Tải bản đầy đủ (.pdf) (183 trang)

Văn hóa đảm bảo đời sống của người nùng cháo (trường hợp thôn nà lầu, xã tân thanh, huyện văn lãng, tỉnh lạng sơn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.54 MB, 183 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

VĂN HÓA ĐẢM BẢO ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI NÙNG
CHÁO (TRƯỜNG HỢP THÔN NÀ LẦU, XÃ TÂN THANH,
HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN)

Ngành: Văn hóa học
Mã số: 9 22 90 40

LUẬN ÁN TIẾN SỸ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Hoàng Cầm
2. TS. Đỗ Lan Phương

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu đã sử dụng trong luận án là trung thực. Những kết luận trong luận án
chưa có công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Vân Anh


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành đề tài, tôi xin trân trọng cảm ơn:


- TS. Hoàng Cầm và TS. Đỗ Lan Phương là những người thầy đã
hướng dẫn trực tiếp cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài, cùng các
thầy cô trong Khoa Văn Hóa học của Học viện khoa học xã hội Việt Nam
- Gia đình, bạn bè, những người đồng nghiệp đã luôn sát cánh, tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình làm nghiên cứu
- Đặc biệt, những người dân, các cán bộ địa phương tại địa bàn tôi
nghiên cứu đã rất nhiệt tình trao đổi, cung cấp thông tin, tư liệu cho tôi để
hoàn thành đề tài này!


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
A

Ảnh

KH

Kế hoạch

NCS

Nghiên cứu sinh

Nxb

Nhà xuất bản

PL

Phụ lục


tr

Trang

UB

Ủy ban

UBND

Ủy ban nhân dân

VHTT

Văn hóa thông tin


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ

7

LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu


7

1.2. Cơ sở lý luận

20

1.3. Thôn Nà Lầu (xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn

26

Chương 2: VĂN HÓA ĐẢM BẢO ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI NÙNG

40

CHÁO Ở NÀ LẦU TRONG XÃ HỘI CỔ TRUYỀN
2.1. Tập tục cộng đồng trong sở hữu và sử dụng tài nguyên

40

2.2. Sản xuất nông nghiệp với các dàn xếp văn hóa – xã hội và kỹ thuật

46

2.3. Các hoạt động buôn bán trao đổi

63

Chương 3: VĂN HÓA ĐẢM BẢO ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI NÙNG


71

CHÁO Ở NÀ LẦU HIỆN NAY
3.1. Bối cảnh chuyển đổi

71

3.2. Quá trình chuyển đổi kinh tế nông – thương nghiệp

79

3.3. Phương thức mưu sinh mới với cơ sở của nền kinh tế trọng tình

88

Chương 4: VĂN HÓA ĐẢM BẢO ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI NÙNG

110

CHÁO Ở NÀ LẦU: THAY ĐỔI VÀ THÍCH ỨNG
4.1. Yếu tố trọng tình trong thực hành sinh kế của người dân Nà Lầu

110

4.2. Yếu tố duy lý trong thực hành sinh kế của người dân Nà Lầu

113

4.3. Văn hóa đảm bảo đời sống – những vấn đề liên quan trong bối cảnh


125

hiện nay
KẾT LUẬN

142

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

147

TÀI LIỆU THAM KHẢO

148


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những chuyến khảo sát thực tế để tìm đề tài cho luận án của
mình về văn hóa ở vùng biên Lạng Sơn sau Đổi mới (1986), một chủ đề đã
từng được phản ánh trong một số công trình gần đây về những thay đổi văn
hóa - xã hội và kinh tế nơi này trong sự thay đổi chung của Việt Nam. Một số
người cho rằng, những thay đổi kinh tế và văn hóa nơi đây theo chiến lược
phát triển vùng biên của nhà nước đã đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người
dân. Thực tế diễn ra quá trình này đã thu hút tôi tới thôn Nà Lầu (Tân Thanh,
Văn Lãng, Lạng Sơn)- nơi vừa trải qua những năm tháng quy hoạch mở rộng
vùng thương mại cửa khẩu phía Bắc Việt Nam. Tôi đã gặp gỡ và trò chuyện
với những người Nùng Cháo ở đây, quan sát cuộc sống của họ trong những
dãy nhà tại các con phố ở khu buôn bán hay dọc theo tuyến đường giao
thương ở Tân Thanh. Rất khó có thể nhận ra họ đã từng là những người “chân

lấm, tay bùn, một nắng hai sương” trên những thửa ruộng hay mảnh nương
sườn đồi, nay đã thành những “thị dân”. Có lẽ, quá trình thay đổi này đã
không đơn giản khi tôi được nghe tâm sự của bà Xéo, người phụ nữ hơn 60
tuổi có cửa hàng buôn bán ở khu chợ Tân Thanh, rằng: “Bây giờ thì đỡ hơn
nhiều rồi nhưng cũng không phải như mọi người nghĩ là ngày ngày chỉ cần
mở cửa ra là đã có tiền, không còn lo làm ruộng không đủ ăn,... bán hàng lo
lỗ vốn, đi vác hàng bị mệt, bị bắt...”. Bà kể, kinh tế của gia đình trước kia chủ
yếu là từ làm ruộng, làm vườn, thu hoạch chỉ đủ ăn, không có dư thừa. Sau
khi chuyển đổi, bà và các con đã làm rất nhiều nghề: từ làm ruộng, buôn bán
nhỏ cho đến làm “cửu vạn” (vác hàng). Trong quá trình mưu sinh đó, nhà bà
luôn có sự tương trợ giúp đỡ của họ hàng, xóm giềng, song bản thân bà và gia
đình cũng có những toan tính để có một cuộc sống ổn định như hiện nay.
Không chỉ có nhà bà mà hầu hết những người Nùng Cháo sống tại thôn Nà

1


Lầu, sau khi đất nông nghiệp của họ bị chuyển đổi, đều phải trải qua những
giai đoạn tìm kiếm các cách thức mưu sinh không dễ dàng như vậy.
Là một thôn nằm giáp với biên giới Việt - Trung của tỉnh Lạng Sơn và
nằm trong khu kinh tế cửa khẩu Tân Thanh, sinh kế cổ truyền của người Nùng
Cháo ở Nà Lầu, về cơ bản là nền “kinh tế trọng tình” (moral economy), lối
sống thiên về yếu tố tình cảm, sống dựa trên sự tương trợ, giúp đỡ nhau, tính
cố kết cộng đồng cao. Trước những năm 1990, nền kinh tế của họ chủ yếu là
nông nghiệp trồng lúa nước, làm nương rẫy kết hợp với chăn nuôi và buôn
bán nhỏ tại các chợ Na Sầm (huyện Văn Lãng), Đồng Đăng (huyện Cao Lộc),
bên cạnh đó còn thực hiện buôn bán, trao đổi hàng hóa với người dân ở thôn
Pò Chài (Trung Quốc). Khi quan hệ hai nước Việt - Trung trở nên căng thẳng
do cuộc chiến tranh biên giới năm 1979, hoạt động buôn bán giữa người dân
Nà Lầu (Việt Nam) với người dân Pò Chài (Trung Quốc) bị nghiêm cấm. Từ

