Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo các điều ước quốc tế và kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 90 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nuôi con nuôi là vấn đề mang tính nhân đạo sâu sắc, là sự bảo vệ về
mặt pháp lý cần thiết đối với trẻ em, đặc biệt đối với những trẻ em sinh ra
trong hoàn cảnh khó khăn, mất mát, thiệt thòi về tình cảm, không được
hưởng trọn mái ấm gia đình, thiếu bàn tay chăm sóc, nuôi dưỡng của bố mẹ
và người thân. Hướng đến mục tiêu bảo vệ tốt nhất lợi ích cho trẻ em, vấn đề
này luôn nhận được sự quan tâm, chung tay thực hiện của mỗi quốc gia và
cộng đồng quốc tế. Do vậy, nuôi con nuôi đã sớm được ghi nhận và khẳng
định là một trong những quyền dân sự của trẻ em trong các văn kiện pháp lý
về quyền con người.
Đối với Việt Nam, một đất nước có dân số đông, từng phải gánh chịu
hậu quả nặng nề từ các cuộc chiến tranh thì việc bảo vệ quyền lợi cơ bản của
trẻ em luôn được đặt lên hàng đầu. Nhà nước ta chú trọng xây dựng mối quan
hệ gia đình, thiết lập quan hệ cha mẹ và con, giữa người nhận nuôi với đứa trẻ
được nhận nuôi, hướng đến xây dựng cuộc sống tốt hơn cho đứa trẻ, đảm bảo
cho những trẻ em có số phận bất hạnh có quyền được nhận làm con nuôi,
được chăm sóc, nuôi dưỡng của mái ấm gia đình.
Trong tiến trình hội nhập quốc tế, cùng với sự phát triển, giao lưu trên
nhiều phương diện giữa các quốc gia mà theo đó quan hệ nuôi con nuôi nói
chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng ngày càng gia tăng,
phát triển với quy mô rộng lớn. Đặc biệt, số lượng người nước ngoài xin nhận
trẻ em Việt Nam làm con nuôi có xu hướng ngày càng tăng và bắt đầu có
những diễn biến đa dạng và phức tạp hơn. Bên cạnh mục đích cao đẹp của
việc nuôi con nuôi hướng đến thì còn xuất hiện những hành vi, việc làm phi
đạo đức, trái lương tâm. Lợi dụng danh nghĩa, mục đích của việc nuôi con
nuôi để thu gom, môi giới, dẫn dắt mua bán trẻ em nhằm mục đích kiếm lời.
Từ thực tế này, đòi hỏi cần có những giải pháp khắc phục, đòi hỏi luật pháp
Việt Nam cần xây dựng chế tài điều chỉnh, giải quyết một cách hiệu quả.




2

Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm cho những trẻ em có hoàn cảnh
thiệt thòi, trong đó đã tiến hành xây dựng hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích cho trẻ em. Cụ thể, Luật Nuôi con nuôi do Quốc hội ban
hành, có hiệu lực từ ngày 01/01/2011, Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi cùng hàng loạt các văn
bản pháp luật khác được ban hành đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong
quá trình pháp điển hóa các quy phạm pháp luật vào thực tiễn giải quyết các
vấn đề liên quan đến nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài nói riêng, tạo cơ sở pháp lý thống nhất và ổn định lâu dài cho công tác
quản lý nhà nước về nuôi con nuôi. Mặt khác, trước yêu cầu hội nhập quốc tế,
Việt Nam đã tham gia và ký kết các điều ước quốc tế song phương và đa
phương về vấn đề nuôi con nuôi nhằm tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu để có thể
bảo vệ quyền lợi của trẻ em được nhận làm con nuôi nước ngoài.
Từ những lý do trên luận văn tập trung vào việc nghiên cứu: “Nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài theo các điều ước quốc tế và kinh nghiệm
cho Việt Nam”, để có thể nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về vấn đề
nuôi con nuôi theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Điều này sẽ
góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc, hoàn thiện pháp luật Việt Nam, thúc
đẩy sự hợp tác chặt chẽ với cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ quyền lợi của
trẻ em.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là chế định pháp lý quan trọng, có
ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống, hướng đến bảo vệ quyền lợi cho những trẻ
em có hoàn cảnh thiệt thòi, bất hạnh. Do đó, đây là vấn đề nhận được sự quan
tâm, nghiên cứu của nhiều nhà lý luận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Công trình đầu tiên có tính hệ thống về vấn đề này là chuyên đề “Chế

định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam và quốc tế” được Viện Khoa học
pháp lý Bộ Tư pháp xuất bản vào năm 1998.
Đặc biệt, trong thời gian Việt Nam đang xem xét để gia nhập Công
ước Lahay 1993 đã có nhiều hội thảo đề cập đến quan hệ nuôi con nuôi có


3

yếu tố nước ngoài. Cụ thể, vào tháng 10/2003 Bộ Tư pháp đã tổ chức Hội
thảo “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam hướng tới gia nhập Công ước Lahay về
bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi”. Trong hội thảo, đã có
nhiều báo cáo tham luận chi tiết, cụ thể về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài; Đề tài nghiên cứu khoa học vào tháng 10/2005 của Cục con nuôi
quốc tế - Bộ Tư pháp “Hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài trước yêu cầu gia nhập Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và
hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế”; Hội thảo khoa học:“Nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài theo Luật nuôi con nuôi năm 2010” của Trường
Đại học Luật Hà Nội.
Ngoài ra, vấn đề về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn được đề
cập trong một số công trình nghiên cứu khoa học như: đề tài luận án tiến sỹ
“Pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” của tác giả
Nguyễn Công Khanh; đề tài luận án tiến sỹ “Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia
đình có yếu tố nước ngoài” của tác giả Nguyễn Hồng Bắc; đề tài luận văn
thạc sỹ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nuôi con nuôi theo quy định của
pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Phương Lan; đề tài luận văn thạc sỹ
“Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hướng
tới gia nhập Công ước Lahay 1993” của tác giả Đào Thị Thu Hường.
Cùng một số bài viết chuyên khảo trên các tạp chí “Nhà nước và pháp
luật”, “Dân chủ và pháp luật”, “Nghiên cứu lập pháp”, “Tạp chí luật học”.
Cụ thể, như bài viết “Tìm hiểu về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Thụy

Điển” của tác giả Đào Thu Hường trên tạp chí Luật học số 1/2008 của
Trường Đại học Luật Hà Nội; bài viết “Việt Nam và các điều ước quốc tế đã ký
kết về nuôi con nuôi” của tác giả Vũ Đức Long trên tạp chí Luật học số 5/2000
của Trường Đại học Luật Hà Nội; bài viết “Bản chất pháp lý của việc Nuôi con
nuôi (NCN) theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Phương Lan trên tạp
chí Luật học số 03/2014 của Trường Đại học Luật Hà Nội…
Các công trình đã đề cập đến những khía cạnh, nghiên cứu nhiều mặt,
nhiều góc độ của quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, tác động tích


