Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển theo quy định của công ước liên hợp quốc về luật biển năm 1982 và liên hệ thực tiển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.01 KB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHU HẢI ĐĂNG

THẨM QUYỀN TÀI PHÁN CỦA QUỐC GIA VEN BIỂN THEO QUY ĐỊNH
CỦA CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982 VÀ LIÊN
HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

CHU HẢI ĐĂNG

THẨM QUYỀN TÀI PHÁN CỦA QUỐC GIA VEN BIỂN THEO QUY ĐỊNH
CỦA CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982 VÀ LIÊN
HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Quốc tế


Mã số: 60380108

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Toàn Thắng

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân
tôi. Mọi thông tin, tài liệu trong luận văn là khách quan, trung thực và được
trích dẫn đầy đủ. Những kết quả, đánh giá trong luận văn chưa được công bố
ở bất kì công trình nghiên cứu khoa học nào.

CHU HẢI ĐĂNG


LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành đến các thầy, cô giảng
viên trường Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy, cô giảng viên của
khoa Pháp luật Quốc tế, những người đã dạy dỗ em suốt thời gian qua, và tạo
điều kiện giúp đỡ em trình thực hiện luận văn này.
Em chân thành cảm ơn thầy giáo, Tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng - giảng
viên khoa Pháp Luật quốc tế, trường Đại học Luật Hà Nội, người trực tiếp
hướng dẫn, động viên và khuyến khích em hoàn thành khóa luận.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới sự đóng góp ý kiến của tất cả
bạn bè và sự ủng hộ của gia đình suốt thời gian qua để việc thực hiện luận
văn đạt kết tốt.
Em xin chân thành cảm ơn!



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ THẨM QUYỀN TÀI PHÁN CỦA QUỐC GIA VEN
BIỂN ĐỐI VỚI TÀU THUYỀN
6
1.1. Khái quát các quy định của Pháp luật quốc tế liên quan đến thẩm
quyền tài phán
6
1.1.1. Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật biển
6
1.1.2. Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982
7
1.2. Tàu thuyền và quốc tịch của tàu thuyền
11
1.2.1. Khái niệm tàu thuyền
11
1.2.2. Quốc tịch của tàu thuyền
12
1.3. Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển
13
1.3.1. Khái niệm thẩm quyền tài phán
13
1.3.2. Phân biệt quyền tài phán, quyền chủ quyền và chủ quyền
15
1.3.3. Các nguyên tắc xác định thẩm quyền tài phán
16

Chương 2
THẨM QUYỀN TÀI PHÁN CỦA QUỐC GIA VEN BIỂN TRÊN CÁC
VÙNG BIỂN
20
2.1. Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển trên các vùng biển
thuộc chủ quyền quốc gia
20
2.1.1. Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia
20
2.1.2. Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển tại nội thủy
24
2.1.3. Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển tại lãnh hải
27
2.1.4. Đánh giá thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển trên các
vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia
30
2.2. Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển trên các vùng biển
thuộc quyền chủ quyền quốc gia
31
2.2.1. Các vùng biển thuộc quyền chủ quyền
31
2.2.2. Thẩm quyền tài phán trong vùng tiếp giáp
34
2.2.3. Thẩm quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế
35
2.2.4. Thẩm quyền tài phán ở thềm lục địa
40
2.2.5. Đánh giá thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển trên các
vùng biển thuộc quyền chủ quyền
42

2.3. Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển tại vùng biển quốc tế
42
2.3.1. Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với tàu mang
cờ và cá nhân mang quốc tịch của mình
42


2.3.2. Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển trong trường hợp
áp dụng quyền truy đuổi
44
2.3.3. Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển theo nguyên tắc
phổ cập
46
Chương 3
THẨM QUYỀN TÀI PHÁN CỦA VIỆT NAM TRÊN CÁC VÙNG
BIỂN
51
3.1. Quá trình pháp điển hóa Luật biển Việt Nam
51
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Luật biển Việt Nam 51
3.1.2. Luật biển Việt Nam năm 2012
56
3.2. Thẩm quyền tài phán của Việt Nam trong các vùng biển thuộc
chủ quyền quốc gia
59
3.2.1. Thẩm quyền tài phán của Việt Nam trong nội thủy
59
3.2.2. Thẩm quyền tài phán của Việt Nam trong lãnh hải
63
3.3. Thẩm quyền tài phán của Việt Nam trong các vùng biển thuộc

quyền chủ quyền quốc gia
67
3.3.1. Thẩm quyền tài phán của Việt Nam trong vùng tiếp giáp lãnh
hải
67
3.3.2. Thẩm quyền tài phán của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh
tế
69
3.3.3. Thẩm quyền tài phán của Việt Nam ở thềm lục địa
72
3.4. Thực hiện thẩm quyền tài phán - Vụ Trung Quốc hạ đặt trái phép
giàn khoan HD 981
75
3.4.1. Khái quát vụ việc
75
3.4.2. Trung Quốc vi phạm UNCLOS khi đơn phương hạ đặt giàn
khoan HD 981
76
3.4.3. Việt Nam thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán phù hợp
với quy định của UNCLOS
79
3.5. Phương hướng thực thi quyền tài phán trên biển của Việt Nam 85
KẾT LUẬN
88


7

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam là một quốc gia nằm ven biển Đông có đường bờ biển dài
3.260 km, với các vùng biển rộng lớn có tổng diện tích lên tới 1 triệu km2.
Điều kiện địa lý như vậy không những đem lại lợi ích từ tài nguyên thiên
nhiên như hải sản, dầu khí, năng lượng sạch hay du lịch và vận tải biển mà
còn có ý nghĩa đặc biệt về quốc phòng - an ninh đối với Việt Nam.
Các hoạt động trên biển ngày càng gia tăng và phức tạp, quyền và lợi
ích các quốc gia trên biển rất đa dạng và quan trọng, đồng thời sự tranh chấp
trên biển cũng ngày càng gay gắt và quyết liệt. Yêu cầu tất yếu đặt ra là phải
tăng cường quản lý Nhà nước để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền
tài phán và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của Việt Nam trên biển. Việc
bảo vệ và thực thi chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp khác là nhu cầu
không chỉ của riêng Việt Nam mà của tất cả các quốc gia trên thế giới, đặc
biệt là những quốc gia ven biển.
Quyền tài phán là hệ quả của quyền chủ quyền, có tác dụng hỗ trợ, tạo
ra môi trường để thực hiện quyền chủ quyền được tốt hơn. Việc thực thi
quyền tài phán sao cho phù hợp với pháp luật quốc tế mà nổi bật là Công
ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS) và lợi ích của quốc
gia là đòi hỏi vô cùng cấp thiết. Xuất phát từ các lý do như đã trình bày trên,
học viên chọn đề tài luận văn với nội dung: “Thẩm quyền tài phán của quốc
gia ven biển theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển
năm 1982 và liên hệ thực tiễn Việt Nam”, với mong muốn phục vụ nhu cầu
của khoa học pháp lý và đáp ứng những đòi hỏi thực tiễn đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển là một vấn đề pháp lý và
thực tiễn khá phức tạp, vì vậy, số lượng các tài liệu nghiên cứu, đánh giá một
cách tổng quan về vấn đề này chưa nhiều. Ở Việt Nam, trong những năm gần
đây, do ý thức được tầm quan trọng của biển đảo trong việc đảm bảo an ninh
- quốc phòng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là trước
tình hình tranh chấp trên biển Đông giữa các quốc gia trong khu vực diễn
biến ngày càng phức tạp, nhiều học giả cũng đã có những công trình nghiên

