niên phù hợp với thực tiễn
và đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp.
Thứ tư, Luận án đã đề xuất các giải pháp có tính thực tiễn để góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố và xét xử các vụ án có người bị
hại chưa thành niên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm phong phú, sáng tỏ thêm
những vấn đề lý luận và thực tiễn về người bị hại chưa thành niên trong các vụ án
hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay. Luận án phân tích một cách
có hệ thống, toàn diện về lý luận, về thực trạng quy định của luật, tình hình tội
phạm xâm hại người chưa thành niên, kết quả giải quyết các vụ án có người bị hại
chưa thành niên và thực tiễn áp dụng pháp luật đối với các vụ án có người bị hại
chưa thành niên. Thông qua việc khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật của các cơ
quan tiến hành tố tụng để giải quyết các vụ án hình sự có người bị hại chưa thành
niên, tác giả tìm ra những vi, phạm sai lầm và nhận định nguyên nhân của những vi
phạm, sai lầm. Từ những cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn đã nghiên cứu và khảo sát,
Luận án đưa ra những giải pháp có tình khả thi nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
tố tụng đối với các vụ án có người bị hại chưa thành niên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong hoạt động lập
pháp, đặc biệt là trong việc hoàn thiện pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình

7


sự. Luận án còn có thể sử dụng làm tài liệu giảng dạy, tham khảo trong hoạt động
đào tạo chuyên ngành luật học, hoạt động tập huấn nghiệp vụ và phổ biến giáo dục
pháp luật. Thông qua đó, góp phần xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tạo
môi trường ổn định, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, pháp

luật của Nhà nước.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Những vấn đề lý luận về người bị hại chưa thành niên trong các
vụ án hình sự
Chương 3. Quy định của pháp luật về người bị hại chưa thành niên trong các
vụ án hình sự và thực tiễn thi hành
Chương 4. Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm giải quyết đúng vụ án có người
bị hại chưa thành niên

8


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu pháp luật Việt Nam về ngƣời bị hại chƣa thành niên
trong các vụ án hình sự
1.1.1. Các nghiên cứu về lý luận
Đây chính là nguồn tài liệu tham khảo quý báu giúp tác giả có cơ sở để kế
thừa và phát triển nghiên cứu thêm về nhóm đối tượng là người bị hại chưa thành
niên (NBHCTN) trong các vụ án hình sự.
Trong quá trình nghiên cứu tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này,
tác giả tập hợp, phân loại và đánh giá các tài liệu thành ba nhóm theo các vấn đề
trên. Cụ thể như sau:
Một là, nghiên cứu về quyền con người nói chung
Quyền con người là đối tượng quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học xã hội, trong đó có khoa học pháp lý. Khoa học pháp lý Việt Nam trong những
năm gần đây các nhà đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến quyền con người

và bảo vệ quyền con người nói chung.
Sách chuyên khảo ―Quyền con người: Tiếp cận đa ngành và liên ngành luật
học‖, GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH, Hà Nội, 2010 (3 tập, 1010tr);
Giáo trình (giảng dạy sau đại học) ―Quyền con người‖, GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ
biên, Nxb KHXH 2011 (487 tr); Sách chuyên khảo: ―Cơ chế bảo đảm và bảo vệ
Quyền con người‖, GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb KHXH 2011 (431 tr. Các
công trình nghiên cứu này đã tiếp cận vấn đề quyền con người đa ngành, đa lĩnh
vực và nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản về quyền con người; chỉ ra
được nội dung của các quyền con người nói chung, quyền con người trong các lĩnh
vực cụ thể, trong đó khẳng định quyền con người là giá trị đã được nhân loại thừa
nhận chung; đề cập đến các tính chất của quyền con người như tính bất khả tước
đoạt, bất khả phân chia, tính phổ biến, tính đặc thù của quyền con người; nghiên
cứu pháp luật quốc tế về quyền con người trong đó so sánh pháp luật quốc gia và
pháp luật quốc tế về vấn đề quyền con người, khả năng tiếp thu và nội luật hóa pháp
luật quốc tế vào pháp luật quốc gia... Tuy nhiên, trong các công trình trên, quyền và

