Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Truyện ngắn nữ việt nam từ 1986 đến nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.57 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Trần Thị Quỳnh Lê

TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM
TỪ 1986 ĐẾN NAY

Ngành: Văn học việt nam
Mã số: 9.22.01.21

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Hà Nội - 2019


Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học Xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS.LƯU KHÁNH THƠ
2. PGS.TS.NGUYỄN THỊ BÍCH THU

Phản biện 1: PGS.TS. Mai Thị Hương
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện
Phản biện 3: PGS.TS. Lý Hoài Thu

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại ………. vào hồi …giờ...…phút ngày…tháng……...năm……


Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Học viện khoa học xã hội
- Thư viện Quốc gia Việt Nam


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1986 được xem là một dấu mốc quan trọng của lịch sử văn
học dân tộc. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã thổi một luồng
gió mới vào đời sống văn học Việt, làm “bứt rễ” cả những điều tưởng
đã trở thành bất biến của nền văn học cũ. Chính trong không khí đó, sự
xuất hiện đông đảo của các cây bút nữ, đã làm nên một “hiện tượng”
đặc biệt của nền văn chương đương đại. Sự góp mặt của họ không chỉ
ấn tượng về con số mà quan trọng hơn còn là những cá tính và bản lĩnh
nghệ thuật dường như chưa được khai phóng đúng mức ở các giai đoạn
trước. Dấu ấn tài năng của họ được thể hiện trong nhiều thể loại nhưng
đậm nét nhất có lẽ là trong truyện ngắn. Đó dường như là một sự lựa
chọn mang tính tự giác, đầy chủ ý của các nữ văn sĩ . Việc lý giải cho
sự gắn kết gần như duyên nợ ấy sẽ góp phần “phát lộ” những đặc trưng
riêng của người viết nữ trên những trang văn, để làm nên cái người ta
vẫn gọi là “văn học mang gương mặt nữ”. Vì những lý do trên, chúng
tôi lựa chọn đề tài: Truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích: Luận án làm sáng rõ những đặc trưng của lối viết
nữ thông qua việc nghiên cứu truyện ngắn của một số tác giả nữ tiêu
biểu. Đồng thời, qua đó khẳng định vị trí và tài năng của các cây bút nữ
trong dòng chảy của văn học Việt Nam đương đại.
2.2. Nhiệm vụ: Luận án đặt truyện ngắn nữ trong bối cảnh đổi
mới và hội nhập để nhìn thấy được sự phát triển của hiện tượng này
không chỉ là sự vận động tất yếu của đời sống văn học mà còn là quá

trình cộng hưởng từ nhiều yếu tố của lịch sử, xã hội,văn hóa và tư
tưởng. Sau đó, luận án làm sáng tỏ đặc trưng của lối viết nữ qua một số

1


phương diện cơ bản như mô hình giao tiếp, không gian thời gian nghệ
thuật và những diễn ngôn mang đặc trưng giới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của luận án là truyện
ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay trên các phương diện cụ thể như mô
hình giao tiếp, không gian, thời gian nghệ thuật và diễn ngôn của giới
nữ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung khảo sát các tập truyện ngắn của những cây
bút nữ tiêu biểu như: Lê Minh Khuê, Phạm Thị Hoài, Trần Thùy Mai,
Dạ Ngân, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Nguyễn
Ngọc Tư, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Đỗ Bích Thúy. Bên cạnh đó,
chúng tôi cũng mở rộng phạm vi tìm hiểu với truyện ngắn của một số
cây bút trẻ như Nguyễn Quỳnh Trang, Lynh Bacardi, Nie Thanh
Mai…và một số cây bút hải ngoại như: Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nhung
Uyển, Trân Sa…
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau: Phương pháp cấu trúc – kí hiệu học, Phương
pháp hệ thống, Phương pháp loại hình, Phương pháp so sánh và tiếp cận
theo hướng thi pháp học, tự sự học
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình chuyên biệt nghiên cứu một cách hệ

thống các phương diện đặc trưng làm nên bản sắc của lối viết nữ. Trong
đó, đặc biệt là cách tiếp cận truyện ngắn nữ dưới góc độ cấu trúc, kí
hiệu học, xem sáng tác của các nhà văn nữ như một hình thức giao tiếp
của các nữ văn sĩ với con người, cuộc đời và với chính mình. Lựa chọn

2


giai đoạn từ 1986 đến nay, luận án cũng hướng đến việc khẳng định
truyện ngắn nữ không chỉ là một bộ phận mà còn là bộ phân tiêu biểu
làm nên sự phong phú, đặc sắc của văn học Việt Nam đương đại.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Luận án làm sáng rõ một số vấn đề thuộc về
lý luận thể loại, về những đặc điểm khu biệt và tính kí hiệu của tác
phẩm qua việc khảo sát truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho cán bộ,
sinh viên ngành Ngữ văn ở các trường đại học, cao đẳng, trung học phổ
thông cũng như các độc giả quan tâm, nghiên cứu về truyện ngắn đương
đại Việt Nam đặc biệt là truyện ngắn của các cây bút nữ.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương cụ thể như sau:
- Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu
- Chương 2: Truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay trong bối
cảnh đổi mới và hội nhập
- Chương 3: Những mô hình giao tiếp trong truyện ngắn nữ Việt
Nam từ 1986 đến nay
- Chương 4: Những dạng thái biểu hiện trong truyện ngắn nữ Việt
Nam từ 1986 đến nay


