Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Ý chí của chủ thể trong giáo dục dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (814.29 KB, 89 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN HOÀI THANH





Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ TRONG GIAO DỊCH DÂN
SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - 2014




2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRẦN HOÀI THANH




Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ TRONG GIAO DỊCH DÂN
SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Đăng Hiếu





HÀ NỘI - 2014


3



Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Trần Hoài Thanh







4
MỤC LỤC




Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ GIAO
DỊCH DÂN SỰ VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ
CỦA CHỦ THỂ
5
1.1.
Khái niệm và phân loại giao dịch dân sự
5
1.1.1.
Khái niệm giao dịch dân sự
5
1.1.2.
Phân loại giao dịch dân sự
8

1.2.
Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
12
1.2.1.
Điều kiện về chủ thể
12
1.2.2.
Điều kiện về nội dung, mục đích
15
1.2.3.
Điều kiện về ý chí
16
1.2.4.
Điều kiện về hình thức
18
1.3.
Khái niệm giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí
20

Chương 2: CÁC TRƯỜNG HỢP GIAO DỊCH DÂN SỰ VI PHẠM
SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ
24
2.1.
Các trường hợp giao dịch dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý
chí của chủ thể
24
2.1.1.
Giao dịch dân sự nhầm lẫn
24
2.1.2.

Giao dịch dân sự lừa dối
30
2.1.3.
Giao dịch dân sự đe dọa
34

5
2.1.4.
Giao dịch dân sự giả tạo
40
2.1.5.
Giao dịch dân sự được thiết lập do người thiết lập tại thời
điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
43
2.2.
Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện về ý chí
của chủ thể
47
2.2.1.
Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối
48
2.2.2.
Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối
50
2.3.
Hậu quả pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm sự
tự nguyện về ý chí của chủ thể
51

Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH

DÂN SỰ VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ CỦA
CHỦ THỂ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
56
3.1.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do
vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể
56
3.1.1.
Thực tiễn về giao dịch dân sự nhầm lẫn
56
3.1.2.
Thực tiễn về giao dịch dân sự lừa dối
59
3.1.3.
Thực tiễn về giao dịch dân sự bị đe dọa
62
3.1.4.
Thực tiễn về giao dịch dân sự giả tạo
64
3.1.5.
Thực tiễn về giao dịch dân sự do người xác lập không nhận
thức và làm chủ được hành vi
67
3.2.
Một số kiến nghị hoàn thiện vấn đề giao dịch dân sự vi phạm
sự tự nguyện về ý chí của chủ thể
71
3.2.1.
Các quy định chung về sự tự nguyện về ý chí của chủ thể
trong giao dịch dân sự

71
3.2.2.
Quy định cụ thể về những trường hợp vi phạm sự tự nguyện
về ý chí của chủ thể
74

KẾT LUẬN
78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
80


6
MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài
Việc xác lập các giao dịch dân sự giữa các chủ thể là một hiện tượng tất
yếu khách quan trong cuộc sống, là một đặc trưng cơ bản của xã hội loài
người. Trình độ phát triển, tiến bộ xã hội ngày càng cao, các quyền dân chủ,
tự do giành cho cá nhân ngày càng lớn, hoạt động của mỗi cá nhân ngày càng
đa dạng, thì các giao dịch dân sự ngày càng phong phú và phức tạp. Việc đảm
bảo cho các giao dịch dân sự đó diễn ra theo đúng ý chí của chủ thể xác lập,
mang lại lợi ích mà chủ thể mong muốn và không ảnh hưởng đến sự ổn định,
trật tự của xã hội có ý nghĩa hết sức to lớn. Việt Nam đang trong giai đoạn
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc giải
quyết vấn đề trên càng trở nên cấp thiết.
Cách thức được lựa chọn là tạo ra những quy chuẩn, giới hạn của tự do
ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự. Bởi ý chí chủ thể là yếu tố hình
thành và có tính chất quyết định đến nội dung cũng như hiệu lực của giao dịch

dân sự. Tuỳ từng trường hợp vi phạm điều kiện về ý chí của chủ thể mà pháp
luật đặt ra các cách thức xử lý khác nhau như: bổ sung, giải thích, hoàn thiện
và thực hiện giao dịch hoặc tuyên bố giao dịch dân sự bị vô hiệu khi có yêu
cầu hay mặc nhiên phủ nhận sự tồn tại của giao dịch dân sự đó.
Thực tế hiện nay phát sinh rất nhiều tranh chấp về hợp đồng dân sự hay
hành vi pháp lý đơn phương liên quan đến điều kiện về ý chí của chủ thể. Đặc
biệt là các hợp đồng quan trọng như: chuyển nhượng quyền sử dụng đất,nhà
ở, hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo hiểm, mua bán hàng hoá hay trong vấn đề
lập di chúc của người để lại di sản với những dấu hiệu của sự lừa dối, đe doạ,
giả tạo, nhầm lẫn do thiếu hiểu biết và cẩu thả Có tranh chấp đã được giải
quyết song phải trải qua rất nhiều phiên toà với những phán quyết khác nhau,