9


lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên (NCTN) nói chung và NBHCTN nói
riêng chưa được thể hiện rõ, mới chỉ dừng lại ở mức đặt vấn đề hoặc trích dẫn giới
thiệu với tư cách là một bộ phận của quyền con người nói chung.
Hai là, nghiên cứu về quyền con người và quyền của người bị hại trong tư
pháp hình sự
Sách chuyên khảo ―Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự‖
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên, Nxb Hồng Đức, 2015 (262 tr); ―Bảo vệ An
ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con người bằng pháp luật hình sự trong
giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền‖, GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Tư
pháp, 2007; ―Mọi người cần biết về quyền và nghĩa vụ của mình trong TTHS Việt
Nam‖, Nguyễn Phùng Hồng, Nxb Tư pháp, 2005; ―Bảo vệ quyền con người trong

Luật hình sự, Luật TTHS Việt Nam‖ của TS. Trần Quang Tiệp, Nxb Chính trị quốc
gia, HN, 2004,Giáo trình ―Lý luận và pháp luật về Quyền con người‖, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009, Nxb CTQG (670tr). ―Bảo vệ quyền con người
trong TTHS Việt Nam‖, Nguyễn Quang Hiền, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà
nước và pháp luật, 2007; ―Quyền con người trong quản lý tư pháp‖, Văn phòng Cao
ủy Liên hợp quốc về quyền con người và hội luật sư quốc tế, Nxb CAND, 2009;
Luận án tiến sĩ của Lê Nguyên Thanh, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, về Người bị
thiệt hại do tội phạm gây ra trong TTHS Việt Nam (bảo vệ năm 2013); sách chuyên
khảo Nạn nhân của tội phạm (2011) của PGS.TS. Trần Hữu Tráng là nghiên cứu
một cách khá trực tiếp về người bị hại; ―Quyền của người bị hại trong TTTHS Việt
Nam‖, Đinh Thị Mai, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội Việt Nam,
2014, là một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về những vấn đề lý luận và
thực tiễn về quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự (TTHS) ở Việt Nam hiện
nay. Vấn đề người bị hại và quyền của người bị hại trong TTHS đã được xác lập và
phát triển thêm một bước, trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Ở cấp độ các công trình nghiên cứu dưới dạng các bài báo được đăng trên
các tạp chí chuyên ngành (có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án) có thể kể đến
như: ―Luật TTHS Việt Nam với việc đáp ứng các yêu cầu quốc tế về bảo đảm

10


quyền của bị can, bị cáo và người bị tạm giữ‖, Ths. Đinh Thị Mai, Tạp chí Công an
nhân dân, 10/2010. ―Quan tâm bảo đảm quyền của NBH trong TTHS‖, Ths. Đinh
Thị Mai, Tạp chí Khoa học và giáo dục An ninh, 12/2010. ―Cơ chế quốc tế và khu
vực về bảo vệ quyền của NBH‖, Ths. Đinh Thị Mai, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 4/2012. ―NBH trong TTHS‖, Ths. Lê Tiến Châu, TC Khoa học pháp lý, số
1(38)/ 2007. ―Đảm bảo quyền công dân của người tham gia tố tụng trong điều tra
VAHS theo tinh thần cải cách tư pháp‖ Trần Thảo, Dân chủ & Pháp luật; 2008/Số 9
(tr.40-43). ―Bàn thêm về việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng,