năm 1991 trở đi, quan hệ song phương Việt - Trung chuyển sang thời kỳ mới,
chấm dứt cơ bản những căng thẳng, tạo ra sự bình ổn cho cuộc sống người
dân. Năm 1992, khu Kinh tế cửa khẩu Tân Thanh được xây dựng trên địa bàn
thôn Nà Lầu thì nơi đây đã trở thành nơi giao lưu, trao đổi và mua bán hàng
hóa giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc, nhiều hoạt động thương mại
diễn ra rất sôi động. Tác động của việc xây mới và mở rộng vùng cửa khẩu đã
dẫn đến việc toàn bộ người Nùng Cháo ở Nà Lầu mất đất canh tác nông
nghiệp vốn là nguồn tài nguyên chính đã gắn bó với kinh tế nông nghiệp lâu
đời của họ. Hiện nay, các hoạt động sinh kế truyền thống này đã có nhiều thay
đổi so với trước kia, đó là sự đa dạng các phương thức mưu sinh. Kinh tế của
người dân Nà Lầu không còn được xem là “thuần nông” trong tổng thể những
thay đổi về văn hóa bảo đảm đời sống ở đây. Nếu như, trong quá khứ họ phải
tương trợ lẫn nhau để sống, sinh kế của họ vận dụng theo các nguyên lý của
một nền kinh tế trọng tình, thì trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế của đất nước
tuy tạo ra cho họ những cơ hội mới nhưng cũng nhiều gian nan, thử thách. Họ
đã xoay sở để tìm kiếm những phương thức mưu sinh phù hợp, có những ứng
2


xử để có thể đảm bảo được cuộc sống, song cũng không mất đi những cơ sở
đạo lý mà trong quá khứ đã tạo dựng được, đồng thời phải thích ứng với hoạt
động sinh kế trong bối cảnh mới. Vậy, họ đã làm như thế nào để có thể kết
hợp giữa các cơ sở của nền kinh tế trọng tình trước đây với các tính toán kinh
tế mang tính duy lý trong cơ chế thị trường hiện nay? Để nghiên cứu sâu hơn
vấn đề này, tôi chọn đề tài “Văn hóa đảm bảo đời sống của người Nùng
Cháo (trường hợp thôn Nà Lầu, xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh
Lạng Sơn)” làm đề tài luận án Tiến sỹ Văn hóa học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu về văn hóa đảm bảo đời sống, trong đó tập trung

chính vào các khía cạnh liên quan đến các thực hành sinh kế, luận án hướng
tới cung cấp một nghiên cứu trường hợp về sự thay đổi trong mô hình sinh kế
và những ứng xử văn hóa đi cùng của người nông dân Việt Nam trong xã hội
đương đại, một chủ đề đã và đang nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các
nhà khoa học xã hội ở Việt Nam và trên thế giới.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát tình hình nghiên cứu về văn hóa đảm bảo đời sống nói
chung và văn hóa của tộc người Nùng Cháo ở xã Tân Thanh, huyện Văn
Lãng, tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
- Làm rõ các hoạt động sinh kế của người Nùng Cháo trong quá khứ để
nhận thấy vai trò cơ bản của canh tác nông nghiệp trên nền tảng trọng tình của
cư dân nơi đây trong suốt chiều dài lịch sử.
- Làm rõ các hoạt động sinh kế và các ứng xử liên quan của người
Nùng Cháo hiện nay để nhìn ra sự đa dạng, phong phú, các chiều cạnh chuyển
đổi văn hóa - xã hội và lựa chọn sinh kế trên cơ sở duy lý có sự đan xen với
trọng tình của người dân trong bối cảnh phát triển kinh tế và dịch vụ tại khu
vực cửa khẩu.

3


- Thảo luận về sự kết hợp trọng tình - duy lý trong tư duy và thực hành
sinh kế của người dân trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện nay. Theo đó là
những vấn đề liên quan đến biến đổi văn hóa - xã hội, nguồn lực lao động,
việc làm, những thách thức trong thực hành sinh kế của người Nùng Cháo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu
Trọng tâm nghiên cứu của luận án là hoạt động sinh kế của người Nùng
Cháo ở thôn Nà Lầu (xã Tân Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn) trong
quá khứ và trong bối cảnh chuyển đổi hiện nay ở vùng biên giới Lạng Sơn.

Phạm vi nghiên cứu
Văn hóa đảm bảo đời sống là khái niệm có nội hàm rộng, bao gồm ăn,
mặc, ở, đi lại và hoạt động mưu sinh. Trong khuân khổ của luận án này,
Nghiên cứu sinh (NCS) chỉ lựa chọn nghiên cứu và phân tích một trong các
thành tố quan trọng nhất của văn hóa đảm bảo đời sống là các thực hành sinh
kế của người Nùng Cháo cùng những ứng xử văn hóa đi kèm tại thôn Nà Lầu
(Tân Thanh, Văn Lãng, Lạng Sơn) từ trước năm 1986, và sau thời kỳ đổi mới
được tính từ năm 1986 trở lại đây.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận án sử dụng phương pháp
nghiên cứu định tính (với phỏng vấn sâu, quan sát tham gia) để thu thập thông
tin, các dữ liệu, cứ liệu phục vụ đề tài. Các câu hỏi phỏng vấn sâu được soạn
thảo dưới hình thức các câu hỏi mở, đôi lúc là gợi ý để đối tượng được phỏng
vấn tự kể chuyện. Nhiều thông tin từ phỏng vấn sâu còn được kiểm tra bằng
thao tác “điều tra chéo”... Phương pháp nghiên cứu định tính cung cấp thông
tin về các tiến trình, động thái, các hành vi kinh tế và các mối quan hệ văn hóa
- xã hội liên quan của người Nùng Cháo ở Nà Lầu. Nguồn tư liệu chính của
luận án là kết quả thu thập thông tin từ quá trình khảo sát điền dã được NCS
thực hiện tại thôn Nà Lầu (Tân Thanh, Văn Lãng, Lạng Sơn). Cụ thể, từ tháng
1 năm 2016 đến tháng 9 năm 2017 tác giả đã tiến hành nhiều chuyến điền dã
4


tại địa bàn nghiên cứu, thực hiện được 30 cuộc phỏng vấn sâu và tiến hành
thảo luận nhóm với người dân ở độ tuổi lao động khác nhau, phỏng vấn một
số cán bộ lãnh đạo địa phương. Chủ đề của các cuộc phỏng vấn, thảo luận
nhóm tập trung xoay quanh các vấn đề về chuyển đổi sinh kế và sự thích ứng
trong các loại sinh kế mới, các chính sách liên quan đến môi trường sinh kế
của người dân, mạng lưới xã hội, tập quán và các sinh hoạt văn hóa, quan hệ
cộng đồng. Các nhóm được phỏng vấn bao gồm:

Nhóm thứ nhất, những người già sống trong thôn được phỏng vấn để
tìm hiểu về phương thức mưu sinh mà người dân Nà Lầu đã sử dụng trong
quá khứ, những thói quen, phong tục tập quán, truyền thống tương trợ, chia
sẻ, giúp đỡ nhau trong suốt quá trình chung sống.
Nhóm thứ hai, những phụ nữ ở trong thôn được phỏng vấn để tìm hiểu
về công việc của họ hiện nay, so sánh và đối chiếu với công việc của họ trước
khi xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Tân Thanh có những điểm khác biệt gì?.
Nhóm thứ ba, đối tượng các thanh niên: tìm hiểu công việc hiện tại của
họ, có những chiến lược nào để đảm bảo cuộc sống của bản thân?
Nhóm thứ tư, các các bộ quản lý ở thôn - xã: tập trung tìm hiểu các
quan điểm cá nhân đối với việc chuyển đổi phương thức mưu sinh của người
dân; Những thay đổi trong phong tục và tập quán văn hóa và sinh kế ở địa
phương.
Các cuộc phỏng vấn được thực hiện chủ yếu bằng tiếng phổ thông,
được ghi âm, ghi chép lại với sự đồng ý của những người cung cấp tin. Toàn
bộ tư liệu từ phỏng vấn, ghi chép đều được phục vụ để phân tích, tên của
thông tín viên được mã hóa để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh.
Bên cạnh phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, nghiên cứu sinh cũng tham
gia vào các hoạt động văn hóa của người dân, dự các đám tiệc, nghi lễ gia
đình và cộng đồng, tham dự các cuộc hội họp của thôn - bản hay khu kinh
doanh để tìm hiểu thêm các bối cảnh, khơi gợi các vấn đề cho những cuộc
phỏng vấn sâu.
5


Kết hợp với nguồn tư liệu thực địa là tư liệu thứ cấp được tập hợp và hệ
thống, phân tích, từ các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài
nước đã công bố có liên quan tới đề tài. Nghiên cứu sinh cũng tiến hành thu
thập và phân tích các bài báo, tạp chí và các tài liệu có liên quan để có những
thông tin cơ bản về đặc điểm kinh tế, xã hội và bức tranh toàn cảnh về các

loại hình sinh kế mới ở Nà Lầu nói riêng cũng như những thay đổi sinh kế
vùng cửa khẩu Lạng Sơn nói chung. Kèm theo đó là các văn bản, tài liệu, báo
cáo, số liệu thống kê của chính quyền và các ban ngành ở địa phương. Những
ý kiến trao đổi với các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa.
Hạn chế của nghiên cứu thực địa: Tuy thông tín viên trong mỗi cuộc
phỏng vấn đều nhiệt tình, hưởng ứng trò chuyện và trả lời câu hỏi do nghiên
cứu sinh đưa ra, nhưng một số thông tin về các dữ kiện xảy ra trong quá khứ
từ phỏng vấn hồi cố không thực sự chính xác. Lý do là, những người già (trên
70 tuổi) hiện còn sống ở Nà Lầu chỉ còn hơn 10 người và không phải tất cả
đều còn minh mẫn. Thêm vào đó, hoạt động sinh kế của một thôn giáp biên
giới Trung Quốc như Nà Lầu là một vấn đề nhạy cảm, NCS đã gặp nhiều khó
khăn khi tiếp cận và phỏng vấn những người chủ hàng, “đầu cửu”, “cửu vạn”.
Việc quan sát và tìm hiểu các cách thức làm ăn, mối hàng, việc vác hàng qua
các đường biên cũng không phải là chuyện dễ dàng, bởi tâm lý đề phòng, e
ngại người lạ của người dân ở đây. Vì vậy, những trình bày và phân tích trong
luận án có thể chưa phản ánh được hết những khía cạnh liên quan đến vấn đề
sinh kế và các ứng xử xoay quanh hoạt động sinh tồn của người Nùng Cháo ở
Nà Lầu.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Là luận án đầu tiên nghiên cứu về văn hóa đảm bảo đời sống của một
tộc người thiểu số cụ thể, ở một địa bàn mang tính đặc thù là vùng giáp biên
giới Việt - Trung trước những biến đổi về kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện
nay. Kết quả nghiên cứu góp phần phản ánh và giải quyết vấn đề thực tiễn về

6


biến đổi sinh kế - văn hóa nói chung và vùng giáp biên giới nói riêng, đây là
một hướng nghiên cứu mới trong ngành văn hóa.
- Luận án cung cấp một nghiên cứu trường hợp cho bức tranh nghiên

cứu về văn hóa đảm bảo đời sống của người nông dân trong xã hội đương đại.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về ý nghĩa lý luận: Luận án góp thêm một nghiên cứu về văn hóa đảm
bảo đời sống qua chiến lược sinh kế của người nông dân trong bối cảnh
chuyển đổi, so sánh với các ý kiến đã được thảo luận trong các các công trình
nghiên cứu đi trước ở Việt Nam và Đông Nam Á; cung cấp dữ liệu cụ thể ở
cấp vi mô nhằm bổ sung vào những lý thuyết về sự thích nghi, sự chủ động về
sinh kế của người nông dân ở vùng biên giới.
Về ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là nguồn tư
liệu quan trọng, cơ sở thực tiễn để các nhà hoạch định chính sách tham khảo,
vận dụng vào thiết kế, xây dựng các chương trình và chính sách phát triển
sinh kế bền vững ở vùng các tộc người thiểu số Lạng Sơn nói riêng và ở miền
núi Việt Nam nói chung.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
các công trình của tác giả, phụ lục, luận án bao gồm 04 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và địa
bàn nghiên cứu
Chương 2: Văn hóa đảm bảo đời sống của người Nùng Cháo ở Nà
Lầu trong xã hội cổ truyền
Chương 3: Văn hóa đảm bảo đời sống của người Nùng Cháo ở Nà
Lầu trong bối cảnh chuyển đổi hiện nay
Chương 4: Văn hóa đảm bảo đời sống của người Nùng Cháo ở Nà
Lầu: Thay đổi và thích ứng

