Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về đạo đức công chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở việt nam hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.46 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KHUYÊN

t­ t­ëng hå chÝ minh vÒ ®¹o ®øc c«ng chøc
vµ vËn dông t­ t­ëng ®ã trong x©y dùng ®¹o ®øc
c«ng chøc ë viÖt nam hiÖn nay

Ngành
Mã số

: Đạo đức học
: 9 22 90 06

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2019


Công trình được hoàn thành tại
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc

Phản biện 1

Phản biện 2

Phản biện 3



Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại Học
viện Khoa học xã hội
Vào hồi

ngày

tháng

năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vĩ đại khi Người bàn về đạo đức và
càng vĩ đại khi Người thực hành đạo đức. Tư tưởng đạo đức và tấm gương
trong sáng của Người là giá trị tinh thần vô giá của các thế hệ người Việt
Nam học tập, noi theo. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức để xây dựng đạo đức công chức hiện nay là một trong những
nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp trồng người của Đảng. Trong đó cán
bộ công chức vừa là đối tượng vừa là chủ thể của quá trình này.
Đội ngũ cán bộ công chức Việt Nam là bộ phận rường cột của hệ
thống chính trị, vì thế, đạo đức của họ góp phần quan trọng, quyết định
khả năng vận hành của bộ máy nhà nước và tạo dựng niềm tin của nhân
dân đối với Đảng, đối với Nhà nước.
Ngay từ năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh

76/SL về quy chế công chức, bước đầu xác định các vấn đề cơ bản về đội
ngũ, vị trí, vai trò, nhiệm vụ và những yêu cầu năng lực, phẩm chất đối với
đội ngũ cán bộ công chức trong xã hội mới.
Từ đó, đội ngũ cán bộ công chức đã phát huy được vai trò của mình
cùng toàn thể nhân dân đẩy mạnh công cuộc kháng chiến - kiến quốc, làm
nên những kỳ tích vẻ vang của dân tộc Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XX.
Bước sang thời kỳ đổi mới, ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng đặc
biệt của đội ngũ công chức trong nền hành chính quốc gia, Nhà nước đã
ban hành Pháp lệnh cán bộ công chức và được Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội thông qua, Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 9 tháng 3 năm 1998,
và sửa đổi năm 2000, 2003. Luật Cán bộ công chức đã được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông
qua ngày 13 tháng 11 năm 2008.
Sau hơn 30 năm đổi mới chúng ta đã xây dựng được đội ngũ cán bộ
công chức vừa có đức, vừa có tài, tư duy năng động và sáng tạo đã hoàn
thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trước một thực tế hiện nay, một bộ
phận cán bộ công chức đã không giữ vững được đạo đức cách mạng, thiếu
ý thức chấp hành pháp luật, thiếu ý thức tự giác học tập đạo đức, từ đó đi
đến độc đoán, chuyên quyền, hách dịch lên mặt "quan cách mạng", tạo bè
1


tạo cánh lợi dụng địa vị, chức quyền để mưu cầu lợi ích riêng. Họ đã trở
thành sâu mọt của dân, vì thế việc xây dựng đạo đức cách mạng, đạo đức
công chức cho đội ngũ này theo tư tưởng Hồ Chí Minh để họ hoàn thành
tốt trách nhiệm của mình trước nhân dân là một yêu cầu bức thiết. Hơn
nữa, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây
dựng đội ngũ này không chỉ xuất phát từ sự suy thoái đạo đức lối sống của
một bộ phận cán bộ công chức hiện nay mà còn định hướng phát triển lâu
dài trong tương lai với tầm nhìn, hành động, chiến lược.

Sự nghiệp đổi mới đất nước đang đi vào chiều sau, yêu cầu cải
cách hành chính và rộng hơn là yêu cầu đổi mới chính trị đòi phải có
được đội ngũ công chức phát triển toàn diện vừa "hồng" vừa "chuyên",
nhân cách phong phú, đáp ứng được yêu cầu hết sức nặng nề nhưng hết
sức vẻ vang mà đất nước đang đặt lên vai họ. Ở đây, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức công chức là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận,
là kim chỉ nam định hướng trong công tác xây dựng đạo đức công chức
ở Việt Nam hiện nay.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong
đó đặc biệt là tư tưởng đạo đức của Người là điều cần thiết, ở đó có những
giá trị đạo đức mà cán bộ, công chức hiện nay nên biết tới, học tập và vận
dụng trong việc lựa chọn quan điểm sống và phong cách sống của mình.
Người cán bộ công chức phải luôn là một gương sáng về đạo đức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát đạo đức ấy ở 8 chữ "cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư". Mỗi cán bộ nếu nhận thức đúng vị trí của mình,
giữ đúng phẩm chất cách mạng và chuẩn mực đạo đức sẽ làm cho bộ
máy tổ chức luôn có được sự trong sạch, đoàn kết, vững mạnh, ở đó
không có chỗ để những quốc nạn như quan liệu, tham nhũng, lãng phí có
thể tồn tại.
Với những lý do trên, việc nghiên cứu về đạo đức công chức nói
chung và việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng đạo
đức công chức trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa cả về mặt lý luận và
thực tiễn. Chính vì vậy, tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài "Tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức công chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây
dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ
Triết học của mình.
2


