Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.23 KB, 88 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Để thực hiện mục tiêu này, việc từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật
và đẩy mạnh công tác cải cách tư pháp là điều cần thiết. Ngày 24/5/2005, Bộ
Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Tiếp đó, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Việc ban hành liên tiếp hai Nghị
quyết thể hiện rõ nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật và đẩy mạnh công tác cải cách tư pháp. Trong đó, Nghị quyết số 49NQ/TW đã ghi nhận việc đổi mới về tổ chức phiên tòa xét xử; xác định rõ hơn vị
trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng
tranh tụng tại các phiên tòa xét xử; coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
Đối với hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng, người tiến
hành tố tụng là những cá nhân có vai trò quan trọng, cốt lõi của mỗi cơ quan tiến
hành tố tụng. Họ được Nhà nước trao cho các quyền riêng biệt, nhằm thực hiện
các hoạt động tố tụng để giải quyết các vụ việc dân sự, bảo đảm cho quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự; bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và nâng cao
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, vấn đề người tiến hành tố tụng, việc thay đổi
người tiến hành tố tụng đã được quy định cụ thể tại Bộ luật tố tụng dân sự 2004,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản
hướng dẫn khác. Tuy nhiên, thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự trong những
năm qua cho thấy vẫn còn hạn chế liên quan đến người tiến hành tố tụng, việc
thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự. Những hạn chế đó phần nào
làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và
việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự nói riêng. Theo Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng
dân sự, người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự gồm có: Chánh án Tòa án,


Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện Kiểm sát,


2

Kiểm sát viên. Ngày 25/11/2015, Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 đã
được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10, bao gồm 42 chương, 517
điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 (riêng các quy định tại điểm a, b,
c, d khoản 1 Điều 517 Bộ luật này thì có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017).
Trong Bộ luật này, nhiều quy định về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi
người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung.
Trong bối cảnh nêu trên, việc nghiên cứu về “Người tiến hành tố tụng và
việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự” có ý nghĩa khoa học
trên cả phương diện lý luận và thực tiễn nhằm góp phần nâng cao chất lượng hoạt
động của người tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan tiến hành tố tụng; đáp
ứng được yêu cầu cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giả đề cập
đến vấn đề người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong
tố tụng dân sự như:
- Luận văn “Về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong tố
tụng dân sự” của tác giả Bùi Thị Huyền (Luận văn thạc sỹ luật học, bảo vệ tại
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2001);
- Khóa luận “Người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự” của tác giả
Triệu Hoàng Lan Hương (Khóa luận tốt nghiệp đại học, Trường Đại học Luật Hà
Nội năm 2011);
- Luận văn “Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong tố
tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Thị Hằng (Luận văn thạc sỹ luật học, bảo vệ tại
Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013);
Ngoài ra, cũng có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành liên quan

đến một số nội dung trong vấn đề người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người
tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự như:
- Bài viết “Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng” của tác
giả Bùi Thị Huyền, Tạp chí Luật học, số Đặc san góp ý sự thảo Bộ luật tố tụng
dân sự 4/2004;


3

- Bài viết “Những quy định mới của chế định cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong Bộ luật tố tụng dân sự”
của tác giả Nguyễn Công Bình, Tạp chí Luật học, số 6/2004;
- Bài viết “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về Thẩm tra viên Tòa án
nhân dân” của tác giả Trần Anh Tuấn và Hoàng Văn Tùng, Tòa án nhân dân tối
cao, số 5/2016.
Trong những công trình nghiên cứu và bài viết kể trên, việc nghiên cứu về
vấn đề người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố
tụng dân sự đa phần mới chỉ đề cập một cách gián tiếp, chỉ tập trung vào người
tiến hành tố tụng với tư cách Thẩm phán. Mặt khác, chưa có nhiều bài viết đi sâu
vào vấn đề thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự, chưa làm rõ các
quy định của pháp luật cũng như thực trạng việc thay đổi người tiến hành tố tụng
trên thực tế. Trước tình hình này, tác giả đã lựa chọn đề tài “Người tiến hành tố
tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự” để nghiên cứu
cho luận văn của mình. Luận văn này sẽ nghiên cứu toàn diện, từ các quy định
pháp luật đến việc áp dụng các quy định trên thực tế về người tiến hành tố tụng và
việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu kiến thức lý luận cơ bản về người tiến hành tố
tụng, việc thay đổi người tiến hành tố tụng; lịch sử hình thành và phát triển của

các quy định của pháp luật về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến
hành tố tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam qua các thời kỳ. Tập trung nghiên cứu
các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng các quy định đó trong
những năm gần đây.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Theo quy định tại khoản 2 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự thì người tiến hành tố tụng
trong tố tụng dân sự bao gồm: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,


4

Thư ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên. Bộ luật tố tụng dân
sự 2015 bổ sung thêm Thẩm tra viên, Kiểm tra viên vào nhóm người tiến hành tố
tụng. Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu về người tiến
hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng ở giai đoạn giải quyết vụ
việc dân sự.
4. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ vấn đề lý luận cơ bản về người tiến
hành tố tụng, việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự. Phân tích
các quy định của pháp luật về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến
hành tố tụng trong tố tụng dân sự. Đồng thời, có sự so sánh, đối chiếu với những
quy định sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Trình bày thực tiễn
áp dụng quy định của pháp luật về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người
tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự những năm gần đây. Qua đó, đề ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật tố
tụng dân sự về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của đề tài
Bước đầu nghiên cứu, câu hỏi đặt ra là người tiến hành tố tụng là ai? Thế
nào là việc thay đổi người tiến hành tố tụng? Vấn đề người tiến hành tố tụng, thay

đổi người tiến hành tố tụng qua từng thời kỳ đã được pháp luật quy định như thế
nào? Sau đó, luận văn tiếp tục giải quyết các câu hỏi: Pháp luật tố tụng dân sự
hiện nay quy định như thế nào về người tiến hành tố tụng, thay đổi người tiến
hành tố tụng? Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có những sửa đổi, bổ sung gì về vấn đề
này? Những ưu điểm, hạn chế của sự sửa đổi, bổ sung đó là gì?
Trên cơ sở giải quyết các vấn đề trên, câu hỏi nghiên cứu cuối cùng đặt ra
là thực tiễn thực hiện pháp luật về người tiến hành tố tụng, thay đổi người tiến
hành tố tụng trong những năm qua đạt được những kết quả và còn những hạn chế
nào? Để khắc phục những hạn chế đó cần những giải pháp cụ thể nào?
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm của Đảng cộng sản Việt