7


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN

VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Khái quát những nghiên cứu về người Nùng
a. Nguồn gốc, lịch sử
Người Nùng là một trong số các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Những
nghiên cứu về nguồn gốc lịch sử của người Nùng cùng với những đặc trưng
văn hóa của họ đã được thể hiện trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau,
trong đó có các công trình đi sâu nghiên cứu từng nhóm Nùng cụ thể.
Về lịch sử của người Nùng các nhà nghiên cứu đề ra hai quan điểm
khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng người Nùng mới di cư sang Việt
Nam được mấy trăm năm. Chẳng hạn, năm 2000, Nguyễn Chí Huyên và các
cộng sự tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về nguồn gốc, lịch sử tộc người
vùng biên giới phía Bắc Việt Nam đã đưa ra những căn cứ và lý giải về nguồn
gốc của người Nùng một cách chi tiết và cụ thể. Các tác giả chỉ ra rằng:
nguồn gốc xa xưa của tộc danh Nùng có thể bắt nguồn từ dòng họ Nùng- một
trong bốn dòng họ đông người cư trú ở vùng Tả Hữu Giang, tức miền biên
giới Cao Bằng (Việt Nam) và Quảng Tây (Trung Quốc). Những nhóm Nùng
hiện nay vẫn mang tộc danh Nùng mới chỉ di cư sang Việt Nam trong những
thế kỷ gần đây từ 9 - 10 đời, tức khoảng 200 - 300 năm nay. Một trong những
bằng chứng chứng tỏ người Nùng hiện thời cư trú trên lãnh thổ Việt Nam
chưa lâu là những đặc điểm phân bố của họ. Họ ở trong các thung lũng nhỏ
hẹp, không đủ điều kiện làm ruộng nước, thường phải khai thác một phần
thành nương rẫy, còn gọi là thổ canh [38, tr.200]. Trong nghiên cứu trên, các
tác giả còn nhấn mạnh: đại bộ phận người Nùng di cư sang phía Bắc Việt
Nam là từ Quảng Tây (Trung Quốc). Họ đến đây theo từng nhóm và do nhiều
nguyên nhân nhưng chủ yếu là do bị áp bức, bóc lột, bị chèn ép, bị đàn áp và
8


bị tàn sát sau các cuộc khởi nghĩa không thành công. Loạn lạc, cướp bóc cùng

với việc thiếu ruộng đất cũng được cho là nguyên nhân khiến họ thực hiện
những cuộc thiên di lớn sang Việt Nam để mong tìm được nơi sinh sống ổn
định hơn. Quan điểm thứ 2 cho rằng: lịch sử của người Nùng gắn với nguồn
gốc bản địa. Theo Hoàng Nam, tổ tiên của người Nùng chắc chắn đã tham gia
vào việc thành lập nước Âu Lạc của Thục Phán An Dương Vương. Lịch sử
còn ghi tên tuổi của Nùng Chí Cao đã một thời là thủ lĩnh của người Tày,
Nùng ở vùng biên giới Việt - Trung [48, tr 8].
Cuốn Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) của Viện
Dân tộc học đã đưa ra nhận định: “Người Nùng cùng với các nhóm nói tiếng
Tày - Thái nằm trong khối Bách Việt. Vào thế kỷ thứ III trước công nguyên, ở
lưu vực sông Cầu và sông Hồng, nước Âu Lạc với vị thủ lĩnh Thục Phán đã ra
đời mà người Nùng có thể là một thành phần của nó. Một số các nhà nghiên
cứu khác cho rằng: người Tày và người Nùng là những cư dân có chung một
nguồn gốc, cùng thuộc khối Bách Việt xưa kia” [99, tr.48]. Trong nghiên cứu
về người Nùng Cháo ở Nà Lầu, NCS đồng ý với quan điểm nghiên cứu thứ
nhất cho rằng: người Nùng hiện nay là được di cư từ Trung Quốc sang, với
lịch sử định cư từ 200 đến 300 năm.
Một vấn đề cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đó là tộc danh
Nùng mà trong các công trình của họ đã nêu các tên gọi khác nhau như: Nùng
Inh, Nùng Phàn Slình, Nùng Cháo, Nùng An, Nùng Dín, Nùng Lòi, Nùng
Tùng Slìn, Nùng Quý Rỉn. Sự khác nhau này có liên quan tới các địa danh ở
Trung Quốc trước khi họ di cư vào Việt Nam như: người Nùng Inh di cư từ
Long Anh đến, Nùng Phàn Slình di cư từ Vạn Thành đến, Nùng Cháo di cư từ
Long Châu, Nùng An đến từ An Kết, Nùng Quý Rỉn đi từ Quý Thuận, Nùng
Lòi di cư từ Hạ Lôi, Nùng Tùng Slìn từ Tùng Thiện... Ngoài ra, tên gọi của
các nhóm Nùng còn căn cứ trên đặc điểm về y phục và trang sức của phụ nữ
như: phụ nữ Nùng Phàn Slình Hua Lài thường đội khăn chàm có những chấm

9



trắng; phụ nữ Phàn Slình Cúm Cọt thì mặc áo ngắn ngang mông, đội khăn
chàm có sọc trắng và quấn quanh đầu kiểu khăn xếp.
Liên quan tới người Nùng còn có người Choang đang sinh sống tại
Quảng Tây và Vân Nam (Trung Quốc) cũng tên gọi khá phức tạp, thể hiện
những ý thức khác nhau trong việc xác định tộc danh. Theo các học giả Trung
Quốc, họ được chia thành nhiều chi, hệ và có nhiều tên tự gọi cũng như tên
gọi khác nhau như: Pu Nong (Bố Nồng), Pù Nong (Bộc Nồng), Pù Lung (Bộc
Long), Long Rén (Long Nhân), Thu Rén (Thổ Nhân), Jin Dai Y (Cân Tải
Y)... Pu hay Pù là hai cách ký tự của một từ gốc, có cách luyến láy khác nhau,
có nghĩa chỉ người hay tộc. Rén là người trong tiếng Hán, còn Jin Dai Y là ý
âm của chữ Cần Tày trong tiếng Tày - Thái [4, tr.104]. Sau năm 1949, tên gọi
thống nhất được xác định ban đầu là Đồng tộc, đến năm 1965 đổi thành Tráng
tộc (nghĩa là người mạnh khỏe). Ở Việt Nam, các nhà dân tộc học thường
dịch theo âm Hán Việt là dân tộc Choang. Trên thực tế, thành phần cơ bản
của dân tộc Choang ở Trung Quốc hiện nay gồm rất nhiều tộc người, trong đó
có các nhóm Tày-Nùng. Người Nùng và người Tày hiện nay vẫn gọi nhau
một cách thân mật là Cần Slửa Khao (người áo trắng- tức người Tày) và Cần
Slửa Đăm (người áo đen - tức người Nùng)
b. Sinh kế
Các nhà nghiên cứu trong nước, khi nghiên cứu về người nông dân Việt
Nam và nhất là cộng đồng người thiểu số sống ở miền núi phía Bắc, đều
khẳng định kinh tế của họ dựa trên những cơ sở của nền kinh tế trọng tình.
Nhận định này được thấy trong công trình của Hoàng Nam (1992), Bế Viết
Đẳng và các cộng sự (1993), Khổng Diễn (1995), Vương Xuân Tình (1993,
2004, 2007), Nguyễn Chí Huyên và các cộng sự (2000), Trần Bình (2005),
Chu Thái Sơn (2006), Ma Ngọc Dung (2007), Bùi Xuân Đính (2009, 2013),
Hoàng Cầm (2014). Các nghiên cứu về dân tộc học, nhân học cũng chỉ ra
rằng, suốt chiều dài lịch sử các tộc người thiểu số sinh sống ở miền núi phía
Bắc Việt Nam cũng như nhiều dân tộc ở đồng bằng chủ yếu là canh tác lúa