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ tầm quan trọng và thực trạng vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức công chức ở Việt Nam. Luận án đưa ra một số
giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt
Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, luận
án đã khái quát tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức.
Thứ hai, làm rõ một số nội dung cơ bản xung quanh tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức công chức.
Thứ ba, phân tích thực trạng việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện
nay và nguyên nhân của thực trạng đó.
Thứ tư, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của
việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng
đạo đức công chức ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: đối tượng nghiên cứu là tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức
ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận án nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay.
+ Thời gian khảo sát tính từ năm 1986 đến nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối của Đảng cộng sản
Việt Nam về đạo đức, công chức và đạo đức công chức. Đồng thời luận án

có kế thừa một số thành tựu của các công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học có liên quan đến luận án.
3


Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp luận
chung nhất của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, phân tích và tổng
hợp, lịch sử và logic, thống kê, đối chiếu, so sánh… ngoài ra luận án còn
sử dụng kết quả nghiên cứu điều tra xã hội học của các công trình đã công
bố liên quan đến đề tài.
5. Cái mới của luận án
- Luận án góp phần làm rõ cơ sở hình thành, nội dung và giá trị lý
luận, ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức.
- Luận án chỉ ra thực trạng xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam
hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo
đức công chức hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần nâng cao việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công chức ở nước ta hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của nền hành chính nhà nước.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy vấn đề liên quan đến tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức công chức, xây dựng đạo đức công chức theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận án gồm 4 chương, 14 tiết.

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công chức
Ở nước ta, trong thời gian vừa qua có nhiều công trình nghiên cứu của
các nhà khoa học, các nhà quản lý liên quan đến vấn đền này. Điển hình
4


phải kể đến các công trình nghiên cứu sau: Tác giả Đức Vượng: "Hồ Chí
Minh với vấn đề đào tạo cán bộ" Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995; Đại
tướng Võ Nguyên Giáp (1997) "Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tác giả Trần Văn Phòng
(2003), Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 5; Tác giả Thành Duy và Lê Quý Đức (2007)
"Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - Xây dựng nền văn hóa ở nước
ta hiện nay", Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội; Tác giả Hoàng Trung (2010)
"Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh qua các phạm trù mà Người sử dụng",
Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh; Tác giả Nguyễn Đăng
Thành, Võ Kim Sơn (chủ biên, 2012) giáo trình "Đạo đức công vụ" Nxb
Lao động, Hà Nội; Tác giả Vũ Khiêu (2014) "Học tập đạo đức Bác Hồ",
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tác giả Nguyễn Thị Kim Dung, "Quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử dụng cán bộ" Tạp chí Lý luận chính
trị số 6-2013.
Bên cạnh các công trình trên, một số văn bản pháp luật cũng quy định
phẩm chất, đạo đức đối với người cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức người cán bộ, người công chức như: Luật Cán bộ, công
chức năm 2008 là văn bản pháp luật cao nhất liên quan đến Cán bộ, công
chức. Trong Luật quy định một số nội dung có tính định hướng về cách

ứng xử của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ.
Như vậy, các công trình trên đã nghiên cứu đạo đức công chức ở
những khía cạnh khác nhau nhằm góp phần giải quyết những vấn đề cấp
thiết của thực tiễn đạo đức công chức trong nền công vụ Việt Nam và
góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn của đạo đức công
chức ở nước ta hiện nay. Những công trình này ở một mức độ nhất định
đã đề cập đến một số phương diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức. Những công trình đó đã gợi mở cho tôi nhiều ý tưởng quan
trọng, đồng thời là nguồn tư liệu quý báu trong quá trình tôi thực hiện đề
tài của mình. Tuy nhiên, những công trình trên do khuôn khổ và mục đích
riêng, chưa làm sáng tỏ được tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức,
cũng như chưa vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức
trong xây dựng đạo đức công chức trong điều kiện hiện nay.
5


1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức
công chức ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới phát triển kinh tế xã hội của đất nước, vấn đề văn hóa, tư tưởng, đạo đức, đạo đức công chức
cũng được quan tâm cả trên lĩnh vực lý luận lẫn thực tiễn. Điển hình là các
công trình nghiên cứu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức: Cuốn sách "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ và công
tác cán bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1997; Tác giả Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên, 1999) "Sự biến đổi thang
giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới
chi cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên, 2003),
"Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường", Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội; Tác giả Bùi Thế Vĩnh (chủ biên), (2003) "Xây dựng đạo

đức cán bộ, công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế" Nxb Thống kê, Hà Nội; Tác giả Nguyễn
Trọng Điều (2003)"Nâng cao phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ công
chức đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí cộng sản, số 18;
Tác giả Lương Đình Hải (2004), "Mấy vấn đề về phẩm chất đạo đức của
cán bộ, Đảng viên trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Triết học, số 5; Tác giả
Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên) (2005) "Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính
trị hiện nay. Thực trạng và giải pháp" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Tác giả Trần Đình Huỳnh (2005) "Hồ Chí Minh kiến trúc sư lỗi lạc của
nền hành chính nhà nước Việt Nam", Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội;
Luận văn thạc sỹ của tác giả Phan Kiều Thanh Hương (2010), "Đạo đức
công vụ trong hoạt động quản lý nhà nước ở Thành phố Hồ Chí Minh";
Tác giả Nguyễn Thế Kiệt (2011)"Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc
nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện
nay", Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội; Tác giả Trần Đình Thắng
"xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn với việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng", Tạp chí Tổ chức nhà nước số 4/2012; Luận án
Tiến sĩ Triết học "Trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức ở nước ta hiện
nay" (2012) tác giả Cao Minh Công; Luận án Tiến sĩ triết học "Đạo đức công
6