4

cực đến sự thay đổi, phát triển của hệ thống pháp luật. Do đó, cần tiến hành
nghiên cứu, làm sáng tỏ vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo các
điều ước quốc tế, nhất là trong giai đoạn hiện nay Việt Nam đã là thành viên
của Công ước Lahay năm 1993.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung phân tích, làm sáng tỏ những lý luận cơ bản về vấn
đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo các điều ước quốc tế song
phương, đa phương mà Việt Nam đã ký kết. Đồng thời, tìm hiểu một cách có
hệ thống quy định của Pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài để đánh giá sự tương đồng, khác biệt giữa pháp luật quốc gia và
pháp luật quốc tế về vấn đề nuôi con nuôi.
Từ những số liệu thống kê cụ thể, từ những nghiên cứu, đánh giá về
thực trạng pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại
Việt Nam, tìm ra được những bất cập, hạn chế; từ đó luận văn r t ra các bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam để thực hiện hiệu quả công tác giải quyết
NCN có yếu tố nước ngoài, yêu cầu tiếp tục hoàn thiện theo hướng hài hòa,
tương thích với “nuôi con nuôi quốc tế” theo pháp luật quốc tế.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn

Thứ nhất, phân tích một số khái niệm cơ bản về chế định NCN có yếu
tố nước ngoài.
Thứ hai, phân tích nội dung các quy định về NCN được ghi nhận trong
các điều ước quốc tế song phương và đa phương mà Việt Nam là thành viên.
Thứ ba, đánh giá thực trạng pháp luật, việc triển khai và thực hiện
pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, từ đó đưa ra các bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn được xây dựng để trả lời cho hai câu hỏi chính:
Thứ nhất, mức độ tương thích, phù hợp giữa Pháp luật Việt Nam
với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết trong lĩnh vực nuôi con nuôi.


5

Thứ hai, thực trạng pháp luật về NCN có yếu tố nước ngoài ở Việt
Nam, giải pháp nào cho thực trạng đó.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở lí luận và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật,
đề cao việc chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng và bảo vệ trẻ em; từ quan điểm
của Đảng và các nguyên tắc lý luận chung của khoa học pháp lý về vấn đề
này. Trong đó, tác giả đặc biệt sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như phân tích, tổng hợp, so sánh để nhấn mạnh được trọng tâm vấn đề cần
nghiên cứu.
7. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách hệ thống lý luận và thực
tiễn về các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong mối tương quan với sự điều chỉnh
của các điều ước quốc tế song phương và đa phương, luận văn đã r t ra bài

học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện pháp luật điều
chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Đặt trong bối cảnh thay đổi, chuyển biến mạnh mẽ của tình hình thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã có những tác động lớn đến quan hệ
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Đặc biệt, vào ngày 27/5/2016 vừa qua Bộ
trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Kế hoạch tổng kết 04 năm thi hành Công
ước La Hay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc
tế, 05 năm thi hành Luật nuôi con nuôi và Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày
21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật nuôi
con nuôi nhằm đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập,chỉ
rõ ra nguyên nhân, tìm ra giải pháp để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác nuôi con nuôi. Do đó, với mong muốn kết quả nghiên cứu, những đề
xuất, kiến nghị của Luận văn có thể đóng góp, bổ sung một phần nhỏ về mặt
lý luận của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế, quốc tế hiện nay. Các nội dung,


6

bài học kinh nghiệm được đ c r t ra trong luận văn có thể được áp dụng để
giải quyết những vấn đề được đặt ra trong thực tiễn. Ngoài ra, kết quả nghiên
cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình tìm hiểu
những quy định của pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm có:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài.
- Chương 2: Nuôi con nuôi theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia.

- Chương 3: Thực trạng và một số bài học kinh nghiệm để hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.


7

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
CƠ BẢN VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
1.1.

hái quát về nu i on nu i ó ếu tố nƣớ ngo i

Để có thể hiểu rõ về chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, thì
cần phải làm rõ, xác định dưới góc độ của pháp luật Việt Nam thì những
trường hợp nào là nuôi con nuôi, trường hợp nào là nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài?
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi
Quan hệ nuôi con nuôi là quan hệ đặc biệt. Ban đầu, nuôi con nuôi là
hiện tượng xã hội xuất hiện từ lâu trong lịch sử nhằm đáp ứng các nhu cầu
thiết yếu của con người, thể hiện mối quan hệ gắn bó của con người với nhau
trên cơ sở những lợi ích chung, dần dần nó được thể chế hóa thành chế định
pháp lý.
Dưới góc độ xã hội: E.A.Weinstein đã đưa ra định nghĩa về nuôi con
nuôi trong từ điển bách khoa toàn thư về các môn khoa học xã hội như sau:
“Theo nghĩa rộng và không mang tính pháp lý thì nuôi con nuôi được định
nghĩa như một thực tiễn xã hội được thể chế hóa, theo đó một cá nhân thuộc
về một gia đình hoặc một nhóm mang tính chất gia đình do sinh ra tiếp nhận
những liên hệ mới mang tính chất gia đình và những liên hệ mới này được xã
hội coi như ngang bằng với những mối liên hệ ruột thịt và thay thế một phần
hoặc toàn bộ những mối liên hệ đó”.1

Nuôi con nuôi là việc một đứa trẻ được người không phải cha mẹ đẻ
nhận và nuôi dưỡng như con đẻ của mình. Mối quan hệ xã hội được thiết lập
giữa người nhận nuôi con nuôi với người được nhận làm con nuôi nhằm
hình thành quan hệ cha mẹ và con trong những mối liên hệ gia đình mới để

Theo E.A.Weinstein, “Adoption”, in International Encyclopedia of the Social Sciences, New
York, 1968, P.97 trích trong tài liệu: “Nguyễn Phương Lan” (2007) Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế
định pháp lý về nuôi con nuôi ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr 17-18.
1


8

thỏa mãn những nhu cầu tình cảm, đạo đức hoặc lợi ích vật chất nhất định
của hai bên.2
Dưới góc độ pháp lý: Quan hệ nuôi con nuôi tạo ra mối quan hệ cha mẹ
và con giữa người nhận nuôi và con nuôi trên phương diện pháp lý. Theo đó,
quan hệ giữa người nhận nuôi và con nuôi chỉ tồn tại liên hệ về mặt pháp lý của
cha mẹ và con chứ không tồn tại quan hệ đó theo huyết thống, sinh học giữa
hai bên.3 Vấn đề này được Francoise Dekeiner Defose nhận định trong cuốn
“Quyền trẻ em” là “Nuôi con nuôi là một cách thực hiện hợp pháp một quan hệ
dòng giống theo pháp lý, không có gì liên quan gì với thực tế sinh học”.
Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm nuôi con nuôi đã được quy định
tại Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “Nuôi con nuôi là việc xác
lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận
làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội”.
Điều này tiếp tục được kế thừa và ghi nhận tại khoản 1 Điều 3 Luật
Nuôi con nuôi năm 2010: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và
con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”.

