Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Đặc điểm truyện ngắn ma văn kháng thời kỳ đổi mới 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.76 KB, 107 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề..................................................................................................5
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu.......................................................................9
4. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................10
5. Đóng góp của luận văn..................................................................................10
6. Cấu trúc luận văn..........................................................................................10
NỘI DUNG.............................................................................................................12
Chương 1. Sáng tác của Ma Văn Kháng trong dòng chảy của truyện ngắn
đương đại Việt Nam...........................................................................................12
1.1. Khái quát chung về truyện ngắn đương đại Việt Nam........................12
1.2. Hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng..............................................13
1.2.1. Cuộc đời............................................................................................13
1.2.2. Sự nghiệp..........................................................................................16
1.2.3. Truyện ngắn Ma Văn Kháng trong dòng chảy truyện ngắn đương
đại Việt Nam...............................................................................................20
Chương 2. Những đặc điểm nội dung trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời
kỳ đổi mới...........................................................................................................28
2.1. Cảm hứng thế sự đời tư trong truyện ngắn Ma Văn Kháng...............28
2.1.1. Vấn đề tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc gia đình............................29
2.2.2 Vấn đề nhân cách con người............................................................34
2.2.3. Sự cô đơn trong tâm hồn con người...............................................40
2.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng.........................44
2.2.1 Kiểu nhân vật tha hóa.......................................................................46
2.2.2 Nhân vật bi kịch................................................................................53
2.2.3 Nhân vật vượt lên số phận................................................................57
Chương 3. Những đặc điểm nghệ thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời
kỳ đổi mới...........................................................................................................65
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật...............................................................65
3.1.1. Yếu tố ngoại hình, nghề nghiệp.......................................................65


3.1.2. Yếu tố tâm linh.................................................................................74
SVTH: Anh Lung

Page 1


3.1.3. Yếu tố ngôn ngữ...............................................................................79
3.2. Ngôn ngữ.................................................................................................83
3.2.1. Ngôn ngữ đời thường, đậm chất khẩu ngữ....................................83
3.2.2. Ngôn ngữ văn xuôi giàu tính nhạc..................................................86
3.3. Kết cấu.....................................................................................................92
3.3.1. Kết cấu mở.......................................................................................93
3.3.2. Kết cấu lồng ghép.............................................................................98
3.3.3. Kết cấu tâm lý................................................................................102
3.4. Giọng điệu trần thuật...........................................................................104
3.4.1. Giọng điệu xót xa, ngậm ngùi.......................................................105
3.4.2. Giọng triết lý, tranh biện...............................................................107
3.4.3. Giọng ngợi ca..................................................................................110
KẾT LUẬN..........................................................................................................114
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................118

SVTH: Anh Lung

Page 2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở cái tuổi “thất thập cổ lai hy” nhưng Ma Văn Kháng vẫn rất trẻ trung và
đặc biệt vẫn tỏ ra sung sức trong nghề cầm bút. Hơn 50 năm trong nghề, Ma

Văn Kháng đã sở hữu một gia tài nghệ thuật khá đồ sộ: 15 cuốn tiểu thuyết,
khoảng 200 truyện ngắn và một hồi ký văn học… Trong suốt hành trình lao
động nghệ thuật, Ma Văn Kháng luôn ý thức được sứ mệnh là viết để bảo vệ và
khẳng định những giá trị chân chính của con người, của sự sống. Mỗi trang viết
của ông không chỉ thấm đẫm những quan niệm nhân sinh thế sự mà dường như
soi thấu tâm can, gan ruột con người, mỗi tác phẩm vừa là tiếng nói đồng cảm sẻ
chia với nỗi đau khổ của con người vừa đấu tranh quyết liệt cho cái đẹp, cái
thiện ở cuộc đời.
Thành tựu của Ma Văn Kháng kết tinh ở cả hai thể loại: Tiểu thuyết và
truyện ngắn. Nhiều tiểu thuyết của ông ở thập kỷ 80 đã từng gây xôn xao dư
luận và cho đến nay vẫn hấp dẫn người đọc: Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng
trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú (1989)… nhưng Ma Văn
Kháng thực sự đặc sắc ở truyện ngắn. Truyện ngắn Ma Văn Kháng có vị trí đặc
biệt trong văn nghiệp của ông. Người đọc biết đến Ma Văn Kháng qua truyện
ngắn Xa phủ (1969), được tặng giải thưởng báo Văn nghệ. Tiếp sau đó người
đọc gần gũi hơn với Ma Văn Kháng qua các tập truyện ngắn Bài ca trăng sáng
(1972), Cái móng ngựa (1973)…
Tuy nhiên, từ 1980 truyện ngắn Ma Văn Kháng mới cất cánh, thăng hoa,
vươn tới đỉnh cao mà không mấy ai theo nghiệp bút nghiên lại không mong đạt
tới: Giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi truyện ngắn báo văn nghệ với tập
truyện Xa phủ; tặng thưởng của Hội đồng văn xuôi Việt Nam 1995, giải thưởng
văn học ASEAN 1998 với tập Trăng soi sân nhỏ, giải Cây bút vàng trong cuộc
thi viết truyện ngắn do Bộ công an kết hợp với hội nhà văn tổ chức cho truyện
ngắn San Cha Chải, giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001, giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2012… và còn nhiều tiểu
thuyết, truyện ngắn của ông đã được chuyển thể thành kịch bản phim. Cho đến
SVTH: Anh Lung

Page 3



nay Ma Văn Kháng vẫn chung thủy với thể loại truyện ngắn đầy hấp dẫn và
hứng thú này.
Sáng tác của Ma Văn Kháng chia làm hai giai đoạn: trước và sau đổi mới
(1986). Giai đoạn trước chủ yếu viết về cuộc sống, phong tục của ngừoi dân
miền núi, giai đoạn sau viết về những đa đoan, phức tạp của đời sống thị thành
và nông thôn. Cùng với sự thay đổi về đề tài, sáng tác của Ma Văn Kháng cũng
có những sự đổi thay đáng kể, những bước đột phá về tư duy nghệ thuật. Nếu
như những trang viết của Ma Văn Kháng trước thập kỉ 80 thể hiện cái nhìn mang
hơi hướng sử thi thì ở giai đoạn sau đã chuyển sang cái nhìn thế sự. Cuộc sống
hiện lên trong tác phẩm của ông giờ đây không còn đơn tuyến mà đa tuyến,
nhiều chiều, cái xấu chen lẫn cái tốt, ma quỷ chen lẫn với thánh thần. Ông quan
tâm đến thân phận con người trong nhiều quan hệ, hoàn cảnh khác nhau và cố
gắng thể hiện con người một cách đầy đủ nhất trong tính đa dạng toàn vẹn như
nó vốn có.
Nhìn chung khi bàn về tác phẩm của Ma Văn Kháng giới nghiên cứu phê
bình cũng như độc giả đều thống nhất khẳng định sáng tác của nhà văn thành
công hơn ở những năm sau Đổi mới (1986). Ma Văn Kháng là cây bút sung sức
thời kỳ Đổi mới và tác phẩm của ông đã có nhiều sự đổi thay mới mẻ để đáp
ứng yêu cầu của thời đại. Tìm hiểu truyện ngắn Ma Văn Kháng từ thời kỳ Đổi
mới chúng tôi mong muốn khái quát, khẳng định được chiều sâu tư tưởng, giá trị
nhân văn và những đóng góp to lớn của Ma Văn Kháng với nền Văn học Việt
Nam hiện đại, thấy được những thành tựu mới của nhà văn thời kỳ này so với
thời kỳ trước; qua đó thấy được bước chuyển mình của Văn học Việt Nam nói
chung thời kỳ Đổi mới. Nghiên cứu vấn đề nói trên sẽ góp phần bổ sung vào
việc đánh giá một cách hoàn chỉnh khái quát những thành tựu nổi bật của truyện
ngắn Ma Văn Kháng trong nền văn xuôi đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
Ngay từ khi tập truyện ngắn Xa phủ ra đời, giới phê bình văn học đã quan
tâm nhiều đến tác phẩm của Ma Văn Kháng. Bài viết sớm nhất là Đọc Xa phủ

của tác giả Bùi Văn Nguyên đăng trên báo Nhân dân ngày 5-7-1970. Tính cho
SVTH: Anh Lung