3


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Qua việc tổng hợp các công trình và bài viết về văn xuôi nữ nói
chung và truyện ngắn nữ nói riêng, chúng tôi khái quát được 4 hướng
nghiên cứu chính về truyện ngắn nữ Việt Nam (có thể lồng ghép trong
văn xuôi nữ) từ 1986 đến nay cụ thể như sau:
1.1.1. Tổng kết, đánh giá thành tựu của các cây bút nữ
Phần lớn các bài viết theo xu hướng này đều khẳng định thành
tựu cũng như đóng góp của các nhà văn nữ trên văn đàn.Tiêu biểu như
các bài viết của Bùi Việt Thắng, Hà Minh Đức, Trần Thục, Phạm Xuân
Nguyên, Nguyễn Bích Thu, Lê Thị Hường…Bằng những trang viết của
mình, các chị đã góp phần “nâng cao tính thẩm mỹ của thể loại” và đặc
biệt vẫn “giữ được “bình đẳng” với đồng nghiệp nam giới về hiệu quả
và chất lượng nghệ thuật” (Nguyễn Bích Thu). Bên cạnh đó, dù không
nhiều nhưng cũng phải kể đến một số ý kiến thể hiện quan điểm không
tin tưởng hay có thái độ hoài nghi đối với sự phát triển đối của văn học
nữ như bài viết Các nhà văn nữ và sự khủng hoảng trong văn học Việt
Nam hiện đại của tác giả Nguyễn Thanh Sơn.
1.1.2. Tiếp cận từ tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại
Hướng nghiên cứu này tập trung chủ yếu ở một số công trình
luận án đã bảo vệ trong thời gian vừa qua tiêu biểu như: Những đặc
điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1995 của tác
giả Lê Thị Hường (Luận án phó tiến sỹ khoa học Ngữ Văn – Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn – Năm 1995), Truyện ngắn Việt Nam từ
1986 đến nay (Nhìn từ góc độ thể loại) của tác giả Lê Thị Hương Thủy
(Luấn án Tiến sĩ văn học – Học viện khoa học xã hội – Năm 2013),

Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại của tác giả

4


Nguyễn Thị Năm Hoàng (Luận án tiến sĩ văn học – Đại học Khoa học
xã hội và nhân văn – Năm 2015) và đặc biệt là luận án Truyện ngắn các
nhà văn nữ đương đại – Tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại của tác
giả Phạm Thị Thanh Phượng. Các công trình đã từng bước làm sáng rõ
đặc trưng của truyện ngắn nói chung và truyện ngắn nữ nói riêng. Điểm
chung trong sáng tác của các cây bút nữ chính là sự thể hiện một thiên
tính nữ in đậm trong tư duy nghệ thuật dẫn đến sự chi phối về đặc trưng
thể loại. Dường như đặc trưng thể loại truyện ngắn và tư duy nghệ thuật
của các nhà văn nữ có khá nhiều điểm tương đồng, góp phần tạo nên sự
“thăng hoa” của thể loại lẫn chủ thể sáng tạo.
1.1.3. Nghiên cứu về những tác giả nữ cụ thể
Đây là hướng nghiên cứu thu hút được nhiều nhất sự quan tâm
của các nhà phê bình, nghiên cứu hay cả công chúng bạn đọc. Rất nhiều
bình diện trong sáng tác của các cây bút nữ được lật mở trong đó nhiều
nhất là những bài viết giới thiệu về các tác phẩm hay phong cách nhà
văn . Vì thế, trong phạm vi này, chúng tôi chỉ điểm qua những bài viết
góp phần làm nổi bật đặc trưng, phong cách của một số tác giả trong
phạm vi nghiên cứu của luận án như Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Võ
Thị Xuân Hà, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng
Anh, Nguyễn Ngọc Tư…
1.1.4. Tiếp cận truyện ngắn nữ từ góc độ vận dụng lý thuyết
1.1.4.1. Lý thuyết phê bình nữ quyền
Hướng nghiên cứu này cũng nhận được sự quan tâm của các
nhà khoa học. Tiêu biểu như các bài viết về văn học nữ quyền của
Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thị


Bình, Trần Huyền Sâm, Hồ Thị

Khánh Vân và hai công trình luận án Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ
quyền trong văn xuôi Việt Nam đương đại (Qua sáng tác của một số
nhà văn nữ tiêu biểu) của tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân và Tinh thần

5


nữ quyền trong văn xuôi Việt Nam sau 1986 của tác giả Mai Thị Thu.
Thông qua đó có thể thấy dù vô thức hay tự giác nhưng sáng tác của các
cây bút nữ là biểu hiện rõ nét nhất về ý thức nữ quyền hay tinh thần nữ
quyền trong văn học. Nghiên cứu văn học nữ, không thể không nhìn
thấy sự tác động của nữ quyền luận trong sáng tác của các cây bút nữ
bởi đó là chiếc chìa khóa mở ra những chân trời tiếp nhận của văn
chương giới nữ.
1.1.4.2. Lý thuyết phê bình phân tâm học
Có thể điểm qua một số bài nghiên cứu theo xu hướng này của
các tác giả như Hồ Thế Hà, Nguyễn Ánh Vân, Hoàng Đăng Khoa
nhưng đáng chú ý có lẽ là công trình luận án Truyện ngắn của các nhà
văn nữ Việt Nam đương đại từ góc nhìn phân tâm học của tác giả
Nguyễn Trọng Hiếu. Trong muôn nẻo đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, phê bình phân tâm học là một nét phong cách và thi pháp vừa
gần gũi, vừa bất ngờ, vừa mới lạ góp phần khám phá những “con người
thật sự và sự thật về con người” trong truyện ngắn của các nữ văn sĩ.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Trong phạm vi tài liệu bao quát được (chủ yếu là những công
trình đã được dịch sang tiếng Việt), chúng tôi nhận thấy các tài liệu
nước ngoài nghiên cứu về truyện ngắn đặc biệt là truyện ngắn nữ Việt

Nam đương đại dường như còn khá ít ỏi. Phần lớn là những bài viết của
các học giả nước ngoài về một số tác giả hay tác phẩm tiêu biểu, tạo
được sự chú ý cho dư luận như Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê,
Nguyễn Ngọc Tư. Đáng kể nhất theo hướng nghiên cứu này là công
trình Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Trên
tư liệu truyện ngắn ba nhà văn nữ) của PGS. Hoàng Dĩ Đình – một nữ
chuyên gia tiếng Việt và Việt Nam học của Đại học Ngoại Ngữ - Ngoại
thương Quảng Đông (Trung Quốc).