7
có tranh chấp trải qua nhiều thủ tục tại các cơ quan có thẩm quyền vẫn chưa
có được một phán quyết cuối cùng.
Nhằm nâng cao hiểu biết, giúp hạn chế khả năng tham gia vào các giao
dịch dân sự vi phạm điều kiện về ý chí, giải quyết một cách chính xác các
tranh chấp phát sinh. Nghiên cứu các quy định về ý chí của chủ thể trong giao
dịch dân sự là vô cùng cần thiết. Do đó, tôi chọn đề tài: “Ý chí của chủ thể
trong giao dịch dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận
văn thạc sỹ. Ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự là một nội dung rất rộng
và phức tạp, vì vậy luận văn chỉ tập trung nghiên cứu đến vấn đề sự tự nguyện
về ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề sự tự nguyện về ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự cũng
đã được đề cập trong các bài viết nghiên cứu trao đổi và các công trình nghiên
cứu bảo vệ khoa học.
Công trình của tác giả: Nguyễn Thị Nhàn, "Ý chí của chủ thể trong giao
dịch dân sự", Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2008; Bùi Thị Thu Huyền, "Hợp
đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều kiện về ý chí của chủ thể", Luận văn thạc sĩ

Luật học, năm 2010. Hai công trình này trực tiếp đề cập đến ý chí của chủ thể
trong thời gian gần đây, song công trình của tác giả Bùi Thị Thu Huyền chỉ
nghiên cứu trong phạm vi hợp đồng dân sự còn công trình của tác giả Nguyễn Thị
Nhàn lại nghiên cứu theo từng giao đoạn xác lập và thực hiện giao dịch dân sự.
Bài viết đăng trên tạp chí của tác giả: Tiến sĩ Ngô Huy Cương "Tự do
ý chí và sự tiếp nhận ý chí trong pháp luật Việt Nam hiện nay", Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, 2008. Tiến sĩ Đỗ Văn Đại: "Nhầm lẫn trong chế định
hợp đồng: những bất cập và hướng sửa đổi", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
năm 2008; Lê Thị Bích Thọ: "Lừa dối trong giao kết hợp đồng", Báo Thông
tin pháp luật, năm 2008 Các bài viết này một số đi theo hướng hàn lâm,

8
nghiên cứu theo học thuyết tự do ý chí, một số lại chỉ nghiên cứu một trường
hợp vi phạm ý chí chủ thể cụ thể.
Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài "Ý chí của chủ thể trong giao dịch
dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay" để làm sáng tỏ các quy định của
pháp luật, những vướng mắc trong thực tiễn thực hiện và mạnh dạn đề xuất
một vài ý kiến hoàn thiện pháp luật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Phân tích những vấn đề lý luận về giao dịch dân sự và giao dịch dân
sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể.
- Phân tích các quy định pháp lý về các loại giao dịch dân sự vi phạm
sự tự nguyện về ý chí của chủ thể, hậu quả pháp lý của việc vi phạm sự tự
nguyện về ý chí của chủ thể, tập trung vào các quy định về giao dịch dân sự
vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể.
- Phân tích thực tiễn việc áp dụng các quy định pháp luật giải quyết
các tranh chấp, đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao khả
năng áp dụng pháp luật xung quanh vấn đề vi phạm sự tự nguyện về ý chí của
chủ thể trong giao dịch dân sự.
4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt
ra, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tác giả đã sử dụng và kết hợp một cách đồng bộ các
phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh để giải quyết nhiệm vụ đặt ra
trong luận văn.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài

9
- Phân tích một cách có hệ thống cách khía cạnh của sự tự nguyện về
ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự. Phân tích và so sánh được các quy
định về sự tự nguyện về ý chí của chủ thể trong giao dịch dân sự của pháp
luật Việt Nam hiện hành và trước đây; so sánh với pháp luật nước ngoài.
- Đánh giá được các nguyên nhân dẫn đến việc xác lập giao dịch vi
phạm sự tự nguyện về ý chí chủ thể, tình hình tranh chấp và áp dụng các quy
định pháp luật xử lý tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự vi phạm các
điều kiện về sự tự nguyện.
- Đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vi
phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể.
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giao dịch
dân sự vi phạm sự tự nguyện về ý chí của chủ thể.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự vi phạm
sự tự nguyện về ý chí của chủ thể và kiến nghị hoàn thiện.


10

Chương 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÀ GIAO DỊCH DÂN SỰ
VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ CỦA CHỦ THỂ

1.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI GIAO DỊCH DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm giao dịch dân sự
Từ thời cổ đại đến nay giao dịch còn được gọi với các tên khác nhau
như khế ước, giao ước, hiệp ước. Theo Từ điển tiếng Việt thì giao dịch là sự
giao tiếp, tiếp xúc, giao kèo… giữa hai hay nhiều đối tác với nhau. Hiểu theo
khía cạnh pháp lý thì giao dịch chính là hành vi có ý thức của chủ thể nhằm
hướng tới một mục đích làm phát sinh hậu quả pháp lý nhất định.
Ngày nay, vị trí và vai trò của giao dịch ngày càng được khẳng định
trong các hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật của mỗi quốc gia lại có các
cách tiếp cận khác nhau. Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp không đưa ra chế định
giao dịch dân sự mà chỉ đưa ra chế định hợp đồng dân sự và chế định thừa kế.
Bộ luật dân sự Nhật Bản đưa ra chế định hành vi pháp lý bao trùm lên chế
định hợp đồng và chế định thừa kế theo di chúc. Hầu như pháp luật của các
nước đều không quy định cụ thể về khái niệm giao dịch dân sự mà nó chỉ
được đề cập đến dưới góc độ khoa học. Theo các nhà khoa học Nhật Bản thì:
"Giao dịch dân sự là hành vi hợp pháp nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự" [53, tr. 114]. Như vậy, các nhà khoa học Nhật
Bản không nêu ra cụ thể các loại giao dịch mà nó là tất cả những hành vi tự
nguyện của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự nhằm thu được
một kết quả nhất định với điều kiện các hành vi này không trái pháp luật.
Theo pháp luật Việt Nam, trước khi có Bộ luật dân sự 1995 chúng ta
chưa có quy định riêng về giao dịch dân sự mà chỉ được đề cập dưới góc độ là
hợp đồng dân sự (Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991), hoặc ý chí đơn