Như vậy, có thể hiểu nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội đặc biệt,
được pháp luật quy định nhằm xác lập mối quan hệ giữa cha mẹ nhận nuôi và
con được nhận nuôi với nhau thông qua việc đăng ký tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khi các bên đã đạt đủ những điều kiện cần thiết, vì lợi ích tốt nhất
cho người được nhận làm con nuôi. Quan hệ nuôi con nuôi giữa đứa trẻ được
nhận nuôi và cha mẹ nuôi được nhà nước công nhận và bảo vệ. Cha mẹ nuôi
và con nuôi sẽ có những nghĩa vụ và quyền lợi tương tự như giữa cha mẹ đẻ
và con ruột theo quy định của pháp luật.

Phạm Thùy Dương (2006), Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài - Thực trạng
và phương hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 43.
3
Nguyễn Hà Liên (2011), Việt Nam với Công ước Lahay 1993 về bảo vệ quyền trẻ em và hợp tác
trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 4.
2


9

1.1.2. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài là quan hệ trong phạm vi quan hệ
hôn nhân và gia đình thuộc phạm trù quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu
tố nước ngoài.
Luật NCN năm 2010 vẫn giữ nguyên phạm trù về nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài. Về cơ bản, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đều giống nuôi
con nuôi trong nước ở chỗ xác lập quan hệ cha mẹ và con dựa trên sự công
nhận của pháp luật mà không phải cùng huyết thống hay do sinh ra. Dưới góc
độ tư pháp quốc tế, quan hệ được coi là có yếu tố nước ngoài khi quan hệ đó có
một trong các yếu tố cấu thành mang tính nước ngoài. Tức là chủ thể của quan
hệ có yếu tố nước ngoài, hoặc sự kiện pháp lý có yếu tố nước ngoài, hoặc tài

sản để thực hiện quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài.4
Cụ thể, theo khoản 5 Điều 3 Luật NCN năm 2010: “Nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam, giữa
công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài”. Theo quy
định trên thì quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài bao gồm các quan hệ sau:
- Quan hệ NCN giữa người nước ngoài với trẻ em Việt Nam cư tr
trên lãnh thổ Việt Nam hoặc cư tr ở nước ngoài.
- Quan hệ NCN giữa công dân Việt Nam với trẻ em nước ngoài ở Việt
Nam hoặc ở nước ngoài.
- Quan hệ NCN giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả hai
bên định cư nước ngoài.
- Quan hệ NCN giữa người nước ngoài với nhau phát sinh tại Việt Nam.
Như vậy, quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài là việc xác lập quan hệ
cha, mẹ và con giữa hai bên chủ thể khác quốc tịch hoặc cùng quốc tịch
nhưng sự kiện nhận nuôi xảy ra ở nước ngoài. Do đó, yếu tố nước ngoài trong

Nguyễn Thanh Huyền (2012), Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp
luật Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 8.
4


10

quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài sẽ được xem xét dưới các góc độ,
bao gồm: yếu tố chủ thể, sự kiện pháp lý và nơi cư tr .
- Yếu tố chủ thể: Chủ thể tham gia vào quan hệ NCN có yếu tố nước
ngoài có ít nhất một trong các bên tham gia là người nước ngoài. Do đó, công
dân Việt Nam và người nước ngoài là 2 loại chủ thể cơ bản trong quan hệ
NCN có yếu tố nước ngoài.

+ Thứ nhất, chủ thể là công dân Việt Nam khi tham gia vào quan hệ
NCN có yếu tố nước ngoài phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi
theo quy định của pháp luật Việt Nam. Năng lực pháp luật và năng lực hành
vi ở đây được xác định trên cơ sở các quy định của pháp luật dân sự. Đây là
những thuộc tính không thể thiếu đối với chủ thể pháp luật.
+ Thứ hai, chủ thể là người nước ngoài.
Để hiểu và nhận biết như thế nào là người nước ngoài thì pháp luật
Việt Nam và pháp luật nhiều nước trên thế giới đều lấy dấu hiệu “quốc tịch”
để định nghĩa về người nước ngoài. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì
người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có
quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch. Cụ thể:
Theo khoản 1 Điều 3 Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư tr của
người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014: “người nước ngoài là người mang
giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập cảnh,
xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam”.
Mặt khác, tại khoản 1 Điều 3 Luật quốc tịch năm 2008: “quốc tịch
nước ngoài là quốc tịch của một nước khác không phải là quốc tịch Việt Nam”.
Khoản 2 Điều 3 Luật quốc tịch năm 2008: “người không quốc tịch là
người không có quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài”.
Như vậy, có thể hiểu người nước ngoài là người không mang quốc
tịch của nước sở tại. Để tham gia vào quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài thì
người nước ngoài phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi theo pháp
luật của nước mà người đó là công dân hoặc pháp luật của nước mà người đó
thường trú nếu người đó là người không quốc tịch.


11

- Sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ
NCN xảy ra ở nước ngoài.