6


1.3. Nhận xét tình hình nghiên cứu và hướng nghiên cứu
của đề tài
1.3.1. Nhận xét tình hình nghiên cứu
Các nhà nghiên cứu hầu như đều “gặp gỡ” nhau trong việc nhận
diện một số vấn đề cơ bản của truyện ngắn nữ như cảm hứng, đề tài,
hình tượng nhân vật nữ hay những đổi mới về thi pháp thể loại. Ngoài
các công trình khẳng định giá trị cũng như sự đóng góp của văn xuôi nữ
nói chung và truyện ngắn nữ Việt Nam nói riêng, chủ yếu là hướng
nghiên cứu trong việc tìm kiếm, xác lập những vấn đề chung về tư duy
nghệ thuật hay đặc trưng thể loại góp phần làm nên cái gọi là “lối viết
nữ”. Trong các hướng nghiên cứu về truyện ngắn nữ hay văn học nữ,
hướng nghiên cứu nữ quyền hay phái tính được đặc biệt chú ý với số
lượng các công trình hay bài viết nghiên cứu là khá lớn.
1.3.2. Hướng nghiên cứu của đề tài
1. Đặt truyện ngắn nữ trong bối cảnh lịch sử, xã hội văn hóa
của thời đại và đặc biệt là trong mối quan hệ nội tại với các nhà văn để
nhìn thấy những tiền đề xã hội và thẩm mỹ dẫn đến sự hình thành và
lớn mạnh của truyện ngắn nữ.

2. Để tránh đi vào những con đường đã trở nên cũ và quen
thuộc, chúng tôi bước đầu nghiên cứu truyện ngắn nữ từ góc độ kí hiệu
3. Lựa chọn không gian, thời gian nghệ thuật và những diễn
ngôn mang đặc trưng về giới trong truyện ngắn nữ chúng tôi muốn phát
lộ rõ hơn bản chất của văn chương nữ cũng như thái độ của những
người viết nữ trong việc phản ánh. Sự lựa chọn của họ ở những cách tổ
chức không thời gian hay kiến tạo những diễn ngôn riêng của giới mình
là sự lựa chọn mang tính tự giác nhằm chuyển tài thông điệp cuộc sống
theo cách của chính họ và quan trọng hơn đây cũng là một trong những
điểm làm nên sự khác biệt giữa cây bút nữ với các tác giả nam cùng
thời.

7


Chương 2
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
TRONG BỔI CẢNH ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP
2.1.Những tác động “ngoại sinh”
2.1.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội và môi trường văn hóa thẩm mỹ
Sự thay đổi của bối cảnh lịch sử xã hội cũng như những tiền đề
văn hóa thẩm mỹ đã tác động mạnh mẽ đến mọi phương diện đời sống
trong đó có văn học, đặc biệt là văn học nữ. Trong sự bức phá chung
của hiện thực đời sống sau Đổi mới, các cây bút nữ đã có điều kiện để
nhập cuộc một cách tích cực vào đời sống xã hội cũng như cất lên tiếng
nói của riêng mình trong sáng tạo văn chương.
2.1.2. Ảnh hưởng của lý thuyết nữ quyền và khuynh hướng văn
học nữ quyền trên thế giới
2.1.2.1. Lý thuyết nữ quyền và tư tưởng nữ quyền trên thế giới
Nhìn lại lịch sử văn học dân tộc, các nhà nghiên cứu đều thống

nhất, văn hóa Mẫu hệ là nền tảng tư tưởng của ý thức phái tính và âm
hưởng nữ quyền trong văn học Việt. Nó là dòng chảy liên tục từ văn
học dân gian đến văn học hiện đại, nhưng phải đến thế kỷ XX, khi chủ
nghĩa nữ quyền trên thế giới tác động đến nước ta, tiếng nói nữ quyền
và những nghiên cứu nữ quyền mới chính thức bắt đầu. Tuy nhiên, do
sự tác động của hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu của thời đại, tinh thần nữ
quyền trong văn học có những biểu hiện và đặc trưng với mức độ đậm
nhạt khác nhau, để đến năm 1986 khi bắt gặp những điều kiện thuận lợi
của bối cảnh lịch sử và xã hội, tiếng nói nữ quyền hay dòng văn học nữ
lưu mới thực sự phát triển mạnh mẽ, làm nên dấu ấn của nền văn học
đương đại.
2.1.2.2. Khuynh hướng văn học nữ quyền thế giới

8


Văn học nữ đương đại Việt Nam không phải là hiện tượng
chuyên biệt mang đặc thù riêng của một quốc gia, dân tộc mà là sự hòa
nhịp chung với văn chương nữ thế giới. Những thành tựu của văn học
nữ Việt Nam đương đại vừa nằm trong mạch vận động chung của văn
chương nữ thế giới vừa nhận được sự hậu thuẫn của nó, đồng thời góp
phần làm nên diện mạo của văn chương nữ thế giới đương đại. Những
tác động “ngoại sinh” tuy không phải là nhân tố chính nhưng hết sức
quan trọng trong sự “đột khởi” của những người viết nữ ở Việt Nam
cũng như sự phát triển của văn học nữ nói chung và truyện ngắn nữ nói
riêng trên văn đàn Việt.
2.2. Những vận động “nội tại”
2.2.1. Sự “lên ngôi” của thể loại truyện ngắn
Từ sau năm 1986, truyện ngắn có nhiều thành tựu nổi bật nhờ
vào công cuộc Đổi mới xã hội và văn chương. Người ta nhìn thấy ở thể

loại này sự bùng nổ về cả số lượng, lẫn chất lượng. Sự lên ngôi của thể
loại này xuất phát từ đặc điểm của thời đại và ưu thế của thể loại. Đặc
trưng thẩm mỹ của truyện ngắn phù hợp với sự chuyển đổi của cuộc
sống đa chiều kích thời hiện đại, thời của hiện thực thậm phồn và của sự
va đạp các dạng thức diễn ngôn, thời của tiểu tự sự và phi trung tâm. Từ
một thể loại được quan niệm là nhỏ/thấp, có thể khẳng định, sau 1986
truyện ngắn đã trở thành thể loại trụ cột của văn chương thời đại mới
2.2.2. Sự lớn mạnh về lực lượng đội ngũ nhà văn nữ
Từ 1986 “cán cân” lực lượng đội ngũ sáng tác đã có sự thay đổi
đáng kể dành cho người viết nữ. Những cái tên tác giả nữ không còn
“bấm trên đầu ngón tay” mà là sự “đổ bộ” với số lượng đông đảo. Từ
những lớp nhà văn đã thành danh trong giai đoạn chống Mỹ như
Nguyễn Thị Ngọc Tú, Nguyễn Thị Như Trang, Lê Minh Khuê, Ngô Thị
Kim Cúc, Phạm Thị Minh Thư, Dạ Ngân, Đoàn Lê, Lý Lan đến những