11
phương của chủ thể trong việc lập di chúc (Pháp lệnh thừa kế năm 1990). Bộ

luật dân sự năm 1995 đã chính thức đề cập đến giao dịch dân sự với quy định
cụ thể về khái niệm, điều kiện có hiệu lực của giao dịch, hậu quả pháp lý của
giao dịch dân sự vô hiệu… Trong Bộ luật dân sự năm 2005, giao dịch dân sự
được quy định trong chương VI, Phần thứ nhất của bộ luật, giao dịch dân sự
là hợp đồng được quy định tại Mục 7 Phần 3, giao dịch dân sự là hành vi pháp
lý đơn phương được quy định qua các hợp đồng như hứa thưởng, thi có giải.
Theo đó, Điều 121 Bộ luật dân sự 2005 quy định: "Giao dịch dân sự là
hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự" [35]. Giao dịch dân sự trước hết phải là
hành vi do con người tiến hành một cách có ý thức và có mục đích. Để tham
gia vào giao dịch dân sự cụ thể người đó phải có đủ tư cách chủ thể. Tức là
phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đủ để đảm bảo họ ý
thức được họ muốn gì, ý thức được hành vi họ đang tiến hành và chịu trách
nhiệm về hành vi của mình. Nói cách khác, giao dịch dân sự là hành vi có ý
chí của chủ thể. Giao dịch dân sự là hành vi pháp lý đa phương (hợp đồng)
hoặc đơn phương, tức là một loại sự kiện pháp lý - sự kiện xảy ra trong thực
tế mà pháp luật dự liệu, quy định là phát sinh các hậu quả pháp lý nhất định.
Tùy từng giao dịch dân sự cụ thể, hậu quả pháp lý đó là làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể. Giao dịch là hành
vi có ý thức của chủ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, cho nên giao dịch
dân sự là hành vi mang tính ý chí của chủ thể tham gia giao dịch.
Tóm lại, có thể rút ra một số đặc điểm của giao dịch dân sự như sau:
Thứ nhất, giao dịch dân sự phải có ý chí và thể hiện được ý chí của
chủ thể tham gia giao dịch. Khi tham gia vào giao dịch dân sự, các chủ thể
đều mong muốn đạt được những mục đích nhất định nhằm thỏa mãn nhu cầu
sản xuất, kinh doanh hoặc sinh hoạt, tiêu dùng. Để đạt được mục đích đó, các
chủ thể phải thể hiện được ý chí của mình. Khi xác lập giao dịch các bên phải

12
thể hiện ý chí của mình ra bên ngoài và phải có sự thỏa thuận thống nhất

những nội dung mà họ đã thể hiện. Nếu các bên không thỏa thuận được thì
giao dịch cũng sẽ không được giao kết. Trường hợp giao dịch dân sự là hành
vi pháp lý đơn phương mà nội dung chính của giao dịch do một bên đưa ra,
tuy bên kia không trực tiếp thỏa thuận nhưng về cơ bản họ phải đồng ý với tất
cả nội dung, điều kiện do bên đã đưa ra và tự nguyện tham gia giao dịch.
Thứ hai, sự thể hiện ý chí của các chủ thể trong giao dịch dân sự nhằm
hướng tới một hậu quả pháp lý nhất định. Bởi vì không phải bất kì một hợp
đồng dân sự hay hành vi pháp lý đơn phương nào cũng được coi là giao dịch
dân sự. Chỉ được coi là giao dịch dân sự khi hành vi pháp lý đó phải nhằm làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự với chủ thể khác.
Thứ ba, mục đích của giao dịch dân sự là những lợi ích hợp pháp mà
các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch. Mục đích của giao dịch
dân sự chính là hậu quả pháp lý sẽ phát sinh từ giao dịch mà các bên mong
muốn đạt được khi xác lập giao dịch. Để giao dịch dân sự có hiệu lực pháp
luật thì mục đích đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội.
Thứ tư, các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện. Sự tự nguyện là
một nguyên tắc quan trọng trong quá trình thiết lập giao dịch. Đây là sự phản
ánh tính thống nhất giữa ý chí và thể hiện ý chí của các chủ thể. Bản chất của
giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí cho nên sự tự
nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí, giữa
chúng phải có sự thống nhất với nhau. Nếu không có tự do ý chí và bày tỏ ý
chí hoặc không có sự thống nhất giữa hai yếu tố này thì cũng không có sự tự
nguyện. Giao dịch dân sự khi vi phạm sự tự nguyện có thể dẫn đến vô hiệu.
Từ những phân tích trên ta có thể kết luận: Giao dịch dân sự là sự thể
hiện ý chí một cách tự nguyện của các chủ thể trong khuôn khổ của pháp luật
để làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự. Qua đó
góp phần cho giao lưu dân sự phát triển phù hợp với sự phát triển của xã hội.