chức và vấn đề xây dựng đạo đức công chức trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay" của Lê Thị Hằng (2014); Luận án tiến sĩ Triết học "Vấn
đề kế thừa, phát triển một số phạm trù cơ bản của đạo đức Nho giáo trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh" của Nguyễn Thị Hồng Doan (2015).
Trong các công trình trên, các tác giả đã đưa ra những chuẩn mực đạo
đức, những nguyên tắc và yêu cầu đạo đức cách mạng của cán bộ, lãnh đạo
quản lý. Các tác giả cũng thống nhất khi luận giải việc giáo dục đạo đức nói
chung và giáo dục đạo đức cách mạng nói riêng phải trên cơ sở của môi

trường kinh tế, văn hoá xã hội nhất định. Từ đó đưa ra những giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay.
Như vậy, trong các công trình nêu trên, với những mục đích và phạm
vi khác nhau các tác giả đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến thực trạng
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo đức công chức. Đánh
giá thực trạng, các tác giả đã phân tích những hoạt động nghiên cứu, hệ
thống hóa các yêu cầu, các chuẩn mục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
và việc vận dụng các yêu cầu, các chuẩn mục đó trong xây dựng các chuẩn
mực cũng như thực hiện các chuẩn mực đạo đức của công chức trong điều
kiện hiện nay. Đồng thời, các tác giả cũng phân tích quá trình cải cách
hành chính nhằm hướng tới một nền hành chính với những công chức,
viên chức thực sự là công bộc của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên, những đánh giá đó còn tản mạn, chưa hệ thống và chưa mang
tính chất toàn diện.
1.3. Những nghiên cứu liên quan đến giải pháp nâng cao hiệu quả
của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong
xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay
Tác giả Thang Văn Phúc (2000), Nâng cao chất lượng công tác giáo
dục đạo đức cộng sản trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước", Tạp
chí Cộng sản, số 11; Nhóm tác giả Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị
Kim Thảo (2002) "Đạo đức trong nền công vụ" Nhà xuất bản Lao động Xã hội, Hà Nội; Tác giả Nguyễn Hữu Khiển (2003), Đạo đức công vụ và
vấn đề nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta
hiện nay, Tạp chí Triết học, số 10; Tác giả Đào Duy Quát (chủ biên, 2004)
"Về giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ Đảng viên hiện nay, thực
trạng và giải pháp", Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội; Tác giả
7


Nguyễn Duy Quý (chủ biên), "Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề
và giải pháp" của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam do Nhà xuất bản Chính

trị quốc gia xuất bản năm 2006; Tác giả Lê Thị Hằng "Vấn đề nâng cao
đạo đức công chức trong cải cách hành chính ở nước ta hiện nay" đăng
trên tạp chí Triết học, số 6, tháng 6 -2009; Tác giả Trần Sĩ Phán: "Mấy vấn
đề đạo đức người cán bộ, đảng viên trong văn kiện Đại hội X của
Đảng", Tạp chí Triết học số 5 - 2008, tr3-7; Tác giả Ngô Thành Can:
"Xây dựng tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ công chức", Tạp chí
Tổ chức nhà nước, (4- 2010), tr.39 - 40; Tác giả Nguyễn Tiến Trung "Vài
nét về đạo đức công vụ của cán bộ, công chức", Tạp chí Tổ chức Nhà
nước số 8/2010; Tác giả Lê Đình Mùi "Giải pháp thực hiện pháp luật về
đạo đức công chức trong giai đoạn hiện nay" đăng trên tạp chí Tổ chức
Nhà nước số 3/ 2012; Tác giả Đỗ Xuân Tuất, "Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên với cuộc vận động xây
dựng, chỉnh đốn đảng hiện nay" Tạp chí lý luận chính trị số 7/2012; Tác
giả Cao Minh Công "Một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức công chức
trong thực thi công vụ ở Việt Nam hiện nay"- Hội thảo khoa học, Học viện
Hành chính tháng 12/2013; Nguyễn Thị Hoài Phương (2014) "Tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong
giai đoạn hiện nay" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tác giả Trần Thị Anh
Đào (2016) "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và
những biểu hiện "tự diễn biến" , "tự chuyển hóa" trong nội bộ - thực trạng
và giải pháp"; Tác giả Trần Đình Huỳnh (2016), "Đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng để góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" trong nội bộ - thực trạng và giải pháp";
Các công trình trên đã trình bày ở những khía cạnh khác nhau về
phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức công chức. Đây là cơ sở thuận lợi cho nghiên cứu sinh kế
thừa trong quá trình thực hiện đề tài.
1.4. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục

làm rõ trong luận án
Tổng kết các công trình của các tác giả về nội dung này:
8


Thứ nhất, các công trình nghiên cứu trên đây đã phân tích, đề cập
nhiều khía cạnh khác nhau liên quan tới đạo đức công chức, chuẩn mực
đạo đức công chức.
Thứ hai, luận giải một số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công chức như là luận cứ khoa học cho việc xây dựng những
chuẩn mực đạo đức của đội ngũ công chức ở nước ta.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp quan
trọng khi khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo
đức cho đội ngũ công chức hiện nay là yêu cầu bức bách cả trên phương
diện lý luận và thực tiễn.
Dựa trên những tư liệu hiện có để tập trung nghiên cứu một cách có hệ
thống và trực tiếp Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức và vận
dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay,
tác giả sẽ sẽ tiếp tục đi sâu vào giải quyết một số vấn đề sau dưới góc độ
triết học:
Thứ nhất, làm rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức;
những nội dung, nguyên tắc, giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, luận án xác định và phân tích những nhân tố tác động đến sự
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo
đức công chức ở Việt Nam hiện nay; đồng thời đánh giá thực trạng vận
dụng đó.
Thứ ba, luận án xác định một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao

hiệu quả của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức
trong xây dựng đạo đức công chức ở nước ta hiện nay.
Chương 2
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC
2.1. Khái niệm đạo đức, đạo đức công chức, đạo đức công chức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1.1. Khái niệm đạo đức
Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, đạo đức là toàn bộ tư tưởng,
quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá
9


cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội,
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, truyền thống và sức mạnh của
dư luận xã hội.
2.1.2. Công chức, đạo đức công chức, xây dựng đạo đức công chức
Công chức là một bộ phận quan trọng của nền hành chính quốc gia,
bộ phận này như là xương sống của một cơ thể, vì vậy các quốc gia trên
thế giới đều quan tâm xây dựng đội ngũ công chức vững mạnh về mọi mặt.
Hoạt động của công chức ngày càng tỏ rõ vai trò to lớn ở cả tầm quốc gia
và quốc tế. Chính vì vậy, nhiều quốc gia quan niệm, công chức là những
người được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được quy định bởi những
quy chế hoặc luật công chức, là những người làm việc trong hệ thống
chính quyền nhà nước.
Như vậy, có thể thấy rằng, công chức là bộ phận quan trọng của hệ
thống chính trị bao gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào các
chức vụ, chức danh, ngạch, bậc trong biên chế nhà nước hoặc được giao
giữ một công việc thường xuyên, làm trong cơ quan hành chính nhà nước
các cấp, đảm bảo chức năng quản lý hành chính và được hưởng lương từ
ngân sách nhà nước.

Đạo đức công chức là một dạng đặc biệt của đạo đức nghề nghiệp. Ở
đây đạo đức nghề nghiệp là dạng đặc thù của đạo đức xã hội, nó ra đời
cùng với sự phát triển của một nghề nhất định. Đạo đức nghề nghiệp là hệ
thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức của một nghề cụ thể,
trên cơ sở đó mà các thành viên của ngành nghề đó tự đánh giá, điều
chỉnh hành vi của bản thân cho phù hợp với nhu cầu của lợi ích, mục đích
của sự tiến bộ xã hội.
Xây dựng đạo đức là quá trình tác động có tính tích cực, có mục tiêu,
có kế hoạch với hình thức đa dạng bằng nhiều con đường của chủ thể tới
đối tượng nhằm giúp họ thấm nhuần tự giác một cách toàn bộ phẩm chất
đạo đức, hướng tới các quá trình hoàn thiện xã hội và con người mang tính
dân tộc và nhân văn.
Từ đây có thể hiểu đạo đức công chức cũng là quá trình tác động tích
cực có mục tiêu có kế vơi hình thức đa dạng bằng nhiều con đường của
chủ thể tới công chức nhằm giúp họ thấm nhuần tự giác một cách toàn bộ
10


phẩm chất đạo đức công chức trong thực thi công vụ hướng tới các quá
trình hoàn thiện xã hội và con người mang tính dân tộc và nhân văn.
2.1.3. Đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh không dùng thuật ngữ "đạo đức cán bộ, công
chức" mà sử dụng thuật ngữ đạo đức cách mạng, "đạo đức cách mạng" để
chỉ đạo đức của người đi làm cách mạng. Đạo đức cách mạng thực chất là
đạo đức của thời đại mới, đạo đức của những người phụng sự cho sự
nghiệp cách mạng. Đạo đức cách mạng của người cán bộ chỉ được biểu
hiện thông qua hành vi hoạt động của họ vì sự nghiệp chung của nhà nước,
của quốc gia, dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, "Người làm cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang". Điều đó

không có nghĩa là Hồ Chí Minh coi nhẹ phẩm chất chính trị, phẩm chất
chuyên môn của người cách mạng, mà đây là những tiêu chí phải có ở
người cách mạng, phải vừa hồng vừa chuyên. Người đã từng nói: có đức
mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức thì vô
dụng. Đạo đức công chức có ảnh hưởng lớn tới đạo đức của các đối tượng
khác trong xã hội, tới mọi mặt đời sống của xã hội, cơ quan, tổ chức. Đạo
đức công chức là tấm gương phản chiếu đời sống nhà nước, chế độ công
vụ của một quốc gia trong những thời đại nhất định.
Đạo đức công chức còn biểu hiện trong quan hệ giữa các công chức
với nhau, trong quan hệ giữa công chức với nhân dân, trong thực hiện mục
tiêu lý tưởng của bản thân mỗi công chức. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì
người công chức có phẩm chất đạo đức tốt phải luôn là tấm gương về lòng
trung thực, dũng cảm, liêm chính, phải đặt lợi ích của quốc gia, của nhân
dân trên lợi ích của cá nhân. Người công chức phải luôn đặt mục tiêu, lý
tưởng, sống, làm việc, học tập để phụng sự nhân dân, phụng sự tổ quốc,
luôn phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh.
2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức
2.2.1. Cơ sở thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rằng: cán bộ là gốc của mọi công việc,
trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, việc chăm lo xây dựng đội ngũ công chức có đủ trình độ, năng lực,
11


phẩm chất để hoàn thành nhiệm vụ là một yêu cầu tất yếu. Đội ngũ này
phải vừa có chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, vừa giác ngộ chính
trị và có tinh thần trách nhiệm, tận tụy, công tâm, có đạo đức liêm khiết
khi thi hành công vụ.
2.2.2. Tiền đề lý luận

Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng, danh nhân văn hóa thế giới, là tấm
gương đạo đức trong sáng của dân tộc ta. Do đó, nghiên cứu tư tưởng đạo
đức của Người không chỉ thông qua các tác phẩm mà phải thông qua chính
những hoạt động thực tiễn của Người. Sự thống nhất giữa tư tưởng đạo
đức và hành vi cách mạng, giữa lý luận nhận thức và thực tiễn đã trở thành
nét đặc trưng nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.3. Nội dung cơ bản của đạo đức công chức và những nguyên
tắc xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2.3.1. Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức
Một là, trung với nước, hiếu với dân.
Hai là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Ba là, có trách nhiệm cao với công việc và tinh thần thái độ làm việc
đúng mực.
Bốn là, giữ vững tính nguyên tắc và tuyệt đối chấp hành kỷ luật.
Năm là, có tinh thần hợp tác với đồng nghiệp và những người có liên
quan trong thực thi công vụ.
Sáu là, làm việc với tinh thần sáng tạo.
2.3.2. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức công chức theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
Xây dựng đạo đức công chức thực chất là quá trình tác động có tính
hướng đích, có tính tích cực và có kế hoạch với hình thức đa dạng, phong
phú của chủ thể tới công chức giúp họ thấm nhuần một cách tự giác toàn
bộ những phẩm chất đạo đức công chức trong thực thi công vụ
Xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh là quá trình
tác động có tính hướng đích, tích cực với hình thức đa dạng, phong phú
của chủ thể tới công chức giúp họ thấm nhuần một cách tự giác toàn bộ
những phẩm chất đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong
việc xây dựng đạo đức nhằm phục vụ Đảng, Tổ quốc, nhân dân.
12



Chủ thể xây dựng ở đây là Đảng, Nhà nước, nhân dân, cơ sở giáo
dục, cơ quan, đơn vị và chính bản thân công chức hiện nay
Đối tượng xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
là cán bộ công chức ở Việt Nam hiện nay. (ở đây cán bộ công chức vừa
với tư cách là đối tượng, vừa với tư cách là chủ thể). Từ quan điểm xây
dựng đạo đức cách mạng, đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
có thể khái quát những nguyên tắc cơ bản đạo đức công chức cho đội ngũ
công chức như sau:
Một là, nói đi đôi với làm và phải nêu gương về đạo đức
Hai là, xây đi đôi với chống và phải tạo thành phong trào quần chúng
rộng rãi
Ba là, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời
2.4. Giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức công chức
Thứ nhất; tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức góp phần định
hướng trong quá trinhg xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai; tư tưởng hồ Chí Minh về đạo đức công chức góp phần tạo
động lực tinh thần khuyến khích đội ngũ công chức rèn luyện, tu dưỡng,
xây dựng đạo đức cách mạng của mình.
Thứ ba; Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức là cơ sở giúp
đội ngũ công chức đứng vững trước tác động mặt trái của kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế và sự chống phá của các thế lực thù địch.
Kết luận chương 2
Đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vĩ đại khi Người bàn về
đạo đức và càng vĩ đại khi Người thực hành về đạo đức. Tư tưởng đạo đức
và tấm gương trong sáng của Người là tài sản vô giá để các thế hệ người
Việt Nam học tập và noi gương.
Trong giai đoạn hiện nay, do đòi hỏi của yêu cầu của thực tiễn nên

mỗi cán bộ, công chức không chỉ tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách
mạng mà cần xây dựng đạo đức nghề nghiệp. Trong quá trình xây dựng
đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi phải gắn với rèn luyện phẩm chất chính trị, tri
thức cũng như các năng lực nghề nghiệp cần thiết khác. Thấm nhuần tư
tưởng, tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vận dụng tư tưởng
13


của Người về đạo đức công chức mỗi cán bộ, công chức vì nhiệm vụ của
mình với quốc gia, dân tộc, với chính bản thân mình phải học tập và tu
dưỡng suốt đời, phải hàng ngày học tập và tích lũy tri thức và kinh
nghiệm, không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng. Học tập và rèn luyện
thường xuyên, phải bền bỉ, kiên trì và học tập trên mọi lĩnh vực phải có
đạo đức, có lương tâm nghề nghiệp, phải thực sự trung thực, tôn trọng
pháp luật và kỷ luật lao động trong nghề nghiệp.
Thực tiễn đã chững minh, do không tu dưỡng, rèn luyện lâu dài bền
bỉ nên có những người trong lúc đấu tranh thì hăng hái, trung thành, không
sơ nguy hiểm, không sợ khổ cực, không sợ quân địch, nhưng đến khi có ít
quyền hạn trong tay lại kiêu căng, xa xỉ phạm vào tham ô, lãng phí thậm
chí còn biến mình thành người có tội với đảng với nhân dân. Chính vì lẽ
đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách
mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm, trách
nhiệm của mỗi người cán bộ, công chức.
Để thực hiện đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh mỗi cán
bộ công chức nói phải đi đôi với làm, đã nói đến việc tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức cách mạng thì bản thân không được tự cao, tự đại, tự mãn hay
kiêu ngạo mà phải luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát
triển điều hay, sửa chữa điều chưa tốt ở bản thân... còn đối với người khác
phải luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa
lọc. Thực hiện tốt phê bình và tự phê bình, đây là vũ khí sắc bén nhất trong

xây dựng và rèn luyện đạo đức của người cán bộ, công chức. Thông qua
việc phê bình chúng ta nhận được đâu là ưu điểm, khuyết điểm của mình,
cũng như của người khác để từ đó mỗi người cố gắng sửa chữa thì khuyết
điểm ngày càng bớt đi, ưu điểm ngày càng nhiều thêm, đảng viên và cán
bộ ngày càng trở nên chân chính cách mạng.
Công cuộc đổi mới ngày nay của chúng ta không chỉ làm ra và đem
lại cho con người những điều mong muốn, mà chủ yếu là khơi dậy trong
con người lòng tự hào, niềm tin, ý chí, bản lĩnh chính trị, nhiệt tình cách
mạng, tài năng để tự mình làm ra tất cả. Chính việc không ngừng học tập
rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức công chức của người cán bộ công
chức theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh sẽ góp phần không nhỏ trong
quá trình này và tự khẳng định mình trong công cuộc đổi mới hiện nay.
14