9


thế hệ xuất hiện ngay và sau cao trào đổi mới như: Phạm Thị Hoài, Y
Ban, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu
Huệ, Phan Thị Vàng Anh, …Từ những lớp nhà văn thế hệ 7x như
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu, Đỗ Bích Thúy, Di Li, đến những thế
hệ 8x Phan Hồn Nhiên, Dương Thụy,Từ Nữ Triệu Vương, Lynh
Bacardi, Nguyễn Thúy Hằng, Ngọc Cầm Dương, Nguyễn Quỳnh
Trang…đã khẳng định sự vượt trội của những người viết nữ. Không
phải tất cả những cây bút đều tạo được tiếng vang, đều đem lại thành
tựu đáng kể cho nền văn học nhưng sự xuất hiện của họ đã thể hiện tính
chất dân chủ và đa dạng của nền văn học mới.
2.2.3. Sự trỗi dậy từ ý thức của chủ thể sáng tạo: “Phụ nữ
chúng tôi phải viết”

Có thể thấy, người phụ nữ viết văn xuất phát từ chính nhu cầu,
ý thức nội tại của cá nhân, là “hành vi xác tín bản ngã” của người nghệ
sĩ. Văn chương đối với các nữ văn sĩ trước hết là sự ghi dấu ấn vân tay
của mình trên trang viết. Những người đàn bà viết văn thời hiện đại
chọn viết văn “để sống một cuộc sống khác” (Xuân Quỳnh) và họ đã
viết bằng thái độ kiêu hãnh, tự tin khác hẳn. Họ không ao ước “Ví đây
đổi phận làm trai được” như Hồ Xuân Hương một thời, mà chủ động
xác lập quyền bình đẳng ở nơi cá tính đã trở thành giá trị tự thân của
ngưới sáng tác.
2.3. Truyện ngắn nữ - “phần tinh túy làm nên bản lai diện
mục” của nền văn học Việt Nam đương đại
2.3.1. Giới nữ và truyện ngắn – sự lựa chọn tự giác mang đặc
trưng về giới
Sau 1986, người ta chứng kiến sự hưng thịnh của thể loại
truyện ngắn mà chủ nhân của nó lại là của những người viết nữ. Điều
này bắt nguồn trước hết từ sự chuyển dịch các giá trị về văn hóa và con

10


người của cuộc sống hậu chiến. Phụ nữ dường như “bắt mạnh với thời
đại nhanh hơn nam giới” (Vương Trí Nhàn). Mặt khác, là “hình thức tự
sự cỡ nhỏ” truyện ngắn dường như phù hợp với thể tạng, “sức rướn”
cũng như ưu thế của nữ giới.
2.3.2. Truyện ngắn nữ - sự kiến tạo những giá trị độc đáo
riêng biệt
Viết như một hành vi xác tin bản ngã, truyện ngắn nữ trước hết
là sự bộc lộ cái tôi - nhân vị sâu sắc và toàn vẹn của người đàn bà. Vì
vậy, lần đầu tiên, người ta buộc phải nhìn nhận sự khác biệt về giới
trong cách nhìn và cách cảm về hiện thực cuộc sống. Đặc biệt, truyện

ngắn nữ có thể xem chính là sự kiến tạo tri thức và quyền năng về diễn
ngôn của giới nữ. Tiếng nói, có thể là một vấn đề bình thường, hiển
nhiên đối với đàn ông như đối với phụ nữ nó như “một thân phận và
như một hành động” (Trần Thiện Khanh).
Chương 3
NHỮNG MÔ HÌNH GIAO TIẾP TRONG
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
Với mong muốn đem lại một hướng tiếp cận mới trong việc
luận giải những vấn đề của văn học nữ, chúng tôi cũng bước đầu đặt
truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay dưới góc độ kí hiệu học, xem
xét truyện ngắn nữ như một hình thức giao tiếp đặc biệt của những
người phụ nữ viết văn với con người và cuộc đời.Từ đó, nhận diện đặc
trưng của lối viết nữ thông qua những mô hình giao tiếp và cách thức
giao tiếp của họ trong văn.
3.1. Mô hình giao tiếp với thiên nhiên
3.1.1.Thiên nhiên và dấu ấn văn hóa
Với tư duy nội cảm, những cây bút nữ dường như có thiên
hướng mạnh hơn các tác giả nam trong việc quay về với những gì bình

11


dị, thân thuộc, gắn kết mình với những gì đã đã trở thành một phần máu
thịt, là quê hương xử xở. Họ đem nó vào trong văn tạo nên “thương
hiệu” của người cầm bút. Tiêu biểu theo xu hướng này có Dạ Ngân,
Trần Thùy Mai, Hà Thị Cẩm Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy,
Niê Thanh Mai…Để làm nên cái “hồn cốt” văn hóa của quê hương, xứ
sở, các nữ nhà văn phải đặt thế giới nghệ thuật của mình trên chính
mảnh đất “sản sinh” ra nó, hằn in dấu vết văn hóa trên mọi bình diện từ
cuộc sống đến con người. Và thế giới tự nhiên góp một phần không nhỏ

trong việc tái tạo phông nền văn hóa của tạo vật. Vì thế, thông qua thế
giới tự nhiên, những nhà văn nữ đã làm ẩn hiện dấu tích văn hóa của
một vùng miền.
3.1.2. Thiên nhiên và sự ký thác nỗi niềm của người phụ nữ
Khác với nam giới, thường bộc lộ trực tiếp những suy nghĩ cá
nhân, nữ giới lại có thiên hướng che dấu cảm tình cảm, thể hiện một
cách gián tiếp những suy tư, trăn trở của bản thân qua một “cái khác”
không phải là nó. Vì thế, thiên nhiên trở thành một phương tiện hữu
hiệu để ký thác tâm tư, nỗi niềm của người phụ nữ một cách tinh tế, ý
nhị. Ngoài gió, biển hay sông suối, điều đáng chú ý trong truyện ngắn
của các nhà văn nữ là việc sử dụng một cách phổ biến những cổ mẫu
mang tính biểu tượng như Lửa, Nước, Trăng. Mỗi biểu tượng đều
“chuyên chở” nỗi niềm, khát khao không thành tiếng của những đàn bà.
Thiên nhiên và con người dường như hòa làm một từ trong tâm thức và
bản thể nữ, tạo nên những trang văn vừa thi vị vừa lắng sâu của tình
người.
3.1.3. Thiên nhiên và nỗi bất an sinh thái
Trong truyện ngắn của mình, các nữ nhà văn đã nhận thấy
những nguy cơ của đời sống con người trước sự biến đổi của tự nhiên,
đặc biệt là những thiên tai, thảm họa. Với việc thể hiện nỗi bất an sinh