13
1.1.2. Phân loại giao dịch dân sự

1.1.2.1. Căn cứ vào sự thể hiện ý chí của chủ thể
Căn cứ vào ý chí của chủ thể khi xác lập giao dịch dân sự thì giao dịch
dân sự được phân thành hai loại đó là: Hợp đồng dân sự và hành vi pháp lý
đơn phương.
Hợp đồng dân sự là loại giao dịch dân sự phổ biến và thông dụng nhất
trong đời sống hàng ngày và chiếm một vị trí quan trọng trong việc điều tiết
các quan hệ tài sản, nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Hợp đồng
dân sự có thể diễn ra giữa các cá nhân với nhau, giữa cá nhân với pháp nhân,
hay giữa các pháp nhân, tổ chức với nhau. Các bên tự do thỏa thuận trên cơ sở
tự nguyện, bình đẳng nhằm đạt được mục đích nhất định về vật chất hoặc tinh
thần nhưng không trái với pháp luật và đạo đức xã hội của quốc gia mà các
chủ thể tham gia hợp đồng chịu sự điều chỉnh.
Thông thường hợp đồng dân sự có hai bên tham gia, trong đó thể hiện
sự thống nhất ý chí của các chủ thể trong một mối quan hệ cụ thể như mua
bán, cho thuê, nhưng cũng tồn tại hợp đồng có nhiều bên tham gia như hợp
đồng hợp tác. Mỗi bên trong hợp đồng có thể có một hoặc nhiều chủ thể tham
gia như mua bán tài sản chung. Trong hợp đồng, ý chí của một bên đòi hỏi sự
đáp lại của bên kia, tạo thành sự thống nhất ý chí giữa các bên, từ đó mới hình
thành được hợp đồng. Do vậy, hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí của hai hay
nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Sự
thỏa thuận vừa là nguyên tắc, vừa là đặc trưng của hợp đồng dân sự và được
thể hiện trong tất cả các giai đoạn của quan hệ hợp đồng: từ giao kết đến thực
hiện hoặc sửa đổi, chấm dứt hợp đồng dân sự.
Sự tự do thỏa thuận giữa các chủ thể trong giao dịch dân sự thường là
sự bàn bạc, đi đến thống nhất ý chí của các bên trong việc làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự nhất định. Việc thỏa thuận này
không bị cản trở bởi bất cứ yếu tố nào, trừ trường hợp trái pháp luật và đạo

14
đức xã hội. Ví dụ như khi các bên tham gia kí kết hợp đồng mua bán một

chiếc xe máy thì chủ sở hữu và người mua xe có quyền tự do bàn bạc giá cả,
phương thức thanh toán, thời gian, địa điểm giao xe…
Trên thực tế thì sự tự do thỏa thuận mới chỉ là điều kiện cần nhưng
chưa phải là điều kiện đủ. Bởi lẽ, sự thỏa thuận phải làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên mới hình thành hợp đồng.
Ví dụ lời hứa của cha mẹ với con cái không làm phát sinh hậu quả pháp lý.
Thậm chí trong một số trường hợp hành vi thỏa thuận giữa các bên có ý chí
làm phát sinh hậu quả pháp lý nhưng sau đó nếu các bên không mong muốn
tiếp tục thì hậu quả cũng không xảy ra. Đây là yếu tố quan trọng để xác định
sự khác nhau giữa hợp đồng với các quan hệ xã hội khác. Sự thỏa thuận phải
dựa trên cơ sở pháp luật cho phép, nếu trái với các quy định của pháp luật thì
hợp đồng có thể bị vô hiệu, các bên giải quyết hậu quả theo quy định của
pháp luật hoặc tự thỏa thuận.
Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch dân sự trong đó thể hiện ý
chí của một bên nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự. Hành vi pháp lý đơn phương là sự tuyên bố ý chí công khai của một
phía chủ thể, nên việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự
mà không phụ thuộc vào ý chí của bên kia. Ví dụ như hành vi lập di chúc của
một chủ thể đối với tài sản hợp pháp của mình, người đố đã thể hiện ý chí cá
nhân để định đoạt tài sản mà họ có, không phụ thuộc vào ý chí của bên nhận
di sản. Như vậy, ý chí của người lập di chúc không phụ thuộc vào ý chí của
người khác nhưng làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật thuộc giao dịch
dân sự.
Thông thường hành vi pháp lý đơn phương được xác lập theo ý chí
của một bên chủ thể duy nhất (lập di chúc, từ chối hưởng di sản, hứa thưởng…).
Có thể có nhiều chủ thể cùng tham gia và một bên của giao dịch (hai cá nhân,
tổ chức cùng tuyên bố hứa thưởng, di chúc chung của vợ chồng…). Trong