Page 4


đến thời điểm hiện nay việc tìm hiểu và khám phá văn chương của ông thật
phong phú và đa dạng. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài báo, nhiều
ý kiến đánh giá của các giáo sư, tiến sĩ, các nhà nghiên cứu phê bình, nhà thơ,
nhà văn được đăng tải trên các sách báo, tạp chí như: Bùi Hiển, Trần Đăng
Suyền, Lã Nguyên, Nguyễn Ngọc Thiện, Bùi Việt Thắng, Trần Bảo Hưng, Trần
Cương, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Văn Toại, Ông Văn Tùng…
Do phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn đặc biệt chú ý đến những bài
viết về truyện ngắn của Ma Văn Kháng. Cùng với sự ra đời của những truyện
ngắn trước năm 1980, những bài viết phê bình chủ yếu tập trung vào chất miền
núi, dân tộc trong tác phẩm của Ma Văn Kháng. Ngày nay đọc những truyện
ngắn trước 1980 của ông, ta dễ dàng nhận thấy những điều còn đơn giản, nông
cạn – nói như chính tác giả “những truyện tôi viết những năm ấy bị chi phối bởi
những cảm quan ấu trĩ, thô thiển, chốc lát, do đó đa phần là kém cỏi. Cho nên
cùng với tác phẩm, những bài viết về nó khó giữ nguyên giá trị cho tới ngày
hôm nay”.
Thời kỳ 1980 – 1985 (trước đổi mới), Ma Văn Kháng tập trung vào viết
tiểu thuyết, số lượng truyện ngắn ra đời ít, nên cũng không nhiều bài viết về nó.
Đáng chú ý nhất là bài “Đọc các sáng tác về miền núi của Ma Văn Kháng, nghĩ
về trách nhiệm của một nhà văn trước một đề tài lớn” của Nguyễn Văn Toại
(Tạp chí Văn học, số 5/1983), tác giả vẫn chủ yếu đánh giá nội dung phản ánh
cuộc sống mới, con người mới ở miền núi của nhà văn. Một điều đáng lưu ý là
tác giả đã phát hiện ra: truyện ngắn Ma Văn Kháng giàu tứ và tình.
Giai đoạn từ năm 1986 đến nay, Ma Văn Kháng cho ra đời hàng chục tập
truyện ngắn như: Ngày đẹp trời (1986), Heo may gió lộng (1992), Vòng quay cổ

điển (1997), Cỏ dại (2002), Móng vuốt thời gian (2003), Trốn nợ (2009)... Có
thể nói sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng thực sự nở rộ từ đây và ngay lập
tức gây xôn xao dư luận. Rất nhiều những bài báo, bài phê bình nghiên cứu về
truyện ngắn của Ma Văn Kháng xuất hiện, phong phú đa dạng về nội dung.
Tác giả Nguyễn Thanh Nguyên trong bài viết “Ngày đẹp trời – tính dự
báo về những tình thế xã hội” Báo Văn nghệ số 21 ngày 23/5/1987 khẳng định:
SVTH: Anh Lung

Page 5


“Ma Văn Kháng đã khám phá cuộc sống từ nhiều bình diện khác nhau, ông lách
sâu hơn vào ngõ ngách đời sống tinh thần, tìm ra những nguyên nhân và quy luật
khắc nghiệt của tồn tại xã hội”.
Tác giả Bùi Việt Thắng nhân đọc tập truyện ngắn Ngày đẹp trời đã nhận
xét: “Ma Văn Kháng đã khéo léo khai thác những truyện đời thường mà không
rơi vào tầm thường vô vị… mỗi truyện ngắn viết ra như một “nhát cắt ngang”
sắc gọn làm nổi rõ hình hài đời sống trong những hình thái phong phú phức tạp
của nó” (Báo Nhân dân số ra ngày 11/1/1987). Truyện ngắn Ma Văn Kháng
“nghiêng về tính dự báo”, để người đọc có thể “nhận thức sâu sắc hơn về con
người và cuộc đời”. Là một chuyên gia về truyện ngắn, tác giả bài viết có những
nhận xét sâu sắc “truyện ngắn của Ma Văn Kháng thuộc loại truyện có cốt
truyện, dễ kể lại dễ nhớ nhưng không lấy cốt truyện làm mục đích, dù nó là điển
hình, mà cố nới rộng kích tắc của truyện ngắn tạo nên sức liên tưởng lớn ở
người đọc đến những vấn đề thiết thân trong đời sống xã hội và mỗi con người”.
Trong bài “Cảm nhận về Đầm sen của Ma Văn Kháng” tác giả Nguyễn
Đăng Điệp lại có nhận xét, đó là “thứ văn đầy chất đời, đầy ắp hơi thở của sự
sống, sắc sảo biến hóa và tài hoa”. Đặc biệt khi nhận xét về thế giới nhân vật
trong sáng tác của Ma Văn Kháng, tác giả cho rằng: “trong cái thế giới biến
dạng và quay đảo này, con người rất dễ bị tha hóa biến chất”. Và trong thế giới

nhân vật ấy, nhà văn thực sự thành công ở việc xây dựng nhân vật phụ nữ, họ
“đời” nhất trong số các nhân vật của ông. Giọng văn của Ma Văn Kháng là một
giọng điệu rất riêng, nó “tưng tửng, điềm đạm, khách quan, vượt qua cái vụn vặt
theo lối kể lể để chạm đến một vấn đề khác lớn lao hơn” [8].
Khi đọc tập Heo may gió lộng tác giả Trần Bảo Hưng đã có cảm nhận:
“Truyện anh viết thường có lớp lang, thứ tự, ít tiểu xảo mà hấp dẫn, ngòi bút anh
tỏ ra khách quan, điềm tĩnh nhưng vẫn thấm đượm tình yêu thương con người,
vẫn nhoi nhói nỗi đau trần thế. Không ít truyện của anh mang tính chất luận đề
và chất triết lý khá rõ nhưng vẫn nhuyễn, vẫn cuốn hút người đọc vì văn của anh
đậm đà, giàu hương vị, những chi tiết đời sống phong phú, tiêu biểu và nhiều
thuyết phục”.
SVTH: Anh Lung

Page 6


Đáng chú ý là bài viết của tác giả Nguyễn Thị Huệ - “Đổi mới tư duy
nghệ thuật sáng tác của Ma Văn Kháng trong những năm 1980”. Tác giả có
những nhận xét xác đáng về tư duy nghệ thuật của Ma Văn Kháng. Đó là “Ma
Văn Kháng đã nhìn thẳng vào sự thật”, và tiếp cận một hiện thực mới “một hiện
thực phong phú nhưng ngổn ngang bề bộn, phải trái trắng đen lẫn lộn, xen cài
trong biết bao là biến động”. Đồng thời tác giả nhận thấy, Ma Văn Kháng đã
chuyển từ cái nhìn “sử thi” sang cái nhìn “tiểu thuyết” nhằm tiếp cận đời sống ở
bình diện sinh hoạt thế sự. Về con người, nhà văn đã chuyển sang quan tâm đến
con người cá nhân, đặc biệt chú ý đến nhân vật trí thức. Tác giả cho rằng “trong
quan niệm hiện thực về con người, Ma Văn Kháng đã bắt đầu có những thể
nghiệm mở ra khả năng khám phá con người ở nhiều chiều, nhiều bình diện xuất
phát từ cái nhìn nhân đạo về con người” và “trong hiện thực về con người, Ma
Văn Kháng muốn lưu ý chúng ta mối quan hệ giữa con người với tự nhiên” [16,
tr. 54]. Từ đó Nguyễn Thị Huệ đi đến khẳng định: Tư duy nghệ thuật mới của