NBH trong VAHS‖, ThS. Nguyễn Văn Cừ, TC Kiểm sát, Viện KSNDTC, Số
15/2006, tr. 26 – 28. ―Bàn về các tội phạm có yếu tố gây thương tích và trường hợp
từ chối giám định của NBH trong các VAHS‖, Tạ Quang Khải, TC Kiểm sát, Số
3/2010, tr. 44-48. ―Bàn về khởi tố theo yêu cầu của NBH‖, Mai Bộ, TC Kiểm sát,
Số 3/1999, 30-31. ―Một số vấn đề lí luận về khởi tố VAHS theo yêu cầu của NBH‖,
T.S Trần Quang Tiệp, TC Kiểm sát, Số 01/2006, tr. 29 – 32. ―Một số vấn đề về
NBH, nguyên đơn dân sự trong BLTTHS năm 2003‖ TS. Trần Quang Tiệp, TC
Kiểm sát, Số 4/2006, tr. 15 – 18. ―Một số vấn đề về sự tham gia tranh tụng của
NBH và nguyên đơn dân sự tại phiên toà hình sự sơ thẩm theo yêu cầu cải cách tư
pháp‖, Nguyễn Trương Tín, Tạp chí Luật học, Số 3/2010, tr. 47 – 57. ―Một số vấn
đề về việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, NBH trong các
VAHS‖, ThS. Trần Đại Thắng, TC Kiểm sát, Số 24/2005, tr. 56 – 59. ―Một số
vướng mắc khi giải quyết vụ án được khởi tố theo yêu cầu của NBH‖, Lê Văn Cân,
Tạp chí Kiểm sát, Số 7/2008, tr. 49 – 51. ―Một số vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng chế định khởi tố VAHS theo yêu cầu của NBH‖ Nguyễn Đức Thái, Tạp chí
Kiểm sát, Số 09/2009, tr. 27 – 30. ―NBH đã yêu cầu khởi tố trình bày lời buộc tội
tại phiên toà theo trình tự, thủ tục nào?‖, Hoàng Thị Liên, Tạp chí Dân chủ & pháp
luật, Số 8/2006, tr.47- 48&50. ―Nhất thiết phải xác định cụ thể NBH‖, Trần Thanh
Thuỷ, Tạp chí Kiểm sát Số 11/2002, tr. 28 – 22. ―Trao đổi về việc sửa đổi Điều 51
BLTTHS về nghĩa vụ của NBH‖, Đỗ Thị Ánh Tuyết, Tạp chí Kiểm sát, Số 5/2010,
tr. 47 – 48. ―Vấn đề tuổi của NBH‖, Nguyễn Đình Bình, Tạp chí Toà án nhân dân,

11


Số 1/2000, Tr.36 – 37. ―Về thẩm quyền đình chỉ điều tra các vụ án được khởi tố
theo yêu cầu của NBH‖, Lê Văn Minh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật Số 1/1 2001, tr.51-53.
Về mặt lý luận cũng như thực tiễn hiện nay các nhà nghiên cứu về vấn đề
quyền con người trong tư pháp hình sự đều coi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
người bị kết án là trọng tâm của vấn đề quyền con người trong TTHS. Người bị

buộc tội là những chủ thể ―yếu thế‖ khi đối trọng với các cơ quan tư pháp, các
quyền của họ ―có nguy cơ bị xâm phạm cao nhất‖ nên họ là ―ưu tiên số 1‖ trong
việc áp dụng các biện pháp nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền con người bằng pháp luật
hình sự, TTHS. Do vậy, quyền của người bị hại thường bị bỏ quên hoặc coi nhẹ.
Thực trạng này dẫn nguy cơ người bị hại vốn là đối tượng bị tội phạm xâm hại và
chịu nhiều tổn thất nhất khi tội phạm xẩy ra, trước khi tham gia vào tiến trình
TTHS. Thực tế hiện nay, trên cả 3 bình diện: Lập pháp, thi hành luật và nghiên cứu
hoàn thiện pháp luật việc tham gia tố tụng và ngay cả sau khi tố tụng đã kết thúc,
các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại lại một lần nữa bị đặt trước nguy cơ
bị ―bỏ quên‖.
Ba là, nghiên cứu về người chưa thành niên nói chung và người bị hại chưa
thành niên nói riêng.
Trong những năm gần đây, trước tình hình tội phạm xâm hại NCTN ngày
càng gia tăng, đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể:
Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam – Số đặc san Tạp chí Dân chủ và pháp luật;
Tập đề cương bài giảng Tư pháp người chưa thành niên của trường Cao đẳng Kiểm
sát Hà Nội, năm 2005; Số chuyên đề về công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra, kiểm sát xét xử đối với các vụ án có NCTN phạm tội và người có hành
vi phạm tội đối với người chưa thành niên của Tạp chí Kiểm sát, số 6 (tháng
3/2007); Nguyễn Văn Cừ ―Bàn thêm về việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người
làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự‖ Tạp chí Kiểm sát Số 15/2006, tr. 26 –
28; Lê Nguyên Thanh ―Bàn về khái niệm người bị hại trong tố tụng hình sự” Tạp
chí Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Số 5/2012, tr.