15
nhiều trường hợp, hành vi pháp lý đơn phương chỉ phát sinh hậu quả khi có

những người khác đáp ứng được những điều kiện nhất định do người xác lập
giao dịch đưa ra. Những người này phải đáp ứng được các điều kiện nhất định
đó mới làm phát sinh nghĩa vụ của người xác lập giao dịch (hứa thưởng, thi
có giải…). Hành vi pháp lý đơn phương là một giao dịch cho nên nội dung và
hình thức phải phù hợp với các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
1.1.2.2. Căn cứ vào hình thức của giao dịch dân sự
Căn cứ vào hình thức thể hiện của giao dịch dân sự thì giao dịch dân
sự được thể hiện dưới hình thức lời nói, giao dịch thể hiện dưới hình thức văn
bản và giao dịch thể hiện dưới hình thức hành vi cụ thể.
Thông thường hình thức lời nói của giao dịch dân sự được áp dụng đối
với các giao dịch có giá trị không lớn hoặc giữa các chủ thể có sự quen biết,
tin cậy lẫn nhau hoặc với các giao dịch dân sự phát sinh hậu quả pháp lý sau
khi thỏa thuận và các bên thực hiện nghĩa vụ ngay sau đó giao dịch chấm dứt.
Giao dịch dân sự thể hiện dưới hình thức văn bản có thể do các bên
thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Trong trường hợp pháp luật quy định
giao dịch dân sự phải được thể hiện dưới hình thức văn bản thì các chủ thể
tham gia phải tuân theo hình thức này. Ngoài ra giao dịch dân sự thông qua
phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch
bằng văn bản như: fax, telex…
Giao dịch dân sự thể hiện bằng hành vi cụ thể: hình thức này cũng phổ
biến trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt khi công nghệ ngày càng phát triển với
sự tự động hóa được áp dụng ở nhiều nơi như: bán hàng qua máy tự động, rút
tiền ở các máy ATM…
1.1.2.3. Giao dịch dân sự có điều kiện
Dựa vào thời điểm làm phát sinh, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể, giao dịch dân sự được chia thành giao dịch có điều kiện làm phát sinh
hiệu lực và giao dịch có điều kiện làm chấm dứt hiệu lực.

16
Trong khi thực hiện giao dịch dân sự, đôi khi các bên xác định là giao

dịch dân sự đó chỉ phát sinh hoặc chấm dứt hiệu lực khi xảy ra một sự kiện
nhất định. Các giao dịch đó được gọi là giao dịch dân sự có điều kiện và các
sự kiện đó được gọi là điều kiện. Các điều kiện đó dự liệu khả năng có thể
xảy ra nhưng không chắc chắn xảy ra trong tương lai. Tuy nhiên, sự kiện
được coi là điều kiện phải là sự kiện xảy ra một cách tự nhiên. Nếu một trong
các chủ thể của giao dịch dân sự có hành vi ngăn cản không cho các điều kiện
đó xảy ra hoặc hành vi thúc đẩy cho điều kiện đó nhanh chóng xảy ra để
không thực hiện nghĩa vụ thì cũng không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự.
Giao dịch dân sự có thể được xác lập với điều kiện làm phát sinh hoặc
hủy bỏ. Trong trường hợp giao dịch dân sự có điều kiện phát sinh, việc xảy ra
điều kiện đó sẽ làm phát sinh hiệu lực của giao dịch. Ví dụ: A hứa thưởng cho
B chiếc máy tính nếu B đỗ đại học. Trong trường hợp B đỗ đại học thì sẽ phát
sinh hậu quả pháp lý là B sẽ được A thưởng cho chiếc máy tính (hợp đồng
tặng cho có điều kiện). Nếu B không thi đỗ đại học thì hậu quả pháp lý sẽ
không xảy ra.
Giao dịch có điều kiện hủy bỏ là giao dịch trong đó việc xảy ra điều
kiện sẽ hủy bỏ hiệu lực của giao dịch. Ví dụ: Công ty A cam kết với sinh viên
B sẽ cấp học bổng trong thời gian học tập, nếu điểm trung bình của các môn
trong 1 học kỳ không đạt được 7,00 trở lên thì công ty A không cấp học bổng
cho B nữa. Như vậy, nếu B không đạt được điểm trung bình của kì học từ
7,00 trở lên sẽ dẫn đến việc hủy bỏ việc cấp học bổng.
Trên nguyên tắc tự do xác lập và thực hiện giao dịch, các điều kiện
của giao dịch thường do chủ thể của giao dịch lập ra. Tuy nhiên bên cạnh đó
cũng có một số trường hợp ngoại lệ, pháp luật quy định một số yêu cầu bắt
buộc mà nếu các chủ thể không tuân thủ thì sẽ làm cho giao dịch trở nên vô
hiệu. Ví dụ như:

17
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời

điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường
hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ
quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế [35, Điều 635].
Pháp luật không cho phép thực hiện các giao dịch dân sự có điều kiện
nếu điều kiện đó vi phạm pháp luật. Ví dụ như A hứa thưởng cho B nếu như
B đánh trọng thương C, giao dịch này sẽ bị vô hiệu ngay từ khi giao kết.
Ngoài ra, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể
khi tham gia giao dịch cũng như đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên, pháp
luật cũng quy định:
Trong trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao
dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở của một
bên hoặc của người thứ ba thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; nếu
có sự tác động của một bên hoặc của người thứ ba cố ý thúc đẩy
cho điều kiện để làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự xảy ra
thì coi như điều kiện đó không xảy ra [35, Điều 125].
1.2. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA GIAO DỊCH DÂN SỰ
1.2.1. Điều kiện về chủ thể
Theo quy định tại Điều 122 Bộ luật dân sự 2005 thì: "người tham gia
giao dịch có năng lực hành vi dân sự" [35, Điều 122]. Khái niệm "người"
được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các chủ thể tham gia giao dịch dân
sự như: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác.
1.2.1.1. Đối với chủ thể là cá nhân
Cá nhân được coi là chủ thể phổ biến của các giao dịch dân sự. Có thể
nói cá nhân tham gia hầu hết tất cả các giao dịch dân sự, kể cả với các giao
dịch dân sự trong đó chủ thể là pháp nhân hay các tổ chức khác, thì cá nhân
vẫn tham gia với tư cách người đại diện.