5

Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành được sử dụng như
phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp… nhằm làm sáng
tỏ những nội dung được nghiên cứu trong luận văn. Luận văn còn sử dụng các kết
quả thống kê của ngành Tòa án và Viện kiểm sát trong những năm gần đây để đưa
ra những phân tích về thực trạng áp dụng pháp luật và những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi
người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự trên thực tế.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu hệ thống, toàn diện về người tiến hành
tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự. Do vậy, kết
quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan hữu quan trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về người tiến hành
tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự. Luận văn
cũng có thể sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng

dạy bộ môn Luật tố tụng dân sự tại các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật và trong
công tác xét xử của cán bộ Tòa án, công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự của Viện kiểm sát.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về người tiến hành tố tụng và việc thay
đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về người tiến hành tố tụng và
việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Chương 3: Thực tiễn và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và bảo đảm
thực hiện pháp luật tố tụng dân sự về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi
người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự


6

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
VÀ VIỆC THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của người tiến hành tố tụng trong tố
tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của người tiến hành tố tụng trong tố
tụng dân sự
Để xây dựng một khái niệm tương đối hoàn chỉnh về người tiến hành tố
tụng (NTHTT) trong tố tụng dân sự (TTDS), chúng ta phải phân tích từng thuật
ngữ cụ thể, cũng như tham khảo các kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu
khoa học Luật TTDS khác nhau.
Trong Hán Việt từ điển, học giả Đào Duy Anh có giải thích “tố tụng” là

việc thưa kiện1. Theo Từ điển Tiếng Việt, “tố tụng” cũng được hiểu là trình tự,
thủ tục được tiến hành theo quy định của pháp luật2. Đối với thuật ngữ “dân sự”,
hiểu theo nghĩa thông thường đó là các việc có liên quan đến dân3; hiểu theo
nghĩa pháp lý “dân sự” là các vụ việc dân sự (VVDS) theo nghĩa rộng, tức là các
vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại và lao động.
Trong giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, tác giả Nguyễn Công Bình
cũng đã khẳng định “tố tụng dân sự” là trình tự do pháp luật quy định cho việc
giải quyết VVDS và thi hành án dân sự4.
Quan hệ pháp luật TTDS là quan hệ giữa Tòa án, Viện kiểm sát và đương
sự, người đại diện của đương sự, cùng những cá nhân, tổ chức khác có liên quan
1 Đào Duy Anh (1957), Hán Việt Từ điển, Trường Thi xuất bản, Sài Gòn, tr. 302, trích trong tài liệu: Hội đồng
phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trung ương (2013), Pháp luật về tố tụng dân sự, Đặc san tuyên truyền
pháp luật, Hà Nội, tr. 3.
2 Hoàng Phê (Chủ biên, 2003), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng,
Hà Nội – Đà Nẵng, tr. 1008.
3 Hoàng Phê, tlđd chú thích 2, tr. 246.
4 Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr.10.


7

phát sinh trong quá trình giải quyết VVDS. Trong TTDS có những chủ thể được
sử dụng quyền lực nhà nước và ngược lại, có những chủ thể phải chấp hành quyền
lực nhà nước. Vì vậy, pháp luật TTDS đã có quy định pháp lý cho hai nhóm chủ
thể khác nhau, đó là NTHTT và người tham gia tố tụng. NTHTT là cá nhân, là
một con người cụ thể làm việc trong cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) và
thay mặt cho cơ quan thực hiện nhiệm vụ trên thực tế.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “tiến hành” là làm, thực hiện một cách chủ động

một công việc nào đó đã được định trước5. “Người tiến hành tố tụng trong tố tụng
dân sự” là người của cơ quan tiến hành tố tụng, chủ động thực hiện các hành vi
theo trình tự, thủ tục pháp luật đã quy định để giải quyết các VVDS hoặc góp
phần vào việc giải quyết các VVDS.
Trong TTDS, khi tiến hành các công việc cụ thể để giải quyết VVDS thì
CQTHTT phải thông qua những con người cụ thể. Mỗi CQTHTT sẽ thực hiện
chức năng khác nhau, nên mỗi NTHTT sẽ có những nhiệm vụ, quyền hạn khác
nhau. Tuy nhiên, hoạt động của họ đều nằm trong mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất
với nhau nhằm giải quyết các VVDS theo quy định của pháp luật. NTHTT đều
được Nhà nước trao quyền để thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn của
CQTHTT. Vì lẽ đó, NTHTT trong TTDS có một số đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, NTHTT trong TTDS là người thực hiện quyền lực Nhà nước khi
giải quyết VVDS thông qua việc thay mặt CQTHTT ra các bản án, quyết định về
giải quyết VVDS.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân6; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân7. Nguyên tắc “quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” lần đầu tiên đã được
ghi nhận cụ thể tại khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013. Trong đó, quyền tư pháp là
một dạng của quyền lực nhà nước và chỉ trở thành quyền lực thực tế khi có các
5 Hoàng Phê, tlđd chú thích 2, tr. 986.
6 Khoản 1 Điều 2 Hiến pháp 2013.
7 Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp 2013.


8

hoạt động cụ thể của các chủ thể xác định. Đây là quá trình hiện thực hóa quyền
tư pháp được ghi nhận trong các văn bản pháp luật vào thực tiễn đời sống xã hội.

Việc thực hiện, áp dụng các quy phạm pháp luật đó vào thực tế phải thông qua
hoạt động của từng cá nhân cụ thể. Theo quy định tại khoản 1 Điều 102 Hiến
pháp 2013, Tòa án nhân dân (TAND) là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp. Trong TTDS, NTHTT của Tòa án là người thay
mặt Tòa án thực hiện quyền xét xử đó. NTHTT thực hiện quyền lực nhà nước
bằng cách xem xét, thụ lý, giải quyết các tranh chấp, yêu cầu dân sự khi đương sự
có yêu cầu; nhân danh nhà nước xét xử và ra các bản án, quyết định giải quyết
VVDS. Do đó, hoạt động tố tụng của NTHTT của Tòa án cần phải được kiểm sát
chặt chẽ nhằm tránh sự lạm dụng quyền lực. Sự kiểm sát này phần lớn được thực
hiện bởi Kiểm sát viên thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong quá trình giải quyết VVDS của những người tiến hành tố tụng và của những
người tham gia tố tụng.
Việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của NTHTT đều phải tuân theo quy
định của pháp luật, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo
vệ để thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đó. Bởi lẽ, đây là những nhiệm vụ,
quyền hạn Nhà nước trao cho NTHTT, mà không trao cho bất kì một chức danh
nào khác trong bộ máy nhà nước. Chỉ những NTHTT mới có quyền giải quyết các
tranh chấp, yêu cầu dân sự; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải
quyết các tranh chấp, yêu cầu đó. Tuy nhiên, hoạt động thực hiện quyền lực nhà
nước của NTHTT trong TTDS lại mang tính chất mềm dẻo, linh hoạt. Nếu trong
tố tụng hình sự, NTHTT sử dụng quyền lực nhà nước một cách sắc bén để bảo
đảm phát hiện và xử lý kịp thời, chính xác mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội thì ngược lại, việc sử dụng quyền lực nhà nước
của NTHTT trong TTDS chỉ nhằm giải quyết, phân minh các quyền, lợi ích hợp
pháp của các bên đương sự trong các tranh chấp dân sự của đời sống xã hội và
mang tính mềm dẻo hơn.
Thứ hai, NTHTT trong TTDS là người được bầu hoặc bổ nhiệm theo các
tiêu chuẩn chặt chẽ do pháp luật quy định.
Điều kiện và cách thức bầu hoặc bổ nhiệm NTHTT ở mỗi quốc gia là khác