12


18 – 26; Vũ Gia Lâm ―Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam‖ Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Số 11/2011, tr. 29 – 37; Trần Hưng Bình ―Bảo vệ quyền con người của người

bị hại chưa thành niên trong tố tụng hình sự‖ Tạp chí Kiểm sát, Số 23/2012, tr. 44 –
49; Nguyễn Thị Hồng Luy ―Đăng ký khai sinh và việc xác định tuổi người bị hại
trong công tác kiểm sát điều tra‖ Tạp chí Kiểm sát Số 7/1999, tr. 20; Phạm Ngọc
Cường, Trần Nguyên Quân ―Phương pháp tác động tâm lý để lấy lời khai người bị
hại trong các vụ án hình sự‖ Tạp chí Kiểm sát, Số 6/2001, tr. 31 – 32; Nguyễn Đình
Bình ―Vấn đề tuổi của người bị hại‖ Tạp chí Toà án nhân dân, Số 1/2000, tr. 36 –
37; / Đinh Văn Quế ―Xác định tuổi của người bị hại trọng vụ án hình sự như thế
nào?‖ Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 7/1999, tr. 4 - 6… Đa số các công trình
nghiên cứu này là các bài viết nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học hoặc tham
gia các hội thảo.
Trong các công trình nghiên cứu đã được công bố, nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn về NCTN và tư pháp NCTN đã được đặt ra và giải quyết. Nhưng đa số các
công trình nghiên cứu này cũng mới chỉ tập trung vào việc giải quyết những vấn đề
nhỏ lẻ của NBHCTN như: Vấn đề xác định tuổi của bị hại; vấn đề lấy lời khai
người bị hại; vấn đề bảo vệ quyền con người; vấn đề tâm lý của bị hại…hoặc là
nghiên cứu NBHCTN với tư cách là bị hại của một loại, một nhóm tội phạm nhất
định xảy ra trên một địa bàn cụ thể. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này
chưa đưa ra được một hệ thống lý luận và thực trạng toàn diện về NBHCTN trong
các vụ án hình sự. Đồng thời cũng giải quyết được một cách có hệ thống và đầy đủ
về sự cần thiết và tính tất yếu của việc hoàn thiện thủ tục tố tụng đối với NBHCTN.
Trong khuôn khổ Chương trình bảo vệ trẻ em thuộc Kế hoạch hành động của
Chương trình hợp tác giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam và
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc ( UNICEF) giai đoạn 2006 – 2010, Bộ Tư pháp được
giao chủ trì phối hợp với Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC,
Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Bộ Công an, Hội Luật gia Việt Nam thực
hiện Dự án 2: ―Hệ thống tư pháp thân thiện với người chưa thành niên‖. Dự án này