Trong trường hợp, chủ thể tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu
tố nước ngoài đều cùng quốc tịch thì yêu cầu sự kiện pháp lí làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài phải là sự kiện
pháp lý xảy ra ở nước ngoài.
Sự kiện pháp lí chính là hành vi pháp lý. Hành vi pháp lý là hành vi
hợp pháp xảy ra do các chủ thể trong quan hệ NCN thực hiện (làm chấm dứt
quan hệ nhân thân và tài sản của đứa trẻ với cha, mẹ đẻ và phát sinh những
quan hệ đó giữa cha mẹ nuôi và con nuôi). Theo đó, hành vi của những người
tham gia quan hệ pháp luật NCN nhằm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền
và nghĩa vụ trong lĩnh vực NCN được thực hiện ở nước ngoài. Trong trường
hợp cần thiết, có thêm quyết định của cơ quan có thẩm quyền công nhận sự
kiện hoặc hành vi theo thủ tục luật định.
Việc xác định đ ng thời điểm mà sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quan hệ NCN có ý nghĩa rất quan trọng, nó gi p cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xác định đ ng luật áp dụng để giải quyết xung đột pháp
luật phát sinh giữa các bên, từ đó áp dụng luật chính xác trong việc giải
quyết tranh chấp liên quan đến các chủ thể tham gia quan hệ NCN có yếu tố
nước ngoài.
- Yếu tố cư trú của các bên tham gia quan hệ NCN
Ngoài hai yếu tố được đề cập trên thì yếu tố cư tr của đương sự cũng
được xác định là yếu tố hình thành quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài. Theo
đó, khi nói đến yếu tố cư tr của các bên tham gia vào quan hệ NCN có yếu tố
nước ngoài có thể xảy ra 2 trường hợp. Cụ thể:
+ Thứ nhất, công dân Việt Nam cư tr tại nước ngoài.
Theo khoản 3 Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam 2008 thì “Người Việt
Nam định cư ở nước ngoài là công dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư
trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”. Điều này được áp dụng đối với quan hệ


12


NCN có yếu tố nước ngoài giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên
hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài.
+ Thứ hai, người nước ngoài cư tr tại Việt Nam.
Theo khoản 5 Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam 2008 thì “người nước
ngoài cư trú tại Việt Nam là công dân nước ngoài hoặc người không quốc
tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam”.
Hiện nay, quan hệ NCN giữa người nước ngoài thường trú tại Việt
Nam phát sinh ngày càng nhiều, và pháp luật để điều chỉnh quan hệ NCN khi
họ tham gia tại Việt Nam là pháp luật Việt Nam (tức là áp dụng luật nơi cư tr
của đương sự). Việc áp dụng pháp luật nơi cư tr để điều chỉnh quan hệ NCN
khi người nước ngoài tham gia tại Việt Nam là hoàn toàn phù hợp với thực tế.
Như vậy, quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài thuộc quan hệ dân sự có
phạm vi khá rộng, được quy định cụ thể tại Điều 28 Luật NCN năm 2010. Để
xác định về một quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài thì căn cứ vào một trong
3 yếu tố được đề cập ở trên. Việc mở rộng yếu tố nước ngoài là hết sức cần
thiết, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay của nước ta trong tiến trình hội
nhập quốc tế. Và pháp luật áp dụng để giải quyết quan hệ NCN có yếu tố
nước ngoài không chỉ là pháp luật của Việt Nam mà còn có thể là pháp luật
của một nước khác. Do đó, để quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có
giá trị pháp lý thì nó cần sự công nhận, xác thực của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của cả hai bên.
1.2. Pháp luật Việt Nam về quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, lĩnh vực nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài tại Việt Nam đã có những sự thay đổi, chuyển biến tích cực
cùng với sự ra đời của Luật NCN năm 2010. Bao gồm các nội dung cụ thể:
1.2.1. Nguyên tắc giải quyết trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài
Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam được
ghi nhận tại Điều 4 Luật NCN 2010. Bao gồm 3 nguyên tắc cơ bản sau:



13

- Thứ nhất, khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của
trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc.
Gia đình gốc là gia đình của những người có quan hệ huyết thống
(khoản 8 Điều 3 Luật NCN). Như vậy, môi trường gia đình gốc được hiểu là
môi trường sống mà ở trong đó có bố, mẹ, ông, bà, anh, chị, em ruột của trẻ
em. Đó là môi trường bao bọc giữ gìn và bảo vệ cá nhân, vừa là môi trường
sản sinh ra tình cảm yêu thương, gần gũi và gắn bó máu thịt giữa những người
trong gia đình đối với nhau kể từ khi sinh ra đến khi chết.5
Từ thực tế cùng các nghiên cứu khoa học cho thấy về mặt tâm lý, văn
hóa, xã hội thì gia đình nơi trẻ em được sinh ra là môi trường tốt nhất cho sự
phát triển của trẻ em. Do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, nên trẻ em cần
được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt trong bầu không khí yêu thương, hạnh phúc
từ gia đình. Sự có mặt của cha và mẹ trong gia đình gốc có ảnh hưởng tích
cực đến tâm sinh lý ở trẻ em. Do vậy, nguyên tắc tôn trọng quyền của trẻ em
được sống trong môi trường gốc là nguyên tắc đầu tiên, quan trọng và chi
phối nhiều quy định khác trong luật. Điều này thể hiện rất rõ qua “thứ tự ưu
tiên lựa chọn gia đình thay thế”, ưu tiên đầu tiên là đối với những người thân
trong gia đình, là những người có quan hệ nuôi dưỡng hoặc huyết thống như
cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì, chú, bác ruột rồi sau đó mới đến công dân, gia
đình Việt Nam ở trong nước (Điều 5 Luật NCN năm 2010).
- Thứ hai, việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình
đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
NCN có yếu tố nước ngoài được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, các
bên liên quan (cha mẹ đẻ, con nuôi, cha mẹ nuôi) không chịu bất cứ sự ép
buộc, đe dọa hay yêu cầu nào. Trong trường hợp, có dấu hiệu lừa dối, ép buộc

đối với một trong các bên trong quan hệ NCN thì quan hệ giữa cha mẹ nuôi

Nguyễn Văn Bình (2011), “Luật nuôi con nuôi sự quan tâm lớn của nhà nước và xã hội đối với trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt”, Tạp chí dân chủ và pháp luật (số chuyên đề), tr. 5.
5


14

và con nuôi không được thừa nhận trước pháp luật, thậm chí nếu sai phạm, vi
phạm pháp luật quá lớn thì sẽ phải chịu sự trừng phạt nghiêm khắc của pháp luật.
Ngoài ra, NCN có yếu tố nước ngoài phải đảm bảo đ ng với chuẩn
mực xã hội, thuần phong mỹ tục của Việt Nam đảm bảo cho đứa trẻ được lớn
lên trong một môi trường tốt nhất, bảo vệ quyền và lợi ích cho trẻ em.
- Thứ ba, chỉ cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài khi không thể tìm
được gia đình thay thế ở trong nước.
Như đã đề cập tại nguyên tắc thứ nhất, ưu tiên hàng đầu trong việc tìm
gia đình thay thế cho trẻ em là tìm một gia đình trong nước nhận nuôi các
em. Một mặt, tạo điều kiện cho trẻ em được nuôi dưỡng tại quê hương mình,
giúp trẻ em đỡ bỡ ngỡ, thích ứng nhanh chóng hơn với môi trường mới. Mặt
khác, gi p Nhà nước có thể dễ dàng trong hoạt động quản lý, thực hiện hành
động bảo vệ trẻ em sau khi được nhận con nuôi hơn so việc trẻ em trở thành
con nuôi nước ngoài không thường trú tại Việt Nam. Do đó, chỉ sau khi đã
xem xét thỏa đáng các giải pháp trong nước mà không tìm được mái ấm cho
trẻ thì mới tính đến việc cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài.
1.2.2. Điều kiện nuôi con nuôi
1.2.2.1. Điều kiện đối với người được nhận nuôi
Nhằm bảo vệ quyền lợi của người được nhận làm con nuôi, hạn chế
những trường hợp lừa đảo, mua bán trẻ em ra nước ngoài… Luật NCN năm
2010 đã xác định trẻ em được cho làm con nuôi nước ngoài phải là những trẻ

em đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Về độ tuổi của người được nhận nuôi
Theo tinh thần của Điều 8 Luật NCN thì điều kiện về độ tuổi đối với
trẻ em được nhận nuôi là dưới 16 tuổi. Đặc biệt, người từ đủ 16 đến dưới 18
tuổi cũng có thể được cho làm con nuôi của cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, dì,
chú, bác ruột...
Đây là điểm mới của Luật NCN năm 2010 so với khoản 1 Điều 36
Nghị định 69/2006/NĐ-CP về độ tuổi của trẻ em được nhận nuôi khi nâng độ
tuổi từ 15 đến dưới 16 tuổi. Cụ thể theo quy định tại Nghị định 69/2006/NĐ-


15

CP: “Trẻ em được nhận làm con nuôi phải là trẻ em từ mười lăm tuổi trở
xuống. Trẻ em từ trên mười lăm tuổi đến dưới mười sáu tuổi có thể được nhận
làm con nuôi nếu là trẻ em tàn tật, trẻ em mất năng lực hành vi dân sự”.
Nâng độ tuổi của trẻ được cho làm con nuôi đã tạo điều kiện cho
nhiều trẻ em có thể tìm được mái ấm gia đình cho mình hơn. Căn cứ vào đặc
tính thể chất, ở lứa tuổi này các em chưa có khả năng tự lập nên cần được
nuôi dưỡng, quan tâm, giáo dục và chăm sóc của gia đình. Mặt khác, đây là
giai đoạn vô cùng quan trọng để giúp các em hoàn thiện về bản thân cũng như
cuộc sống, nên mở rộng cơ hội cho các em được nhận làm con nuôi thì càng
tốt. Có thể thấy, điểm mới về quy định về độ tuổi của trẻ em được nhận nuôi
con nuôi trong Luật NCN nhằm đảm bảo sự hài hòa, tương thích với độ tuổi
được quy định trong Luật chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em năm 2005
(theo Điều 1, trẻ em theo quy định Luật này là công dân Việt Nam từ 16 tuổi
trở xuống). Đồng thời, xây dựng được tính thống nhất của hệ thống pháp luật
trong nước trên cơ sở tôn trọng pháp luật quốc tế về vấn đề nuôi con nuôi.
- Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc cả
hai người vợ chồng (khoản 2 Điều 8 Luật NCN)

Đây là quy định mới của Luật NCN năm 2010. Theo đó, Luật chỉ cho
phép một cá nhân hoặc cả hai vợ chồng nhận nuôi con nuôi mà không cho
phép người đã có vợ hoặc chồng nhận con nuôi riêng, việc nuôi con nuôi đòi
hỏi sự đồng thuận, thống nhất của hai vợ chồng. Đây cũng là điều luật nhằm
đảm bảo cho trẻ được nhận làm con nuôi có một môi trường gia đình trọn
vẹn, có được sự yêu thương của tất cả các thành viên trong gia đình. Thực tế
cho thấy đây là vấn đề cần được cần được cân nhắc kỹ khi giải quyết việc cho
nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài ở nước ta. Khi mà hầu hết luật pháp các
nước khi quy định đối với người nhận nuôi là cá nhân đều xây dựng các điều
kiện nhằm bảo vệ, phòng tránh trường hợp trẻ em bị lạm dụng tình dục.
Chẳng hạn, pháp luật một số nước (như Malaysia, Singapore) quy định không


16

cho phép người độc thân là nam giới nhận trẻ em là nữ, trừ trường hợp đặc
biệt do Tòa án quyết định.6
1.2.2.2. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi
- Điều kiện chung:
Người nước ngoài để có thể nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi thì
bất kì cá nhân, cặp vợ chồng đều phải đáp ứng được đầy đủ các điều kiện do
pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước người đó mang quốc tịch, pháp luật
của nước người đó sinh sống quy định (theo Điều 29, Điều 14 Luật NCN
2010). Như vậy, pháp luật Việt Nam đã kết hợp giữa nguyên tắc luật nơi
thường trú và luật Việt Nam để điều chỉnh điều kiện của người nhận nuôi.
Cụ thể:
+ Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài
thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các
điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và quy
định tại Điều 14 Luật NCN.

+ Đối với công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải
có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam (Điều 14) và pháp luật
của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường trú (khoản 4 Điều 29).
Theo quy định Điều 14 Luật NCN thì người nhận nuôi con nuôi phải
có đủ các điều kiện sau đây:
+ Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Nghĩa là người đó phải có đủ
các điều kiện cần thiết để được công nhận là người thành niên, đủ năng lực
hành vi dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam;
+ Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
+ Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Đây chính là điều kiện hết sức quan trọng và
cần thiết để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi phát triển tốt;
+ Có tư cách đạo đức tốt.
Đỗ Thị Ngọc (2011), “Người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”, Tạp chí dân chủ
và pháp luật (số chuyên đề), tr. 83.
6


17

Đây là những điều kiện cần thiết để khẳng định về tư cách đạo đức, ý
thức pháp luật, điều kiện về thời gian, về khả năng kinh tế, tài chính của
người nhận nuôi con nuôi, đảm bảo cho trẻ em được nhận làm con nuôi được
chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt nhất trong môi trường gia đình lành
mạnh. Riêng đối với trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế
nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận
cháu làm con nuôi thì được miễn các điều kiện về độ tuổi và điều kiện về sức
khỏe, kinh tế nhằm đảm bảo ưu tiên trẻ được sống trong môi trường gốc.
- Điều kiện riêng:
+ Trường hợp nhận con nuôi thông thường: Theo khoản 1 Điều 28