9

nhau, tùy theo quy định của pháp luật quốc gia đó. Thông thường đều có các tiêu
chuẩn về phẩm chất chính trị, trình độ pháp luật, học vấn, năng lực chuyên môn.
Ở Việt Nam, NTHTT trước hết phải là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ
quốc và Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt; sau đó
họ cần đáp ứng các tiêu chuẩn về trình độ học vấn; trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ và tiêu chuẩn về sức khỏe. Việc bầu hoặc bổ nhiệm NTHTT phải tuân thủ các
tiêu chuẩn chặt chẽ do pháp luật quy định sao cho phù hợp với nhiệm vụ mà
ngành tư pháp đặt ra đối với những cá nhân thực hiện hoạt động của CQTHTT.
Trong Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015, Thẩm tra viên và Kiểm tra
viên là những chức danh mới được quy định vào nhóm NTHTT; để là Thẩm tra
viên, Kiểm tra viên họ cũng thông qua hình thức bổ nhiệm vào ngạch Thẩm tra
viên, Kiểm tra viên như đa số những NTHTT khác. Sau khi được bổ nhiệm họ
được phát luật quy định cho những nhiệm vụ, quyền hạn nhằm góp phần vào quá
trình giải quyết VVDS và kiểm sát việc giải quyết VVDS.
Thứ ba, hoạt động của NTHTT trong TTDS mang tính chất chủ động và
độc lập. Đặc điểm này xuất phát từ những nhiệm vụ, quyền hạn riêng biệt mà
pháp luật quy định cho NTHTT trong việc thay mặt CQTHTT ra các bản án,
quyết định về giải quyết VVDS. Nếu trong tố tụng hình sự, Thẩm phán không tiến
hành điều tra vụ án hình sự mà chỉ tiến hành xét xử trên cơ sở hồ sơ do Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát kết luận, thì trong TTDS sự chủ động trong hoạt động của
Thẩm phán thể hiện rõ nét hơn. Thẩm phán trong TTDS là người trực tiếp thu
thập chứng cứ theo quy định của pháp luật, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời, hòa giải, chuẩn bị hồ sơ vụ án và trực tiếp xét xử8.
Tuy nhiên, sự chủ động của NTHTT trong TTDS cũng chỉ mang tính chất
tương đối. Khi NTHTT thực nhiệm các nhiệm vụ, quyền hạn để giải quyết VVDS
tức là họ đang giải quyết các tranh chấp, yêu cầu trong các quan hệ dân sự, kinh
doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình. Đặc trưng của các quan hệ

này là quyền tự quyết, tự định đoạt của các chủ thể. Các chủ thể đó là người có
quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu CQTHTT, NTHTT giải quyết các tranh
8 Vũ Thanh Tuấn (2013), Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ án dân
sự tại Tòa án cấp sơ thẩm, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 13.


10

chấp hoặc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm của mình. Nếu không có
hành vi khởi kiện, yêu cầu của đương sự thì sẽ không có các hoạt động tiếp theo
của NTHTT. Đồng thời, trong quá trình giải quyết VVDS, các đương sự vẫn có
thể thỏa thuận, thương lượng với nhau để giải quyết các vấn đề tranh chấp; rút
đơn khởi kiện, đơn yên cầu. NTHTT trong trường hợp này sẽ phải tôn trọng quyết
định, tôn trọng sự thỏa thuận của đương sự nếu quyết định, thỏa thuận đó không
trái quy định của pháp luật và trái đạo đức xã hội.
Bên cạnh sự chủ động khi tiến hành tố tụng, sự độc lập cũng là một đặc điểm
nổi bật trong hoạt động của NTHTT. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên
tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực hiện quyền tư pháp. Quyền tư pháp là
quyền xét xử, được Nhân dân giao cho TAND thực hiện thông qua hoạt động của
NTHTT của Tòa án. Hoạt động này là nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân. Vì vậy, Hiến pháp 2013 ghi nhận việc nghiêm cấm các cơ
quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm chính là
sự bảo đảm hiến định quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử. Sự
độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân (HTND) nói riêng và của NTHTT nói
chung bao gồm cả độc lập với các yếu tố bên ngoài và độc lập với các yếu tố bên
trong. Sự độc lập trên hai phương diện này được hiểu là khi tiến hành tố tụng,
NTHTT chỉ được căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ; căn cứ vào quá trình tranh tụng
của các bên để giải quyết VVDS. Đồng thời, khi giải quyết VVDS, NTHTT phải
độc lập với các cơ quan, cá nhân; không phụ thuộc vào hướng dẫn của cơ quan cấp
trên, lãnh đạo hay bị tác động bởi bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào.

Thứ tư, hoạt động của NTHTT trong TTDS phải bảo đảm tính vô tư, khách
quan. Trong CQTHTT, NTHTT giữ vị trí trung tâm trong hoạt động tố tụng và
tạo nên uy tín, sức mạnh của cơ quan đó. Một CQTHTT được hoạt động bằng đội
ngũ cán bộ, nhân viên; nhưng chỉ có những NTHTT mới được pháp luật quy định
có nhiệm vụ, quyền hạn thực hiện việc giải quyết các VVDS và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong quá trình giải quyết VVDS. Hoạt động của NTHTT có ý
nghĩa quyết định đến tính chính xác, khách quan của bản án, quyết định của Tòa
án; ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, quá trình
giải quyết VVDS luôn tiền ẩn những yếu tố có thể ảnh hưởng đến sự vô tư, khách
quan của Thẩm phán, HTND, Kiểm sát viên nói riêng cũng sự độc lập của những


11

NTHTT khác và TAND, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) nói chung. Các biểu
hiện tác động đến sự vô tư, khách quan ấy trên thực tế thường phức tạp, đa dạng
và xuất phát từ nhiều nguyên nhân, chủ thể khác nhau. Tất cả sự không vô tư,
khách quan của NTHTT với bất kỳ mục đích nào đều gây ảnh hưởng đến chất
lượng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của họ; làm cho quá trình giải quyết VVDS
thiếu khách quan. Điều này dẫn đến việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự không được thực hiện nghiêm chỉnh - một trong những điều kiện tiên
quyết trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nếu cá
nhân mỗi NTHTT hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong từng giai đoạn của quá
trình tố tụng thì sẽ khẳng định được hiệu quả hoạt động của CQTHTT nơi họ làm
việc và tạo được sự tin tưởng của Nhân dân vào uy tín của CQTHTT đó; củng cố
sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật. Trái lại, nếu những NTHTT không
hoàn thành tốt các nhiệm vụ của mình thì hiệu quả hoạt động của CQTHTT đó sẽ
giảm xuống; gây sự bất bình, mất niềm tin của Nhân dân đối với CQTHTT nói
riêng và đối với hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung. Đặc biệt, đối với
những trường hợp NTHTT thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn không công tâm,

khách quan tạo bức xúc, phẫn nộ lớn đối với đương sự nói riêng và người dân nói
chung. Chính vì vậy, NTHTT khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn luôn phải nắm
vững được nhiệm vụ nặng nề của bản thân; phải chịu trách nhiệm về việc thực
hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đó. Điều này sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm
của NTHTT trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp
luật.
Thứ năm, NTHTT trong TTDS phải tôn trọng, chịu sự giám sát của Nhân
dân và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình.
Nước CHXHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ9; để bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân, Điều 6 Hiến pháp 2013 đã ghi nhận hai hình thức
thực hiện quyền lực nhà nước của Nhân dân là hình thức dân chủ đại diện và dân
chủ trực tiếp. Vì vậy, NTHTT là người thực hiện quyền lực nhà nước khi giải
quyết VVDS phải tôn trọng đương sự. Sự tôn trọng này thể hiện ở khía cạnh tôn
9 Khoản 2 Điều 2 Hiến pháp 2013