Chương 3
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG
CHỨC TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
3.1. Những nhân tố chủ yếu tác động đến việc vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức
hiện nay
3.1.1. Nhân tố khách quan
- Tác động tích cực của kinh tế thị trường đến việc vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo đức công chức.
- Tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đến việc vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo đức công chức.
3.1.2. Nhân tố chủ quan
Một là, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo đức công chức

Hai là, việc xây dựng đạo đức công chức phụ thuộc vào nỗ lực của
chính đội ngũ công chức trong rèn luyện, phấn đấu xây dựng đạo đức
công vụ.
3.2. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Những thành tựu đạt được trong việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh trong xây dựng đạo đức công chức và nguyên nhân của nó
- Thành tựu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức
trong công tác giáo dục đạo đức công chức.
- Thành tựu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức
được thể hiện trong các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức.
- Thành tựu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức trong việc tạo động lực, khuyến khích cán bộ, công chức.
- Thành tựu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức trong thực thi công vụ của bản thân đội ngũ công chức.
* Nguyên nhân của những thành tựu
Một là, Bộ Chính trị, Ban Bí thư có sự thống nhất cao và quan tâm
đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai cuộc vận động.
15


Hai là, sự tích cực, chủ động, sáng tạo của các ngành, địa phương,
đoàn thể trong việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức.
Ba là, sự tích cực, tự giác của cán bộ, công chức, đảng viên, nhân
dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội.
3.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân trong việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay
- Một số hạn chế của vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức trong công tác giáo dục đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay.
- Một số hạn chế việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

công chức thể hiện trong các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức.
- Một số hạn chế của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức trong việc tạo động lực, khuyến khích công chức.
- Một số hạn chế của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức trong bản thân mỗi cán bộ, công chức.
* Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất; cơ chế kinh tế thị trường khách quan khuyến khích lợi ích
vật chất, lợi ích cá nhân, nên tác động mạnh đến đạo đức, lối sống trên
nhiều lĩnh vực, cả những lĩnh vực nhạy cảm, như y tế, giáo dục, quan hệ
gia đình, thậm chí cả hoạt động nhân đạo, từ thiện...
Thứ hai; sự yếu kém của quản lý kinh tế, xã hội là nguyên nhân
khách quan dẫn tới hạn chế của cuộc vận động. Những sơ hở trong quản lý
kinh tế, xã hội, tài sản, ngân sách nhà nước… hiện nay là môi trường
khách quan có thể làm nảy sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhũng
nhiễu nhân dân trong cán bộ, công chức, dẫn tới suy thoái về đạo đức, lối
sống trong những người có chức, có quyền.
Thứ ba; tác động khách quan của quá trình toàn cầu hoá và chiến
lược diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch.
Thứ tư; công tác quản lý nhân sự chưa thực sự đổi mới.
Thứ năm; chưa thực sự coi trọng công tác kiểm tra, đánh giá thực thi
công vụ của công chức.
Kết luận chương 3
Qua việc phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện
nay, có thể rút ra một số kết luận sau:
16


Cùng với phát triển kinh tế thị trường, việc xây dựng các giá trị đạo
đức trong xã hội đang trở thành mối quan tâm của nhiều quốc gia, dân tộc.

Giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc chính là làm
phong phú nội dung của các giá trị đạo đức truyền thống ấy trong thời đại
mới, đem sức mạnh đó phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Do vậy, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nói chung và
đạo đức công chức nói riêng trong việc xây dựng đạo đức công chức ở
Việt Nam hiện nay là một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong
xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam thời kỳ đổi mới đã đạt được
nhiều thành tựu về nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức; về phát huy dân chủ, cải cách hành chính; về sự nỗ lực
phấn đấu của mỗi cán bộ, công chức... Bên cạnh những thành tựu đó,
quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong
xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới cũng
mắc phải không ít hạn chế
Những thành tựu đạt được trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt
Nam thời kỳ đổi mới có nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm cả khách
quan và chủ quan. Những hạn chế, yếu kém trong việc vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở
Việt Nam là không thể tránh khỏi. Thực tế cho thấy, nếu kết hợp hài hoà
các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại trên cơ sở giữ những gì là
tinh hoa, loại trừ dần các yếu tố lỗi thời, tăng cường giao lưu với các
nước thì sẽ vượt qua được những thách thức, thực hiện mục tiêu đổi mới
nền công vụ nước ta ngày càng tốt hơn trên cơ sở và vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở
Việt Nam.