Luật NCN thì cha mẹ nuôi là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người
nước ngoài thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi
con nuôi với Việt Nam thì mới có thể nhận con nuôi là người Việt Nam (tức
là trong trường hợp cha mẹ nuôi là người nước ngoài thì yêu cầu phải định cư
tại quốc gia cùng tham gia một hoặc nhiều điều ước đa phương với Việt Nam
có nội dung liên quan đến việc nhận nuôi con nuôi giữa công dân hai nước).
Đây là điều kiện đảm bảo các quốc gia tiến hành việc quản lý và giải
quyết việc cho nhận con nuôi diễn ra nhanh chóng, thuận lợi trên cơ sở nội
dung các điều ước quốc tế mà hai bên đã ký kết. Đảm bảo cho trẻ em sau khi
được nhận nuôi sẽ được cha mẹ yêu thương, hưởng đầy đủ quyền của mình
khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước và pháp luật các bên.
Đồng thời, khoản 2 Điều 14 Luật NCN có quy định về những trường
hợp không được nhận con nuôi tại Việt Nam. Đây là những người có thể gây
ảnh hưởng bất lợi cho trẻ em về mặt giáo dục, nhận thức, tính cách và không
đảm bảo được sự nuôi dưỡng tốt nhất đối với trẻ em được nhận nuôi. Cụ thể
như người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên; người chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở
chữa bệnh; người đang chấp hành hình phạt tù; chưa được xóa án tích về một
trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của
người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu,


18

người có công nuôi dưỡng mình, dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa
thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
+ Trường hợp nhận con nuôi đích danh: Là trường hợp người nhận
nuôi không thông qua sự giới thiệu của các cơ quan, tổ chức mà sẽ chỉ đích
danh người mình muốn nhận nuôi thì người đó phải đáp ứng các điều kiện
sau: “Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận nuôi; là cô, cậu, dì, chú, bác

ruột của người được nhận nuôi; có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em
được nhận làm con nuôi; nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc
bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi; là người nước ngoài đang làm việc, học
tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 1 năm”.
Quy định này nhằm tạo điều kiện, ưu tiên cho những người đã có quan
hệ với người được nhận nuôi từ trước đó hoặc vì mục đích nhân đạo, chăm
sóc những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt (thiệt thòi, bất hạnh, khuyết tật)…
Tạo điều kiện thuận lợi cho người được nhận nuôi cũng như người nhận con
nuôi, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam, nhằm đảm bảo lợi ích
tốt nhất cho người được nhận làm con nuôi.
1.2.3. Trình tự, thủ tục xác lập quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài
Luật NCN đã xây dựng quy trình, thủ tục giải quyết các vấn đề liên
quan đến quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài nhằm tạo ra một hành lang pháp
lý chặt chẽ, phù hợp, bảo vệ lợi ích của các bên liên quan trong quan hệ NCN
có yếu tố nước ngoài.
1.2.3.1. Cơ quan có thẩm quyền
Theo pháp luật Việt Nam, thẩm quyền giải quyết NCN có yếu tố nước
ngoài thuộc về Bộ Tư Pháp, Sở Tư pháp và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
- UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có trẻ được nhận
làm con nuôi nước ngoài (nơi thường trú của trẻ em; nơi có trụ sở của cơ sở
nuôi dưỡng trẻ em quyết định cho trẻ em đó làm con nuôi) là cơ quan có
quyền quyết định cho trẻ em đó làm con nuôi.


19

- Sở Tư pháp là cơ quan có thẩm quyền thực hiện đăng ký việc nuôi
con nuôi nước ngoài sau khi có quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

- Bộ Tư pháp là cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, giám sát việc đăng
ký NCN nước ngoài, đầu mối trong việc đảm bảo thực thi, tạo điều kiện trao
đổi thông tin với các nước.
1.2.3.2. Trình tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi
Trình tự, thủ tục đăng ký nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trải
qua các bước sau:
Bước 1: Nộp hồ sơ xin nhận con nuôi (khoản 3 Điều 31 Luật NCN).
Hồ sơ của người xin nhận con nuôi sẽ lập thành hai bộ với các loại
giấy tờ được quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật NCN cho Bộ Tư Pháp thông
qua cơ quan Trung ương về NCN của nước nơi người đó thường trú. Trong
trường hợp là nhận con nuôi đích danh thì có thể nộp trực tiếp cho Bộ Tư
pháp của Việt Nam (kèm theo một số giấy tờ được quy định tại Điều 13 Nghị
định 19/2011/NĐ-CP).
Bước 2: Bộ Tư pháp kiểm tra, chuyển hồ sơ cho Sở Tư pháp (khoản 3
Điều 34 Luật NCN).
Bộ Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra và xử lý hồ sơ của người nhận nuôi.
Sau khi hết thời hạn thông báo tìm gia đình thay thế theo quy định tại khoản 2
Điều 15 mà trẻ em không được người trong nước nhận nuôi thì BTP chuyển hồ
sơ của người nhận nuôi cho Sở Tư Pháp (STP) nơi có người được giới thiệu làm
con nuôi thường tr để xem xét, giới thiệu người đó làm con nuôi.
Trong trường hợp xin con nuôi đích danh thì BTP Việt Nam chuyển
hồ sơ cho Sở Tư pháp nơi trẻ em Việt Nam được nhận nuôi trường tr để
trình UBND cấp tỉnh xem xét và quyết định.
Bước 3: STP xử lý hồ sơ, báo cáo UBND cấp tỉnh quyết định (khoản 1
Điều 36 Luật NCN).
Trong thời gian 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ của người nhận
con nuôi, STP xem xét, giới thiệu người làm con nuôi và báo cáo UBND cấp
tỉnh. Trong thời gian này, STP phải tiến hành cả việc lấy ý kiến của những



20

người liên quan được quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật NCN nhằm bảo đảm
việc giới thiệu trẻ làm con nuôi là hoàn toàn tự nguyện của cha mẹ đẻ, người
giám hộ của trẻ. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do STP
trình, Nếu UBND đồng ý thì thông báo cho STP để làm thủ tục chuyển hồ sơ
cho Bộ Tư pháp; trường hợp không đồng ý thì trả lời bằng văn bản và nêu rõ
lý do.
Bước 4: BTP xem xét báo cáo kết quả giới thiệu của STP, thông báo
cho cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận con nuôi thường trú
(khoản 2 Điều 36 Luật NCN).
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả giới
thiệu người làm con nuôi, BTP kiểm tra việc giới thiệu người làm con nuôi,
nếu hợp lệ thì lập bản đánh giá việc người Việt Nam đủ điều kiện được làm
con nuôi nước ngoài và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước nơi
người nhận con nuôi thường trú.
Bước 5: Cơ quan có thẩm quyền của nước người nhận con nuôi
thường tr ra văn bản thông báo về sự đồng ý của người nhận con nuôi đối
với người được giới thiệu cho BTP, BTP thông báo cho STP (khoản 3 Điều 36
Luật NCN).
Bước 6: Quyết định cho trẻ em được nhận nuôi làm con nuôi nước
ngoài và tổ chức giao nhận con nuôi (Điều 37 Luật NCN).
Sau khi có quyết định của UBND cấp tỉnh, STP thông báo cho người
nhận nuôi đến Việt Nam để nhận con nuôi. Người nhận con nuôi phải có mặt
ở Việt Nam để trực tiếp nhận con nuôi trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày
nhận được thông báo của STP. Trường hợp vợ chồng xin nhận con nuôi mà
một trong hai người vì lý do khách quan không thể có mặt tại lễ giao nhận con
nuôi thì phải có ủy quyền cho người kia. Trường hợp có lý do chính đáng thì
thời hạn trên có thể kéo dài, nhưng không quá 90 ngày. Hết thời hạn trên, nếu
người nhận con nuôi không đến nhận con nuôi thì UBND cấp tỉnh hủy quyết