cứu khoa học và những bài viết có liên quan như: cuốn Những điều cần biết
về luật biển của TS. Nguyễn Hồng Thao; hay cuốn Chính sách, pháp luật
biển của Việt Nam và chiến lược phát triển bền vững do GS.TS. Nguyễn Bá


8

Diến chủ biên;... Tuy nhiên, phần lớn các tài liệu đó mới chỉ đề cập một cách
khái quát nhất hoặc tiếp cận vấn đề thẩm quyền tài phán ở một vài trường
hợp cụ thể. Trong khi đó, vấn đề thẩm quyền tài phán chưa nhận được nhiều
quan tâm, nghiên cứu.
Gần đây nhất là khóa luận tốt nghiệp năm 2013 của cử nhân Nguyễn
Thị Hạnh với đề tài Quốc tịch của tàu thuyền và thẩm quyền tài phán của
quốc gia trên biển, Đại học Luật Hà Nội hay bài viết của TS. Nguyễn Toàn
Thắng, Thẩm quyền tài phán hình sự trên vùng biển Việt Nam, đăng trên tạp
chí Luật Học số Đặc san về Luật biển tháng 8 năm 2012. Đây là những
nghiên cứu chuyên sâu, đã thể hiện được phần nào đó về thẩm quyền tài
phán quốc gia ven biển một cách khá sâu sắc và đầy đủ. Tuy nhiên nếu xem
xét ở khía cạnh một luận văn tốt nghiệp của học viên cao học thì đây vẫn còn
là một đề tài có tính chất mới mẻ và cần được khai thác.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu về thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển
theo quy định của UNCLOS 1982 và thực tiễn thẩm quyền tài phán của quốc
gia ven biển tại Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đề tài nghiên cứu từ góc độ pháp luật quốc tế mà trọng tâm là quy
định của UNCLOS 1982 về thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển và
những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn

Tác giả đặt ra và giải quyết các mục tiêu sau:
- Khái quát về lịch sử hình thành, phát triển của Luật Biển quốc tế, đặc biệt
chú trọng sự ra đời của UNCLOS 1982.
- Trình bày và phân tích làm rõ các khái niệm có liên quan như: tàu thuyền,
quốc tịch tàu thuyền, thẩm quyền tài phán và đưa ra các nguyên tắc xác định
thẩm quyền tài phán.
- Phân tích tình hình thực tiễn thực hiện quyền tài phán trên biển của Việt
Nam.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn


9

Với mục tiêu, phạm vi và nhiệm vụ đã đặt ra, nội dung của luận văn
dự kiến sẽ đạt tới những kết quả mới sau đây. Cụ thể là tiếp tục góp phần
làm sáng tỏ bản chất pháp lý của các quy định về thẩm quyền tài phán của
quốc gia ven biển trên các vùng biển theo Luật quốc tế (cụ thể là theo quy
định của UNCLOS); Trên cơ sở phân tích Pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam cũng như thông qua thực tiễn thực hiện, đề xuất các giải pháp cho
Việt Nam trong việc thực hiện thẩm quyền tài phán trên biển hiện nay. Một
số khó khăn mà Việt Nam có thể gặp phải khi thực hiện thẩm quyền tài phán
trên biển của mình.
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác - Lê nin và quan điểm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước ta. Để làm sáng tỏ nội dung đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng tổng hợp
các phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung và phương pháp nghiên
cứu khoa học pháp lý nói riêng như: phương pháp luận duy vật biện chứng,
phương pháp luận duy vật lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so
sánh,...

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn để tóm lược lại những vấn đề cốt
yếu nhất liên quan tới thẩm quyền tài phán của các quốc gia trên các vùng
biển và đối chiếu với tình hình thực tế. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả
đã cố gắng tìm hiểu và bổ sung thêm nhiều thông tin có liên quan đến đề tài
với hi vọng sẽ mang lại một cái nhìn đầy đủ hơn về thẩm quyền tài phán của
quốc gia ven biển trên các vùng biển trong luật biển quốc tế nói chung và
thực tiễn tại Việt Nam nói riêng.


10

8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với
tàu thuyền;
Chương 2: Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển trên các vùng biển;
Chương 3: Thẩm quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển.


11

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ THẨM QUYỀN TÀI PHÁN CỦA QUỐC GIA VEN
BIỂN ĐỐI VỚI TÀU THUYỀN
1.1. Khái quát các quy định của Pháp luật quốc tế liên quan đến thẩm
quyền tài phán
1.1.1. Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật biển
Trong lịch sử hình thành và phát triển của Luật biển quốc tế, các hội

nghị quốc tế về luật biển được tổ chức vào các thời gian khác nhau có vai trò
hết sức quan trọng. Có thể thấy rằng Luật biển trong giai đoạn trước năm
1930 bao gồm chủ yếu các quy phạm mang tính tập quán. Do vậy, kết quả
đạt được của các hội nghị về luật biển được tổ chức từ sau năm 1930 đánh
dấu bước phát triển mới của luật biển về cả nội dung và hình thức, theo
hướng đa dạng, mở rộng phạm vi các vấn đề được điều chỉnh bởi quy phạm
của luật biển quốc tế và qua đó chứng tỏ sự thống nhất chung của cộng đồng
quốc tế trong việc thiết lập trật tự pháp lý quốc tế trên biển.
Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật biển bao gồm 11 phiên
họp, kéo dài 9 năm từ tháng 12 năm 1973 đến tháng 12 năm 1982. Hội nghị
đã thảo luận nhiều vấn đề quan trọng như: thiết lập thống nhất về chiều rộng
lãnh hải là 12 hải lý; đảm bảo sự qua lại tự do cho các tàu thuyền trong các
eo biển dùng cho hàng hải quốc tế; giải quyết các vấn đề về đánh bắt cá; thiết
lập vùng đặc quyền kinh tế với chiều rộng là 200 hải lý; bảo đảm tự do hàng
hải và nghiên cứu khoa học biển ở vùng biển quốc tế; xác định ranh giới
ngoài và quy chế pháp lý của thềm lục địa; thiết lập quy chế đáy biển ngoài
thềm lục địa và thành lập tổ chức quốc tế về các tài nguyên ở đáy biển này;
thông qua các quy phạm nhằm ngăn ngừa ô nhiễm biển,...
Ngày 10 tháng 12 năm 1982, tại Montego Bay (Giamaica), sau 5 năm
trù bị (1967 - 1972) và 9 năm thương lượng (1973 - 1982), Hội nghị lần thứ
ba của Liên hợp quốc về Luật biển đã thông qua được Công ước của Liên
hợp quốc về Luật biển. Phù hợp với quy định tại điều Điều 308, Công ước đã
chính thức có hiệu lực ngày 16 tháng 11 năm 1994.1