Ma Văn Kháng những năm 80 ở hai bình diện “hiện thực là phức tạp, không thể
biết trước; con người vẫn còn nhiều bí ẩn cần phải khám phá kiếm tìm”.
Gần đây nhà nghiên cứu Lã Nguyên có tiểu luận “Khi nhà văn đào bới
bản thể ở chiều sâu tâm hồn” đã có cái nhìn toàn diện, tổng quát về truyện ngắn
của Ma Văn Kháng. Xuất phát từ cảm hứng thẩm mỹ, tác giả chia truyện ngắn
Ma Văn Kháng thành 3 nhóm: nhóm thứ nhất “là những truyện ngắn thể hiện cái
nhức nhối xót xa, giận mà thương cho sự hoang dã, mông muội của những kẻ
chưa thành người và những kẻ không được làm người”, nhóm này gắn với đề tài
miền núi trong sáng tác của nhà văn; nhóm thứ hai là những truyện ngắn cất lên
tiếng nói “cảm khái thâm trầm trước thế sự hôm nay” – nhóm này gắn với đề tài
thành thị; nhóm thứ 3 là nhóm thể hiện “cảm hứng trào lộng nghiêm trang trước
vẻ đẹp của cuộc đời sinh hóa hồn nhiên” - nhóm này gắn với đề tài tính dục (Tạp
chí văn học số 9/1999). Ngoài ra, tác giả cũng chỉ ra một số đặc điểm của truyện
ngắn Ma Văn Kháng: tính công khai bộc lộ chủ đề, sự cố ý tô đậm chân dung,
tính cách nhân vật, việc lồng giai thoại vào cốt truyện, đưa thành ngữ, tực ngữ
vào ngôn ngữ nhân vật…
SVTH: Anh Lung

Page 7


Ngoài ra, còn có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khá dày dặn về
truyện ngắn Ma Văn Kháng là:
Phạm Mai Anh (ĐHSP Hà Nội 1997): Đặc điểm truyện ngắn Ma Văn
Kháng từ sau 1980 - Luận văn thạc sĩ.
Nguyễn Tiến Lịch (2007) - Thi pháp truyện ngắn Ma Văn Kháng - Luận
văn thạc sĩ – ĐH KHXH&NV, ĐHQG HN.
Hà Thị Thu Hà (2003) - Thi pháp truyện ngắn Ma Văn Kháng sau năm
1980 - Luận văn thạc sĩ ĐHSP Hà Nội.

Đào Thị Minh Hường (2010) Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma
Văn Kháng từ 1986 tới nay - Luận văn thạc sĩ.
Trần Thị Hương Giang (2011) Truyện ngắn về đề tài miền núi của Ma
Văn Kháng - ĐHSP Hà Nội.
Nhìn chung, những đánh giá, ghi nhận của các học giả, nhà nghiên cứu và
công chúng về tác phẩm cũng như chặng đường sáng tác của Ma Văn Kháng là
đồng thuận và thống nhất. Ông được cả bạn đọc chuyên nghiệp và không chuyên
đón nhận nhiệt thành cũng như dõi theo từng bước cống hiến cho nghệ thuật của
nhà văn. Tuy nhiên, chưa thực sự có một công trình mang tính hệ thống hoặc
khảo sát một cách kĩ lưỡng về mảng truyện ngắn, đặc biệt là đặc điểm truyện
ngắn Ma Văn Kháng từ đổi mới đến nay. Phần nhiều các nhà nghiên cứu mới đi
vào một khía cạnh hoặc nghiêng về đào sâu vào tiểu thuyết. Vì vậy, luận văn này
hy vọng sẽ mang lại một cái nhìn toàn diện sâu sắc hơn về đặc điểm nội dung,
đặc điểm nghệ thuật mảng truyện ngắn Ma Văn Kháng từ thời kì đổi mới đến
nay.
Những ý kiến đánh giá nhận xét của các nhà nghiên cứu, phê bình đi trước
là những gợi ý thiết thực giúp chúng tôi quyết định triển khai đề tài này cho
công trình nhỏ của mình.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Mục đích khoa học của luận văn là khảo sát, tìm hiểu đặc điểm truyện
ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ sau đổi mới qua đó góp phần khẳng định chiều sâu

SVTH: Anh Lung

Page 8


tư tưởng, giá trị nhân văn và những đóng góp to lớn của nhà văn Ma Văn Kháng
đối với nền Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Với đề tài “Đặc điểm truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới”

chúng tôi chọn khảo sát các tập truyện ngắn sau:
- Truyện ngắn Ma Văn Kháng tập 1 (NXB Văn hóa thông tin Hà Nội
2001)
- Truyện ngắn Ma Văn Kháng tập 2 (NXB Văn hóa thông tin Hà Nội
2001)
- 50 truyện ngắn chọn lọc (NXB Văn hóa Sài Gòn 2006)
Ngoài ra để phục vụ cho việc so sánh đối chiếu cũng như thấy được sự kế
thừa, phát triển, đổi mới của truyện ngắn Ma Văn Kháng ở giai đoạn sau đổi
mới, chúng tôi có tìm hiểu một số truyện ngắn sáng tác trước năm 1986.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ những vấn đề liên quan đến đề tài luận văn, chúng tôi thực hiện
một số phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng
hợp, phương pháp khảo sát thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp hệ
thống… để có cái nhìn tổng quan hơn về đối tượng nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình tập trung nghiên cứu đặc điểm truyện ngắn Ma Văn
Kháng thời kỳ đổi mới một cách toàn diện. Luận văn mong chỉ ra được những
phương diện tiêu biểu trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ này từ cách tiếp
cận hiện thực đời sống, con người đến những thành công đặc sắc về nghệ thuật
xây dựng nhân vật, giọng điệu trần thuật, kết cấu, ngôn ngữ…
Từ đó khẳng định những đóng góp của Ma Văn Kháng đối với sự phát
triển của VHVN hiện đại.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Sáng tác của Ma Văn Kháng trong dòng chảy của truyện ngắn
Việt Nam đương đại.
SVTH: Anh Lung

Page 9



Chương 2: Những đặc điểm nội dung trong truyện ngắn Ma Văn Kháng
thời kỳ đổi mới.
Chương 3: Những đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng
thời kỳ đổi mới.

SVTH: Anh Lung

Page 10


NỘI DUNG
Chương 1. Sáng tác của Ma Văn Kháng trong dòng chảy của truyện ngắn
đương đại Việt Nam
1.1. Khái quát chung về truyện ngắn đương đại Việt Nam
“Xét đến cùng, bất kỳ nền văn nghệ nào cũng hình thành trên một cơ sở
hiện thực nhất định… Bất kỳ tác phẩm nào cũng là sự khúc xạ từ những vấn đề
trong cuộc sống”. Chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975 đã mở ra một chân trời
mới cho đất nước Việt Nam, đặc biệt từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam
lần thứ VI (1986). Cùng với những chuyển đổi mạnh mẽ của đất nước, nền văn
học Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới ngày càng sâu sắc toàn diện. Người ta
nói tới một sự đổi mới mạnh mẽ trong đời sống tư tưởng, trong quan niệm về
nghệ thuật và con người cũng như sự đổi mới về thi pháp thể hiện. Đáp ứng yêu
cầu nhìn thẳng vào sự thật, nhiều cây bút đã nhìn lại hiện thực của thời kỳ vừa
qua, phơi bày nhiều mặt trái còn bị che khuất, lên án những lực lượng, những tư
tưởng và thói quen đã lỗi thời, trở thành vật cản trên bước đường phát triển của
xã hội. Khuynh hướng này thể hiện sự cố gắng, nỗ lực của những người cầm bút
muốn đưa ra cái nhìn hợp lý, toàn diện hơn khi đánh giá lại những sự kiện, con
người của quá khứ, chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong quan niệm của văn

học về cuộc đấu tranh mà dân tộc vừa trải qua. Một khuynh hướng khác khá nổi
trội bởi số lượng phong phú và ý nghĩa “quan thiết” của nó là khuynh hướng đời
tư, thế sự. Những vấn đề của cuộc sống và con người thời hậu chiến, những mối
quan hệ chồng chéo, phức tạp, những mảnh đời riêng tư, những câu chuyện đời
thường, trở thành đối tượng của nghệ thuật. Hiện thực cuộc sống được các nhà
văn lật xới từ những số phận cá nhân nhỏ bé đến những vấn đề xã hội rộng lớn
mang ý nghĩa nhân sinh của một thời đại… Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng,
Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y
Ban… đều là những cây bút khá tiêu biểu cho khuynh hướng này.
Ngoài ra cũng cần thấy văn học sau đổi mới còn xuất hiện khuynh hướng
triết luận. Chiêm nghiệm, triết lý đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong
sáng tác của các nhà văn và không chỉ ở những nhà văn có nhiều từng trải như
SVTH: Anh Lung