12

trọng quyền tự quyết, tự định đoạt của các bên đương sự trong quá trình tiến hành
tố tụng; thực hiện các yêu cầu của đương sự trong phạm vi pháp luật quy định.
Đồng thời, NTHTT phải chịu sự giám sát của đương sự nói riêng và Nhân dân nói
chung. Nếu NTHTT có các hành vi không vô tư, khách quan; giải quyết VVDS
chưa hợp lý, chính xác; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn không đúng quy định của
pháp luật thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Bên cạnh đó, việc thực hiện chế độ xét xử có HTND tham gia cũng là một
quy định thể hiện sự tham gia của Nhân dân vào quá trình giải quyết VVDS. Chế
định HTND đã đưa tiếng nói của Nhân dân vào quá trình xét xử; giúp cho việc xét
xử khách quan, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của Nhân dân cũng như
bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, tạo điều kiện cho Nhân dân trực tiếp thực

hiện quyền tư pháp.
Như vậy, qua việc phân tích các đặc điểm nêu trên có thể đưa ra khái niệm
về NTHTT trong TTDS như sau: Người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự là
người được bầu hoặc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật, thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn để giải quyết vụ việc dân sự hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự một cách chủ động, độc lập, vô tư, khách
quan và phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
1.1.2. Vai trò của người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Đối với từng NTHTT cụ thể ở từng giai đoạn khác nhau của quá trình giải
quyết VVDS sẽ có từng quyết định khác nhau. TAND là cơ quan có thẩm quyền
xét xử, vì vậy người được Tòa án phân công nhiệm vụ, người có quyền được nhân
danh cho Tòa án là NTHTT. Bên cạnh đó, để tránh tình trạng lạm quyền của
NTHTT của Tòa án khi xét xử, pháp luật đã quy định cho NTHTT của Viện kiểm
sát thực hiện việc kiểm sát các hoạt động tố tụng của Tòa án trong quá trình giải
quyết VVDS. Tuy nhiên, dù là NTHTT của TAND hay VKSND thì mọi hoạt
động của họ đều có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình giải quyết một
VVDS; có vai trò quyết định đối với hoạt động của CQTHTT.
Thứ nhất, hoạt động của NTHTT nhằm bảo vệ công lý. Trong xã hội pháp
quyền, TAND là nơi mà mọi người tìm đến lẽ phải, tìm đến công lý; hoạt động


13

của TAND nói chung và NTHTT nói riêng cung cấp cho xã hội những phương
thức hữu hiệu để xác định sự thật và lẽ công bằng trong các quan hệ giữa các chủ
thể. Trước yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, công lý và bảo vệ công lý đã trở thành một trong những mục tiêu cơ bản,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và là một giá trị tiến bộ,
bền vững được toàn xã hội thừa nhận và hướng tới. Khi xã hội ngày càng phát
triển, các quan hệ dân sự ngày càng đa dạng, phức tạp thì hoạt động của NTHTT

với mục đích giải quyết các tranh chấp, xác định sự thật khách quan là điều cần
thiết. Chân lý khách quan bao giờ cũng được xác định thông qua hoạt động giải
quyết tranh chấp, hoạt động xét xử của NTHTT. Các đương sự cần sự giải quyết
của NTHTT để hy vọng và mong muốn sự thật, sự công bằng được làm sáng tỏ.
Do đó, NTHTT có nhiệm vụ phải tìm ra sự thật khách quan, khẳng định cho toàn
xã hội biết rằng công lý được thực thi10.
Thứ hai, hoạt động của NTHTT góp phần bảo vệ quyền con người. Hiện
nay, bảo vệ quyền con người đang là một vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Hiến
pháp 2013 đã có một bước tiến vượt bậc so với Hiến pháp 1992 khi quy định cụ
thể về quyền con người; coi quyền con người là quan điểm, nội dung xuyên suốt
trong toàn bộ Hiến pháp. Hiến pháp 2013 đã ghi nhận TAND trước hết phải có
nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân. NTHTT tại TAND với tư
cách là cá nhân thực hiện các nhiệm vụ của Tòa án, chính là người có vai trò bảo
vệ các quyền con người được pháp luật ghi nhận.
Việc bảo vệ quyền con người trong TTDS đòi hỏi phải được tiếp cận một
cách tổng thể, gắn với toàn bộ quá trình TTDS. Thẩm phán, HTND, Thư ký Tòa
án và Thẩm tra viên phải thực hiện đúng các quy trình, thủ tục khi giải quyết các
tranh chấp, yêu cầu dân sự; nếu họ giải quyết thiếu khách quan, tùy tiện thì quyền
con người trong TTDS sẽ bị xâm hại. Việc quy định Kiểm sát viên tiến hành kiểm
sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của những NTHTT của Tòa án khi giải
quyết VVDS cũng một là cơ chế nhằm bảo đảm việc tuân thủ pháp luật của những
10 Nguyễn Đăng Dung, Đặng Phương Hải (2016), “Tòa án thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân”, Trang thông tin điện tử Lý luận chính trị, tại địa chỉ
ngày truy cập 29/6/2016.