10


nước và làm nương rẫy. Trong đó, những nghiên cứu về dân tộc Nùng cho thấy,
địa bàn cư trú trong tự nhiên là tiền đề quy định hoạt động sinh kế, và nơi sinh
sống của họ là ở các vùng thung lũng. Trong điều kiện như vậy, họ phải vừa
thích nghi với việc khai phá đất bằng để làm ruộng nước (Nà) - tạo nên văn minh
lúa nước, đồng thời vừa phải biết khai thác đất dốc, đất núi để làm nương (Lầy)
và trồng cây khô cạn. Ngoài ra, họ còn có các hoạt động kinh tế mang tính chất
phụ trợ khác như: làm vườn, trồng cây đặc sản, tiểu thủ công nghiệp, săn bắt,
đánh cá. Đặc điểm của canh tác lúa nước ở vùng các dân tộc miền núi là thửa
ruộng nhỏ, thường cách bản làng không xa và nằm ở ven đồi núi, rìa thung lũng
hay ngay trong lòng thung lũng. Họ có kỹ thuật làm đất khá phát triển cũng như
việc dùng phân bón khá thành thạo, có nhiều giống lúa cổ truyền đều cho ra gạo
rất ngon, thơm. Phân công lao động chủ yếu theo giới tính: nam cày bừa, nữ gieo
cấy. Trong canh tác nông nghiệp - ngành kinh tế chủ đạo, cộng đồng nông dân
thường có tập quán tương trợ và giúp đỡ nhau với các hình thức như vần công đổi công. Họ thường lập ra các nhóm tương hỗ mà thành viên không chỉ có quan
hệ huyết thống mà còn có quan hệ láng giềng, sự tham gia của mọi người vào
các nhóm đều được thực hiện trên cơ sở tự nguyện. Nền kinh tế nông nghiệp với
các thực hành văn hóa, xã hội và kỹ thuật trong các mối quan hệ mang tính trọng
tình đã giúp cho cư dân miền núi thích ứng với môi trường có độ dốc cao, đem
lại hiệu quả kinh tế, giúp duy trì, bảo vệ khá tốt đa dạng sinh học và môi trường
sinh thái.
Cũng trong công trình nghiên cứu về các dân dân tộc ít người ở Việt
Nam năm 1978, khi giới thiệu thông tin khái quát về văn hóa vật chất của
người Nùng, các nhà dân tộc học mô tả các hoạt động sinh kế của họ một
cách đơn thuần. Ví dụ: “Người Nùng là cư dân nông nghiệp, họ canh tác
ruộng nước một cách thành thạo, tương tự như người Kinh, người Tày. Thế
nhưng, hoàn cảnh cư trú khiến cho người Nùng không thể chỉ sinh sống bằng
nông nghiệp ruộng nước. Nương và rẫy đối với họ có một vai trò quan trọng”

[99, tr.201]. Các nhà nghiên cứu còn cho rằng, kỹ thuật làm rẫy của họ lạc
11


hậu, thô sơ, hoạt động săn bắt, hái lượm tuy giữ một vai trò quan trọng trong
đời sống nhưng chỉ là để bảo vệ mùa màng và cải thiện bữa ăn.
Nghiên cứu của Hoàng Nam (1992) là một trong những tài liệu nghiên
cứu chi tiết đầu tiên về người Nùng. Tác giả đã khái quát toàn bộ những đặc
điểm cơ bản đời sống vật chất, sinh hoạt tinh thần, các phong tục tập quán. Về
đặc điểm kinh tế, tác giả viết: người Nùng “là cư dân sống ở miền núi, có
rừng, có sông, có thung lũng lòng chảo... nguồn sống kinh tế chủ yếu là trồng
trọt các loại cây nhiệt đới; ngoài ra đồng bào còn chăn nuôi gia súc, gia cầm
và phát triển một số ngành nghề thủ công” [48, tr.58]. Tuy nhiên, tác giả cũng
mô tả khá chi tiết các hoạt động canh tác nông nghiệp của người Nùng với
trồng trọt trên ruộng nước và ruộng cạn, các kỹ thuật canh tác, chế tác công
cụ sản xuất, sử dụng đa dạng các giống lúa, các loại hoa màu: đậu xanh, đậu
tương, đậu đũa, lạc, vừng, khoai lang, sắn... các loại cây ăn quả: quýt, hồng,
đào... cây công nghiệp: hồi, trẩu, sở, thuốc lá. Và với người Nùng, trồng trọt
đi cùng chăn nuôi có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống kinh tế của họ cũng như
họ có thêm kinh tế hái lượm, sắn bắt. Ngoài ra, họ còn có đa dạng các nghề
thủ công như: dệt, mộc, đan lát, gốm sứ.
Nghiên cứu về người Nùng của Chu Thái Sơn và Hoàng Hoa Toàn
(2006) đã nêu khái quát toàn bộ các vấn đề liên quan đến người Nùng như
lịch sử tộc người, hoạt động kinh tế, văn hóa vật chất, các ứng xử cộng đồng
trong làng bản, dòng họ, gia đình, hôn nhân, các tập tục trong cưới xin, sinh
và nuôi dạy con, lễ mừng sinh nhật, tập tục ma chay; các hoạt động trong đời
sống tinh thần: tín ngưỡng - tôn giáo, văn học nghệ thuật dân gian, các lễ hội
truyền thống. Về sinh kế của người Nùng, các tác giả cũng chứng minh rằng:
“Dân tộc Nùng là cư dân trồng trọt, cây lương thực chính là cây lúa, sau đến
ngô. Làm ruộng là loại hình kinh tế chủ yếu (nương thổ canh và du canh) ở

nhiều vùng vẫn giữ vị trí đáng kể. Ngoài ra, các hoạt động kinh tế khác như:
làm vườn, trồng cây đặc sản, tiểu thủ công nghiệp, hái lượm, săn bắt, đánh
cá... là những nghề mang tính chất phụ trợ” [64, tr.24]. Các kỹ thuật canh tác
12