Page 11


Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu mà còn ở nhiều cây bút thuộc các thế hệ sau
như: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài… Từ đầu những năm 90 xuất hiện
dòng hồi kí – tự truyện, Tô Hoài và Nguyễn Khải đã có những tác phẩm thu hút
được nhiều sự quan tâm của công chúng rộng rãi.
Gần đây người ta lại chú ý đến loại văn xuôi kỳ ảo, cả truyện ngắn và tiểu
thuyết, với những thể nghiệm táo bạo để cách tân thể loại. Có thể kể đến truyện
ngắn và tiểu thuyết của một số tác giả như: Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Nguyễn
Bình Phương…
Nhìn chung thành tựu nổi bật của văn học thời kỳ đổi mới được kết tinh ở
truyện ngắn và tiểu thuyết. Tiếp theo lớp nhà văn thành danh như Nguyễn Minh
Châu, Ma Văn Kháng…người ta thấy nổi lên những cây bút mới rất sung sức
như: Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Dương Hướng, Nguyễn
Khắc Trường, Tạ Duy Anh, Lê Minh Khuê…Sáng tác của họ đã góp phần tạo

nên diện mạo riêng vừa độc đáo, vừa đa dạng của văn học Việt Nam thời kỳ đổi
mới.
1.2. Hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng
1.2.1. Cuộc đời
Ma Văn Kháng sinh ngày 1/12/1936, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, quê
gốc phường Kim Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Ông được đánh giá là
một nhà văn lớn có những đóng góp đáng kể vào công cuộc đổi mới của nền văn
xuôi đương đại Việt Nam.
Là chàng trai Hà thành chính hiệu nhưng Ma Văn Kháng có một thời gian
khá dài sống ở miền núi Tây Bắc. Ông tham gia quân đội từ khi còn là thiếu sinh
quân, sau đó được cử đi học ở khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc, rồi được về
làm hiệu trưởng trường cấp 2 thị xã Lào Cai. Được ít năm ông quay trở về học
Đại học Sư phạm Hà Nội, ra trường ông tiếp tục xung phong lên dạy học ở thị
xã Lào Cai, với cương vị Hiệu trưởng trường cấp 3. Về sau ông chuyển sang làm
báo và đã từng là Phó tổng biên tập tờ báo của Đảng bộ tỉnh. Mãi đến năm 1976,
Ma Văn Kháng mới chuyển về Hà Nội. Suốt hai mươi năm gắn bó với mảnh đất
Tây Bắc, Ma Văn Kháng am hiểu lối sống, phong tục của đồng bào các dân tộc
SVTH: Anh Lung

Page 12


thiểu số. Bút danh Ma Văn Kháng phần nào nói lên tình yêu mà ông dành cho
vùng đất giàu tình nghĩa ấy. Ông luôn tâm nguyện rằng, phải sống chan hòa với
đồng bào dân tộc, hãy sống hết mình vì nhân dân trước đã, sau đó mới nói đến
chuyện làm cái gì đó hợp với sở trường của mình.
Từ sâu trong tâm khảm, nhà văn đã coi Tây Bắc là quê hương thứ hai của
mình. Tình yêu, sự gắn bó ấy đã thôi thúc ông viết văn, viết báo. Những trang
viết đầu tay của ông toát lên cái nhanh nhạy của một cây bút trẻ, hăm hở vào
nghề, tự tin, mạnh mẽ và thiết tha. Truyện ngắn Phố cụt được in báo năm 1961

đã mở đầu nghiệp văn của ông. Từ đó ông hăm hở đến các bản Mường, vạch lau
lách mà đi, sắn quần mà lội suối, chống gậy mà leo vách đá… để ghi lại từng chi
tiết của cuộc sống, để trải nghiệm mà viết. Cứ thế ông cần cù, bền bỉ, chắt chiu
từng giọt tinh túy của cuộc sống rồi bày lên tác phẩm. Ông viết, xuất hiện đều
đặn trên các mặt báo và nhanh chóng chiếm được cảm tình của độc giả.
Thời gian ngồi trên ghế trường Đại học Sư phạm đã giúp ông thấm thía,
nhận ra rằng, chỉ lao vào đời sống “cày sâu cuốc bẫm” nó thôi thì vẫn chưa đủ,
khó mà vươn xa được, mà phải học thầy cô, bạn bè, học từ sách vở nữa. Khi
kiến văn được mở rộng, vốn sống trực tiếp được bổ sung bằng vốn tri thức, thì
tác phẩm sẽ trở nên cứng cáp, có sinh lực dồi dào và bền bỉ, sống mãi với thời
gian. Với ông, dường như có sự tương hợp giữa thành nhân và đắc đạo văn
chương. Viết, trải nghiệm, đau đớn rồi lại viết. Cứ thế các tác phẩm, những đứa
con tinh thần của ông ngày càng lớn lên, đồ sộ, lừng lững đứng chung vào hàng
ngũ những tác phẩm của các nhà văn gạo cội của nước nhà. Ông nói: Viết văn
thì phải đau mới viết được. Đau thì mới thấy thấm thía, mới bật ra được. Và như
vậy tác phẩm mới hay, mới đậm chất nhân văn, chứ cứ nhơn nhơn với những thú
vui ngoài xã hội thì lấy đâu ra tác phẩm hay. Và ông đã thực sự đau đớn sau
những trải nghiệm trên đường đời, để khi quay lại chốn đô thị phồn hoa, ông đã
giúp chúng ta nhận diện chính xác cơn biến động của lịch sử, những gương mặt
thị dân, bọn trí thức rởm, bọn hợm hĩnh… Ông đã vẽ lên khá đầy đủ bức tranh
của sự biến động xã hội, khi những giá trị truyền thống từng ngày bị phá vỡ bởi

SVTH: Anh Lung

Page 13


sự xô đẩy của tiến trình lịch sử; sự tha hóa của đạo lí nhân sinh; sự giằng xé giữa
cái tốt và cái xấu, giữa cái ti tiện và lòng nhân ái…
Đối với Ma Văn Kháng, viết văn trước tiên là câu chuyện về số phận con

người, sự đấu tranh của mỗi người để hướng tới cái đẹp, cái thiện. Thấp thoáng
trong các trang sách, người đọc có thể nhìn ra nỗi buồn, nỗi đau đời của riêng
ông, nhưng trên tất cả đó là những ưu tư của ông trước nhân tình thế thái. Ông
thực sự muốn dùng sức mạnh ngòi bút của mình để mang tới những giá trị nhân
văn cho con người, vì con người ở nghĩa rộng lớn nhất.
Ông quan niệm vì một điều rất đơn giản: “Con người sống không chỉ là để
làm đẹp cho cuộc sống, không chỉ để ra nụ ra hoa mà sống còn là để chịu thương
tích nữa – đó là quy luật của xã hội. Sống là đấu tranh, tranh đấu sẽ có thương
tích. Tôi không muốn một cái đẹp dễ dãi. Cái đẹp ấy phải mang màu sắc bi
tráng. Cái đẹp ấy đều trải qua những mất mát, thiệt thòi, thậm chí hi sinh, bị vùi
dập đến mức không còn chỗ đứng. Thế nhưng họ vẫn vươn lên khẳng định nhân
cách chính mình. Đó chính là cái đẹp rất cơ bản.
77 tuổi đời sống chung với thuốc và những cơn đau tim, ông không còn
khỏe về thể chất, song sức viết sức nghĩ của ông thì có lẽ nhiều người trẻ cũng
phải chào thua. Gần đây, khi đã qua tuổi 70, nhà văn Ma Văn Kháng vẫn tiếp tục
cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết được viết theo phong cách hoàn toàn mới là
Bóng đêm và Bến bờ. Với hai tác phẩm ấy, ông muốn chuyên chở những tâm
huyết, những vấn đề của số phận con người, những mặt trái, những dòng chảy
đang tiềm ẩn phức tạp đến với bạn đọc.
Nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân nhận xét: “Có thể nói trong số
những cây bút cùng thời với anh, có người đã bỏ nghề, cũng có người viết thưa
đi… thế nhưng Ma Văn Kháng vẫn cặm cụi tìm tòi và kiên trì viết đều lên, rất
đều đặn. Và thật lạ, những tác phẩm của anh đều gây được chú ý. Thành ra Ma
Văn Kháng đã thu được một kết quả khả quan về mặt sáng tác.”
Một điều có thể nhận thấy dù cho gắn bó với miền núi hay thành thị thì
chính Ma Văn Kháng cũng đang tự trải mình với từng nhân vật, từng câu
chuyện, từng hoàn cảnh… làm giàu kho tàng ngôn ngữ của mình và để cho đời
SVTH: Anh Lung