1 Theo quy định của Điều 308, Công ước sẽ chính thức phát sinh hiệu lực sau 12 tháng kể từ ngày lưu chiểu
văn bản phê chuẩn hay tham gia thứ 60. Ngày 16 tháng 11 năm 1993, Guyana là nước thứ 60 phê chuẩn
Công ước.


12


Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật biển là cột mốc quan
trọng trong quá trình pháp điển hóa Luật biển quốc tế. Sự ra đời của Công
ước giải quyết được nhiều vấn đề pháp lý đặt ra trong thực tiễn mà các Hội
nghị Luật biển trước đó chưa thể giải quyết, đồng thời đề cập những vấn đề
pháp lý mới mà các Hội nghị trước chưa từng đề cập.
1.1.2. Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982
Trong số các văn kiện pháp lý quốc tế được ký kết kể từ sau Chiến
tranh thế giới thứ hai, UNCLOS được coi là văn kiện đứng thứ hai về tầm
quan trọng, chỉ sau Hiến chương Liên hợp quốc. Với 320 điều, 9 phụ lục,
168 thành viên,2 UNCLOS là một trong số các điều ước quốc tế đa phương
dài nhất và có số lượng thành viên đông đảo. Một số chế định quan trọng của
công ước bao gồm:
- Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền đối với vùng lãnh hải mà họ
có quyền thiết lập với chiều rộng không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở.
Tuy vậy, chủ quyền này không phải là tuyệt đối vì tàu thuyền nước ngoài có
quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải.
- Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên
và quyền tài phán đối với các hoạt động xây dựng, lắp đặt đảo, công trình
nhân tạo, nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường trong vùng đặc quyền
kinh tế rộng tối đa 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Các quốc gia khác có
quyền tự do hàng hải, tự do hàng không và tự do đặt dây cáp, ống dẫn ngầm.
Quốc gia không có biển hoặc bất lợi về địa lý có quyền tham gia trên cơ sở
công bằng việc khai thác một phần thích hợp trong số phần dư dôi của tài
nguyên sinh vật thuộc vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển trong
cùng khu vực.
- Quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc việc thăm dò và
khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa, bao gồm phần đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên toàn bộ
phận kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài

của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
200 hải lý khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần
hơn3. Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa mang tính chất
2 Tính đến tháng 23/6/2016.
3 UNCLOS, Điều 76. Theo quy định tại điều này, ranh giới phía trong của thềm lục địa là đường biên giới
quốc gia trên biển (ranh giới ngoài của lãnh hải). Ranh giới ngoài của thềm lục địa là bờ ngoài của rìa lục
địa. Việc xác định đường ranh giới này sẽ khác nhau trong hai trường hợp: (i) Khi bờ ngoài của rìa lục địa ở
khoảng cách gần hơn 200 hải lý tính từ đường cơ sở, chiều rộng của thềm lục địa được mở rộng tới 200 hải


13

đặc quyền, tồn tại một cách thực tế và đương nhiên (ipso facto and ab initio),
không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất
cứ tuyên bố rõ ràng nào. Điều đó có nghĩa các quốc gia khác không được
quyền tiến hành thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa của
quốc gia ven biển, nếu không được sự cho phép của quốc gia này, ngay cả
trong trường hợp quốc gia ven biển không thăm dò thềm lục địa hay không
khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa4.
- Tất cả các quốc gia đều có quyền tự do truyền thống về hàng hải, tự
do hàng không, tự do nghiên cứu khoa học và tự do đánh bắt hải sản trên
vùng biển quốc tế. Các quốc gia có trách nhiệm hợp tác với nhau trong việc
thông qua các biện pháp để quản lý và bảo tồn các tài nguyên sinh vật biển.
- Các quốc gia có chung biên giới tại vùng biển kín hoặc nửa kín cần
hợp tác với nhau trong việc quản lý tài nguyên sinh vật, có chính sách và
hoạt động về môi trường cũng như nghiên cứu khoa học. Các quốc gia có
nghĩa vụ ngăn chặn, kiểm soát ô nhiểm môi trường biển và phải chịu trách
nhiệm đối với những thiệt hại về môi trường do quốc gia đó gây ra.
- Các quốc gia có nghĩa vụ giải quyết bằng biện pháp hoà bình các
tranh chấp liên quan đến giải thích và áp dụng UNCLOS. Công ước không

cho phép bảo lưu nên các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tuân thủ các quy
định về giải quyết tranh chấp tại Phần XV của Công ước5. Tuy nhiên, các
quốc gia thành viên được trao quyền lựa chọn biện pháp hòa bình để giải
quyết xung đột, mâu thuẫn phát sinh, dù đó là biện pháp ngoại giao hay tài
phán, trao đổi quan điểm trực tiếp hay thông qua bên thứ ba6. Trong trường
hợp tranh chấp vẫn chưa được giải quyết, mặc dù các bên đã tuân thủ các
quy định của Công ước, một trong các bên có thể đưa vụ việc ra trước Tòa

lý tính từ đường cơ sở (khoản 1); (ii) Khi bờ ngoài của rìa lục địa mở rộng ra quá 200 hải lý tính từ đường
cơ sở, quốc gia ven biển phải căn cứ vào các đặc điểm địa chất của thềm lục địa để xác định, trên cơ sở áp
dụng hai phương pháp sau: Phương pháp "chân dốc lục địa", theo đó quốc gia ven biển nối những điểm cố
định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý (khoản 4, a, ii) và phương pháp "bề dày lớp đá trầm
tích”, theo đó quốc gia ven biển xác định bề dày của lớp đá trầm tích với điều kiện bề dày này phải ít nhất
bằng một phần trăm khoảng cách từ điểm xác định đến chân dốc lục địa (khoản 4, a, i). Trong mọi trường
hợp, ranh giới phía ngoài của thềm lục địa của quốc gia ven biển, được xác định theo hai phương pháp trên,
không được mở rộng quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đẳng sâu 2500 mét, là đường nối
các điểm ở đáy biển có độ sâu 2500 mét, một khoảng cách không quá 100 hải lý (khoản 2, 5). Quốc gia ven
biển có nghĩa vụ thông báo cho Ủy ban ranh giới thềm lục địa về việc xác định các ranh giới thềm lục địa
của mình, khi thềm lục địa đó mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
(khoản 8).
4 UNCLOS, Điều 77.
5 UNCLOS, Điều 309.
6 UNCLOS, Điều 280, 284.