của người Nùng: cày, bừa tương tự như người Tày. Trong quá trình canh tác
họ là những cư dân nắm vững và sử dụng thành thạo các bản tính nông lịch,
biết dựa vào sự thay đổi thời tiết thông qua những biến đổi tự nhiên để điều
chỉnh hoạt động gieo, cấy cho phù hợp. Các tác giả còn có các mô tả về hoạt
động chăn nuôi, giới thiệu các nghề thủ công gia đình như mây tre đan, dệt
vải, rèn, làm ngói. Giống với nghiên cứu của Hoàng Nam (1992), trong
nghiên cứu này, các tác giả cho rằng việc khai thác các sản phẩm có sẵn trong
tự nhiên và hoạt động trao đổi mua bán mang ý nghĩa rất quan trọng trong đời
sống của người Nùng.
Trong một nghiên cứu về tập quán mưu sinh của các dân tộc thiểu số ở
vùng Đông Bắc Việt Nam, Trần Bình (2014) cũng đã chỉ ra những đặc điểm
chung của các dân tộc thiểu số với các mô tả dân tộc học theo các hệ ngôn
ngữ. Sinh kế của người Nùng thuộc nhóm Tày - Thái đều lấy trồng trọt cây
lương thực (trong đó cơ bản là lúa) làm nguồn sống chính. Tác giả khẳng
định: “Với cơ chế vận hành của một nền kinh tế tự cấp, tự túc, được tổ chức
theo quy mô gia đình, cơ cấu các hoạt động mưu sinh của các tộc người nhóm
ngôn ngữ Tày - Thái gồm: trồng trọt cây lương thực, chăn thả gia súc, gia
cầm; thủ công gia đình; khai thác chiếm đoạt tự nhiên” [5,tr.115]. Tác giả
cũng nêu lên việc trao đổi buôn bán được diễn ra trong cộng đồng làng bản và
địa phương, giữa các tộc người với nhau, sản phẩm mang ra trao đổi thường
là các sản phẩm dư thừa.
Tương tự như các nghiên cứu trên khi bàn về sinh kế của người Nùng,
Vương Xuân Tình (2014) nghiên cứu về văn hóa với phát triển vùng biên giới
ở Việt Nam, trong đó tập trung vào nhóm người Nùng ở huyện Cao Lộc

(Lạng Sơn) đã chỉ ra: sinh kế của người Nùng chủ yếu là canh tác ruộng nước,
nương rẫy, làm vườn và trồng rừng. Chăn nuôi chủ yếu là lợn, gà, vịt với
nguồn thức ăn được cung cấp từ sản phẩm trồng trọt (ngô, khoai, sắn). Trồng
rừng mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân, với các loại như thông, bạch

13


đàn, sa mộc, chám... Ngoài ra, vào những lúc nông nhàn người dân còn đi làm
thuê: chặt mía, phát bạch đàn, phát rừng bên Trung Quốc [79].
Tóm lại, trong những công trình nghiên cứu về sinh kế của người Nùng
trước đây đều đưa ra những nhận định chung: sản xuất nông nghiệp với trồng
lúa nước, nương rẫy là chính, còn chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và trồng
rừng là phụ. Sinh kế mang tính chất tự cấp tự túc. Bên cạnh những mô tả về
các dạng thức canh tác, việc sử dụng các loại cây, giống,... cũng như chỉ ra
tính chất trọng tình của nền kinh tế tự cấp tự túc với các quan hệ tương trợ,
giúp đỡ nhau trong sản xuất nhưng chưa quan tâm đến những động thái trong
phương thức mưu sinh khi điều kiện sống thay đổi.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về nguồn gốc, lịch sử, sinh kế,
những nghiên cứu khác về người Nùng cũng được đề cập đến dưới các khía
cạnh khác nhau: hôn nhân, gia đình, dòng họ, xã hội, phong tục tập quán,
nghệ thuật... của các tác giả như Lã Văn Lô-Đặng Nghiêm Vạn (1968),
Hoàng Quyết (1972), Lê Văn Bé (2001), Hoàng Thị Quỳnh Nha (2003), Nông
Thị Nhình (2004), Hoàng Thị Nhuận, Nguyễn Thị Yên (2005), Đàm Thị
Uyên (2011), Triệu Thị Mai (2007, 2011), Nguyễn Thị Thúy (2012), Hà Đình
Thành (2010), Lê Minh Anh (2014), Nguyễn Thu Minh (2014).... Những
nghiên cứu này góp phần cung cấp thêm thông tin hữu ích về những vẫn đề
liên quan đến đề tài trong quá trình nghiên cứu và viết luận án.
1.1.2. Nghiên cứu về sinh kế của người nông dân trong các bối cảnh
chuyển đổi

Văn hoá đảm bảo đời sống, đặc biệt là hoạt động sinh kế cổ truyền của
người nông dân, nông thôn châu Á là chủ đề nghiên cứu được quan tâm nhiều
trong ngành nhân học, dân tộc học và nghiên cứu văn hoá.
McElwee (2007) trong công trình nghiên cứu về sinh kế của người
nông dân ở vùng Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh, Việt Nam- “From the Moral Economy
to the World Economy: Revisiting Vietnamese Peasants in the Globalizing
Era”(Từ nền kinh tế đạo đức đến nền kinh tế thế giới: Xem xét lại người nông
14


dân trong bối cảnh toàn cầu hóa) phát hiện ra rằng: mặc dù có những thay đổi
xuyên suốt thế kỷ XX trong cơ cấu lao động làng xã, trong tự nhiên, sở hữu
đất đai, tổ chức kinh tế - chính trị, người nông dân Nghệ Tĩnh vẫn tiếp tục duy
trì nhiều khía cạnh của một nền kinh tế trọng tình. Tác giả chỉ ra, sau những
tàn phá kinh tế trong chiến tranh từ những năm 1950-1970, những người nông
dân ở Nghệ Tĩnh chỉ thực hành một nền kinh tế khép kín, các quan hệ có đi có
lại (vần công, đổi công) vẫn đặc biệt quan trọng đối với những nông dân sở
hữu ít đất đai, duy trì cuộc sống với mô hình gia đình nhỏ. Việc mở cửa
chuyển dịch nền kinh tế thị trường theo xu thế toàn cầu hóa dẫn đến việc mọi
hàng hóa nông nghiệp đều có thể sản xuất và đáp ứng các nhu cầu của toàn
cầu. Song, người dân ở đây không thay đổi hoàn toàn hoạt động sinh kế và
triết lý mưu sinh theo định hướng từ các chính sách chuyển dịch kinh tế được
đưa vào từ bên ngoài. Họ không dựa trên giá trị lợi nhuận của các loại cây mà
chỉ trồng những gì họ thích ăn và dựa vào tập quán trồng cây đã tồn tại lâu dài
trong lịch sử canh tác của họ [113, tr.58]. Đa số nông dân quyết định không
chuyển từ trồng lúa có năng suất thấp sang trồng ngô lai vốn hứa hẹn một thu
nhập cao hơn. Theo tính toán của nông dân ở Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), “lúa là
loại cây họ biết rõ nhất phải canh tác ra sao, luôn có thị trường do nhà nước
đảm bảo, và là thứ mọi người thích ăn nhất” [113, tr.78], điều này thể hiện
việc họ muốn giữ nguyên những cơ sở đạo lý của nền kinh tế trọng tình.