12


thái, các nhà văn nữ chứng tỏ ý thức trách nhiệm của mình với cộng
đồng, xã hội. Tuy không nhiều cây bút theo đuổi xu hướng này nhưng
các nữ văn sĩ đã đem đến một cách cảm nhận riêng về mối quan hệ giữa
con người với thiên nhiên. Các tác giả nam thường phản ánh con người
mà đặc biệt là người đàn ông như là “tội đồ” trong quan hệ với thiên
nhiên. Họ thống tự nhiên, hủy diệt tự nhiên từ chính tham vọng làm chủ

tự nhiên của mình. Nhưng dưới góc nhìn nữ giới, các nhà văn thường đi
sâu khắc họa số phận của con người đặc biệt là người phụ nữ và trẻ em
dưới sự tác động của thiên nhiên.
3.2. Mô hình giao tiếp với cuộc sống và con người
3.2.1. Tình yêu, hôn nhân, gia đình – những “ánh xạ” của
đời sống hiện thực
Từ góc nhìn khác nhau, các cây bút nữ thường đề cập đến rất
nhiều nguy cơ rạn nứt, đổ vỡ trong đời sống gia đình trước những biến
đổi của thời đại. Mô hình gia đình truyền thống của người Việt với việc
đề cao tình nghĩa phu thê, coi trọng đạo hiếu cũng không chịu được sức
ép của tiền tài, vật chất. Viết nhiều về đề tài gia đình, có lẽ là cách để
các nhà văn gửi gắm yêu thương. Gia đình là nguồn cội, là nguồn động
lực tạo nên sức mạnh của con người. Nếu các cây bút nam thường có
thiên hướng hướng ngòi bút của mình vào các vấn đề xã hội thì những
nhà văn nữ lại xem gia đình chính là cánh cửa để soi chiếu những mối
quan hệ phức tạp của đời sống con người. Ngay từ nền móng cơ bản
trong tình cảm con người là tình yêu, ngay từ đơn vị cơ sở để cấu thành
xã hội là gia đình đã trở nên lung lay, đổ vỡ thì chắc chắn cái hiện thực
rộng lớn của xã hội cũng không thể tốt đẹp hơn. Và vì thế, nếu các nhà
văn nam thường lấy các chuẩn mực xã hội làm tiêu chí để đánh giá con
người thì các nữ văn sĩ lại thường đặt con người trong những phép thử
của trái tim. Phương thức này có thể hạn chế bởi mang nặng tính chủ

13


quan và có phần nhỏ hẹp về phạm vi nhưng nó lại có khả năng đi sâu
vào những gì thật nhất của con người.
3.2.2. Vẻ đẹp thiên tính nữ – giá trị đích thực của đời sống người
Tuy cảm nhận rõ nét sự đổ vỡ của những giá trị nhân sinh, làm

lung lay tận gốc chuẩn mực đạo đức trong đời sống hiện đại nhưng
truyện ngắn của các nhà văn nữ không vì thế trở nên u ám và tối mịt.
Đằng sau những tố cáo, lên án, những băn khoăn lo lắng vẫn ánh lên
niềm tin, sự hy vọng về những giá trị nhân sinh tốt đẹp bắt nguồn từ vẻ
đẹp thiên tính nữ. Viết về chính giới mình nên những người đàn bà viết
văn đã hiểu hơn ai hết giá trị tự thân làm nên những điểm sáng trong tác
phẩm của nữ giới.
Thiên tính nữ được thể hiện trước hết đó là lòng nhân hậu, giàu
trắc ẩn của người phụ nữ. Họ luôn cuối xuống những cảnh đời bất hạnh,
khốn khó dù cuộc đời mình cũng không mấy trọn vẹn. Bên cạnh đó, vẻ
đẹp thiên tính nữ của người phụ nữ còn thể hiện ở sự hy sinh, chở che
cho người khác đặc biệt trong thiên chức làm vợ - làm mẹ...Viết về
người phụ nữ với những vẻ đẹp thiên tính nữ chính là cách các nhà văn
nữ “bảo lưu vô thức” hơi ấm nữ tính như cách nói của nhà nghiên cứu
Nguyễn Đăng Điệp. Dẫu mạnh mẽ, táo bạo hay chủ động, tích cực
nhưng hơn hết người phụ nữ vẫn muốn sống với bản thể của chính
mình. Bảo lưu tính nữ là ưu thế của người đàn bà và có lẽ chỉ như thế
mới bảo lưu giá trị nhân tính của con người và cuộc đời.
3.3. Mô hình giao tiếp với chính mình
Sáng tác đối với người nghệ sĩ chính là quá trình tự khám phá
thực tại và con người. Nó là cách nhà văn giao tiếp với thế giới và con
người nhưng quan trọng hơn nữa là sự giao tiếp với chính mình (Tự
giao tiếp). Việc tự giao tiếp của người nghệ sĩ được thể hiện trên tất cả
các cấp độ, bình diện của tác phẩm nhưng ở đây, chúng tôi tập trung ở