Page 14



nhiều tác phẩm hơn nữa. Và giờ đây, khi đã ở cái tuổi xưa nay hiếm Ma Văn
Kháng vẫn dành sự tận tâm, lòng say mê nghệ thuật và đau đáu với nghiệp viết,
ông đã và đang tiếp tục có những đóng góp đáng kể cho nền văn học đương đại
Việt Nam.
1.2.2. Sự nghiệp
Ma Văn Kháng có một sự nghiệp văn chương đồ sộ cả về số lượng tác
phẩm và thành tựu: 15 tiểu thuyết, 25 tập truyện ngắn và 1 hồi ký, tính ra ông đã
viết hàng vạn trang văn trong đời mình. Hàng vạn trang văn ấy chỉ để giữ lại
một điều cuối cùng, là con người hãy đến với nhau bằng sự tử tế, bằng tình yêu
vô tư và vô điều kiện. Đó cũng là muốn kết tinh từ những tháng năm vất vả khổ
sai với con chữ của nhà văn, mà thực tế trải nghiệm là một minh chứng.
Ma Văn Kháng thực sự “sống đã rồi hãy viết” – như tâm nguyện của
mình. Rời Hà Nội khi tuổi đời còn rất trẻ, ông đã chọn nghề dậy học ở một vùng
đất xa lạ với mình về văn hóa, là Lào Cai. Và rồi với trái tim căng mở của người
trí thức, với đôi chân ham đi và cặp mắt không ngừng quan sát, ông đã luôn
dành chỗ trong tâm hồn cho những bài ca của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc
tổ quốc ngân vang, trở thành chất liệu vàng ròng làm nên những tác phẩm văn
học nổi tiếng sau này như: Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Gặp gỡ ở La
Pan Tẩn, Một mình một ngựa…
Ông là nhà văn tiêu biểu viết về miền núi, không chỉ bởi cái bút danh Ma
Văn Kháng, mà còn bởi khi viết về một dân tộc, một vùng đất, ông đã không
“viết hộ hay viết thuê, mà viết cho chính mình”. Hơn 20 năm làm nghề dạy học
ở miền núi, Ma Văn Kháng thực sự đã chọn con đường khó để đi, vì ông hiểu
không có những trả giá thật sự trong đời sống, nhà văn không thể có những trang
viết hay. Trên vai người thầy Ma Văn Kháng chưa khi nào chỉ là giáo án dạy
học, mà còn là những cuốn sổ ghi chép tỉ mỉ những tư liệu về lịch sử, con người,
cuộc sống của một vùng đất, những trăn trở, day dứt về số phận dân tộc, số phận
con người. Không chỉ dậy học trò vùng cao con chữ mà Ma Văn Kháng còn tự

đào tạo mình một cách nghiệt ngã, để trở thành nhà văn.

SVTH: Anh Lung

Page 15


Có thể khẳng định rằng hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng được đánh
dấu từ truyện ngắn Phố cụt in trên Báo Văn nghệ 1961. Tuy nhiên truyện ngắn
có tính chất ghi dấu ấn sâu sắc đối với Ma Văn Kháng, theo đó, đã ảnh hưởng
trực tiếp tới quyết định đi theo văn nghiệp của ông sau này lại là Xa phủ (1969).
Chính nhà văn bộc bạch: “Xa Phủ, cái mốc son trên con đường đi tới văn
chương của tôi! Cảm hứng từ truyện ngắn này được nuôi dưỡng, trở thành xung
lực mạnh mẽ khiến tôi viết được cả loạt truyện ngắn tiếp theo với nhân vật, cuộc
sống là vùng đồng bào các dân tộc, để năm 1969 tôi được nhà xuất bản văn học
in cho tập truyện ngắn đầu tay cũng mang tên Xa phủ” [11, tr. 184]; và liền
ngay sau đó ông tiếp tục cho ra đời 4 tập truyện ngắn: Mùa mận hậu (1972);
Người con trai họ Hạng (1972); Bài ca trăng sáng (1972); Cái móng ngựa
(1974). Năm 1974 Ma Văn Kháng trở thành Hội viên Hội nhà văn Việt Nam.
Một năm sau khi đất nước thống nhất, năm 1976, Ma Văn Kháng tạm biệt mảnh
đất Lào Cai – miền Tây Bắc của tổ quốc để về chính nơi ông được sinh ra: Hà
Nội. Có thể nói 22 năm ấy “biết bao là tình” nhưng cũng còn đó không ít “nhọc
nhằn”, “nhớ thương”. Có lẽ, khi đã tạm biệt mảnh đất Tây Bắc rồi, nhìn chặng
đường đã qua, để bắt đầu đi tới, Ma Văn Kháng đã không thể dự cảm hết được
những khó khăn đang chờ ông trước mắt. Về Hà Nội, có thể là cơ hội to lớn mở
ra với bao người, song cuộc đời vốn vẫn muốn thách thức ông, một con người
luôn cháy ngời lý tưởng đẹp đẽ. Và tình yêu cuộc sống đến không cùng ông đã
phải đối mặt với bao nỗi nhọc nhằn mưu sinh, thế sự dường như là quá sức đối
với con người. Nhưng chính những giai đoạn đan kết bao khó khăn khắc nghiệt
và đáng nhớ nhất này cộng với khoảng thời gian trên 20 năm sống tại Lao Cai đã

thôi thúc mạnh mẽ ngòi bút ông ghi lại: đó là những câu chuyện thấm đẫm chất
đời, tình người và dư vang của một thời kỳ lịch sử xã hội còn chưa thoát ra khỏi
những nỗi đau, sự nhọc nhằn. Chính nhà văn thừa nhận, đại ý: thời kỳ này dù có
quá nhiều khó khăn trong cuộc sống đối với tôi, song nhìn lại, tôi thấy đó là một
may mắn. May mắn là ở chỗ , tôi được tôi luyện trong một thời kỳ lịch sử quan
trọng – đất nước tiến hành đổi mới – giai đoạn mở ra nhiều vấn đề lớn lao cho
người sáng tác khơi dòng, cộng với sự trải nghiệm của 20 năm cầm bút và sự
SVTH: Anh Lung

Page 16


thay đổi mang tính bước ngoặt trong mỹ cảm của nhà nghệ sỹ, hơn thế, khi ấy
cộng với độ chín của tuổi nghề đã giúp tôi có sức bật lớn. Vì vậy, có thể khẳng
định rằng: đây là thời kỳ nở rộ của truyện ngắn Ma Văn Kháng. Hàng loạt tác
phẩm đã ra đời trong giai đoạn này và đã để lại nhiều dư vang trong lòng người
đọc như: Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986), Vệ sỹ của Quan Châu (truyện ngắn
1988), Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988), Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết
1989), Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992), Heo may gió lộng (truyện ngắn
1992), Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994), Ngoại thành (truyện ngắn 1996),
Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996)… Mỗi con chữ như mặn xót mồ
hôi, nước mắt, chắt ra qua nghiền ngẫm và trải nghiệm từ chính dòng đời, mạch
sống của nhà văn và được chuyển vào tác phẩm ở cả hai thể loại truyện ngắn và
tiểu thuyết, đặc biệt là sự thể hiện hình ảnh và bức tranh cuộc đời tác giả một
cách trung thực trong hồi ký văn chương: Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ
thương.
Tựu trung, nhìn lại những chặng đường lớn trong đời viết văn quá nửa thế
kỷ của Ma Văn Kháng, với 22 năm ở Lao Cai, trải qua các cương vị công tác
như: hiệu trưởng trường cấp 2, 3 Lao Cai; Thư ký Bí thư tỉnh ủy Lao Cai; phóng
viên, phó tổng biên tập báo Lao Cai; từ năm 1976 đến nay ở thủ đô Hà Nội, lần