17



Chương 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG
CHỨC TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
4.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức vị trí
tầm quan trọng, nội dung của giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
về công chức cho đội ngũ công chức hiện nay
4.1.1. Về mặt nhận thức
Thứ nhất, tự giác, tích cực học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo
tấm gương đạo đức, lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ hai, thường xuyên xây dựng ý thức, trách nhiệm, thái độ và
phương pháp học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh cho cán bộ, công chức trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ.
4.1.2. Về mặt tổ chức thực hiện
Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là việc làm tất yếu và cần thiết đối với
mỗi tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, quần chúng. Việc
học tập phải được tiến hành tập trung, thống nhất từ trên xuống, vừa có
tính kế hoạch nhưng cũng bảo đảm tính sáng tạo. Những giải pháp đưa ra
phải sát với đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị và
phù hợp với thực lực của cán bộ, đảng viên, quần chúng. Để thực hiện tốt
việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, cần thực hiện tốt
các giải pháp sau:
Một là, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức
cho cán bộ, đảng viên, công chức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng, mục
đích, yêu cầu nội dung, của Chỉ thị 05 - CT/TW.
Hai là, tiếp tục phát huy cao độ vai trò của hệ thống tổ chức, cấp ủy
và lãnh đạo các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện

Ba là, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, phương pháp trong
thực hiện đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh
18


Bốn là, đề ra những nội dung học tập cụ thể, thiết thực về tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cơ quan, đơn vị mình, gắn với
chức trách, nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức.
Năm là, thông qua đợt học tập, sinh hoạt chính trị, cần phải tiến hành
tổng kết và nhân rộng những điển hình tiên tiến trong các cơ quan, đơn vị
về việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí
Minh; kết hợp chặt chẽ giữa xây đi đôi với chống.
4.2. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, cải cách, tinh
giảm, làm trong sạch bộ máy công chức hiện nay
Trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, khắc
phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên hiện nay, vai trò của cơ chế, chính sách, pháp luật là rất quan trọng.
Cần tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, gắn với tăng cường tính
nghiêm minh của kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước.
Cải cách hành chính là nhằm bảo đảm quá trình hiện thực hoá quyền
lực Nhà nước luôn đúng bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa; để người dân thực sự thực hiện quyền làm chủ của mình trong hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Mỗi công chức trong bộ máy hành chính
nhà nước phải thực sự là "công bộc" của dân. Công chức thực hiện trách
nhiệm của mình với nhân dân cũng là thực hiện trách nhiệm của Đảng, của
Chính phủ với nhân dân.
Nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác

cải cách hành chính ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, chính quyền địa phương các cấp. Đồng thời, có chế độ, chính sách
hợp lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức chuyên trách làm công tác cải
cách hành chính các cấp.
Xây dựng bộ chỉ số theo dõi, đánh giá cải cách hành chính ở các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương. Quy định kết quả thực hiện cải cách hành chính là
tiêu chí để đánh giá công tác thi đua, khen thưởng và bổ nhiệm cán bộ, công
chức, viên chức.
19


Phát triển đồng bộ và song hành, tương hỗ ứng dụng công nghệ
thông tin - truyền thông với cải cách hành chính nhằm nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp dịch vụ
công, của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ, của tổ
chức, cá nhân tham gia vào công tác cải cách hành chính và giám sát chất
lượng thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
4.3. Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ
công dân, tham gia quản lí xã hội của nhân dân; tăng cường vai trò
giám sát phản biện của các tổ chức xã hội và nhân dân đối với hoạt
động của bộ máy hành chính các cấp
Thứ nhât; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng,
phát huy vai trò giám sát của tổ chức quần chúng nhân dân trong thực hiện
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Thứ hai; tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, củng cố mối
quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân
4.4. Nâng cao tính tự giác học tập và rèn luyện tu dưỡng đạo đức
cách mạng cho đội ngũ công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh
4.4.1. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi công chức

tự rèn luyện phấn đấu nâng cao đạo đức trong thực thi công vụ (khen
thưởng, chế độ lương và các phụ cấp thích đáng)
Tạo môi trường xã hội lành mạnh, điều kiện làm việc tốt nhất và chế
độ đãi ngộ công chức thoả đáng để thu hút người có tài, đức. Công việc do
công chức đảm nhận đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo môi trường
xã hội thích ứng cho sự phát triển của đất nước cũng như phúc lợi của
nhân dân.
Đặc biệt, phải có cơ chế đánh giá đúng năng lực, phẩm chất cá nhân
của công chức. Điều đó không chỉ tạo tiền đề cho việc sử dụng đúng người
đúng việc mà còn khuyến khích được người tài, người giỏi phát huy năng
lực đóng góp cho cơ quan đơn vị, qua đó đóng góp cho Nhà nước và xã
hội. Thực tế ở đâu dùng người theo "bè cánh" hoặc con cháu, người thân
họ hàng, không tính tới năng lực của họ, tất sẽ gây rối loạn bất bình, nội bộ
cơ quan sẽ mất đoàn kết.
Việc cải cách cơ bản hệ thống thang, bảng, ngạch, bậc lương công
chức phải chú trọng đến kết quả đầu ra của hoạt động công vụ; phân biệt
20


rõ đặc điểm, tính chất của từng loại hình công vụ; đơn giản, dễ hiểu, dễ áp
dụng. Có thực hiện tốt nguyên tắc này thì tiền lương mới thực sự có tác
dụng thúc đẩy công chức phấn đấu nâng cao năng lực thực thi công vụ hơn
là chỉ phấn đấu để có bằng cấp cao nhưng chất lượng, hiệu quả thực hiện
nhiệm vụ lại yếu kém.
Cùng với chính sách tiền lương hợp lý, cần xây dựng chế độ tiền
thưởng thường xuyên và đột xuất thỏa đáng, đối với công chức hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ; đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan, đơn vị trong việc quyết định chi tiền thưởng cho công chức dưới
quyền. Chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính nhưng chỉ làm được việc
của chuyên viên, chỉ được hưởng lương chuyên viên và ngược lại? Do đó,