13



tập trung nghiên cứu về các vấn đề tư pháp đối với NCTN và bảo vệ trẻ em là nạn
nhân của tội phạm. Mặc dù cũng đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng dự án
cũng chỉ tập trung nghiên cứu và hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến đối
tượng NCTN vi phạm pháp luật. Đề án chưa nghiên cứu sâu đến đối tượng NCTN
trẻ em là nạn nhân trong các vụ án hình sự .
1.1.2. Các nghiên cứu về thực tiễn và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền
con người, quyền của người bị hại
Luận văn thạc sĩ luật học ―Hoàn thiện pháp luật đảm bảo quyền con người
trong xét xử hình sự ở nước ta‖, Hoàng Hùng Hải, 2000; ―Đảm bảo quyền con
người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam‖ của Lại Văn
Trình, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2011;
―Cần sửa đổi các quy định liên quan đến quyền khởi tố theo yêu cầu của
NBH trong BLTTHS năm 2003‖, Hoàng Thị Liên, Tạp chí Kiểm sát, Số 3/2008, tr.
29 – 31. ―Đăng ký khai sinh và việc xác định tuổi NBH trong công tác kiểm sát điều
tra‖, Nguyễn Thị Hồng Luy, Kiểm sát, Số 7/1999, tr.20. ―Đình chỉ điều tra vụ án
khởi tố theo yêu cầu của NBH khi họ rút đơn theo quy định tại khoản 2 điều 105
BLTTHS năm 2003‖, TS. Mai Thế Bày, Kiểm sát, Số 20 tháng 10/2009, tr.3 – 8.
―Một số kiến nghị sửa đổi điều 107, điều 164 BLTTHS để xử lý các vụ án cố ý gây
thương tích khi NBH từ chối giám định và rút đơn yêu cầu khởi tố‖, Nguyễn Duy
Hùng, TC kiểm sát, Số 9(tháng 5/2010), tr. 18 – 20. Vũ Việt Hùng ―Hoàn thiện các
quy định về người chưa thành niên phạm tội, người bị hại và người làm chứng là
trẻ em trong Bộ luật Tố tụng hình sự ― Tạp chí Kiểm sát, Số 6/2012, tr. 39 - 47, 64;
Phạm Quang Thắng ―Hoàn thiện chính sách, pháp luật trong điều tra, truy tố và xét
xử đối với các vụ án hình sự mà người bị hại là trẻ em‖ Tạp chí Kiểm sát, Số
6/2012, tr. 48 – 52; Trần Minh Hưởng ―Nâng cao hiệu quả biện pháp lý lấy lời khai
người bị hại trong điều tra các vụ án mua bán phụ nữ, trẻ em‖ Tạp chí Kiểm sát ,
Số 21/2007, tr. 26 - 29, 35; Nguyễn Thị Lộc ―Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự có
người bị hại là người chưa thành niên‖ Tạp chí Kiểm sát, Số 15/2013, tr. 14 – 19;


14


Tại Học viện CSND cũng có một số đề tài Luận văn thạc sỹ nghiên cứu về
vấn đề này như: ― Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm chiếm đoạt trẻ
em vùng biên giới tỉnh Hà Giang‖ của tác giả Dương Thị Huệ - Cao học khóa 17; ―
Hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số tỉnh Lai Châu. Thực trạng và giải pháp‖ của tác giả Phạm Mạnh
Hùng - Cao học khóa 16; ― Thực trạng và giải pháp nâng cao công tác điều tra các
vụ án xâm hại trẻ em trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Điện
Biên của lực lượng CSĐT tội phạm về TTXH‖ của tác giả Lê Bình - Cao học 17.
Viện khoa học kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có đề tài cấp bộ: ―Hoàn
thiện các quy định về thủ tục điều tra, truy tố và xét xử NCTN phạm tội trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003‖.
Nhìn chung, trong các nghiên cứu đã thực hiện, chưa có nghiên cứu nào tiếp
dưới góc độ so sánh, đối chiếu và làm rõ các nhân tố hợp lý và tất yếu trong hệ
thống lý luận cũng như trong các thủ tục tố tụng cần áp dụng đối với NBHCTN
nhằm ngày càng phù hợp hơn với các quy định của quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Đặc biệt, hiện nay chưa có một công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu làm rõ
cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và các phương hướng, kiến nghị cụ thể để xây dựng cơ
chế bảo vệ tốt hơn quyền và thủ tục tố tụng áp dụng đối với NBHCTN trong các vụ
án hình sự đáp ứng với các tiểu chuẩn và xu hướng của thế giới. Đây là những vấn
đề đang bỏ ngỏ mà luận án cần nghiên cứu làm rõ.
1.2. Tình hình nghiên ở nƣớc ngoài
1.2.1. Các nghiên cứu về lý luận
Một là, nghiên cứu về quyền con người nói chung
Ngày 26/08/1789 các nhà cách mạng Pháp công bố Bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền, đánh dấu sự phát triển lên một bậc thang mới của quyền con
người. Tuy nhiên, phải đợi đến ngày 10/12/1948, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc
thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) tại Palaisde Chaillot,