14

trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của Công ước để có quyết định cuối
cùng7.
So với nội dung của các công ước được ký kết tại Hội nghị Luật Biển

năm 1958, quy định của UNCLOS thể hiện sự mở rộng quyền chủ quyền và
quyền tài phán cho quốc gia ven biển. Mặt khác, để hạn chế những ảnh
hưởng tiêu cực đến quyền tự do hàng hải truyền thống của cộng đồng quốc
tế, UNCLOS cũng có những quy định thể hiện sự cân bằng về mặt lợi ích
nhằm đảm bảo cả chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc gia có biển và
quyền, lợi ích hợp pháp của các quốc gia khác.
Mặc dù chưa đáp ứng hoàn toàn được lợi ích của mọi quốc gia và một
số quy định của Công ước còn được hiểu, vận dụng chưa thống nhất nhưng
UNCLOS đang là khuôn khổ pháp lý quốc tế được thừa nhận rộng rãi trên
toàn cầu, có vai trò đặc biệt quan trọng trong giải quyết tranh chấp trên biển
và duy trì hoà bình ổn định, trật tự trên biển,8 như một xu hướng tất yếu,
“UNCLOS là nền tảng cho sự ổn định, an ninh và thịnh vượng - là công cụ
chung cho mọi quy định, luật lệ trên biển”.9
1.2. Tàu thuyền và quốc tịch của tàu thuyền
1.2.1. Khái niệm tàu thuyền
Hiện nay, Luật biển quốc tế hiện đại vẫn chưa có một định nghĩa
chung về tàu thuyền. Khái niệm tàu thuyền được đề cập trong nhiều văn kiện
pháp lí quốc tế và văn bản quy phạm pháp luật quốc gia, với cách hiểu và
giải thích không đồng nhất, tùy thuộc vào mục đích và phạm vi áp dụng của
các văn bản đó. Theo quy định tại Điều 2 Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô
nhiễm do tàu thuyền gây ra năm 1973 (Công ước MARPOL 73/78), tàu
thuyền (ship) là “tất cả các loại tàu (vessel) hoạt động trong môi trường biển,
bao gồm cả tàu cánh ngầm, phương tiện đệm khí, tàu ngầm, phương tiện nổi
và các công trình nổi cố định hoặc di động”.10 Công ước quốc tế về cứu hộ
năm 1989 (Công ước SALVAGE) đưa ra cách hiểu tương tự khi định nghĩa

7 UNCLOS, Điều 287. Xem Jonathan I. Charney, “The Implication Expanding International Dispute
Settlement Systems: The 1982 Convention on the Law of the Sea”, A.J.I.L., 1996, p. 69.
8 Nguyễn Thị Thuận (2012), “Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 - bản hiến pháp của nhân
loại về đại dương”, Tạp chí Luật học, (ĐSLB 8/2012), tr. 3-10.

9 Trích lời Tổng Thư kí LHQ Ban Ki-moon nhân kỉ niệm 30 năm ra đời UNCLOS ngày 11/12/2012.
10 Nguyên văn: “‘Ship’ means a vessel of any type whatsoever operating in the marine environment and
includes hydrofoil boats, air-cushion vehicles, submersibles, floating craft and fixed or floating platforms”,
tham khảo tại địa chỉ: ngày truy
cập 11/07/2016.


15

tàu thuyền (vessel) là “bất kì kiểu tàu (ship), phương tiện hoặc cấu trúc có
khả năng hàng hải”.11
Ở đây ta thấy có hai thuật ngữ dùng để định nghĩa khái niệm tàu
thuyền là “vessel” và “ship”. Tàu thuyền (vessel) là cấu trúc nổi di động
được thiết kế để hoạt động trên biển và các vùng nước liên quan, với chức
năng chuyên chở người hoặc hàng hoá;12 Tàu thuyền (ship) là loại cấu trúc
nổi (vessel) có kích cỡ lớn và có khả năng vượt qua những vùng biển rộng.13
Có thể thấy, “vessel” mang ý nghĩa rộng hơn và bao gồm “ship”. Tuy nhiên,
theo quan điểm của Ủy ban luật quốc tế của Liên hợp quốc, thuật ngữ “ship”
bao gồm tất cả các loại “vessel” hoạt động trên biển hoặc tham gia một phần
vào hoạt động trên biển.14
UNCLOS không đưa ra bất kì định nghĩa nào về tàu thuyền. Trong
UNCLOS xuất hiện cả hai thuật ngữ “vessel” và “ship”, các thuật ngữ này
được dùng tùy vào từng ngữ cảnh khác nhau và không có sự phân biệt giữa
chúng trong Công ước.15
Dù có nhiều cách hiểu và tiếp cận khác nhau song có thể thấy thuật
ngữ tàu thuyền được giải thích chung gắn liền với các phương tiện tham gia
hoạt động trên biển.16 Khái niệm tàu thuyền có thể được định nghĩa như sau:
Là các phương tiện, cấu trúc có khả năng hàng hải và tham gia hoạt động
trên biển.
1.2.2. Quốc tịch của tàu thuyền

Theo quy định tại Điều 90 UNCLOS, tất cả các quốc gia có biển hay
không có biển, đều có quyền cho tàu thuyền treo cờ của mình tham gia các
hoạt động hàng hải trên biển. Đồng thời lá cờ chính là dấu hiệu để xác định
quốc tịch của tàu thuyền.17 Quốc tịch tàu thuyền là sự ràng buộc về pháp lý
của tàu thuyền với quốc gia mà nó mang quốc tịch, thể qua việc thực hiện
11 Nguyên văn: “‘Vessel’ means any ship or craft, or any structure capable of navigation”, tham khảo tại
địa chỉ: ngày truy cập 11/07/2016.
12 Hawkins J. M. (ed, 1986), The Oxford Reference Dictionary, Oxford University Press, Oxford, tr. 911.
13 The New Encyclopedia Britannica, vol. 10, (Chicago: Encyclopedia Britannica Inc., 1988), tr. 746.
14 Report of the ILC on the Work of 43rd Session, 46 GAOR, Supp. No. 10 (A/46/10), 1991, tr. 50. Tham
khảo tại địa chỉ:
ngày truy
cập 11/07/2016.
15 Cách tiếp cận nêu trên được ghi nhận trong một số điều ước quốc tế như: Điều 3 (d) Quy tắc phòng ngừa
đâm va trên biển (COLREG 72); Điều 1 (f) Công ước quốc tế về hệ thống thông tin vệ tinh hàng hải
(INMARSAT 76).
16 Như tàu ngầm, thủy phi cơ, tàu đệm khí hay các phương tiện nổi khác.
17 Điều 91 UNCLOS.