18
Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý

chí của chủ thể tham gia giao dịch. Vì vậy, giao dịch dân sự do cá nhân xác
lập chỉ có hiệu lực nếu phù hợp với năng lực hành vi dân sự của cá nhân.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi
của mình xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự.
Căn cứ vào khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, cũng như khả
năng thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân, pháp luật nước ta
quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân từ Điều 17 đến Điều 23 Bộ luật
dân sự 2005 như sau:
- Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được
quyền xác lập mọi giao dịch dân sự, trừ trường hợp họ bị tòa án tuyên bố mất
năng lực hành vi [35, Điều 22], tuyên bố hạn chế năng lực hành vi [35, Điều
23].
- Người từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự chưa
đầy đủ, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự khi xác lập, thực hiện các
giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ
những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày [35, Điều 20].
- Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi được xác lập các giao dịch
trong phạm vi tài sản riêng mà họ có, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác [35, Điều 20] (ví dụ: lập di chúc phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ
đồng ý).
- Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự
không được phép xác lập mọi giao dịch dân sự. Các giao dịch dân sự của
những người này đều do người đại diện theo pháp luật thực hiện.
1.2.1.2. Đối với các chủ thể khác
Các chủ thể khác của giao dịch dân sự đó là: Pháp nhân, tổ hợp tác, hộ
gia đình.

19
- Pháp nhân chỉ tham gia các giao dịch phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ của pháp nhân trong phạm vi điều lệ hoạt động của pháp nhân đó [35, Điều

86].
- Hộ gia đình chỉ tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến quyền
sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một lĩnh vực
sản xuất kinh doanh khác theo quy định của pháp luật [35, Điều 106].
- Tổ hợp tác chỉ tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến hoạt động
sản xuất kinh doanh của tổ hợp tác được xác định trong hợp đồng [35, Điều
111].
Với tính chất là chủ thể quan hệ pháp luật dân sự được tạo nên bởi sự
liên kết của nhiều cá nhân đơn lẻ, độc lập nên khi xác lập hoặc thực hiện một
giao dịch dân sự, chủ thể đó nhất thiết phải thông qua vai trò của người đại
diện của mình.
Hành vi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự do người đại diện theo
pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác
chỉ được coi là hành vi của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác nến những hành
vi này được tiến hành phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động
của chủ thể đó hoặc được ghi nhận trong quyết định thành lập pháp nhân hay
trong bản điều lệ của pháp nhân.
Hành vi pháp lý do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện
thì về nguyên tắc nó sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người
được đại diện. Nó chỉ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại
diện nếu được người đó đồng ý.
Hành vi pháp lý do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi
đại diện, nó sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện
đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường
hợp người đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối. Tuy nhiên, trong
trường hợp không được sự đồng ý của người được đại diện thì người đại diện

20
vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao
dịch vượt quá phạm vi đại diện.

1.2.2. Điều kiện về nội dung, mục đích
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì "mục đích và nội dung của
giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội"
[35, Điều 122].
Nội dung của giao dịch dân sự là tổng hợp các điều khoản mà một
hoặc các bên xác lập giao dịch đó đưa ra hoặc thỏa thuận với nhau. Các điều
khoản này xác định quyền và nghĩa vụ cụ thể cho các chủ thể tham gia vào
giao dịch đó, đồng thời cũng có thể xác định trách nhiệm dân sự của các chủ
thể trong trường hợp các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
cam kết.
Mục đích của giao dịch dân sự là nhu cầu hay những lợi ích về mặt vật
chất hay tinh thần mà các chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào một
giao dịch dân sự. Không thể có giao dịch dân sự mào mà người tham gia xác
lập, thực hiện nó không có mục đích nhất định. Mục đích này sẽ đạt được khi
nó được thể hiện thông qua các điều khoản của giao dịch và các bên thực hiện
đúng nghĩa vụ đã cam kết khi xác lập giao dịch.
Ngoài ra, không phải lúc nào mục đích của các bên tham gia giao dịch
cũng được thể hiện rõ ràng chính xác thông qua nội dung của hợp đồng.
Trong trường hợp đó cần phải làm sáng tỏ mục đích của giao dịch và cần
phân biệt mục đích với động cơ của giao dịch dân sự. Động cơ được hiểu là
cái có tác dụng chi phối, thúc đẩy những suy nghĩ, hành động. Động cơ xác
lập giao dịch là nguyên nhân thúc đẩy các bên tham gia xác lập giao dịch, nó
không phải là yếu tố bắt buộc của giao dịch dân sự như mục đích. Vì vậy, nếu
không làm rõ được mục đích của giao dịch hoặc mục đích không đạt được thì
giao dịch đó coi như vô hiệu, sẽ không làm phát sinh bất cứ quyền và nghĩa