14

NTHTT; góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thứ ba, hoạt động của NTHTT góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ

nghĩa. Bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ quan trọng trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Trong đó,
hoạt động mang tính trọng tâm chính là hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật,
bảo đảm cho pháp luật được thực thi thống nhất và hiệu quả trên thực tế. Trong
TTDS, người tiến hành tố tụng của TAND sẽ tiến hành thụ lý và giải quyết
VVDS bằng cách ra các bản án hoặc các quyết định có ý nghĩa đối với giải quyết
VVDS theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Trong quá trình giải
quyết VVDS, khi tổ chức phiên hòa giải, Thẩm phán sẽ giải thích cho đương sự
các quyền và nghĩa vụ của đương sự, các quy định của pháp luật có liên quan đến
nội dung VVDS. Đồng thời, Kiểm sát viên của VKSND sẽ tiến hành kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết VVDS. Như vậy, việc hoàn
thành nhiệm vụ của NTHTT không chỉ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp
của những chủ thể liên quan, mà còn bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao uy tín của bộ máy Nhà nước; cũng như giáo dục
được mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
Thứ tư, hoạt động của NTHTT góp phần duy trì trật tự xã hội; tạo môi
trường ổn định cho các mối quan hệ xã hội góp phần phát triển kinh tế, hội nhập
quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ chính của NTHTT là giải quyết
các VVDS với các đương sự là các chủ thể trong các tranh chấp của quan hệ dân
sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình. Các chủ thể khi có
tranh chấp, khi thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm có quyền
khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết. NTHTT sẽ nhân danh Tòa án ra các yêu cầu
buộc người có hành vi trái pháp luật chấm dứt hành vi đó hoặc xét xử, giải quyết
theo quy định của pháp luật. Phạm vi của các loại tranh chấp, yêu cầu trên thực tế
thường rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau; do đó, hoạt động TTDS của
NTHTT có ảnh hưởng quan trọng đối với sự ổn định, phát triển của nhiều mối
quan hệ xã hội. Đồng thời, thông qua hoạt động xét xử, giải quyết các tranh chấp,
yêu cầu, NTHTT sẽ thực hiện việc giáo dục pháp luật đối với các đương sự. Qua
đó, NTHTT góp phần phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của



15

Nhà nước; giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật, tôn trọng đạo đức, lẽ phải trong cuộc sống và có ý thức phòng ngừa các
vi phạm pháp luật, phòng ngừa tội phạm.
Như vậy, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, NTHTT có vai trò
quan trọng trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân; bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa và giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tạo
môi trường ổn định cho các mối quan hệ trong xã hội. Hoạt động của NTHTT có
vai trò, ý nghĩa quyết định trong quá trình giải quyết VVDS.
1.2. Khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của việc thay đổi người tiến hành tố
tụng trong tố tụng dân sự
1.2.1. Khái niệm việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
“Thay đổi” được hiểu là đưa người hay vật vào chỗ người hay vật bị bỏ11.
Theo cách giải thích này thì việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng
dân sự là việc người tiến hành tố tụng đã được phân công giải quyết vụ việc dân
sự không được tham gia giải quyết vụ việc dân sự đó nữa, mà người tiến hành tố
tụng khác sẽ thay thế họ để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong việc giải
quyết vụ việc dân sự.
Việc thay đổi NTHTT trong TTDS có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, NTHTT mới được thay thế và NTHTT bị thay thế phải có nhiệm
vụ, quyền hạn ngang bằng nhau. Việc thay đổi NTHTT dựa trên yêu cầu giải
quyết VVDS một cách khách quan, công bằng, bảo đảm đúng quyền, lợi ích của
các bên đương sự. Do đó, nó không làm thay đổi đến nhiệm vụ, quyền hạn của
NTHTT mới được thay thế so với NTHTT bị thay thế. NTHTT mới được thay thế
hay NTHTT bị thay thế đều có các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm theo quy
định của pháp luật. Các nhiệm vụ, quyền hạn đó chỉ phục vụ cho mục đích giải
quyết VVDS hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết
VVDS.

Thứ hai, việc thay đổi NTHTT dẫn đến hậu quả NTHTT mới được thay
11 Hoàng Phê, tlđd chú thích 2, tr. 997.


16

thế sẽ tiếp tục thực hiện các hoạt động giải quyết VVDS, kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong trường hợp cụ thể; còn NTHTT bị thay thế sẽ không còn tham gia
vào các hoạt động TTDS đó nữa. Trên thực thế, nguyên nhân khiến người tiến
hành tố tụng không thể vô tư, khách quan khi giải quyết VVDS thường đa dạng,
phức tạp. Mặc dù, NTHTT là những người có trình độ, được đào tạo, bồi dưỡng
về chuyên môn, nghiệp vụ, song họ vẫn là những con người bình thường, có thể
bị chi phối bởi tình cảm, kinh tế… Do đó, khi một người tiến hành tố tụng bị thay
thế thì người này sẽ không tham gia vào các hoạt động TTDS trong quá trình giải
quyết VVDS đó nữa. Quy định này không chỉ bảo đảm cho việc giải quyết VVDS
được vô tư, khách quan mà còn tạo uy tín cho CQTHTT, NTHTT đối với đương
sự nói riêng và người dân nói chung; tạo niềm tin của người dân đối với những
người do người dân ủy quyền thực hiện quyền lực nhà nước, bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân.
Thứ ba, việc thay đổi NTHTT phải tuân theo các căn cứ; trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định. Bất kỳ hoạt động nào trong quá trình giải quyết VVDS
cũng phải tuân theo các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật TTDS và
việc thay đổi người tiến hành tố tụng cũng không nằm ngoại lệ. Việc thay đổi
NTHTT sẽ được xem xét khi có các căn cứ cho rằng NTHTT đang giải quyết
VVDS đó không vô tư, khách quan khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Khi người
có thẩm quyền thay đổi NTHTT xem xét thấy các căn cứ thay đổi là chính xác thì
phải tiến hành việc thay đổi NTHTT theo đúng các trình tự, thủ tục theo quy định
pháp luật. Bên cạnh đó, việc thay đổi NTHTT cần bảo đảm rằng NTHTT mới
được thay thế không có các căn cứ phải thay đổi, có thể vô tư, khách quan khi giải
quyết VVDS đó; nhằm bảo đảm cho việc giải quyết VVDS được nhanh chóng,

chính xác. Người có thẩm quyền thay đổi NTHTT cũng không được tùy tiện thay
đổi NTHTT khi chưa đủ các căn cứ hay tiến hành việc thay đổi trái với trình tự,
thủ tục đã quy định.
Như vậy, thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự là việc đưa
người tiến hành tố tụng mới vào thay thế cho người tiến hành tố tụng cũ khi có
những căn cứ cho rằng người tiến hành tố tụng cũ không khách quan, vô tư khi thực
hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.


17

1.2.2. Cơ sở và ý nghĩa của việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố
tụng dân sự
1.2.2.1. Cơ sở của việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Việc thay đổi NTHTT phải được người có thẩm quyền tiến hành dựa trên
những cơ sở sau:
Thứ nhất, việc thay đổi NTHTT xuất phát từ tính chất quan trọng của bản
án, quyết định dân sự của Tòa án. Trách nhiệm của NTHTT khi ra bản án, quyết
định là phải bảo đảm bản án, quyết định đã tuyên chính xác, rõ ràng, cụ thể và
phù hợp với thực tế. Bởi lẽ, một bản án, quyết định dân sự của Tòa án đúng đắn,
chính xác sẽ bảo đảm được các quyền tài sản, quyền nhân thân của đương sự;
cũng như bảo đảm được hiệu quả hoạt động của CQTHTT, góp phần bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Khi xuất hiện yếu tố có thể làm ảnh hưởng đến việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của NTHTT đồng nghĩa với việc xuất hiện những yếu
tố có thể làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự thật khách quan trong bản án, quyết định
giải quyết VVDS; ảnh hưởng đến uy tín, hoạt động của CQTHTT, NTHTT cũng
như đối với quá trình xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai, con người thường dễ bị tác động bởi các quan hệ, trong khi đó
luật pháp đòi hỏi phải “bất vị thân”. Để được bầu hoặc bổ nhiệm vào một chức
danh, NTHTT phải thỏa mãn các tiêu chuẩn do pháp luật quy định. Trong các tiêu