lượt trải qua các cương vị công tác như: phó tổng biên tập nhà xuất bản Lao
động, Ủy viên Ban chấp hành, ủy viên Đảng đoàn Hội nhà văn khóa V, Tổng
biên tập Tạp chí văn học nước ngoài… thì điều sau chót, có ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với mỗi nhà văn nói chung, Ma Văn Kháng nói riêng, chính là
những đứa con tinh thần của họ, thứ sẽ gắn kết nhà nghệ sỹ với con người, cuộc
đời cũng như sức sống của chúng trong lòng độc giả. Thành quả trong hành trình
nghệ thuật trên nửa thế kỷ của nhà văn Ma Văn Kháng có thể xem là đồ sộ: trên
200 truyện ngắn, tạp văn, 15 tiểu thuyết và 1 hồi ký văn chương. Đó có lẽ là
những cống hiến lớn lao nhất ông dành cho nghệ thuật và cũng là những món
quà quý nhất nhà văn đáp lại một cách chân thành nhất đối với lòng yêu mến của
công chúng đã đón nhận văn chương Ma Văn Kháng trong mấy chục năm qua.

SVTH: Anh Lung

Page 17


1.2.3. Truyện ngắn Ma Văn Kháng trong dòng chảy truyện ngắn
đương đại Việt Nam
Ma Văn Kháng từng được mệnh danh là “người khuấy động văn đàn Việt
Nam hiện đại” (Lưu Khánh Thơ), kém ít tuổi so với Nguyễn Minh Châu,
Nguyễn Khải nhưng cũng thuộc nhóm đại biểu tinh anh của văn học một thời,
xứng danh là một trong những ngọn cờ tiên phong đổi mới. Trong đoàn kỵ mã
oai hùng, mấy chiến hữu hàng tướng lĩnh đã ra đi, Ma Văn Kháng vẫn “một
mình một ngựa” cùng đồng đội “giương thẳng nghĩa kỳ” mải miết vào cuộc
trường chinh vào chiến trận nhân văn để tiêu diệt cái xấu, cái ác trên đời.
Trong khoảng dăm năm sau chiến tranh, dư âm chiến thắng còn vang
vọng, văn học theo quán tính còn được viết theo cảm hứng sử thi: Vùng trời của
Hữu Mai, Tháng ba ở Tây Nguyên của Nguyễn Khải, Miền cháy của Nguyễn
Minh Châu… Phải đến những năm đầu thập niên 80 mới có dấu hiệu đổi mới từ

các cây bút tên tuổi. Ma Văn Kháng được coi là người “đi tiền trạm” cho đổi
mới văn học. Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985) là những tác
phẩm có tính chất mở đường. Lúc này cũng là lúc Nguyễn Khải viết Gặp gỡ
cuối năm (1982), Thời gian của người (1985) như trên hành trình của sự tìm
kiếm mới. Cũng như một loạt tác phẩm của Nguyễn Minh Châu mang ý nghĩa
đột phá như tác phẩm Bức tranh (1982), Bến quê (1985). Tiếp theo là những
tuyên ngôn vang động văn đàn của hai nhà văn khai mở thời kỳ chính thức bước
vào đổi mới văn học như cuộc nhận thức lại của văn học: Cái thời lãng mạn
(Văn nghệ 43, 44 ra ngày 24 và 30/10/1987), Hãy đọc lời ai điếu cho một giai
đoạn văn nghệ minh họa (Văn nghệ 49, 50 – 5/12/1987). Không ra lời tuyên bố
nào chính thức như các chiến tướng Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, nhà văn
Ma Văn Kháng lặng lẽ dấn bước trên con đường mới đã chọn với một quyết tâm
mạnh mẽ. Thực ra từ Mưa mùa hạ đã có sự bất thường. Tác phẩm không có
được cái kết thúc có hậu kiểu truyền thống. Tuy nhiên cái mới chưa dễ dàng
được tiếp nhận vì những quan niệm cũ kĩ cả trong đánh giá lẫn tiếp nhận. Nhưng
rồi tác phẩm cũng vượt qua được thử thách ban đầu và được chuyển thể thành

SVTH: Anh Lung

Page 18


kịch bản điện ảnh. Những va đập trên hành trình viết càng làm dày dạn thêm
một ý chí như sự trải nghiệm cần thiết.
Chính thức từ 1990 là thời được mùa của văn học đổi mới. Đã có sự đồng
hành của nhiều cây bút tạo nên một khí thế mới: Bảo Ninh với Thân phận của
tình yêu (1990), Dương Hướng với Bến không chồng (1990), Chu Lai với Ăn
mày dĩ vãng (1991). Thực ra từ 1986 trở đi, sự đổi mới văn xuôi đã diễn ra ở bề
sâu. Lê Lựu qua Thời xa vắng đã đưa ra một mẫu người tha hóa – Giang Minh
Sài là người có đời sống tâm hồn trải qua bao thăng trầm đau đớn, là sản phẩm

của một tình huống đặc sắc. Nhiều tiếng nói đồng tình đã cất cao. Nguyễn Khắc
Trường vạch trần tâm địa đen tối độc ác của bọn tội phạm đội lốt cộng sản ở
nông thôn (Mảnh đất lắm người nhiều ma – 1990). Vấn đề được Ma Văn Kháng
khơi gợi ở Côi cút giữa cảnh đời như sự lên án bọn cường hào mới nhân danh
quyền uy xô đẩy, dồn ép, vùi dập con người vào hoàn cảnh ngặt nghèo, khốn
khó. Sự đồng thanh ấy phản ánh cảm hứng sự thật, khát vọng dân chủ (Phong
Lê) như một nhu cầu khẩn thiết. Nguyễn Huy Thiệp hưởng ứng và tiếp sức cho
tố cáo sự xói mòn phóng hóa xã hội từ suy bại trong quan hệ gia đình. Những
vấn đề trong: Tướng về hưu, Không có vua, Huyền thoại phố phường, Những
người thợ xẻ (1987) cũng được Ma Văn Kháng xới lên từ Mùa lá rụng trong
vườn: sự băng hoại đạo đức trong truyền thống gia đình do tác động tiêu cực của
xã hội.
Thập kỷ 90 và cho tới những năm đầu thế kỷ này, Ma Văn Kháng vững
bước trên đường đổi mới với những cảm hứng mới, tâm thế mới và khí thế ngày
càng mạnh mẽ. Sự nghiệp đổi mới văn học đã được khẳng định trong đó có đóng
góp tích cực của cây bút điềm đạm mà quyết liệt, bình tĩnh chọn lựa, kiên định
trước những chao đảo, nhiễu loạn của văn đàn khi không tránh khỏi những xu
thế cơ hội và vụ lợi của cơ chế thị trường và mở cửa văn hóa hội nhập toàn cầu.
Nhìn chung Ma Văn Kháng trải qua quá trình đổi mới với những nhọc nhằn
nhưng can đảm và nhẫn nại.
Sự đổi mới văn học xuất phát từ quan niệm nghệ thuật mới của nhà văn,
từ ý thức khát vọng sâu xa phải đổi khác, phải vượt mình để đáp ứng đòi hỏi
SVTH: Anh Lung

Page 19


mới. “Còn bây giờ cuộc sống đã mở thêm ra những chân trời mới, có những
quan niệm mới… Nghĩ khác tất sẽ viết khác” (Chuyện nghề - Nguyễn Khải,
Tuổi trẻ 7/1995).