định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài.


21

Việc tổ chức giao nhận: STP đăng ký việc nuôi con nuôi theo quy
định của pháp luật về đăng ký hộ tịch và tổ chức lễ giao nhận con nuôi tại trụ
sở STP, với sự có mặt của đại diện cơ sở nuôi dưỡng (đối với trẻ em được xin
nhận từ cơ sở nuôi dưỡng) hoặc cha mẹ đẻ, người giám hộ (đối với trẻ em
được xin nhận làm con nuôi từ gia đình). Việc giao nhận con nuôi phải được
lập thành biên bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên và đại diện STP.
Sau khi giao nhận con nuôi, STP có trách nhiệm gửi BTP quyết định
cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài của UBND cấp tỉnh, biên bản giao nhận
con nuôi, đồng thời gửi UBND cấp xã nơi thường trú của trẻ em được cho
làm con nuôi nước ngoài.
BTP gửi quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài cho Bộ
Ngoại giao để thông báo cho Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài về
việc trẻ em được nhận làm con nuôi để thực hiện biện biện pháp bảo hộ trẻ
em trong trường hợp cần thiết.
Như vậy, so với quy định của pháp luật Việt Nam trong các giai đoạn
trước thì thủ tục cho người thường trú tại nước ngoài nhận nuôi trẻ em Việt
Nam trong Luật NCN đã có sự thay đổi lớn, đảm bảo tính minh bạch trong
thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi. Bên cạnh trường hợp người thường trú
tại nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi còn những trường hợp
khác thuộc nhóm quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên,
thực tế số lượng các trường hợp này chiếm tỷ lệ không lớn trong nhóm quan
hệ NCN có yếu tố nước ngoài. Mặc dù vậy, pháp luật Việt Nam vẫn đưa ra
quy định để điều chỉnh quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài trong trường hợp
này để xây dựng hành lang pháp lý đầy đủ cho việc xác lập quan hệ NCN. Đối
với các trường hợp này, pháp luật luôn tạo điều kiện thuận lợi và đơn giản hơn

so với trường hợp cha mẹ nuôi không trường trú tại Việt Nam.7

Nguyễn Thanh Huyền (2012), Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp
luật Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 36.
7


22

1.2.4. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi
Sau khi quan hệ NCN nước ngoài được xác lập, người nhận nuôi trở
thành cha mẹ nuôi của đứa trẻ được nhận nuôi. Giữa hai bên sẽ hình thành
quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật tại nơi
họ thường trú. Theo pháp luật Việt Nam thì kể từ ngày giao nhận con nuôi,
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con
(căn cứ theo Điều 24 Luật NCN).
- Đối với việc đổi tên cho trẻ được nhận làm con nuôi nước ngoài:
Sau khi xác lập quan hệ nuôi con nuôi nước ngoài, cha mẹ nuôi có quyền
được yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành thay đổi họ, tên cho
con nuôi. Đối với trường hợp trẻ từ 9 tuổi trở lên thì việc đổi tên phải được sự
đồng ý của trẻ (khoản 2 Điều 24 Luật NCN).
- Đối với trẻ em bị bỏ rơi thì dân tộc của trẻ được xác định theo dân
tộc của cha nuôi hoặc mẹ nuôi (khoản 3 Điều 24 Luật NCN).
- Nghĩa vụ thông báo về tình trạng con nuôi của cha mẹ nhận nuôi:
Do tính chất đặc biệt của quan hệ NCN có yếu tố nước ngoài, đối với
trường hợp cha mẹ nuôi thường trú tại nước ngoài thì sau khi họ nhận được
con nuôi và ra khỏi lãnh thổ Việt Nam thì Nhà nước ta sẽ gặp nhiều khó khăn
trong khâu quản lý, kiểm tra, giám sát về tình hình của trẻ em được nhận nuôi.
Do đó, theo Điều 39 Luật NCN và Điều 28 Nghị định 19/2011/NĐ-CP quy
định về việc cha mẹ nuôi có trách nhiệm thông báo về tình trạng của con nuôi

sau khi được nhận nuôi. Cụ thể trong thời hạn 3 năm, kể từ ngày giao nhận
con nuôi, cha mẹ nuôi có trách nhiệm định kỳ 6 tháng gửi báo cáo cho Cơ
quan đại diện nơi họ cư tr tình trạng sức khỏe, thể chất, sự hòa nhập của con
nuôi với cha mẹ nuôi, gia đình, cộng đồng.
Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền
của nước ta theo dõi tình hình phát triển của trẻ được nhận làm con nuôi nước
ngoài, kiểm tra liệu cha mẹ nuôi có đủ khả năng nuôi con nuôi hay có có bất
kỳ hành vi xâm phạm quyền và lợi ích của con nuôi, để từ đó can thiệp trong
trường hợp cần thiết.