chuẩn đó, tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp luôn được đề cao. Tuy nhiên,
NTHTT cũng như những người bình thường khác, họ có tình cảm, có các mối
quan hệ cá nhân trong cuộc sống và có thể bị tác động bởi các mối quan hệ đó. Vì
vậy, trong quá trình giải quyết VVDS không thể tránh khỏi trường hợp NTHTT
có những yếu tố, những mối quan hệ dẫn đến việc không vô tư, khách quan khi
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn.
Những NTHTT trong một HĐXX có mối quan hệ thân thích với nhau, hoặc
NTHTT có quan hệ thân thích với một trong các bên đương sự dễ dẫn đến việc
thỏa hiệp trong việc giải quyết VVDS hoặc tình trạng tiêu cực, không khách quan
khi xét xử. Những quyết định của người tiến hành tố tụng dễ bị ảnh hưởng bởi sự
“cảm tính”, định kiến, tạo nên sự không công bằng đối với bên chủ thể có quyền


18

và lợi ích liên quan; việc ra các bản án, quyết định dân sự sẽ bị thiên lệch. Vì vậy,
để phòng ngừa các khả năng dẫn đến bản án, quyết định được tuyên không khách
quan, vô tư thì trong trường hợp NTHTT có các quan hệ hôn nhân, huyết thống,
nuôi dưỡng hoặc các quan hệ xã hội dẫn đến khả năng họ không vô tư, khách
quan thì họ phải bị thay đổi. Việc thay đổi NTHTT sẽ bảo đảm lợi ích hợp pháp
giữa các đương sự tham gia trong quá trình giải quyết VVDS; bảo đảm được sự
công bằng giữa các chủ thể khi tham gia tố tụng cũng như bảo đảm cho pháp luật
được thực hiện nghiêm minh, khách quan. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của
NTHTT là cơ sở tất yếu của việc thay đổi NTHTT. Bên cạnh đó, việc thay đổi
NTHTT còn bảo đảm cho việc thực hiện một số nguyên tắc như: Thẩm phán và
Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; xét xử công khai…
Như vậy, việc thay đổi NTHTT xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm sự vô tư
của NTHTT và các nguyên tắc khác của TTDS là nhằm bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa; góp phần củng cố tuân thủ pháp luật triệt để. Việc tuân thủ pháp luật
triệt để không chỉ là thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp

luật, mà còn là việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn này vô tư, khách quan;
không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác.
1.2.2.2. Ý nghĩa của việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Đầu tiên, việc thay đổi NTHTT nhằm bảo đảm sự vô tư, khách quan của
NTHTT khi ra các bản án, quyết định giải quyết VVDS. Trong trường hợp có căn
cứ cho thấy NTHTT có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
thì phải thay đổi. Mặc dù, tùy vào từng trường hợp cụ thể NTHTT có thể vô tư
hoặc không vô tư, nhưng pháp luật đã dự trù mọi khả năng có thể dẫn đến sự
không vô tư trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của họ; nhằm bảo đảm
các hoạt động TTDS diễn ra nghiêm minh, công bằng triệt để. Vì lẽ đó, khi
NTHTT thuộc một trong các trường hợp phải thay đổi thì họ phải chủ động từ
chối tiến hành tố tụng hoặc buộc phải thay đổi trong trường hợp họ không từ chối.
Thứ hai, việc thay đổi NTHTT nhằm bảo đảm việc giải quyết các VVDS
thuận lợi, đúng đắn; bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Sự không vô tư, khách quan của người tiến hành tố tụng khi ra bản án, quyết định


19

giải quyết VVDS có thể dẫn đến hệ quả bất bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố
tụng giữa các đương sự; quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự không được bảo
đảm thực hiện. Ví dụ: Trường hợp Thẩm phán có mối quan hệ thân thích với phía
bị đơn, dẫn đến việc áp dụng pháp luật theo chiều hướng có lợi cho bị đơn sẽ làm
cho việc giải quyết VVDS đó không đúng pháp luật, không bảo vệ được quyền và
lợi ích hợp pháp của bên bị xâm phạm.
Thứ ba, việc thay đổi NTHTT nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa; nâng cao tính nghiêm minh của pháp luật cũng như tạo được niềm tin của
Nhân dân đối với pháp luật và các CQTHTT, NTHTT. Việc thay đổi NTHTT
phần nào hạn chế tối đa sự không vô tư, khách quan của NTHTT, do các mối
quan hệ “tình cảm” ràng buộc; nâng cao được hiệu quả hoạt động của NTHTT nói

riêng và CQTHTT nói chung. Bên cạnh đó, quy định này còn nâng cao trách
nhiệm của NTHTT, người lãnh đạo trong CQTHTT. Thay vì đợi khi đương sự có
yêu cầu, NTHTT chủ động từ chối tiến hành tố tụng khi nhận thấy có các căn cứ
tác động đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn một cách khách quan của mình.
Điều này sẽ bảo đảm cho việc xây dựng nền tư pháp trong sạch; nâng cao vị thế
của các CQTHTT trong bộ máy cơ quan nhà nước và trong toàn xã hội.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc thay đổi NTHTT đối với quá trình
giải quyết VVDS, việc thay đổi NTHTT không chỉ được pháp luật Việt Nam quy
định, mà còn được nhiều quốc gia khác quy định trong pháp luật TTDS của họ.
BLTTDS Nga quy định về những căn cứ thay đổi Thẩm phán (Điều 16) và việc
Thẩm phán không được tham gia xét xử lại trong cùng một vụ án (Điều 17). Việc
Thẩm phán từ chối tiến hành tố tụng hoặc thay đổi cũng được quy định trong
BLTTDS Pháp, ví dụ: Điều 341 BLTTDS Pháp ghi nhận “Thẩm phán thấy trong
tâm nhận thức mình cần từ chối tiến hành tố tụng sẽ đề nghị Chánh án chỉ định
một Thẩm phán khác trong Tòa thay thế mình tiến hành tố tụng”…
1.3. Sơ lược quy định pháp luật về người tiến hành tố tụng và việc thay
đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ đề cập sơ lược quy định pháp luật
về người tiến hành tố tụng và việc thay đổi người tiến hành tố tụng trong TTDS
theo các giai đoạn từ năm 1945 đến nay.