14


hình tượng nhân vật người phụ nữ như một kí hiệu của các nhà văn nữ
trong việc tự biểu hiện chính mình. Bởi hơn ai hết, sáng tác đối với

người phụ nữ chính là sự khám phá cái bản thể sâu sắc của người đàn bà.
3.3.1. Nhân vật người phụ nữ - sự tìm lại chính mình
Trong quá trình giao tiếp với bạn đọc thông qua tác phẩm, một
điều dễ nhận thấy trong truyện ngắn nữ chính là việc xây dựng nhân vật
nữ như là hình tượng trung tâm của giao tiếp văn học. Thông qua các
nhân vật nữ, các nữ văn sĩ đã làm cuộc hành trình đi tìm lại chính mình
trong nhịp sống của thời hiện đại. Thế giới nhân vật nữ được thể hiện
một các phong phú đa dạng với nhiều dạng thức con người khác nhau
trong đời sống hiện đại.
Nhân vật nữ trong cảm thức đầu tiên của các cây bút nữ chính
là những hình ảnh của những con người bị “chấn thương” sâu sắc về
tinh thần. Biểu hiện đầu tiên trong quan niệm về con người chấn thương
trong truyện ngắn nữ, theo chúng tôi là những con người chịu hệ lụy từ
chiến tranh và trong các quan hệ đời sống. Bên cạnh đó, nhân vật nữ
trong truyện ngắn của các tác giả nữ còn là những con người tự ý thức
về cuộc sống và về chính mình. Đặc biệt, nổi bật nhất trong sự tìm lại
chính mình của người phụ nữ chính là sự ý thức một cách rõ nét sự cô
đơn của họ trong cuộc đời. Đây được xem là một trạng thái hiện tồn khá
phổ biến của con người thời hiện đại khi đối diện với quá nhiều áp lực
của cuộc sống cùng sự phân rã trong sợi dây gắn kết giữa người và
người.
Xây dựng nên các nhân vật nữ như những hình tượng trung tâm
của tác phẩm, các nhà văn nữ đã lần lượt thể nghiệm cái tôi của chính
mình trong nhiều dạng thức khác nhau của đời sống. Đó không chỉ là
những con người cụ thể trong hoàn cảnh cụ thể mà là sự khái quát
chung những cuộc đời, những thân phận của người phụ nữ trong cuộc

15



đời. Viết về nhân vật nữ cũng chính là cách các cây bút nữ soi chiếu lại
mình trong bước chuyển của đời sống hiện thực với những tác động lớn
lao đến những người đàn bà.
3.3.2. Nhân vật người phụ nữ - sự đối thoại với chính mình
Khảo sát truyện ngắn nữ, có thể thấy, một trong những thủ pháp
quan trọng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ là việc sử dụng thủ
pháp độc thoại nội tâm. Đó không chỉ là tiếng lòng sâu kín không được
ngoại hiện của những người phụ nữ mà còn chính là sự tỉnh ra, ngộ ra
của nhân vật nữ trước những biến cố, sự kiện trong cuộc đời. Độc thoại
nội tâm vì thế cũng trở thành cuộc đối thoại với chính mình của nhân
vật. Trước hết các cây bút nữ đều đi sâu thể hiện những trăn trở, suy tư,
vướng bận kiểu đàn bà, xoay quanh những vấn đề thường nhật như hôn
nhân, tình yêu, con cái, nhan sắc, những ham muốn vật chất và tinh thần
muôn thuở của con người trong cuộc đời. Thông qua những dòng độc
thoại nội tâm trong truyện ngắn của các cây bút nữ, người đọc cảm nhận
được cái bi, cái ảo trong đời sống thường nhật. Cuộc sống phát triển
hơn nhưng con người đang có nguy cơ ngày càng đánh mất mình trước
những ngụy tạo bản thân. Họ không dám hay không có cơ hội để bộc lộ
mình. Họ cất giấu những suy tư, phiền muộn và những toan tính, so đo
trong thẩm sâu của tâm hồn mình. Bản chất đời sống vì thế càng phức
tạp, và khó nắm bắt trước sự bí ẩn của tâm hồn con người. Lách sâu vào
ngõ ngách của của thế giới đó, nhà văn làm phát lộ những vỉa tầng sâu
kín của hiện thực đời sống.

16


Chương 4
NHỮNG DẠNG THÁI BIỂU HIỆN TRONG
TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY

4.1. Không gian và thời gian nghệ thuật
4.1.1. Không gian nghệ thuật
4.1.1.1. Không gian gia đình, không gian căn phòng – không
gian đời sống tinh thần của người phụ nữ
Với mỗi người phụ nữ, gia đình là nơi chốn để đi về, là không
gian sống thiết thân không thể tách rời. Vì thế, trong phần lớn các
truyện ngắn nữ, không gian gia đình trở thành không gian chủ đạo trong
tác phẩm. Đó không chỉ là không gian sống mà còn là không gian tinh
thần của người phụ nữ, trong đó căn phòng trở thành nơi chốn tập trung
nhất những biểu hiện thế giới nội tâm phức tạp của người đàn bà. Có
thể thấy, sự va đập của xã hội hiện đại đã làm đổ vỡ mô hình gia đình
truyền thống. Không gian gia đình không còn là không gian yên bình
của mỗi con người, đặc biệt là người phụ nữ mà trái lại nó chông chênh,
rệu rạo khiến họ cảm thấy bất an và mỏi mệt. Trong không gian đó, các
nhà văn nữ đặc biệt chú ý không gian căn phòng như là nơi biểu hiện rõ
nét những bất an, những hoài niệm, những suy tư chiêm nghiệm của
người phụ nữ trước con người và cuộc đời. Hầu như nhà văn nào cũng
có những căn phòng gợi sức ám ảnh cao đối với số phận những nhân
vật.
Tạo nên những không gian căn phòng trong tác phẩm, những
cây bút nữ đã xây dựng nên không gian riêng của những người đàn bà.
Họ khác đàn ông ở việc không bày tỏ trực tiếp những ẩn ức tâm hồn mà
chôn sâu nó trong đáy sâu bản thể để tự “gặm nhấm” trong không gian
của riêng mình. Vì thế nếu các tác giả nam thường không khắc họa căn
phòng riêng cho nhân vật của mình thì các nhà văn nữ lại làm nên