McElwee chứng minh: “tương hỗ là hành động xã hội”, “tái phân phối thu
nhập là nghĩa vụ xã hội”, “tránh rủi ro là chiến lược xã hội”, “phụ thuộc vào
đất công là quyền xã hội” là những đặc trưng của cộng đồng nông dân Hà
Tĩnh trong truyền thống và trong bối cảnh chuyển đổi hiện nay. Tác giả kết
luận, mặc dù sinh kế của người dân thay đổi, nhất là người nông dân hiện đại
và nền kinh tế trọng tình, song các quan hệ được duy trì để đảm bảo đời sống
khi sản xuất nông nghiệp truyền thống theo triết lý “an toàn là trên hết” vẫn
còn được thực hành một cách phổ biến, đặc biệt là các dàn xếp kỹ thuật và xã
hội để tương trợ nhau giữa các nhóm xã hội theo hướng “có đi có lại”. Nó
15


không chỉ là hoạt động của lòng nhân ái giữa những người bạn hay là một
nghĩa vụ một cách miễn cưỡng giữa những người họ hàng, mà “có đi có lại”
là một sự trao đổi phức tạp dựa vào các mối quan hệ xã hội. Phân phối và thu
nhập như một nghĩa vụ mà những người nông dân thực hiện để mang lại sự
gắn kết hơn trong làng [113, tr.71].
Jenifer Sowerwine (2006) trong công trình “Changing State and
Market Rules: agrarian transformations and the emergence of a moralmarket economy in the highlands of Ba Vi, Viet Nam” (Việc thay đổi nhà
nước và các quy tắc thị trường: chuyển đổi ruộng đất và sự xuất hiện nền kinh tế
đạo đức- thị trường ở vùng núi Ba Vì, Việt Nam) đã phác thảo việc tái định cư
của người Dao ở vùng núi Ba Vì, mô tả các mô hình và quá trình sử dụng đất
trong các chính sách mới của chính phủ, các nguồn lực kinh tế thị trường xuất
hiện cũng như các quan hệ xã hội chi phối các kết quả của họ. Trong đó là
những phân tích về các mô hình thu nhập, sự chi tiêu cũng như tiếp cận với các
chương trình tín dụng để chứng minh cho chiến lược sinh kế trong bối cảnh căng
thẳng của việc chiếm hữu đất đai còn nhiều bất ổn. Tác giả đã dựa trên khuôn
khổ của nền “kinh tế đạo đức - thị trường” để phân tích các quá trình biến đổi đất
nông nghiệp và đặc biệt là các nguồn lực sản xuất trong chiến lược sinh kế của
người Dao. Không còn sống du canh, du cư, sinh kế của họ chủ yếu dựa vào

vườn, diện tích trồng lúa nước không đáng kể song vẫn chiếm một vị trí quan
trọng ở đây. Các chính sách giao đất, chương trình trồng rừng của nhà nước với
mục đích xóa đói, giảm nghèo đã phản ánh một nỗ lực của nhà nước nhằm kiểm
soát con người và các nguồn lực ở vùng cao. Từ việc nghiên cứu sự tham gia vào
các chương trình trồng rừng, tác giả chỉ ra sự không tương xứng đối với người
dân, vẫn còn sự phân biệt xã hội, sự quan liêu, tất cả đã ảnh hưởng đến cuộc
sống người dân. Nhưng, người dân đã thành công trong việc phát hiện ra ranh
giới để có thể đáp ứng cơ hội thị trường mới và sự tích lũy của cải. Họ biết chủ
động dựa vào các mối quan hệ với lãnh đạo thôn để được tiếp cận nguồn lực sản

16


xuất, góp phần đảm bảo sinh kế, có sự tích lũy nhất định thông qua việc trồng
sắn, trồng lúa và làm vườn [116].
Khi nghiên cứu về “Quan hệ xã hội trong bối cảnh phi nông nghiệp
hóa: Nghiên cứu trường hợp làng Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội”, Nguyễn
Giáo (2016) đã dựa trên quan điểm về tính duy lý trong kinh tế và chứng
minh: người nông dân trong bối cảnh chuyển đổi về kinh tế đã biết tận dụng
các mối quan hệ xã hội để làm ăn. Trong nghiên cứu này, những người nông
dân sẵn sàng giúp đỡ nhau trong cuộc sống khi gặp khó khăn. Tuy nhiên, khi
bị thua lỗ trong làm ăn họ lại không nhờ vào sự giúp đỡ của các mối quan hệ
họ hàng mà đi vay lãi qua các mối quan hệ bên ngoài để tránh các nguy cơ
ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ thân thiết trong gia đình, họ hàng. Tác
giả cũng phân tích rõ các phương thức để họ tạo dựng, duy trì và phát triển
các mối quan hệ xã hội, người nông dân luôn có những tính toán để gia tăng
tư lợi [28].
Trong bối cảnh về những người nông dân bị thu hồi đất cho các dự án
phát triển đô thị, xây dựng các khu công nghiệp ở ven đô Hà Nội, Nguyễn
Văn Sửu (2014) đã chỉ ra các cơ hội và thách thức đối với sinh kế của họ

trong quá trình chuyển đổi này. Tác giả tìm hiểu về các quá trình, các tác
động từ bên trong và bên ngoài, kết hợp với việc phân tích bối cảnh, hệ quả
của sự chuyển đổi, lý giải việc tiếp cận, sử dụng, phân phối các nguồn vốn,
những cách thức mà cá thể và hộ gia đình đã sử dụng để tận dụng các điều
kiện có thể để ứng phó với những chuyển đổi diễn ra. Tác giả đồng thời nhấn
mạnh, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, nổi bật là việc thu hồi quyền sử
dụng đất nông nghiệp của các hộ gia đình nông dân để xây dựng các khu đô
thị, khu công nghiệp hay cơ sở hạ tầng đô thị đã làm chuyển đổi mạnh mẽ
cuộc sống và chiến lược sinh kế của nhiều hộ nông dân. Các quá trình này
mang lại cho người nông dân những cơ hội sinh kế mới, họ đã thích ứng, chủ
động với việc chuyển sang các loại hình sinh kế mới, chuyển đổi từ nông

17


nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ, giúp cải thiện, tăng thêm nguồn thu nhập,
tăng thêm mức sống cho các hộ dân [66].
Nghiên cứu về những nỗ lực kinh tế để nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân ở cộng đồng Thái - Lào tại vùng Đông Bắc Thái Lan, Keyes
(1983) trong công trình nghiên cứu “Economic action and Buddhist Morality
in Thai Village”(Hành vi kinh tế và đạo lý Phật giáo ở một làng người Thái)
đã chứng minh: sinh kế của người nông dân được đặt trong mối liên hệ với
văn hóa Phật giáo và kinh tế chính trị. Trong khi đời sống kinh tế của người
dân ở đây chịu nhiều thiệt thòi so với các khu vực khác ở Thái Lan, họ còn
phải đối phó với các quan chức “hách dịch” đã khiến cho việc tiếp cận các
hoạt động kinh tế một cách khó khăn hơn khi muốn cải thiện cuộc sống. Để
thay đổi, họ đã dựa vào một nền kinh tế trọng tình với thế giới quan Phật giáo.
Các hành vi kinh tế của người nông dân diễn ra chủ yếu trong mối liên hệ với
những hộ gia đình mà họ có các mối quan hệ chính yếu. Họ luôn tìm cách gia
tăng tư lợi, lợi ích của gia đình, không chỉ liên quan đến những điều kiện kinh