23

- Quyền được biết về nguồn gốc: Con nuôi có quyền được biết về
nguồn gốc của mình, không ai được phép cản trở con nuôi được biết về nguồn
gốc của mình, đồng thời cha mẹ nuôi tạo điều kiện cho trở về thăm quê hương
đất nước và tìm về cội nguồn nơi đã sinh ra (căn cứ Điều 10 Luật NCN).
- Quan hệ giữa cha mẹ đẻ - trẻ em sau khi trẻ được nhận làm con nuôi:
Theo tinh thần Điều 24 Luật NCN thì sau khi trẻ em được nhận làm
con nuôi thì cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp
dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lí, định đoạt tài sản
riêng đối với con đã cho làm con nuôi (trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha
mẹ nuôi có thỏa thuận khác). Tức là, trẻ em Việt Nam sau khi được nhận nuôi
không có quan hệ pháp lí với cha mẹ đẻ mà chỉ có mối quan hệ giữa đứa trẻ
với cha mẹ nuôi cũng như các thành viên khác của cha mẹ nuôi. Tuy nhiên,
quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này tương đối “mở” khi đặt ra
trường hợp có sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi về quyền và
nghĩa vụ của hai bên.
1.3.


h s phát triển v

ngh a ủa hế đ nh nu i on nu i ó

ếu tố nƣớ ngo i
1.3.1.

ch s phát triển của pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi

- Trên thế giới
Nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội đã có từ rất lâu, gắn liền với sự
phát triển của xã hội loài người. Ngay từ thời cổ đại, vấn đề nuôi con nuôi đã
được ghi nhận trong hệ thống pháp luật. Tiêu biểu, nổi bật nhất phải kể đến
hai bộ luật - thể hiện nền văn minh của nhân loại, đó là Bộ luật Hammuarabi
của Lưỡng Hà và luật La Mã.8
Bộ luật Hammuarabi - một trong những bộ luật thành văn cổ xưa nhất
(khoảng thập niên 1760 TCN ở Babilon cổ đại) ghi nhận và thừa nhận quy
định về nuôi con nuôi, đặc biệt đối với các đối tượng là trẻ em bị bỏ rơi. Cho

Nguyễn Hồng Nhung (2011), Những điểm mới về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, Khóa
luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 14.
8


24

phép con nuôi được hưởng quyền thừa kế như con đẻ, đảm bảo quyền lợi cho
người nhận nuôi.
Trong thời La Mã cổ đại, luật dân sự La Mã là đạo luật thành văn đầu
tiên với tên gọi “Luật mười hai bảng” ghi vào năm 456 TCN. Luật La Mã đã

đưa ra điều kiện nhận nuôi con nuôi.9
Ngoài ra, Bộ luật Napoleon năm 1804 đã ghi nhận về vấn đề nuôi con
nuôi. Theo tinh thần của Bộ luật thì việc nuôi con nuôi bị hạn chế. Chỉ cho
phép con nuôi là người trưởng thành và đã được chăm sóc trong gia đình cha
mẹ nuôi 6 năm.
Như vậy, có thể thấy pháp luật trong thời gian này không quy định cụ
thể, trực tiếp về vấn đề nuôi con nuôi mà chủ yếu thừa nhận quy định nuôi
con nuôi trong các vấn đề liên quan đến việc duy trì dòng họ, thờ cúng tổ tiên
và thừa kế tài sản.
Năm 1996, Công ước quốc tế về các quyền dân sự - chính trị và Công
ước quốc tế về các quyền kinh tế - văn hóa ra đời đã đánh dấu một bước tiến
lớn. Mặc dù, Công ước chưa đưa ra quy định cụ thể về vấn đề nuôi con nuôi,
tuy nhiên đã khẳng định trách nhiệm pháp lý của các quốc gia thành viên
trong việc bảo hộ các quan hệ hôn nhân và gia đình tại Điều 10, Điều 11. Đây
được xem như căn cứ pháp lý quan trọng để xây dựng các công ước chuyên
biệt về quyền trẻ em, trong đó có vấn đề nuôi con nuôi.
Vào ngày 03/12/1986, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Tuyên
ngôn của Liên hiệp quốc về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan đến
vấn đề nuôi con nuôi. Đây là văn kiện toàn diện và tương đối đầy đủ về vấn
đề nuôi con nuôi. Tuyên ngôn khẳng định mục đích hàng đầu của việc nuôi
con nuôi là “đem lại cho những trẻ em không thể được cha mẹ đẻ chăm sóc,
có được một gia đình bền lâu và việc làm con nuôi nước ngoài cần được xem
9

“- Người nhận con nuôi phải là đàn ông và đàn bà có con nhưng đã mất.
- Người nhận con nuôi không được phép là con dưới quyền mà phải là persona sui
iuris (chủ thể độc lập).
- Người nhận con nuôi phải lớn hơn con nuôi không dưới 18 năm”.



25

xét như một biện pháp thay thế để đảm bảo cho các em có một mái ấm gia
đình nếu như không thể thu xếp bảo trợ hay nhận nuôi trẻ em trong gia đình gốc”.
Vấn đề nuôi con nuôi lần đầu tiên được “luật pháp hóa”, được ghi
nhận tại Điều 20, 21 Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989.
Công ước đã thể chế hóa về phương diện pháp lý quốc tế như đối tượng, điều
kiện, hình thức, nguyên tắc và trách nhiệm của nhà nước đó đối với vấn đề
nuôi con nuôi. Theo đó, các quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ tham gia
bảo hộ và gi p đỡ đối với trẻ em bị bỏ rơi, có hoàn cảnh khó khăn. Các quốc
gia thành viên có nghĩa vụ đảm bảo những lợi ích tốt nhất cho trẻ em trong
quá trình xem xét, cho nhận con nuôi. Các quốc gia cam kết đảm bảo các điều
kiện và tiêu chuẩn tương đương giữa chế độ nhận con nuôi trong nước và
nước ngoài, ngăn chặn và loại trừ sự thu lợi bất chính từ việc nhận trẻ nước
ngoài làm con nuôi. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng các
công ước chuyên biệt về bảo vệ trẻ em, đặc biệt trong vấn đề nuôi con nuôi.
Đặc biệt, Công ước Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh
vực nuôi con nuôi giữa các nước ra đời đã đánh dấu sự phát triển, bước ngoặt
của pháp luật quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tạo
dựng nên một khuôn khổ pháp lý bao quát và hiệu lực, mở ra khả năng hiệu
chỉnh vấn đề nuôi con nuôi quốc tế không chỉ ở giai đoạn đầu cho nhận, mà
còn cả việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em trong quá trình
được nhận nuôi.
- Tại Việt Nam
Song song với sự tồn tại và phát triển của xã hội, vấn đề nuôi con nuôi
tại nước ta xuất hiện khá sớm và được ghi nhận tại nhiều Bộ luật như: Bộ luật
Gia Long, Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Bắc Kỳ 1931, Bộ luật Trung kỳ 1939,
Bộ luật Giản yếu Nam kỳ.10
Xuất phát từ quan niệm, văn hóa, tư tưởng bấy giờ mà các quy định về
nuôi con nuôi phần nhiều vẫn dựa trên các phong tục tập quán. Trong các bộ

luật không có điều luật nào quy định trực tiếp về vấn đề nuôi con nuôi, về
10

Nguyễn Hồng Nhung, tldd chú thích 7, tr. 14.


×