16

quyền tài phán cũng như việc kiểm soát hành chính, kĩ thuật,... Các ràng
buộc pháp lý này được thiết lập bởi việc tàu thuyền đăng kí quốc gia và treo
cờ của quốc gia đó. Về nguyên tắc, tàu thuyền chỉ được hoạt động dưới cờ
của một quốc gia. Trong trường hợp tàu treo cờ của nhiều quốc gia hoặc
không treo cờ, tàu thuyền đó sẽ bị xác định là không có quốc tịch.
1.3. Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển
1.3.1. Khái niệm thẩm quyền tài phán
Hiện nay, trong khoa học pháp lí quốc tế chưa có định nghĩa cụ thể về

“thẩm quyền tài phán” (Jurisdiction).18 Thuật ngữ “thẩm quyền tài phán”
được đề cập trong nhiều điều khoản của UNCLOS. Tuy nhiên, Công ước
cũng không đưa ra bất kì định nghĩa nào về thẩm quyền tài phán. Có nhiều
định nghĩa về thẩm quyền tài phán như “là tổng thể những quyền hạn của
Tòa án hoặc cơ quan hành chính về việc đánh giá khía cạnh pháp lý của
những sự kiện cụ thể, trong đó có việc giải quyết tranh chấp và áp dụng
những chế tài theo luật định”19 hay “quyền tài phán là quyền của cơ quan
hành pháp và tư pháp của một quốc gia xem xét và giải quyết vụ việc theo
thẩm quyền của mình. Trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, quốc gia thực hiện
quyền tài phán đầy đủ,... Quốc gia còn thực hiện quyền tài phán đối với một
số nơi bên ngoài lãnh thổ quốc gia: vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các
phương tiện bay, tàu biển, tàu thuyền nước ngoài đi lại trong lãnh hải của
mình”.20
Theo nghĩa rộng, thẩm quyền tài phán bao gồm quyền lập pháp (ban
hành pháp luật để điều chỉnh các vấn đề liên quan), hành pháp (đảm bảo thực
thi các quy phạm pháp luật) và tư pháp (xét xử các hành vi vi phạm). Theo
nghĩa hẹp, thẩm quyền tài phán được xác định là quyền xét xử của quốc gia
đối với hành vi vi phạm.21 Hoạt động tài phán có thể thực hiện bởi nhiều loại
cơ quan khác nhau. Không chỉ tòa án mà các cơ quan hành chính hay các cơ
quan khác cũng có quyền tài phán. Quyền tài phán có thể do một cơ quan
độc lập, chuyên trách thực hiện hoặc có thể do một cơ quan thực hiện nhiều
chức năng, trong đó có chức năng tài phán. Điều đó phụ thuộc vào cơ cấu,
phương thức tổ chức quyền lực trong bộ máy nhà nước, vào thẩm quyền mỗi
cơ quan theo quy định của pháp luật. Tùy thuộc vào từng hành vi vi phạm
mà quốc gia có thể áp dụng các biện pháp dân sự, hành chính hay hình sự.
18 Jurisdiction tạm dịch: Thẩm quyền tài phán/ Quyền tài phán.
19 Nguyễn Cửu Việt (2005), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 678.
20 Trung Tâm Từ Điển Bách Khoa Quân Sự (2004), Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, Nxb Quân Đội
Nhân Dân, tr. 851.
21 Rudolf Bernhardt (ed., 1997), Encyclopedia of Public International Law, Vol 3, North-Holland, tr. 55.



17

Trong phạm vi khóa luận, “thẩm quyền tài phán” đối với tàu thuyền
được hiểu theo nghĩa rộng và có thể được định nghĩa: “là thẩm quyền mà
quốc gia áp dụng dựa trên cơ sở pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia liên
quan đến hoạt động của tàu thuyền trên các vùng biển, bao gồm các hoạt
động như yêu cầu dừng tàu để kiểm tra, khám xét hay truy đuổi, bắt giữ
trong các trường hợp cần thiết, áp dụng các biện pháp bắt người, điều tra và
xét xử các hành vi vi phạm đã xảy ra”.
1.3.2. Phân biệt quyền tài phán, quyền chủ quyền và chủ quyền
Chủ quyền (Sovereignty): Chủ quyền quốc gia là quyền làm chủ một
cách độc lập, toàn vẹn và đầy đủ về mọi mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp
của một quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Quốc gia thể hiện
chủ quyền của mình trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại
giao...
Quyền chủ quyền (Sovereign rights): Quyền chủ quyền là các quyền
của quốc gia ven biển được hưởng trên cơ sở chủ quyền đối với mọi loại tài
nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình,
cũng như đối với những hoạt động nhằm thăm dò và khai thác vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia đó vì mục đích kinh tế, bao gồm
cả việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu, gió...
Quyền tài phán (Jurisdiction): Quyền tài phán nói chung là thẩm
quyền mà cơ quan tài phán của quốc gia thực hiện nhằm xem xét, giải quyết
và áp dụng các biện pháp chế tài cần thiết đối với những hành vi hay vụ việc
theo thẩm quyền của mình.
Quyền tài phán trên biển đối với tàu thuyền là thẩm quyền riêng biệt
của quốc gia ven biển được quy định, cấp phép, giải quyết và xử lý đối với
một số loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển,

trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo các thiết bị và công
trình; nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trong
vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó.
Có thể phân biệt các khái niệm này thông qua các tiêu chí:
Về phạm vi thực hiện: Chủ quyền và quyền chủ quyền bị hạn chế về mặt
không gian hơn quyền tài phán. Cụ thể, thực hiện chủ quyền sẽ hạn chế trong
lãnh thổ quốc gia; quyền chủ quyền chỉ được áp dụng trên các vùng biển
thuộc quyền chủ quyền của quốc gia là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa; còn quyền tài phán không bị giới hạn bởi lãnh thổ hay các vùng biển, mà