Từ cảm hứng sử thi chuyển sang cảm hứng thế sự, Ma Văn Kháng không
là ngoại lệ của xu thế đó. Nhà văn đã nhìn hiện thực cuộc đời với cái nhìn nhiều
chiều để thấy cả bề mặt lẫn bề sâu với tất cả quan hệ ngổn ngang, chồng chéo,
phức tạp của nó. Con người là đối tượng để khám phá không còn và không thể
được quan niệm như trước. Đó là con người trong mối quan hệ đa chiều lịch sử,
xã hội, gia đình và với chính mình, là con người trong tính toàn vẹn phong phú
và phức tạp, có hạnh phúc lẫn khổ đau, có cao cả lẫn thấp hèn, bóng tối lẫn ánh
sáng. Con người, đó là một luận đề lớn, ngày càng được nhận thức, chiêm
nghiệm với chiều sâu triết học, xã hội học, văn hóa học và tâm lý học nghệ
thuật, với Ma Văn Kháng.
Đi thật sâu vào tận cùng đáy hồn người để khám phá, phát hiện là quan
niệm viết có phần mới của nhà văn: “Văn chương là chuyện đời thường thông
qua việc đào bới bản thế mình ở chiều sâu tâm hồn, chứ đâu phải là đi hớt lấy
cái váng bọt nổi trên mặt của ngoại vật” – một nhân vật ở Trăng soi sân nhỏ của
Ma Văn Kháng đã nghĩ như vậy. Trong bộ tiểu thuyết hình sự mới đây của nhà
văn, trữ tình ngoại để cũng nói rõ hai thái cực thiện và ác trong nhân cách. Đó là
sự phân tích sâu sắc mang đậm chất nhân bản: “Con người không hướng về cái
ác, cái xấu… Rằng con người đã đẹp lên, đã tốt lên, chẳng còn xấu xa nữa; trong
khi về căn bản con người vẫn đang trong vòng luẩn quẩn chưa hoàn thiện, ích
kỷ, tà dục, độc địa và vẫn tham lam”. Nếu dõi theo sẽ thấy thế giới nhân vật
trong văn xuôi Ma Văn Kháng ngày càng đông đảo hơn nhưng phân hóa rõ rệt
thành hai loại, hai hạng. Không phải là ranh giới giai cấp, cũng không phải là vết
ngang đậm địch – ta. Mà là một quy định đạo đức xã hội: nhân cách cao thượng
và nhân cách thấp hèn; người thiện, người trí tuệ và kẻ hèn ngu, xấu xa, độc địa,
tàn ác. Trong mỗi nhân vật sự lưỡng phân, lưỡng hóa tính cách được tô đậm.
Cấu trúc nhân cách đã là thiên hướng mới của xu thế xây dựng lịch sử - tâm hồn
thay cho cấu trúc lịch sử - sự kiện phổ biến trước kia. Nhân vật tích cực trong
SVTH: Anh Lung

Page 20



tiểu thuyết Ma Văn Kháng vừa lý tưởng vừa hiện thực khi được xây dựng với
khái niệm nhân cách chính xác: phạm trù của sự hài hòa giữa mặt “cá nhân” và
“xã hội”, thậm chí cả mặt “sinh vật” và “con người”. Nhân vật vì vậy “đời” hơn,
thật hơn với những ưu điểm và khuyết tật, với mặt mạnh và yếu.
Trước 1975 độc giả biết đến Ma Văn Kháng với tư cách là một nhà văn
chuyên viết về cuộc sống và con người miền núi. Sự gắn bó thân thiết và tình
cảm mến yêu dành cho đồng bào vùng cao được ghi dấu bằng 3 tập truyện ngắn,
2 cuốn tiểu thuyết và 3 tập truyện viết cho thiếu nhi. Khi chuyển hướng ngòi bút
về đồng bằng, Ma Văn Kháng nhanh chóng tiếp cận với một hiện thực mới, đó
là “cuộc sống thành thị với nhiều màu sắc phong phú và độc đáo, những hoạt
động hối hả, nhộn nhịp suốt đêm ngày” [16]. Bằng sự nhạy cảm tinh tế của mình
cộng với tinh thần trách nhiệm của một ngòi bút tâm huyết Ma Văn Kháng viết
về cuộc sống và con người đô thị trong sự day dứt, trăn trở khi phát hiện ra
những “lỗ hổng”, những “khoảng trống”, những “vùng lặng” đang tồn tại và vây
bủa con người. Cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của Ma Văn Kháng là cái đời
tư, thế sự.
Đặc điểm của ngòi bút văn xuôi Ma Văn Kháng là thiên hướng nhạy cảm
với mặt trái của cuộc sống và sự đồng cảm sâu sắc với những đau khổ của kiếp
người. Đối diện với cái ác, miêu tả cái ác, Ma Văn Kháng thể hiện cái “nộ khí”
của mình nhiều khi gay gắt và quyết liệt. Dường như luôn có một cuộc đấu tranh
thường trực và dai dẳng giữa hai đối cực: thiện - ác, tốt - xấu, cao cả - thấp hèn,
ánh sáng - bóng tối… trong tác phẩm của nhà văn.
Cũng viết về cái xấu cái ác nhưng Ma Văn Kháng lại có cách tiếp cận
riêng, không giống với Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh
Khuê… Trước hết trong tác phẩm của nhà văn cái ác, cái xấu xuất hiện một cách
công khai, tự nhiên và luôn luôn được đặt trong sự đối chọi tương phản gay gắt
với cái thiện, cái đẹp. Hiện thực cuộc sống dù được miêu tả từ góc độ nào thì
tính chất đấu tranh ấy vẫn là đặc điểm nổi bật. Một mặt ta phải chứng kiến tình

trạng bất ổn của con người trong một xã hội đầy bất trắc. Con người luôn bị
mưu phản, mưu hại, bị cái ác săn đuổi đẫn đến nhiều kết cục bất ngờ, ngẫu nhiên
SVTH: Anh Lung

Page 21


và phi lí. Họ đều chịu chung số phận bị đồng nghiệp, kẻ dưới quyền hay những
kẻ ganh ghét địa vị và tài năng hãm hại trở thành những người đang từ đỉnh cao
của sự thành đạt và danh vọng tuột xuống nấc thang cuối cùng đau khổ và bất
hạnh. Nhưng mặt khác những nhân vật tích cực, có năng lực và phẩm chất dù bị
mưu phản, mưu hại nhưng vẫn vươn lên chống trả, đấu tranh. Đôi khi họ yếu ớt
bất lực nhưng không bao giờ từ bỏ ý thức phải đấu tranh đến cùng.
Xuất phát từ những quan niệm nghệ thuật khác nhau và từ cách thức tiếp
cận cuộc sống không giống nhau mỗi cây bút đem đến một chất giọng riêng cho
người tiếp cận. Nguyễn Huy Thiệp gợi lên một cách nhìn hiện thực có phần cay
độc, tàn nhẫn, điều đó tạo nên chất muối trên trang văn của ông. Đọc xong văn
Nguyễn Huy Thiệp ta thấy đọng lại cảm giác về một sự tê tái, một nỗi đau và
một dư vị buồn. Cảm giác bất an và nỗi hoài nghi: tin hay không tin vào con
người, lạc quan hay thất vọng trước một hiện thực tàn nhẫn? Độc giả phải tự đi
tìm câu trả lời cho mình bởi lẽ nhà văn không có thói quen công khai bộc lộ chủ
đề tư tưởng tác phẩm. Tác giả như một người qua đường dửng dưng quan sát,
ghi chép và kể lại những điều mắt thấy tai nghe và không tham gia bình luận,
đánh giá về những sự kiện, hiện tượng đó. Một thái độ khách quan hoàn toàn.
Ma Văn Kháng không tách mình ra khỏi câu chuyện và thế giới nhân vật
của mình. Nhà văn cũng quan sát, ghi chép và kể lại đồng thời góp tiếng nói
luận giải của mình vào trong câu chuyện đó. Điều này tạo nên chất giọng triết lý,
triết luận rất sôi nổi trong tác phẩm của Ma Văn Kháng. Nghệ thuật công khai
bộc lộ tư tưởng qua những luận đề triết lý về một vấn đề nhân sinh của cuộc
sống. Giọng điệu của nhà văn bao giờ cũng là thiết tha, sôi nổi. Người đọc dễ

dàng phát hiện ra đâu là tiếng nói của nhân vật, đâu là tiếng nói tác giả.
Nguyễn Minh Châu cũng triết luận nhưng tính triết luận kín đáo hơn.
Giọng điệu chủ yếu trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu là giọng trữ tình âu
lo, lo âu trước tình trạng xuống cấp về nhân phẩm và đạo đức của một bộ phận
người chạy theo lối sống thực dụng, buông thả.
Trong khi đó Lê Minh Khuê vừa đằm thắm, nhẹ nhàng lại không kém
phần sâu sắc, dữ dội. Sự phê phán của tác giả với cái ác quyết liệt nhưng không
có sự cay cú, hằn học, đay nghiến con người. Lê Minh Khuê mang đến cách cảm
SVTH: Anh Lung