17


những căn phòng để độc giả đi sâu vào thế giới nội tâm đa dạng, phức

tạp của người đàn bà.
4.1.1.2. Không gian miền quê, không gian đô thị - không gian
của những “va đập” làm nên sự biến đổi của người phụ nữ
Trong truyện ngắn của các nữ văn sĩ, người ta dễ dàng nhìn
thấy sự đối lập giữa những không gian làm nên sự biến đổi của người
đàn bà, tiêu biểu là hai không gian miền quê và đô thị. Không đi sâu
vào những biến đổi của nông thôn làm nên dự cảm bất an của đời sống
hiện đại như trong tryện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, các
nhà văn nữ thường tạo nên sự “va đập” chuyển dịch không gian làm nên
những sự thay đổi đáng kể cuộc sống của người phụ nữ. Bi kịch của họ
chính là việc nhận thức sâu sắc sự thay đổi của cuộc đời, con người, và
thậm chí là cả sự thay đổi của bản thân nhưng bất lực nên càng bị đẩy
đến những khủng hoảng nặng nề của đời sống tinh thần.
4.1.1.3. Không gian giấc mơ, không gian tâm linh – không gian
của những ẩn ức và khát vọng
Với tư duy hướng nội và duy cảm, người phụ nữ dường như
khó khăn hơn trong việc thể hiện những khát vọng, những ẩn ức của
mình một cách trực tiếp như nam giới. Chính vì thế họ luôn có nhu cầu
bày tỏ, thổ lộ nó trong một không gian khác ngoài hiện thực đời sống.
Đó không gian của giấc mơ hay không gian của đời sống tâm linh nhiều
bí ẩn.
Giấc mơ có thể là những điều không có thật, nhưng những tâm
tư và khát khao của người phụ nữ là có thật. Ở đây, giấc mơ đã trở
thành giải pháp tâm lí của nhân vật đặc biệt là nhân vật nữ. Với không
gian này, các nhà văn nữ đã thể hiện được sự tinh tế, nhạy cảm cũng
như sự thấu hiểu hơn ai hết thế giới nội tâm phức tạp và đầy bí ẩn của
người đàn bà.

18



4.1.2. Thời gian nghệ thuật
4.1.2.1. Sự đối lập giữa thời gian ban ngày và ban đêm
Ngày – đêm, không chỉ là hai thời điểm đối lập trong ngày mà
còn những khoảnh khắc làm nên sự khác biệt trong bản thể nữ. Con
người cá nhân, cá thể của người phụ nữ ở hai thời điểm này dường như
không bao giờ trùng khít. Trong hầu hết các truyện ngắn nữ có thể nhận
ra sự “phân thân” của nhân vật nữ giữa hai mốc thời điểm đêm ngày.
Nếu ngày là “thời gian của người” thì đêm chính là “thời gian của
mình”, được là mình của những người phụ nữ. Đặc biệt, trong cảm thức
thời gian của các tác giả nữ, nếu ngày là thời gian sống của bổn phận và
trách nhiệm thì đêm là đời sống của dục vọng, bản năng, của tiếng gọi
trong vô thức của con người. Rất nhiều những truyện ngắn nữ biểu hiện
hai trạng thái đối cực của những bản thể người trong thời khắc của đêm
và ngày.
Sự đối lập giữa ngày và đêm phù hợp với những chuyển biến
tinh vi, phức tạp trong tâm thức của người đàn bà. Họ khác đàn ông ở
sự bộc lộ một cách trực tiếp ở vẻ ngoại hiện vì thế đêm trở thành thời
gian nghệ thuật gắn với những trĩu nặng tâm tư của con người trên trang
viết của những nhà văn nữ.
4.1.2.2. Sự đồng hiện thời gian giữa quá khứ và hiện tại
Nghiên cứu truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay, có thể
thấy đồng hiện thời gian là một trong những thủ pháp đặc trưng của các
nhà văn nữ. Với tâm hồn nhạy cảm và đa đoan, tâm hồn người phụ nữ
dường như không bao giờ tĩnh tại trước những biến chuyển của đời
sống hiện thực. Họ luôn có nhu cầu soi chiếu các lớp thời gian để lặng
tìm trong đó những quy luật của tình cảm và đời sống. Với thủ pháp
này, nhà văn có thể xáo trộn thời gian theo ý muốn chủ quan mình,
nhân vật có thể thoải mái vận động, suy tư chiêm nghiệm theo nhiều


19


hướng tạo nên mạch kết cấu đan xen giữa không gian ba chiều của hiện
thực.
Thủ pháp đồng hiện đã chứng tỏ mỗi câu chuyện của người đàn
bà bao giờ cũng là sự tự trải nghiệm từ chính bản thân của những người
trong cuộc. Nếu thế giới tâm hồn người phụ nữ là những thực thể bí ẩn
và phức tạp thì thủ pháp đồng hiện là một cách hữu hiệu để soi chiếu
những ánh hồi quang trong tâm thức của người đàn bà. Thế giới tâm
hồn người phụ nữ chưa bao giờ là một đường thẳng tuyến tính mà nó
luôn có những điểm dừng, những khúc quành buộc người đọc phải
nghiền ngẫm, suy tư để lật mở những điều còn ẩn dấu trong góc sâu
thẳm của tâm hồn.
4.2. Diễn ngôn mang đặc trưng giới trong truyện ngắn nữ
Việt Nam từ 1986 đến nay
4.2.1. Diễn ngôn tính dục – tiếng nói khẳng định tự do cá
nhân và nhân vị giới
Sau năm 1986, đề cập đến hiện thực sinh tính dục được xem là
một đột phá của các cây bút nữ. Nếu trước đây, nó là miền ẩn ức, luôn
bị kiềm chế ở văn học giai đoạn trước, thì ở giai đoạn này, các nhà văn
nữ được bung tỏa thể hiện quan điểm của mình một cách mạnh mẽ hơn
và táo bạo. Viết về tính dục được xem là sự khẳng định tự do cá nhân và
nhân vị giới của người đàn bà. Diễn ngôn tính dục trở thành một trong
những diễn ngôn trung tâm của đời sống văn học nữ. Dục tính là tiếng
nói của bản năng của người phụ nữ. Họ mạnh dạn trình bày những
khóai lạc tính dục bằng lớp ngôn ngữ thân thể đặc trưng của giới nữ và
thông qua đó thể hiện tiếng nói nữ quyền cũng như những khao khát
yêu thương trọn vẹn của giới nữ.
Nếu trước đây, người đàn ông và các thiết chế xã hội đã khoác