tế - chính trị ràng buộc cuộc sống mà còn liên quan nhiều đến những đòi hỏi
của xã hội, đó là việc sống trong một cộng đồng có luân lý và đạo đức. Để gia
tăng mức sinh tồn, những người dân ở Ban Nông Tun đã sử dụng các chiến
lược sinh kế khác nhau như: sử dụng các giống lúa mới, kết hợp bón phân hóa
học, trồng trọt, chăn nuôi, phát triển các nghề thủ công, sản xuất than củi,
chứng tỏ một thực tế rằng: người dân ở đây cũng đã chủ động có những tính
toán để thích ứng với những động cơ thúc đẩy kinh tế mới [111]. Nghiên cứu
của Keyes đã cho thấy, trong chiến lược sinh kế của người dân vùng Đông
Bắc Thái Lan có sự đồng nhất giữa yếu tố trọng tình và duy lý.
Nghiên cứu về quá trình chuyển đổi phương thức mưu sinh của người
dân ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh
tế nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ với nhiều mô hình chuyển dịch, trong đó nổi
lên là chuyển dịch từ trồng lúa năng suất thấp sang nuôi tôm thương mại,
công trình nghiên cứu “Từ lúa sang tôm - hành vi giảm thiểu rủi ro và khai
18


thác vốn xã hội của nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long” của Ngô Thị
Phương Lan (2014) đã dựng lại một bức tranh sản xuất thương mại ở đây để
tìm hiểu bản chất hành vi kinh tế của người nông dân. Người nông dân ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long đã nhanh nhạy trong việc thích ứng với việc sản
xuất thị trường. Theo hướng tiếp cận về rủi ro và vốn xã hội, tác giả đã miêu
tả chi tiết và phân tích phương thức mưu sinh nổi bật mới xuất hiện, đặt trong
các khía cạnh lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng. Trường hợp người
nông dân trong quá trình chuyển dịch từ trồng lúa sang nuôi tôm đã thể hiện
rõ lối tư duy duy lý theo hướng tiếp cận của Popkin (1979), song chiến lược
giảm thiểu rủi ro, chẳng hạn như chuyển đổi dần các mảnh ruộng của gia đình
làm đầm nuôi tôm, đầu tư vào các mạng lưới xã hội để phát triển kinh tế và
giảm thiểu rủi ro khi mất mùa, thể hiện sự kết hợp giữa yếu tố trọng tình và
duy lý trong kinh tế để phù hợp với bối cảnh mới [40].

Nghiên cứu về người H’Mông ở làng Lao Chải (Sapa), trong tiểu luận
“Tourism development and changing labor relations in Sa Pa, Northwestern
Viet Nam” (Phát triển du lịch và sự thay đổi quan hệ lao động ở Sa Pa, Tây
Bắc Việt Nam) của Dương Bích Hạnh (2006) cho thấy rõ sự thích ứng nhanh
nhạy với loại hình sinh kế mới của người H’Mông. Trong bối cảnh khi mới di
cư đến Việt Nam, cuộc sống của người H’Mông rất tốt vì có nhiều đất rừng
cho họ khai phá trồng ngũ cốc, trồng thuốc phiện, trồng bông và buôn bán
nhỏ với người dân bên Trung Quốc. Nhưng sau đó, cuộc sống của họ gặp khó
khăn hơn khi đất canh tác ngày càng ít, dân số ngày một tăng lên. Từ những
năm 1990, du lịch ở Sapa phát triển dẫn đến tình hình xã hội ở Lao Chải có sự
thay đổi đột ngột, trong đó có thay đổi về sinh kế của người H’Mông theo
hướng thích ứng với thị trường du lịch. Người H’Mông đã mang bán những
đồ cũ định vứt đi (áo, khăn cũ) nhưng lại phát hiện ra khách nước ngoài rất
thích, do vậy họ đã mang đi bán để kiếm tiền. Một phương thức mưu sinh mới
xuất hiện, đó là, họ trở thành người bán hàng rong và phục vụ chỗ nghỉ cho
khách du lịch. Các cô gái H’Mông tham gia vào các hoạt động du lịch đã
19


đóng góp thêm vào thu nhập ngân sách cho gia đình, song họ lại không có
thời gian để thêu các đồ thêu cho mình vào các dịp lễ tết nên đã thuê những
người phụ nữ lớn tuổi H’Mông làm thay, dẫn đến xuất hiện mối quan hệ lao
động làm thuê [93]. Nghiên cứu này cũng chứng minh, bên cạnh những tính
toán để gia tăng tư lợi thì những người H’Mông vẫn có sự tương trợ lẫn nhau
trong hoạt động kinh tế.
Với công trình “Imaginative and adaptive economic strategies for
Hmong livelihoods in Lao Cai Province, Northern Viet Nam (Các chiến lược
kinh tế mang tính thích ứng và tưởng tượng của người H’Mông ở Lào Cai,
phía Bắc Việt Nam), Jean Michaud và Sarah Turner (2008) đã nghiên cứu
theo hướng tiếp cận sinh kế nhưng không nhằm vào điều tra các lợi ích tài

chính hay sản lượng lương thực. Các tác giả tập trung vào các khía cạnh xã
hội, văn hóa, chính trị ở vùng cao tác động như thế nào tới người H’Mông để
họ có được chiến lược sinh kế và có thể duy trì quyền tự chủ, quyền quyết
định lựa chọn hình thức kinh tế - xã hội cũng như sáng tạo văn hóa. Nhà nước
hỗ trợ chính sách cho những người H’Mông sử dụng giống lúa lai mới để
nhằm hiện đại hóa vùng cao, tăng năng suất lúa, đảm bảo an ninh lương thực,
từ đó dẫn đến những biến đổi sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy
nhiên, do điều kiện tự nhiên và khí hậu khắc nghiệt nên trồng lúa chỉ đủ để ăn
bởi mỗi năm họ chỉ thu hoạch được một vụ. Để bổ sung cho nguồn thu nhập
của gia đình, họ đã chủ động tham gia vào thương mại quy mô nhỏ thông qua
việc bán sản phẩm dệt may, vật nuôi, gạo và rượu ngô [119].
Trong một nghiên cứu khác của Sarah Turner và Christine Bonnin
(2011): “At what price rice? Food security, livelihood vulnerability and state
interventions in upland Northern Viet Nam” (Thời điểm giá gạo nào? An ninh
lương thực, tổn thương sinh kế và sự can thiệp của nhà nước ở miền núi phía
Bắc Việt Nam), các tác giả đã đề cập đến chiến lược sinh kế thích ứng của
người H’Mông ở tỉnh Lào Cai, chủ yếu dựa trên sự kết hợp hoạt động tự cung
tự cấp và các hoạt động thương mại, ngoài ra còn có săn bắt, hái lượm. Sinh
20


×