21
vụ nào, vì mục đích của giao dịch dân sự là yếu tố bắt buộc để giao dịch có
hiệu lực pháp lý.
Khi tham gia các giao dịch dân sự thì mục đích và nội dung của giao

dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã
hội [35, Điều 128]. Theo đó, điều cấm của pháp luật là những quy định của
pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định (ví dụ
như các giao dịch nhằm thực hiện hành vi phạm tội như giết người, gây
thương tích…). Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người
với người trong đời sống xã hộ, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Tóm lại, một giao dịch dân sự muốn được coi là có hiệu lực pháp luật
thì mục đích và nội dung của giao dịch dân sự đó phải không vi phạm điều
cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
1.2.3. Điều kiện về ý chí
Đây là điều kiện được xây dựng dựa trên cơ sở nguyên tắc "tự do, tự
nguyện cam kết, thỏa thuận", một trong những nguyên tắc cơ bản của luật dân
sự được ghi nhận tại Điều 4 Bộ luật dân sự 2005.
Bản chất của giao dịch dân sự là hành vi có ý chí nhằm làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ mà các bên mong muốn đạt được. Do vậy, có thể nói bản
chất của giao dịch dân sự là sự tự nguyện xác lập giao dịch, thể hiện qua sự
thống nhất giữa ý chí và tuyên bố ý chí của chủ thể mà không bị ảnh hưởng
bởi bất kỳ một tác động nào từ bên ngoài. Ý chí tự nguyện của chủ thể là tiền
đề quan trọng để hình thành giao dịch. Nhưng giao dịch chỉ hợp pháp khi
được pháp luật công nhận mới phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự trên thực
tế. Vì vậy, quy định của Bộ luật dân sự 2005 đã coi yếu tố tự nguyện là một
trong bốn điều kiện cơ bản không thể thiếu được trong giao dịch dân sự có
hiệu lực: "người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện" [35, Điều 122].

22
Để xác định một chủ thể tham gia giao dịch có hoàn toàn tự nguyện
hay không thì điều kiện cần là người đó được pháp luật cho phép tham gia
giao dịch và điều kiện đủ là hành vi tham gia giao dịch của các chủ thể phải là
thể hiện ý chí đích thực của mình.
Sự tự nguyện của các bên trong giao dịch dân sự được thể hiện ở việc

các bên tham gia giao dịch có quyền tự do ý chí và bày tỏ ý chí. Khi chủ thể
xác lập giao dịch dân sự thì yêu cầu đầu tiên của pháp luật là các chủ thể đó
phải tự do và tự nguyện. Chỉ có tự do ý chí và không chịu bất kỳ sự ràng buộc
nào thì chủ thể mới đích thực được thỏa thuận. Trong giao dịch dân sự, tự do
ý chí có nghĩa là chủ thể tham gia giao dịch có quyền:
- Quyền tự do ý chí về việc thỏa thuận kí kết hợp đồng với ai, với nội
dung gì và có nghĩa vụ ràng buộc với các chủ thể tham gia.
- Quyền tự do thỏa thuận các nội dung giao dịch dân sự theo ý muốn
của các chủ thể như: thời gian, địa điểm thực hiện, phương thức thực hiện,
điều kiện thực hiện giao dịch…
- Quyền tự do lựa chọn hình thức giao dịch như: bằng văn bản, lời
nói, hành vi, trừ trường hợp pháp luật bắt buộc một số giao dịch phải tuân
theo một hình thức nhất định.
Các bên phải được biểu lộ ý chí một cách thoải mái và trung thực theo
đúng ý chí và mong muốn của mình, nghĩa là phải có sự thống nhất giữa ý chí
bên trong và biểu lộ ra bên ngoài, không bị áp đặt bởi bất cứ một lý do nào
khác như bị khống chế, bị đe dọa, bị lừa dối… Nếu trong trường hợp ý chí
của các chủ thể tham gia giao dịch bị áp đặt, cấm đoán bởi sự tác động của
người khác hoặc ngoại cảnh để dẫn đến chủ thể tham gia giao dịch không
thực sự thể hiện được ý chí của mình trong giao dịch dân sự thì họ hoàn toàn
có quyền không chấp nhận giao dịch đó, tự mình hoặc yêu cầu tòa án tuyên
bố vô hiệu.

23
Pháp luật dân sự Việt Nam dựa trên nguyên nhân cơ bản dẫn đến giao
dịch dân sự vi phạm yếu tố tự nguyện, tức là không có sự thống nhất giữa ý
chí và bày tỏ ý chí như sau:
- Chủ thể tham gia giao dịch cố tình không thể hiện đúng ý chí thực
của mình nhằm trốn tránh pháp luật hoặc vì một lý do khác. Ví dụ trong
trường hợp các bên xác lập giao dịch bán nhà nhưng khi làm thủ tục sang tên

trước bạ thì đã thỏa thuận với nhau ghi giá bán trong hợp đồng thấp hơn với
giá thực tế để giảm thuế trước bạ. Đây là trường hợp giao dịch dân sự được
xác lập do giả tạo. Trong giao dịch này, các bên tham gia xác lập giao dịch đã
thông đồng với nhau thể hiện ý chí ra ngoài không đúng với ý chí của mình
nhằm mục đích trốn thuế.
- Chủ thể tham gia giao dịch không bày tỏ được ý chí thực của mình
là do bị tác động, ảnh hưởng từ bên ngoài. Khác với nguyên nhân trên, hành
vi vi phạm sự tự nguyện xuất phát từ chính sự mong muốn của các chủ thể
tham gia xác lập giao dịch. Trong trường hợp này, chủ thể tham gia không thể
bày tỏ được ý chí của mình là do ngoại cảnh tác động (lừa dối, đe dọa, nhầm
lẫn). Cụ thể trong trường hợp đe dọa, chủ thể bị đe dọa bắt buộc phải xác lập
theo ý chí của bên đe dọa vì lo ngại cho vật chất, thể chất và tinh thần của
mình hoặc cha, mẹ, vợ chồng, con mình.
Như vậy, sự tự nguyện về ý chí trong giao dịch dân sự chính là sự
thống nhất giữa tự do ý chí và bày tỏ ý chí của các chủ thể khi tham gia vào
một giao dịch dân sự nhất định.
1.2.4. Điều kiện về hình thức
Hình thức của giao dịch dân sự là cách thức thể hiện ý chí ra bên
ngoài dưới một hình thức nhất định của chủ thể tham gia giao dân sự. Thông
qua hình thức biểu hiện này bên đối tác và người thứ ba biết được nội dung
của giao dịch đã xác lập. Hiện nay, giao dịch dân sự có thể được thể hiện dưới
dạng lời nói, hành vi hoặc văn bản.