18

quyền tài phán còn có thể áp dụng rộng ra bên ngoài, như áp dụng với tàu
thuyền mang quốc tịch của mình trên vùng biển quốc tế hay áp dụng với cá
nhân là công dân nước mình ở trên lãnh thổ nước khác...
Về tính chất: Quyền tài phán là cụ thể hóa của chủ quyền và quyền chủ
quyền, có chủ quyền, quyền chủ quyền thì đương nhiên sẽ xuất hiện quyền
tài phán. Chủ quyền chính là cơ sở để mở rộng quyền chủ quyền và quyền tài
phán của quốc gia ra ngoài lãnh thổ quốc gia.
1.3.3. Các nguyên tắc xác định thẩm quyền tài phán
Trên các vùng biển khác nhau, các quốc gia thực hiện thẩm quyền tài
phán với những mức độ, giới hạn khác nhau. Nhìn chung luôn có sự dung
hòa trong việc cân bằng giữa thẩm quyền của quốc gia ven biển và các quốc
gia khác. Cụ thể là càng xa đất liền thì thẩm quyền của quốc gia ven biển
càng giảm và đồng thời thẩm quyền của các quốc gia khác cũng tăng dần.
Thực tiễn cho thấy, các quốc gia thường áp dụng các nguyên tắc sau
để xác định thẩm quyền tài phán đối với hành vi vi phạm xảy ra trên các
vùng biển:
Nguyên tắc lãnh thổ: xác định thẩm quyền tài phán bằng cách dựa trên tham

chiếu về nơi xảy ra hành vi vi phạm;
Nguyên tắc quốc tịch: xác định thẩm quyền tài phán dựa trên quốc tịch của
cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hoặc quốc tịch của cá nhân chịu thiệt hại;
Nguyên tắc cờ tàu: xác định thẩm quyền tài phán dựa vào quốc tịch của tàu
mang cờ;
Nguyên tắc phổ cập: quy định thẩm quyền tài phán cho tất cả các quốc gia
trong một số trường hợp đặc biệt.
1.3.3.1. Nguyên tắc lãnh thổ
Đây là nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi và có vai trò quan trọng
trong việc xác định thẩm quyền tài phán của các quốc gia. Thẩm quyền tài
phán của quốc gia trên các vùng biển thuộc phạm vi lãnh thổ của mình
không bị giới hạn, không những vậy nó còn mở rộng ra những vùng biển tiếp
giáp với phạm vi và mức độ nhất định tùy theo quy chế pháp lý của các vùng
biển đó. Sự mở rộng này xuất phát từ nguyên tắc đặc thù của Luật biển quốc
tế hiện đại, đó là nguyên tắc đất thống trị biển. Theo đó, chủ quyền lãnh thổ
chính là cơ sở để mở rộng thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển ra


19

ngoài nội thủy và lãnh hải của mình với mức độ phụ thuộc và thay đổi phù
hợp với quy chế pháp lý của từng vùng biển22.
1.3.3.2. Nguyên tắc quốc tịch
Quốc tịch thể hiện mối liên hệ pháp lý mang tính chất hai chiều giữa
một cá nhân với một quốc gia, dựa vào quốc tịch của cá nhân xác định được
thẩm quyền tài phán của quốc gia trong một số trường hợp. Quốc gia có thể
thực hiện thẩm quyền tài phán đối với cá nhân mang quốc tịch của mình
ngay cả khi cá nhân đó đang ở tại vùng lãnh thổ nằm ngoài phạm vi tài phán
quốc gia. Cá nhân ở đây có thể là người thực hiện hành vi vi phạm hoặc
người bị hại trong vụ việc dân sự hay hình sự.

1.3.3.3. Nguyên tắc cờ tàu
Lá cờ là cơ sở để xác định quốc tịch của con tàu đang hoạt động trên
biển. Các quy định về việc đăng ký quốc tịch cho tàu thuyền đã tạo ra một
liên kết giữa quốc gia mà tàu mang cờ và chiếc tàu đó. Sau khi mối liên kết
đó được xác lập, tàu thuyền sẽ đặt dưới quyền tài phán và sự kiểm soát của
quốc gia mà nó mang quốc tịch. “Mọi quốc gia đều thực sự thi hành quyền
tài phán và sự kiểm soát của mình trong các lĩnh vực hành chính, kỹ thuật và
xã hội đối với các tàu thuyền mang cờ của mình [...] Thi hành quyền tài phán
theo đúng luật trong nước mình đối với bất kỳ tàu thuyền nào mang cờ nước
mình, cũng như đối với thuyền trưởng, sĩ quan và đoàn thủy thủ về các vấn
đề hành chính, kỹ thuật và xã hội liên quan đến tàu thuyền”.23 Khi hoạt động
trên biển cả, các tàu thuyền treo cờ quốc tịch có địa vị pháp lí ngang bằng
nhau và chỉ chịu thẩm quyền tài phán của quốc gia mà tàu mang cờ, trừ một
số trường hợp ngoại lệ cho phép các quốc gia thực hiện thẩm quyền tài phán
phổ cập.
1.3.3.4. Nguyên tắc phổ cập
Trong một số trường hợp đặc biệt, khi cần sự hợp tác của tất cả các
quốc gia nhằm đối phó với một số loại tội phạm có tính chất quốc tế, nguyên
tắc phổ cập sẽ được áp dụng nhằm cho phép các quốc gia thực hiện thẩm
quyền tài phán không phụ thuộc vào địa điểm hay quốc tịch của cá nhân nữa.
22 Nguyên tắc "đất thống trị biển" được đề cập nhiều lần trong các phán quyết của Tòa công lý quốc tế.
Xem Phán quyết của Tòa ngày 20/2/1969 trong vụ Thềm lục địa biển Bắc, Tuyền tập các phán quyết của
Tòa công lý quốc tế, 1969, tr. 51; Phán quyết của Tòa ngày 19/12/1978 trong vụ Thềm lục địa biển Egée,
Tuyền tập các phán quyết của Tòa công lý quốc tế, 1978, tr. 36; Phán quyết của Tòa ngày 16/3/2001 trong
vụ Hoạch định ranh giới trên biển và các vấn đề lãnh thổ giữa Qatar và Bahreïn, Tuyền tập các phán quyết
của Tòa công lý quốc tế, 2001, tr. 97.
23 Điều 94 UNCLOS.


20


Nguyên tắc phổ cập được áp dụng với các hành vi như cướp biển, chuyên
chở nô lệ, phát sóng trái phép,...
Kết luận chương một
Trong chương một, luận văn đã tập trung nghiên cứu: tiến trình phát
triển của luật biển quốc tế qua các thời kỳ, ý nghĩa của Công ước Liên Hợp
Quốc về Luật biển năm 1982 và các khái niệm có liên quan đến thẩm quyền
tài phán của quốc gia ven biển. Qua đó tác giả cố gắng làm nổi bật vị trí, vai
trò của luật biển trong đời sống pháp lý quốc tế cũng như đưa cái nhìn tổng
quan nhất về thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với tàu thuyền.
Những nội dung nghiên cứu trên của luận văn sẽ là tiền đề cơ sở lý
luận cho việc nghiên cứu chương hai.