Paris, Pháp – là mốc son đánh dấu thành tựu quan trọng cho sự phát triển quyền con
người. Ngày 16/12/1966, Liên Hợp Quốc thông qua hai Công ước quốc tế về quyền

15


con người, là Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) và Công
ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Có thể khẳng định, đây là ba văn kiện
quốc tế quan trọng đặt nền tảng cho khung pháp luật quốc tế về quyền con người.
Hai là, nghiên cứu về quyền con người trong tư pháp hình sự nói chung và
quyền của người bị hại nói riêng.
Vấn đề nghiên cứu về người bị hại trong tư pháp hình sự nói chung mới được
các nhà khoa học trên thế giới đề cập đến và nghiên cứu trong những năm gần đây.
Hiện nay, Liên hợp quốc đang xây dựng Bản tuyên ngôn về quyền của người bị hại
(bản dự thảo đầu tiên năm 2008) [181]. Đến tháng 03/2010, Ủy ban Liên minh Châu
Âu EU triển khai chương trình kế hoạch 05 năm (2010 – 2015) đẩy mạnh công tác
nghiên cứu và áp dụng về các qui định về quyền của người bị hại vào thực tế áp
dụng pháp luật TTHS của các nước thành viên EU [182]. Ngày 04/10/2012, Ủy ban
Châu Âu đã bỏ phiếu thông qua một đạo luật mới với tên gọi ―Chỉ thị của Ủy ban
Châu Âu về bảo đảm các quyền tối thiểu của nạn nhân của tội phạm,
MEMO/12/659‖ [183]. Chỉ thị nêu rõ: ―Các hệ thống tư pháp hình sự của các nước
thành viên EU đã quá tập trung vào bảo đảm quyền của người bị kết án (tội phạm)
mà xem nhẹ quyền của người bị hại. Bằng đạo luật này, chúng tôi sẽ tăng cường
quyền cho các nạn nhân. Không ai muốn trở thành nạn nhân của tội phạm, nhưng
nếu nó xẩy ra, người dân cần”.
Ngày 15/3/2001, Công ước Châu Âu về vai trò, vị trí của người bị hại trong
TTHS đã được thông qua bởi Đại hội đồng Liên minh Châu Âu [184]. Thực hiện
Quyết định khung này, một Chỉ thị về bồi thường nhà nước cho các nạn nhân của
tội phạm đã ra đời và có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các quốc gia thành viên EU
kể từ ngày 22/3/2001[185].

Tại Mỹ, quyền của người bị hại đã được khẳng định như là một quyền hiến
định vào năm 1982 với Bộ luật đầu tiên về quyền của người bị hại (The Victim
Rights Act).
Một số công trình nghiên cứu bảo vệ quyền của người bị hại trong tư pháp
hình sự tiêu biểu như:

16


Công trình “Victim of Crime: An Overview of Reasearch and Policy” (1998) –
(Nạn nhân của tội phạm: Tổng quan tình hình nghiên cứu và chính sách) của Viện
Tội phạm học Australia. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về người bị hại trong
TTHS của Australia, được Viện Tội phạm học của Australia nghiên cứu trong vòng
2 năm (1998 – 2000). Công trình đã nghiên cứu tổng kết toàn bộ các kết quả nghiên
cứu trước đây của Úc về nạn nhân của tội phạm và tóm tắt tất cả các sáng kiến về
mặt chính sách đã được nêu cũng như áp dụng tại Australia (đặc biệt là phía Nam
Australia) nhằm cải thiện vị trí, vai trò và quyền của người bị hại trong hệ thống tư
pháp hình sự Australia.
Cuốn sách: “Hướng tới người bị hại: Đánh giá khái quát về quyền của người
bị hại” do Bộ Tư pháp NewZealand xuất bản năm 2009 dày 60 trang, gồm 7
chương, trong đó đã trình bày một cách khái quát nhất về các vấn đề liên quan đến
người bị hại và quyền của người bị hại nhằm mục đích bảo vệ và nâng cao vai trò
của người bị hại trong hệ thống tư pháp hình sự của NewZealand.
Cuốn sách: ―Seeking Justice through the Criminal Justice System‖ (2010)
(Tìm kiếm công lý trong hệ thống tư pháp hình sự) do Bộ tư pháp Mỹ công bố trong
chương trình khảo sát về thực trạng bảo vệ quyền của các bên tham gia vào quá
trình TTHS [172] cũng đã phân tích quá trình người bị hại tham gia vào các hoạt
động TTHS và phản ứng tâm lý của họ về các quyền tố tụng của mình trong quá
trình đi tìm chân lý của vụ án. Cuốn sách cũng đã chỉ rõ: nếu người bị hại tin tưởng
vào hệ thống tư pháp hình sự, tin tưởng vào việc quyền và lợi ích hợp pháp của

mình sẽ được bảo đảm trong một nền tư pháp minh bạch và tiên tiến thì họ sẵn sàng
tố cáo tội phạm và đồng thời hợp tác nhiệt tình với cơ quan điều tra trong quá trình
chứng minh vụ án, nếu ngược lại, họ sẽ im lặng và chịu thiệt thòi do hậu quả của tội
phạm còn hơn là lại phải theo đuổi kiện tụng hoặc theo đuổi các quá trình TTHS.
Luận án tiến sĩ Luật học: “The role and position of victims of crime in the
Dutch criminal law” (2000) (Địa vị pháp lý của người bị hại trong hệ thống pháp
luật hình sự Hà Lan) của E.I. Brienen. Công trình đã dành gần 500 trang để phân
tích, điều tra toàn diện về vị trí, vai trò và các quyền tố tụng, các quyền dân sự của
nạn nhân của tội phạm ở Hà Lan.

17


Công trình nghiên cứu: “Victims of Crime in 22 European Criminal Justice
Systems” (2000 - 2005) (Nạn nhân tội phạm trong hệ thống pháp luật hình sự của
22 nước Châu Âu) của Dr. Marion, Khoa Luật Đại học Katholieke, EU. Công trình
này đã nghiên cứu vai trò của người bị hại trong hệ thống tư pháp hình sự các nước
Châu Âu, đặc biệt hướng tới trả lời câu hỏi các nạn nhân trong các vụ án hình sự
cần được hỗ trợ như thế nào để họ có thể tiếp cận được với thông tin trong quá trình
tố tụng. Thông qua việc tiếp cận các thông tin này họ có thể chủ động thực hiện các
quyền năng tố tụng của mình nhằm trước hết là bảo vệ quyền của mình, sau đó
nhằm thiết thực cải thiện khả năng đòi các bồi thường vật chất và phi vật chất từ
người phạm tội cũng như từ các cơ quan có chức năng bồi thường (của nhà nước
hoặc phi chính phủ).
Ba là, nghiên cứu về người chưa thành niên nói chung và người bị hại chưa
thành niên nói riêng
Về vấn đề bảo vệ quyền của NCTN bằng tư pháp hình sự, Liên Hợp Quốc đã
thông qua một loạt các văn bản như sau: Quy tắc tiêu chuẩn tối thiếu của Liên Hợp
Quốc về quản lý tư pháp đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) 1985; Quy
tắc của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa người chưa thành niên bị tước quyền tự do,