tất yếu phải xây dựng cơ cấu công chức của nền công vụ theo vị trí công
việc, mỗi loại vị trí công việc tương ứng với một mức lương phù hợp.
Như vậy, bên cạnh việc đòi hỏi công chức phải đạt được những tiêu
chuẩn về đạo đức, năng lực thì cần phải có những điều kiện để công chức
yên tâm, tận tụy làm việc kể cả các điều kiện về kinh tế, điều kiện được
học tập nâng cao nghiệp vụ. Ngoài việc đảm bảo mức lương thoả đáng
cho công chức mà Nhà nước ấn định nên có thêm những mức lương
mềm khuyến khích cho những người thực sự có tài, có đóng góp đặc
biệt, đột xuất như: sáng kiến đem lại hiệu quả cao trong công việc, cải
cách cơ chế quản lý có hiệu quả về mặt kinh tế, xã hội.
4.4.2. Nâng cao tính tự giác học tập, rèn luyện và tiếp thu tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng người cán bộ công
chức phát triển toàn diện vừa hồng vừa chuyên
Để nâng cao tính tự giác rèn luyện của đội ngũ công chức, cần thực
hiện một số biện pháp sau:
Một là; nâng cao nhận thức cho cán bộ công chức về tầm quan trọng
của việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức và sự cần
thiết cảu việc quán triệt tư tưởng đó trong quá trình thực tthi công vụ
Hai là; cần đẩy mạnh việc tự giác học tập, tu dưỡng rèn luyện đạo
đức công chức cho cán bộ công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ba là; coi trọng và sử dụng thường xuyên vũ khí phê bình và tự phê
bình, việc phê bình và tự phê bình phải được triển khai một cách đúng đắn
nghiêm túc, thường xuyên, có lý có tình. Người cán bộ công chức có hy
21


vọng nâng cao, giác ngộ trình độ đạo đức công chức của mình cần phải
nghiêm túc tự giác phê bình và tự phê bình, đây là một trong những
nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh.
Bốn là; cần tổ chức tốt các phong trào tôn vinh, phát huy các giá trị văn

hóa, lối sống, đạo đức công chức, phát hiện những nhân tố mới, điển hình
trong công tác giáo dục đạo đức cho đội ngũ công chức theo tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh.
Năm là; thường xuyên đấu tranh phê phán với các hiện tượng phản
giá trị, lối sống thực dụng cá nhân, tha hóa, xa rời với truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, xa lạ với tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức.
Kết luận chương 4
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây
dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay là vấn đề có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, nhất là trong bối cảnh đạo đức xã hội như hiện nay. Từ
thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong
xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, có thể đưa ra
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận dụng này:
Một là, cần nâng cao hơn nữa nhận thức của cán bộ, công chức về việc
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo
đức công chức. Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính phủ theo hướng xây
dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh có hiệu
lực, hiệu quả; Hoàn thiện và nâng cao vai trò của pháp luật trong việc thực
thi công vụ góp phần nâng cao hiệu quả của xây dựng đạo đức công chức
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, làm trong sạch
bộ máy công chức.
Ba là, phát huy dân chủ, nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công
dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lí xã hội của nhân dân; tăng cường
vai trò giám sát phản biện của các tổ chức xã hội đối với hoạt động của bộ
máy hành chính các cấp
Bốn là, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi công chức
tự rèn luyện phấn đấu nâng cao đạo đức trong thực thi công vụ.

22



Có thể thấy, những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức ở Việt Nam kể trên có mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ cho nhau.
Vì vậy chúng cần được thực hiện một cách triệt để và đồng bộ. Có như vậy
mới khắc phục được tình trạng suy thoái đạo đức lối sống của cán bộ công
chức, để tiếp tục xây dựng những phẩm chất đạo đức cách mạng của người
cán bộ, công chức trong giai đoạn phát triển đất nước trên con đường
"vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".
KẾT LUẬN
Ở nước ta những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về
đạo đức công chức. Tuy nhiên, những công trình này đề cập đến vấn đề
đạo đức công chức dưới những góc độ, khía cạnh khác nhau. Trên cơ sở
tổng quan các tài liệu nghiên cứu liên quan đến đạo đức công chức, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức
công chức ở Việt Nam hiện nay mang ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn
nhằm giải quyết thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay.
Trên thực tế, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là trong công cuộc cải cách hành
chính vẫn còn nhiều khoảng trống cần nghiên cứu thấu đáo hơn. Trong quá
trình thực thi công vụ đã xuất hiện nhiều tấm gương công chức tiêu biểu
điển hình cho lối sống giản dị, liêm khiết trong công cuộc đấu tranh chống
lại các hiện tượng tiêu cực của xã hội. Tinh thần thái độ của công chức
trong phục vụ người dân có nhiều chuyển biến tích cực dựa trên những cơ
sở pháp lý ngày một khoa học, đây chính là điều kiện thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó cũng còn tồn tại những yếu kém của

công chức trong thực thi công vụ. Biểu biện của sự hạn chế, yếu kém là
tình trạng quan liêu ngày càng gia tăng, tệ tham nhũng xảy ra nghiêm
trọng, thủ đoạn tham nhũng ngày càng trắng trợn, lợi dụng sơ hở hoặc
chưa đầy đủ của cơ chế, chính sách, pháp luật, sự buông lỏng của quản lý,
23


×