24
Thông thường, pháp luật của các nước trên thế giới quy định giao dịch
dân sự phải tuân thủ quy định về hình thức theo các khuynh hướng sau:
- Khuynh hướng thứ nhất là: đòi hỏi một số giao dịch phải được thể
hiện bằng hình thức nhất định, nếu vi phạm hình thức thì giao dịch sẽ bị vô
hiệu (như pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức, Thái Lan…). Trong pháp
luật của Cộng hòa Liên bang Đức, những đòi hỏi đầu tiên đưa ra là khi giao

kết, giao dịch phải tuân thủ nghiêm ngặt những điều kiện về hình thức, nếu
không tuân thủ những quy định này thì giao dịch đó sẽ bị vô hiệu tuyệt đối.
Pháp luật của Thái Lan lại quy định: "Một hành vi pháp lý không theo đúng
hình thức quy định của pháp luật thì vô hiệu" [2, Điều 115].
- Khuynh hướng thứ hai là: không coi hình thức là điều kiện xác định
hiệu lực của bất kỳ một giao dịch nào. Trong bộ luật dân sự nước Cộng hòa
Pháp không có một điều khoản nào quy định khi hợp đồng không tuân thủ các
quy định về hình thức sẽ dẫn tới vô hiệu. Theo Bộ luật dân sự của Nhật Bản
thì nguyên tắc tự do giao dịch dân sự thừa nhận cả việc tự do lựa chọn về hình
thức giao kết: "Mặc dù nhà nước yêu cầu tuân thủ hình thức đặc biệt thì giao
dịch pháp lý vẫn hoàn toàn có đặc điểm không theo một hình thức bắt buộc
nào" [53, tr. 118].
Ở Việt Nam, Bộ luật dân sự 2005 quy định: "Hình thức giao dịch dân
sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy
định" [35, Điều 122]. Có thể thấy, các nhà lập pháp của nước ta đi theo
khuynh hướng thứ nhất. Tuy nhiên, quy định này còn có những hạn chế nhất
định. Bởi lẽ:
Hình thức giao dịch thực chất chỉ là cách thể hiện ý chí của các bên
tham gia giao dịch dân sự ra bên ngoài, cũng là cơ sở để tạo nên chứng cứ khi
có tranh chấp và góp phần bảo đảm an toàn trong giao lưu dân sự. Tuy nhiên,
quy định giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức thì vô hiệu
tuyệt đối sẽ tạo nên một khoảng cách nhất định giữa sự thống nhất ý chí thực

25
và hiệu lực của giao dịch. Bên cạnh đó, nếu các chủ thể tham gia giao dịch
không tuân thủ quy định về hình thức sẽ dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu là
không phù hợp với tình hình thực tế, như việc quy định hình thức của giao
dịch mua bán bất động sản. Hiện nay, việc thực hiện những quy định về hình
thức đối với hợp đồng mua bán, chuyển nhượng nhà, đất rất khó khăn, phức
tạp. Mặt khác, có trường hợp lại xuất phát từ yếu tố chủ quan của các bên,

chẳng hạn khi mua bán nhà hai bên hoàn toàn tự nguyện nhưng khi làm thủ
tục thì giá nhà có biến động; vì muốn bảo vệ lợi ích của mình nên một bên
yêu cầu hủy hợp đồng… Khi xảy ra tranh chấp này mà tất cả các trường hợp
Tòa án đều tuyên bố hợp đồng vô hiệu là không công bằng.
1.3. KHÁI NIỆM GIAO DỊCH DÂN SỰ VI PHẠM SỰ TỰ NGUYỆN VỀ Ý CHÍ
Trong các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, muốn hoàn thành
nhiệm vụ của mình, con người phải biểu hiện ý chí để vượt qua những khó
khăn, trở ngại. Ý chí từ lâu đã được các nhà nghiên cứu quan tâm, nghiên cứu
dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo các nhà tâm lý học thì: "Ý chí là mặt năng động của ý thức biểu
hiện ở năng lực thực hiện hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ lực
khắc phục khó khăn" [47, tr. 121].
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam thì ý chí là phẩm chất tâm
lý đặc trưng của người một thuộc tính tâm lý của nhân cách, thể hiện ở năng
lực thực hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có nỗ lực khắc phục
khó khăn.
Trong giao dịch dân sự, ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan
bên trong của mỗi chủ thể mà nội dung của nó là được xác định bởi các nhu
cầu về sản xuất, tiêu dùng của bản thân chủ thể tham gia giao dịch. Ý chí của
các bên tham gia giao dịch dân sự giữ một vai trò quan trọng trong cuộc sống
bởi các giao dịch dân sự diễn ra hàng ngày, hàng giờ để đáp ứng những nhu
cầu khác nhau của con người. Ý chí được biểu hiện ra bên ngoài dưới một

×