21

Chương 2
THẨM QUYỀN TÀI PHÁN CỦA QUỐC GIA VEN BIỂN TRÊN CÁC
VÙNG BIỂN
2.1. Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển trên các vùng biển
thuộc chủ quyền quốc gia
2.1.1. Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia
Theo quy định tại Điều 2 UNCLOS, “Chủ quyền của quốc gia ven
biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình, và trong trường
hợp một quốc gia quần đảo, ra ngoài vùng nước quần đảo, đến một vùng
biển tiếp liền, gọi là lãnh hải”. Như vậy, đối với quốc gia ven biển, các vùng
biển thuộc chủ quyền quốc gia bao gồm nội thủy và lãnh hải.24
2.1.1.1. Nội thủy
Để xác lập được các vùng biển, trước tiên cần xác định đường cơ sở.
Từ thực tế cấu tạo địa hình bờ biển phức tạp không giống nhau của các quốc

gia ven biển, UNCLOS ghi nhận hai phương pháp xác định đường cơ sở:
Phương pháp đường cơ sở thông thường: Đường cơ sở thông thường
dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ
biển, như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển
chính thức công nhận.25 Việc xác định ngấn nước thủy triều thấp nhất là một
quy trình khá đơn giản. Ưu điểm của phương pháp này là phản ánh đúng
đường bờ biển thực tế, hạn chế việc mở rộng thái quá các vùng biển. Mặt
khác, có hạn chế là phương pháp này khó áp dụng đối với các bờ biển khúc
khuỷu, phức tạp hoặc có nhiều đảo gần bờ.
Phương pháp đường cơ sở thẳng: Đây là phương pháp nối liền những
điểm thích hợp được lựa chọn (điểm ngoài cùng nhô ra nhất của bờ biển khi
ngấn nước thủy triều xuống thấp nhất) của bờ biển, các đảo ven bờ tạo thành
một đường liên tiếp gãy khúc và đường này chính là đường cơ sở của quốc
gia ven biển.
UNCLOS quy định một số điều kiện khi áp dụng phương pháp đường
cơ sở thẳng:
24 Đối với quốc gia quần đảo, vùng nước quần đảo cũng là bộ phận lãnh thổ thuộc chủ quyền của quốc gia
đó.
25 Điều 5 UNCLOS.


22

- Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm;
- Ở nơi nào có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển;
- Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và
những đặc điểm tự nhiên khác.
Ngoài ra quốc gia ven biển còn phải đảm bảo đường cơ sở không được
đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển và các vùng biển ở bên trong
đường cơ sở này phải gắn với đất liền đủ đến mức đạt được chế độ nội

thủy.26
Sau khi xác định được đường cơ sở, quốc gia ven biển sẽ xác định các
vùng biển của mình mà trước tiên là nội thủy. Nội thủy là vùng nước ở phía
bên trong đường cơ sở. Phụ thuộc vào địa hình bờ biển của từng quốc gia,
nội thủy có bộ phận cấu thành tương đối phong phú, trong một số trường hợp
bao gồm cửa sông, vịnh thiên nhiên, cảng biển và vũng đậu tàu.
Cảng biển:
Cảng biển là khu vực có cửa thông ra biển, nơi tàu thuyền thường qua
lại bốc, xếp hàng hoá, sửa chữa, bảo dưỡng, tránh gió bão. Định nghĩa quy
chế pháp lý cảng biển của Viện Luật quốc tế quy định: “các cảng không chỉ
được đặt dưới quyền chủ quyền của quốc gia ven biển mà lãnh thổ của họ
tiếp giáp với cảng mà còn cấu thành bộ phận lãnh thổ của các quốc gia đó”.27
UNCLOS tại Điều 11 đã đưa ra quy định về Cảng: “Để ấn định ranh giới
lãnh hải, các công trình thiết bị thường xuyên là bộ phận hữu cơ của một hệ
thống cảng, nhô ra ngoài khơi xa nhất, được coi là thành phần của bờ biển.
Các công trình thiết bị ở ngoài khơi xa bờ biển và các đảo nhân tạo không
được coi là những công trình thiết bị cảng thường xuyên”.
Vũng đậu tàu:
Khái niệm này được hiểu như một khu vực biển có độ sâu, một nơi trú
đậu tự nhiên hoặc nhân tạo, nơi tàu thuyền dừng lại trước khi vào cảng hoặc
vào cửa sông, hoặc bốc xếp và chuyển tải hàng hoá với các phương tiện
khác. Vũng đậu tàu không nhất thiết phải nằm trong nội thuỷ.
Cửa sông:

26 Điều 7 UNCLOS.
27 Niên giám Viện Luật quốc tế, quyển XVII, 1898, tr. 273.


23


Trong trường hợp các con sông đổ ra biển trực tiếp, thì phần nước nội
thuỷ cũng được xác định là phần nước nằm bên trong đường cơ sở về phía
lục địa, khép cửa sông. Đường cơ sở này là một đường thẳng được kẻ ngang
qua cửa sông, nối liền các điểm ngoài cùng của ngấn nước triều thấp nhất ở
hai bên bờ sông.28
Vịnh thiên nhiên:
Điều 10 của UNCLOS định nghĩa vịnh tự nhiên do bờ biển của một
quốc gia bao bọc là một vùng lõm sâu rõ rệt vào đất liền mà chiều sâu của
vùng lõm đó so sánh với chiều rộng ở ngoài cửa của nó đến mức là nước của
vùng lõm đó được bờ biển bao quanh và vùng đó lõm sâu hơn là một sự uốn
cong của bờ biển. Tuy nhiên, vùng lõm chỉ được coi là một vịnh pháp lý nếu
nó thoả mãn hai điều kiện:
- Diện tích của vịnh ít nhất cũng bằng diện tích một nửa hình tròn có
đường kính là đường thẳng kẻ ngang qua cửa vào của vùng lõm. Theo Điều
10 khoản 3, diện tích của một vùng lõm được tính giữa ngấn nước triều thấp
nhất dọc theo bờ biển của vùng lõm và đường thẳng nối liền các ngấn nước
triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên. Nếu do có các đảo mà một
vùng lõm có nhiều cửa vào thì nửa hình tròn nói trên có đường kính bằng
tổng số chiều dài các đoạn thẳng cắt ngang các cửa vào đó. Diện tích các đảo
nằm trong một vùng lõm được tính vào diện tích chung của vùng lõm.
- Đường khép cửa vào tự nhiên của cửa vịnh không vượt quá 24 hải lý.
Trong trường hợp ngược lại thì cần phải vạch các đoạn cơ sở thẳng dài 24
hải lý ở phía trong cửa vịnh sao cho phía trong của nó có một diện tích nước
tối đa.
Vùng nội thủy có quy chế pháp lý tương tự như lãnh thổ đất liền, tại
đó quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ.
Chủ quyền này bao trùm lên cả vùng trời bên trên và vùng đáy biển và lòng
đất dưới đáy biển bên dưới vùng nước nội thuỷ. Tuy nhiên, do là một vùng
biển, việc thực hiện chủ quyền trong nội thủy vẫn có khác biệt so với thực
hiện chủ quyền trên đất liền, thể hiện qua quy chế ra vào và hoạt động của

tàu thuyền và vấn đề thực thi quyền tài phán của quốc gia ven biển.
2.1.1.2. Lãnh hải

28 Điều 9 UNCLOS.