lên vai người phụ nữ biết bao định kiến thì giờ đây với diễn ngôn tính

20


dục, những người phụ nữ đã từng bước cởi bỏ những sợi dây vô hình đã
từng quấn riết thân phận của những người đàn bà. Giải phóng tính dục
cũng đồng thời là sự giải phóng bản thể của người phụ nữ để họ được là
mình, sống vì mình một cách chân thành và trọn vẹn. Có lẽ do đó mà
truyện ngắn nữ luôn mang lại tinh thần nhân bản và nhân văn sâu sắc
trước cuộc đời và con người
4.2.2. Diễn ngôn mang tính bản thể - tiếng nói khẳng định
bản sắc
Đã có thời kỳ, diễn ngôn của nam giới giữ vị trí thống trị trong
đời sống văn học. Vì thế, để kháng cự tình trạng mất tiếng nói của
người phụ nữ, họ cần phải kiến tạo cho mình một diễn ngôn riêng, diễn
ngôn của nữ giới. Do đó, từ sau năm 1986, trong tác phẩm của mình,
các nhà văn nữ luôn ý thức việc lựa chọn hình thức biểu đạt mang bản
sắc riêng của giới nữ. Diễn ngôn mang tính bản thể xuất hiện như một
sự khẳng định về sự khác biệt trong tiếng nói của nam giới và nữ giới.
Diễn ngôn này đã quy định hoặc chi phối khá lớn trong hình thức biểu
đạt của các cây bút nữ đặc biệt là qua điểm nhìn bên trong, phương thức
trần thuật từ ngôi thứ nhất và một hệ thống ngôn ngữ mang đặc trưng
riêng của giới nữ. Có thể nói, với sự chi phối từ chính những đặc trưng
riêng của người đàn bà, các nhà văn nữ đã kiến tạo được cho mình một
tiếng nói mang bản sắc riêng của nữ giới. Văn chương của các cây bút
nữ vì thế cũng trở nên gần gũi, chân thành như chính cuộc đời họ.

21



KẾT LUẬN
1. Không “ồn ào” như tiểu thuyết hay gây “náo loạn” như các
cuộc trở mình của thơ ca, truyện ngắn nói chung và truyện ngắn nữ nói
riêng đã “âm thầm” làm nên dòng mạch phát triển phong phú, đa dạng
trong nền văn học Việt Nam đương đại. Đó không phải là hiện tượng
“đột khởi” mang tính nhất thời của một giai đoạn văn học mà là sự tiếp
nối, kế thừa một cách bền bĩ của các cây bút nữ trong việc khẳng định
tiếng nói của nữ giới trên văn đàn. Tiếng nói ấy không còn là tiếng nói
nhỏ lẻ của một vài cá nhân mà đã trở thành “lời đồng vọng chung” của
cả một thế hệ những người cầm bút. Truyện ngắn nữ là thành tựu của
một giai đoạn văn chương mang tinh thần dân chủ và đổi mới, là hiện
tượng được cộng hưởng từ tiếng nói nữ quyền của nền văn học trên thế
giới nhưng hơn hết đó là sự trỗi dậy của ý thức cá nhân và bản lĩnh của
những người viết nữ. Văn chương đối với họ là sự khẳng định nhân vị
một cách độc lập mang đặc trưng của giới nữ.
2. Các nhà văn nữ sáng tác văn chương trước hết là để giao tiếp
với đời và người nhưng đồng thời cũng là để giao tiếp với chính mình.
Sáng tác vì thế là quá trình mã hóa kí hiệu của các nữ nhà văn. Trong
mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi thân phận cuộc đời, họ đều có nhu cầu suy
tư, chiêm nghiệm tạo nên những mô hình giao tiếp mang bản sắc riêng
của phụ nữ. Đến với thiên nhiên, họ không chỉ chiêm ngưỡng giao hòa
với vẻ đẹp của tạo hóa mà còn mang vào đó biết bao nỗi niềm của
người phụ nữ, bộc lộ nỗi bất an về sinh thái và cả những dấu tích văn
hóa của một quê hương, một vùng miền. Đối với hiện thực xã hội và
con người, nhà văn nữ dựa vào chính sự mẫn cảm bản năng và đặc
trưng về giới để khám phá những quy luật mang tính bản chất của đời
sống xã hội và con người. Vì thế truyện ngắn của các nhà văn nữ chủ
yếu xoay quanh những vấn đề thường nhật của đời sống người phụ nữ.


22


Hướng vào mình, các nhà văn nữ cũng làm cuộc hành trình tìm lại
chính mình thông qua hình tượng nhân vật nữ. Họ suy tư, chiêm nghiêm
và đối thoại với chính bản thân để hiểu sâu sắc cái bản thể phong phú,
đa dạng nhưng phức tạp của người đàn bà. Cánh cửa giao tiếp của các
nữ văn sĩ tuy không rộng nhưng lại sâu hun hút bởi cái nhìn tinh tế, sự
nghiền ngẫm, chiêm nghiệm của giới nữ. Bằng những mô hình giao tiếp
trong truyện ngắn, của các nhà văn nữ đã tự kiến tạo cho mình một con
đường riêng trong việc chiếm lĩnh thế giới nhân sinh đa sự của con
người.
3. Để kiến tạo thế giới và con người mang nhãn quan của người
nữ giới, các nhà văn nữ đã có những dạng thái biểu hiện riêng, dần dần
xác lập cho mình một lối viết nữ. Lối viết này đã thể hiện một cách
phong phú, đang dạng trong nhiều hình thức nghệ thuật, đặc biệt là ở
cách xây dựng không gian, thời gian nghệ thuật và những diễn ngôn
mang đặc trưng về giới. Các nhà văn nữ thường không có xu hướng bao
quát, khám phá những không gian rộng lớn của xã hội mà hướng ngòi
bút của mình vào không gian đời sống của chính mình và giới mình. Vì
vậy, không gian nghệ thuật trong truyện ngắn nữ không chỉ là không
gian sinh tồn mà còn là không gian đời sống tinh thần, không gian của
những ẩn ức, khát vọng bất thành, của những “va đập” làm nên sự biến
đổi của người phụ nữ. Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn nữ luôn
được đặt trong trạng thái đối lập giữa ngày và đêm, giữa quá khứ và
hiện tại để thể hiện những cái tôi phong phú, phức tạp của người đàn bà.
Thủ pháp đồng hiện thời gian cũng góp phần đi sâu khám phá những
những chiều kích đi về trong tâm hồn người nữ. Có lẽ chưa bao giờ họ
tĩnh tại trước không thời gian mà luôn vận động, biến động để thích
nghi, tồn tại và cả được sống với chính mình, được là mình.


23


×