20

1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời đã mở ra trang sử mới trong lịch sử phát triển của dân tộc.
Để xây dựng, củng cố chính quyền và đáp ứng những đòi hỏi mới của đời sống
dân sự, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ
chức Tòa án và quy định các ngạch Tòa án. Sắc lệnh số 13/SL đã có những quy

định cơ bản về người tiến hành tố tụng, bao gồm các quy định về tổ chức các
ngạch Thẩm phán tại Chương thứ hai: Các ngạch Thẩm phán (từ Điều thứ 48 đến
Điều thứ 52); cách tuyển bổ Thẩm phán (từ Điều thứ 53 đến Điều thứ 64); đặc
quyền các Thẩm phán (từ Điều thứ 69 đến Điều thứ 79); nghĩa vụ các Thẩm phán
(từ Điều thứ 80 đến Điều thứ 94) và kỷ luật của Thẩm phán (từ Điều thứ 95 đến
Điều thứ 104). Đồng thời, tại các Điều thứ 65 đến Điều thứ 69 của Sắc lệnh này
đã quy định về vấn đề “bất năng kiêm nhiệm” của Thẩm phán; đây chính là
những quy định nền tảng cho các quy định về “thay đổi người tiến hành tố tụng”
sau này. Theo đó, Điều thứ 65 của Sắc lệnh số 13/SL quy định: “Các người thân
thuộc, thích thuộc cho đến các bậc chú cháu, bác cháu hay cậu cháu, không thể
cùng làm Thẩm phán trong một tòa, trừ phi vị Chủ tịch nước Việt Nam cho phép
miễn trừ riêng. Dù có miễn trừ, các người ấy cũng không thể làm cùng một phòng
trong Tòa Thượng thẩm”. Điều thứ 66 của Sắc lệnh số 13/SL cũng ghi nhận:
“Một Thẩm phán không thể xét xử một việc mà người thay mặt hay Luật sư của
người đương sự là thân thuộc hay thích thuộc của mình cho đến bậc thứ ba”.
Tiếp đó, ngày 17/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục kí Sắc lệnh số
51/SL về việc ấn định thẩm quyền các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên
trong Tòa án. Trong đó, có Điều thứ 17 và Điều thứ 18 quy định về nhiệm vụ của
ông Chánh án12. Ngày 09/11/1946, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
thông qua bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà. Hiến pháp 1946 đã có
một số quy định về người tiến hành tố tụng, như: “Các viên Thẩm phán đều do
Chính phủ bổ nhiệm”(Điều thứ 64); “Trong khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ
12 Ông chánh án chủ tọa những phiên tòa công khai và xử những vụ kiện mà ông đã thụ lý theo luật hiện hành.
Ông có nhiệm vụ điều khiển cuộc thẩm vấn và bảo vệ trật tự phiên tòa. Ông chánh án điều khiển và kiểm soát
công việc các thẩm phán xử án và dự thẩm trong tòa án. Ông có thể ủy thác các ông thẩm phán xử một phần
những vụ kiện mà ông đã thụ lý. Tuy thế, các thẩm phán và dự thẩm được tự do định đoạt trong các việc xét
xử thuộc phạm vi của mình.


21


tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp” (Điều thứ 69).
Nhìn chung, trong thời gian này các quy định về NTHTT, trách nhiệm của
NTHTT tại phiên tòa, việc thay đổi NTHTT đã được đề cập, đặt nền móng cho việc
xây dựng các quy định pháp luật sau này về NTHTT và việc thay đổi NTHTT.
Ngày 01/01/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 01/LCT công bố
Hiến pháp mới của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trên cơ sở Hiến pháp
1959, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân (LTCTAND) ngày
01/7/1960; Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) thông qua Pháp lệnh quy
định cụ thể về tổ chức TAND tối cao và tổ chức của các TAND địa phương ngày
23/02/1961. Đây là một bước ngoặt lớn của ngành tư pháp nói chung và pháp luật
TTDS nói riêng. Về vấn đề NTHTT, LTCTAND 1960 đã có một chương riêng
quy định về Thẩm phán và HTND. Khác với quy định Thẩm phán do Chính phủ
bổ nhiệm tại Hiến pháp 1946; LTCTAND 1960 đã chuyển sang chế độ bầu Thẩm
phán. Chánh án TAND tối cao do Quốc hội bầu ra và bãi miễn; Phó Chánh án,
Thẩm phán, Thẩm phán dự khuyết và Ủy viên Ủy ban Thẩm phán TAND tối cao
do UBTHVQH bổ nhiệm và bãi miễn theo đề nghị của Chủ tịch UBTVQH (Điều
26). Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán TAND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương do Hội đồng nhân dân (HĐND)
cùng cấp bầu ra và bãi miễn (Điều 27). Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán
TAND huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương
do HĐND cùng cấp bầu ra và bãi miễn (Điều 28). Đồng thời, chế độ cử HTND
cũng được thay thế bằng chế độ bầu HTND; theo đó, việc bầu cử, nhiệm kỳ và
chế độ công tác của HTND do UBTVQH quy định. Một điểm mới đáng lưu ý của
LTCTAND 1960 là việc quy định: “Đương sự có quyền yêu cầu thay đổi Thẩm
phán hoặc Hội thẩm nhân dân, nếu thấy những người này có quan hệ với vụ án có
thể làm cho việc xét xử không được công bằng. Việc thay đổi này do Chánh án
Tòa án nhân dân xét và quyết định”.
Đây là nền tảng để xây dựng các quy định về việc thay đổi NTHTT. Ngoài
ra, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (LTCVKSND) 1960 cũng có các quy

định về Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên. Cụ thể, Viện trưởng VKSND
tối cao do Quốc hội bầu và bãi miễn (Điều 23); Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên,


22

Kiểm sát viên dự khuyết và Ủy viên Ủy ban kiểm sát VKSND tối cao do
UBTHVQH bổ nhiệm và bãi miễn theo đề nghị của Chủ tịch UBTVQH (Điều
23); Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Ủy ban kiểm sát các VKSND
địa phương do VKSND tối cao bổ nhiệm và bãi miễn (Điều 24).
Cùng với sự ra đời của Hiến pháp 1980, LTCTAND 1981 được ban hành
đã quy định chi tiết về Thẩm phán, HTND. Tiêu chuẩn của Thẩm phán và HTND
đã được bổ sung: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã
hội, có kiến thức pháp lý cần thiết, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, thì có thể được bầu làm Thẩm phán Tòa án nhân dân”; “Công dân Việt
Nam trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, có quan hệ tốt với nhân dân thì
có thể được bầu làm Hội thẩm nhân dân”. Bên cạnh đó, LTCVKSND 1981 cũng
có quy định cụ thể về điều kiện được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên và nhiệm vụ
của Kiểm sát viên (Điều 26).
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự được Hội đồng Nhà nước
thông qua ngày 29/11/1989 đã đánh dấu bước tiến mới trong quá trình phát triển
của pháp luật TTDS. Pháp lệnh có 15 chương, 88 điều; trong đó có các quy định
về NTHTT và việc thay đổi NTHTT. Điển hình tại Điều 17 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự năm 1989 quy định các trường hợp phải thay đổi Thẩm
phán, HTND, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án:
1. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng
hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Đồng thời là đương sự, người đại diện hoặc người bảo vệ quyền
lợi của đương sự, người thân thích của đương sự, người làm chứng trong

vụ án;
b) Đã là kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên
dịch trong vụ án;
c) Đã có lần điều tra, hoà giải, xét xử vụ án, trừ các thành viên của Uỷ
ban thẩm phán, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì được tham
gia xét xử nhiều lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm;