1990; Hướng dẫn của Liên Hợp Quốc về phòng ngừa phạm pháp của người chưa thành
niên (Hướng dẫn Riyadh), 1990; Tuyên bố về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên
quan đến việc bảo vệ và phúc lợi của trẻ em, đặc biệt là việc bảo trợ và nuôi con nuôi
trong nước và nước ngoài, 1986; Hướng dẫn về hành động đối với trẻ em trong hệ
thống luật hình sự, phụ lục của Nghị quyết số 1997/30 của Hội đồng kinh tế và xã hội
về việc quản lý tư pháp với người chưa thành niên (ICCPR, Đại Hội đồng Liên Hợp
Quốc thông qua ngày 16/12/1966, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976).
1.2.2. Các nghiên cứu về thực tiễn quy định và áp dụng pháp luật về người bị hại
chưa thành niên trong tư pháp hình sự
Lĩnh vực bảo vệ quyền của NCTN nói chung và bảo vệ quyền của NBHCTN
nói riêng đã có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu:
Cuốn "Protecting the world's children: Impact of the Convention of the
Rights of the Child in Diverse Legal Systems" (Bảo vệ trẻ em trên thế giới: Tác

18


động của Công ước về quyền trẻ em tới các hệ thống pháp luật) do UNICEF ấn
hành năm 2007 lại xem xét vấn đề tư pháp người chưa thành niên dưới góc nhìn so
sánh các kinh nghiệm lập pháp trong việc đưa CRC vào khung pháp luật của các quốc
gia và cung cấp thực tiễn thực thi CRC tại 191 quốc gia với bốn hệ thống pháp luật
điển hình: Hệ thống pháp luật Common Law, hệ thống pháp luật Civil Law, hệ thống
pháp luật Muslim và hệ thống pháp luật Châu Phi thuộc khu vực tiểu sa mạc Sahara.
Cuốn: "Justice for Children: Autonomy Development and the State" (Tư
pháp cho trẻ em: Sự phát triển tính tự quản của trẻ em và sự can thiệp của Nhà
nước) do Harry Adams thực hiện nghiên cứu và Đại học New York ấn hành năm
2008. Với hơn 197 trang viết, tác giả đã đề cập đến sự thay đổi của lứa tuổi người
chưa thành niên thông qua những biến đổi về tâm sinh lý. Đây là giai đoạn người
chưa thành niên có sự biến đổi lớn về nhận thức và hành vi, trẻ chuyển từ trạng thái
luôn gắn bó với cha mẹ, coi cha mẹ là thần tượng sang trạng thái muốn thoát dần

ảnh hưởng của cha mẹ, có khuynh hướng độc lập. Qua đó tác giả đề xuất những khu
vực mà người chưa thành niên có thể "tự quản", và đồng thời xác lập những giới
hạn cần thiết thông qua sự can thiệp của gia đình, nhà trường và pháp luật đối với
hành vi của trẻ. Mặt khác, tác giả cũng khẳng định không có học thuyết pháp lý nào
là hoàn hảo tuyệt đối để áp dụng duy nhất.
Cuốn: "Justice for Children: Detention as a Last Resort" (Innovative
Initiatives in the East Asia and Pacific Region) (Tư pháp cho trẻ em: Phạt tù như là
biện pháp cuối cùng (Sáng kiến ở khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương), do
tổ chức Unicef East Asia And Pacific Regional Office (EAPRO) ấn hành. Công
trình tiếp cận vấn đề tư pháp người chưa thành niên thông qua thực tiễn ba quốc gia:
Philipin, Thái Lan, Campuchia. Công trình đã chú ý giải quyết các vấn đề liên quan
đến trẻ em là nạn nhân của nghèo đói, lạm dụng, bóc lột sức lao động, trẻ em là nạn
nhân của việc buôn người, nạn nhân của công nghiệp tình dục,...Trên cơ sở tiếp cận
dưới góc độ những tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế, đối chiếu với những hoạt động
lập pháp của các quốc gia, thực tiễn thực thi pháp luật bảo vệ quyền trẻ em tại các
quốc gia này thông qua các mô hình tư pháp hình sự được thiết lập.

19


×