24

Lãnh hải là vùng biển nằm phía bên ngoài tiếp liền với nội thủy, có
chiều rộng không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Ranh giới phía ngoài
lãnh hải chính là đường biên giới quốc gia trên biển.
Nếu như ở vùng đất liền và vùng nội thủy quốc gia có chủ quyền hoàn
toàn và tuyệt đối thì vùng lãnh hải dù cũng là một bộ phận của lãnh thổ quốc
gia nhưng lại chịu những hạn chế nhất định, thể hiện thông qua việc thừa
nhận quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài và vấn đề thực
thi thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển. Đây chính là điều kiện tạo
nên tính đặc thù, riêng biệt của lãnh hải so với nội thủy và lãnh thổ đất liền.
2.1.2. Thẩm quyền tài phán của quốc gia ven biển tại nội thủy
Trên cơ sở chủ quyền quốc gia, trong nội thủy, quốc gia ven biển thực
hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ như trên lãnh thổ đất liền.
Quốc gia ven biển có quyền tài phán đối với tàu thuyền nước ngoài thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật trong nội thủy của mình.
- Thẩm quyền tài phán dân sự:
Đối với tàu dân sự, thương mại nước ngoài, về nguyên tắc quốc gia
ven biển thực hiện thẩm quyền tài phán khi con tàu đang hoạt động hoặc neo
đậu trong nội thủy, trên cơ sở quốc gia thực hiện chủ quyền tương tự với
lãnh thổ đất liền. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy nếu vụ việc chỉ phát sinh trên
tàu và không liên quan, ảnh hưởng đến quốc gia ven biển, quốc gia này sẽ
không can thiệp; trong trường hợp trên, quốc gia tàu treo cờ sẽ thực hiện
quyền tài phán.

Đối với tàu thuyền Nhà nước dùng vào những mục đích không thương
mại và tàu quân sự, Công ước Bruxelles ngày 10 tháng 4 năm 1926 về quyền
miễn trừ của tàu Nhà nước đã trù định mọi miễn trừ về bắt, giữ, cầm cố, hay
các biện pháp tư pháp khác. Trong trường hợp tàu này có hành vi vi phạm,
quốc gia ven biển có quyền yêu cầu quốc gia tàu treo cờ chịu trách nhiệm và
thực hiện các biện pháp cần thiết.
- Thẩm quyền tài phán hình sự:
Đối với tàu dân sự, thương mại, theo nguyên tắc lãnh thổ, quốc gia
ven biển có quyền tài phán đối với vụ việc hình sự xảy ra trên con tàu đang
neo đậu và hoạt động trong nội thủy của quốc gia đó. Mặc dù không đề cập
một cách cụ thể song UNCLOS ngầm định cho phép quốc gia ven biển có


25

quyền tài phán đối với mọi vụ việc hình sự xảy ra trên tàu hay ngoài tàu đang
hoạt động trong nội thủy29.
Thực tiễn cho thấy, các quốc gia một mặt ghi nhận nguyên tắc quyền
tài phán theo lãnh thổ, mặt khác cơ quan có thẩm quyền của quốc gia ven
biển thường không xem xét, giải quyết những vụ vi phạm xảy ra trên con tàu,
trừ trường hợp người có hành vi vi phạm không phải là thuỷ thủ đoàn; khi
được thuyền trưởng hoặc đại diện cơ quan ngoại giao, lãnh sự của quốc gia
tàu treo cờ yêu cầu; hậu quả của vụ vi phạm mở rộng đến quốc gia ven biển.
Giải pháp nói trên đã được nhiều quốc gia thừa nhận và thực hiện trên thực
tế.
Tàu quân sự là tàu thuyền thuộc lực lượng vũ trang của quốc gia,
mang dấu hiệu bên ngoài thể hiện rõ quốc tịch nước đó, do một sĩ quan hải
quân phục vụ quốc gia đó chỉ huy; người chỉ huy này phải có tên trong danh
sách sĩ quan hay trong tài liệu tương đương và đoàn thuỷ thủ phải tuân theo
các điều lệnh kỉ luật quân sự.30 Tàu thuyền công vụ là tàu thuyền chuyên

dùng để thực hiện công việc hay hoạt động của nhà nước mang tính tổ chức
quyền lực - pháp lí nhằm thực hiện nhiệm vụ, chức năng của nhà nước không
vì mục đích thương mại.31
Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, nhiều quốc gia trao cho tàu
quân sự và tàu thuyền công vụ nước ngoài quyền miễn trừ tài phán32. Hiện
nay, quyền miễn trừ tài phán nói trên được pháp điển hóa trong các điều ước
quốc tế, đặc biệt là trong UNCLOS.33
Với tính chất là thành viên của tàu quân sự, thuyền trưởng cùng thủy
thủ đoàn được hưởng quyền miễn trừ xét xử về hình sự đối với hành vi xảy
29 Theo quy định tại khoản 2, Điều 27, quốc gia ven biển không thực hiện quyền tài phán đối với vụ việc
hình sự xảy ra trên con tàu khi con tàu đó thực hiện quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải. Ngược lại,
quốc gia ven biển có quyền áp dụng mọi biện pháp mà luật trong nước quy định nhằm tiến hành bắt giữ hay
dự thẩm trên con tàu nước ngoài đi qua lãnh hải, sau khi rời nội thủy. Điều này cho thấy, nếu quốc gia ven
biển có quyền tài phán hình sự đối với tàu thuyền nước ngoài đang thực hiện quyền qua lại không gây hại
trong lãnh hải, trong trường hợp con tàu đó rời nội thủy đi qua lãnh hải để ra biển, quốc gia đó đương nhiên
có quyền tài phán hình sự đối với tàu thuyền nước ngoài đang hoạt động trong vùng nội thủy.
30 Điều 29 UNCLOS.
31 Khoản 5 Điều 3 Luật Biển Việt Nam.
32 Có thể nêu một ví dụ về quyền miễn trừ tài phán của tàu quân sự và tàu công vụ nước ngoài: Năm 1812,
trong vụ The Exchange v. Mc. Faddon, Tòa tối cao của Mỹ kết luận: “Tòa cho rằng một trong những
nguyên tắc đã được luật pháp thừa nhận là tàu quân sự của một quốc gia, khi neo đậu và hoạt động tại
cảng của quốc gia ven biển được hưởng quyền miễn trừ tài phán của quốc gia đó”. U.S. Supreme Court,
The Exchange v. Mc. Faddon, 11 U.S. 7 Cranch 116 (1812). Tham khảo
/>33 Điều 32 UNCLOS.


×