23

d) Trong một Hội đồng xét xử mà thẩm phán, hội thẩm nhân dân là
người thân thích với nhau;
đ) Có căn cứ cho thấy họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
2. Kiểm sát viên, thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch
phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Có căn cứ được quy định tại điểm a và điểm đ, khoản 1 Điều này;
b) Họ đã là thẩm phán, hội thẩm nhân dân hoặc người tham gia tố
tụng khác trong cùng một vụ án.
Đồng thời, việc giải quyết việc thay đổi Thẩm phán, HTND, Kiểm sát viên,
Thư ký Tòa án cũng đã được quy định tại Điều 18 Pháp lệnh này.
Sau đó, nhiều văn bản pháp luật khác cũng được ban hành như LTCTAND
1992, LTCVKSND 1992. Các văn bản này cũng đã có các quy định cụ thể về tiêu
chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn, nhiệm kỳ… của Thẩm phán, HTND, Kiểm sát viên.
Đến năm 1993, lần đầu tiên Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND, Pháp lệnh
Kiểm sát viên VKSND được ban hành đã quy định các vấn đề cơ bản, cụ thể về
NTHTT, là tiền đề cho các quy định sau này của pháp luật. Tiếp đó là sự ra đời
của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996. Cũng như Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự năm 1989, hai Pháp lệnh này cũng đã có những quy định
về vấn đề NTHTT, song còn chưa thống nhất, rõ ràng.

Để thể chế hóa đường lối cải cách tư pháp của Đảng, ngay sau khi sửa đổi,
bổ sung Hiến pháp 1992, năm 2002 Quốc hội, UBTVQH đã ban hành
LTCTAND, LTCVKSND, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND, Pháp lệnh
Kiểm sát viên VKSND quy định nhiều vấn đề về NTHTT.
Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004 các quy định về
NTHTT và việc thay đổi NTHTT đã được quy định chi tiết hơn so với giai đoạn
từ năm 1945 đến năm 1989. Tuy nhiên, điểm giống nhau trong các quy định về
vấn đề NTHTT và việc thay đổi NTHTT giữa hai giai đoạn này là vẫn còn khá tản
mạn. Việc ban hành nhiều văn bản pháp luật đã dẫn đến tình trạng các quy định
về vấn đề này trong pháp luật TTDS bị xé lẻ, chồng chéo.


24

1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Ngày 15/6/2004, Quốc hội khóa XI đã thông qua BLTTDS 2004 có hiệu
lực thi hành từ 01/01/2005. BLTTDS 2004 ra đời đã đánh dấu bước phát triển của
hệ thống pháp luật TTDS, khắc phục được tình trạng tản mạn, thiếu tập trung của
các quy định TTDS trước đây. BLTTDS 2004 được cơ cấu thành 9 phần, 36
chương, 418 điều. Trong đó, Chương IV (từ Điều 39 đến Điều 51) dành riêng để
quy định về NTHTT việc thay đổi NTHTT, bao gồm:
- Người tiến hành tố tụng (Điều 39);
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân và Thư ký Tòa án (từ Điều 40 đến Điều 43);
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên (Điều
44, 45);
- Những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng; quy
định cụ thể về thay đổi từng người tiến hành tố tụng (từ Điều 46 đến Điều 49);
- Thủ tục và quyết định việc thay đổi người tiến hành tố tụng (Điều 50, 51).
Ngày 31/5/2005, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (HĐTP

TANDTC) đã ban hành Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn một số quy
định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS.
Năm 2011, BLTTDS được sửa đổi, bổ sung và các quy định về NTHTT và
việc thay đổi NTHTT quy định tại Chương IV vẫn được giữ nguyên. Tuy nhiên,
một số quy định khác liên quan đến NTHTT trong BLTTDS 2004 đã được sửa
đổi, ví dụ: Các quy định về “trưng cầu giám định” tại Điều 90; “thành phần phiên
hòa giải” tại Điều 170…
Sự ra đời của BLTTDS 2004 và việc thông qua Luật sửa đổi, bổ sung
(LSĐBS) một số điều của BLTTDS, ngoài việc tạo được tính thống nhất, rõ ràng
đối với các quy định về NTHTT nói riêng cũng như các quy định khác trong pháp
luật TTDS nói chung đã thể chế hóa được quan điểm, đường lối của Đảng về xây
dựng pháp luật, cải cách tư pháp được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng. Tuy
nhiên, thực tiễn áp dụng cho thấy BLTTDS 2004 và LSĐBS một số điều của


25

BLTTDS vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, cùng với sự ra đời của Hiến
pháp 2013, việc rà soát sửa đổi, bổ sung các đạo luật cũng là xu thế tất yếu, phù
hợp với yêu cầu đổi mới của Hiến pháp. Vì vậy, tại kỳ họp thứ 10 ngày
25/11/2015, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLTTDS 2015 với nhiều nội dung
được sửa đổi, bổ sung một cách căn bản, toàn diện.
Các quy định về NTHTT và việc thay đổi NTHTT của BLTTDS 2015 đã
được thay đổi đáng kể (Chương IV, từ Điều 46 đến Điều 62). Theo đó, ngoài việc
bổ sung thêm NTHTT mới thì các quy định về căn cứ, thủ tục và quyết định thay
đổi NTHTT đã được quy định chi tiết hơn. Mặc dù, BLTTDS 2015 mới có hiệu
lực thi hành nhưng có thể khẳng định các quy định mới về NTHTT chắc chắn sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho NTHTT thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, cũng như bảo
vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong VVDS.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trên cơ sở phân tích các thuật ngữ, đặc điểm của NTHTT trong TTDS,
luận văn đã xây dựng khái niệm về NTHTT trong TTDS. NTHTT trong TTDS là
người được bầu hoặc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật, thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn để giải quyết VVDS hoặc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
quá trình giải quyết VVDS một cách chủ động, độc lập, vô tư, khách quan và phải
chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Từ khái niệm, luận văn cũng đã chỉ ra vai trò của NTHTT trong hoạt động
TTDS; cũng như xây dựng khái niệm, cơ sở và ý nghĩa của việc thay đổi NTHTT.
Trong trường hợp có những căn cứ cho rằng NTHTT không khách quan, vô tư khi
giải quyết VVDS thì NTHTT khác sẽ được thay thế để tiếp tục giải quyết VVDS
đó. Với vai trò là người thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của CQTHTT, việc thay
đổi NTHTT theo quy định của pháp luật là cần thiết.
Như vậy, quy định về NTHTT, việc thay đổi NTHTT trong tố tụng dân sự
đã được ghi nhận từ những văn bản pháp luật đầu tiên của nước ta cho đến nay.
Điều này thể hiện phần nào tầm quan trọng của hoạt động của NTHTT trong hoạt
động tố tụng dân sự.


×