Page 22


nhận cuộc sống dựa hẳn vào những ấn tượng và những cảm giác. Trong cách
cảm nhận cuộc sống của nhà văn người đọc còn phát hiện ra một chất giọng
buồn pha chút âu lo giống như tác phẩm của Nguyễn Minh Châu.
Khác nhau trong giọng điệu nhưng các cây bút lại khá thống nhất trong
quan niệm về giá trị của văn học. Văn học có giá trị bao giờ cũng đề cao nhân
tính, nhân tình và trách nhiệm của nhà văn không phải “nói ra chân lý” mà phải
“thức tỉnh ý thức hướng về chân lý hoặc chí ít cũng là thức tỉnh tình cảm về
phẩm giá con người trong họ” (Nguyễn Huy Thiệp). Day dứt băn khoăn như
Nguyễn Huy Thiệp, hay lo âu thấp thỏm như Nguyễn Minh Châu, Lê Minh
Khuê thì tác phẩm của họ đều có tác dụng cảnh tỉnh con người, hướng con người
đến Chân – Thiện – Mỹ. Với Ma Văn Kháng bao giờ cũng mạnh mẽ, quyết liệt
và rõ ràng khi đối diện với cái ác, cái xấu. Kết thúc tác phẩm nhà văn luôn gợi
trong lòng người đọc một cảm giác tin tưởng, hy vọng vào phẩm giá con người
cùng niềm tin vào một tương lai hoàn thiện hơn, sáng láng hơn.
Đặt sáng tác của Ma Văn Kháng vào trong dòng mạch chung của văn học
Việt Nam sau 1975 chúng ta có thể nhận ra những nét riêng cũng như những
đóng góp của cây bút này. Xuất phát từ quan điểm đổi mới tư duy văn học, đổi

mới quan niệm về nghệ thuật và con người, Ma Văn Kháng thuộc số ít những
nhà văn (như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Khải, Nguyễn
Huy Thiệp…) đã dũng cảm và nhanh nhạy đối mặt với các hiện tượng gai góc,
phức tạp của cuộc sống. Với tâm huyết của người cầm bút cộng với phẩm chất
của một nhà giáo, Ma Văn Kháng luôn thể hiện trong tác phẩm của mình sự tha
thiết gắn bó, yêu thương với cuộc sống và con người. Nhà văn đặc biệt nhạy
cảm với những giá trị tinh thần đã nâng đỡ con người vượt lên những trần tục
khốn khó của cuộc sống. Những giá trị ấy không phải được kiến tạo nên từ thế
hệ hôm nay mà nó đã ngầm ẩn trong bề dày của lịch sử và truyền thống dân tộc.
Trân trọng những nét đẹp của quá khứ, Ma Văn Kháng cảm thấy bất an và lo
lắng khi chứng kiến một bộ phận những con người trẻ tuổi đang có xu hướng coi
thường, phủ nhận quá khứ. Bằng tác phẩm của mình nhà văn kêu gọi con người
hãy sống với hiện tại, hướng tới tương lai nhưng phải dựa trên bệ đỡ tinh thần là
truyền thống nhân văn của dân tộc.
SVTH: Anh Lung

Page 23


Quan tâm tới những vấn đề thuộc về đạo đức của con người Ma Văn
Kháng tập trung chủ yếu vào việc miêu tả, tái hiện mối xung đột thiện ác tồn tại
trong đời sống xã hội, trong gia đình và mỗi cá nhân. Dưới ngòi bút của nhà văn
hiện thực cuộc sống hiện lên không bình yên, phẳng lặng mà luôn có sự vận
động, biến chuyển bởi tập hợp trong đó là vô vàn những mâu thuẫn xung đột
gay gắt và quyết liệt. Nhưng chính điều đó lại tạo nên động lực của sự phát triển.
Chúng ta phải đối diện với cái xấu cái ác hàng ngày, hàng giờ, mọi lúc, mọi nơi
và nhiệm vụ của chúng ta là phải đấu tranh đến cùng để cuộc sống hoàn thiện và
tốt đẹp hơn.
Bên cạnh quan điểm năng động, tích cực về con người là cái nhìn hiện
thực cuộc sống bao gồm cả những điều “tất yếu” và “không tất yếu”. Cuộc đời

đầy những ngẫu nhiên, phi lý, những bất trắc rủi ro mà con người không đoán
định được. Đôi khi nhà văn dùng những điều ngẫu nhiên vô lí ấy để lý giải
những bi kịch cuộc đời, diễn giải về nó theo quan điểm định mệnh. Điều này có
vẻ hơi gò ép và khiên cưỡng nhưng thực chất Ma Văn Kháng không tin vào định
mệnh mà chỉ dùng nó như một phương tiện để khám phá hiện thực.
Ma Văn Kháng đã tạo nên một dấu ấn riêng trong khuynh hướng văn học
thế sự sau 1975. Những sáng tác của nhà văn từ đầu thập niên 80 đến nay đã góp
tiếng nói tích cực, khuyến khích con người đấu tranh thanh trừ những tiêu cực,
xấu xa vươn lên những điều cao cả, thánh thiện. Trên con đường sự nghiệp, ngòi
bút Ma Văn Kháng còn tiếp tục tỏa sáng bởi lẽ ở con người này nội lực sống, nội
lực viết vẫn còn mãnh liệt, dẻo dai. Và cùng với thế hệ nhà văn tiên phong của
phong trào đổi mới văn học… Ma Văn Kháng đã góp phần không nhỏ tạo nên
một diện mạo mới cho văn học Việt Nam hiện đại.

SVTH: Anh Lung

Page 24


Chương 2. Những đặc điểm nội dung trong truyện ngắn Ma Văn Kháng
thời kỳ đổi mới
2.1. Cảm hứng thế sự đời tư trong truyện ngắn Ma Văn Kháng
Văn học sau 1975, đặc biệt là văn học sau đổi mới (1986) là giai đoạn
chuyển biến từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết, từ cảm hứng cao cả, hào
hùng sang cảm hứng thế sự đời tư. Con người được nhìn nhận dưới tác động đa
chiều phức tạp của cuộc sống hiện nay, con người không được lý tưởng hóa,
lãng mạn hóa mà được nhìn nhận như nó vốn có (sáng/tối, tốt/xấu, thiên thần/ác
quỷ). Ma Văn Kháng đã hòa vào bầu không khí chung của văn học đổi mới, có
thể thấy đặc điểm nội dung nổi bật trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới là nhà văn
đã chuyển sang cái nhìn tiểu thuyết, tiếp cận đời sống ở bình diện sinh hoạt thế

sự. Về con người nhà văn đã chuyển sang quan tâm đến con người cá nhân,
khám phá con người ở nhiều chiều, nhiều bình diện.
Sau khi từ miền núi trở về chốn thị thành, Ma Văn Kháng ngay lập tức bắt
nhịp với cuộc sống, con người nơi đây. Ông đã nhận ra những cái đời thường,
đầy phức tạp, bộn bề và đưa ngay vào tác phẩm vừa ăm ắp chuyện đời, vừa chứa
chan ngậm ngùi một nỗi tâm tình thế sự, nhân sinh. Trong sáng tác về mảng thế
sự, đời tư, ngòi bút của nhà văn hướng tới tất cả những vấn đề nóng hổi của
cuộc sống thế sự, thế thái, nhân tình. Ông đi sâu vào từng khía cạnh của cuộc
sống con người mới: tình yêu, tình dục, hôn nhân, những tính toán thấp hèn,
những ước mơ, khát vọng cao đẹp, hạnh phúc và bất hạnh… Nhà văn lo lắng
đến quặn lòng trước lẽ sống, sự thờ ơ, đạo đức giả, sự phi lí, bất ổn trong quan
hệ của con người với con người, trong gia đình và ngoài xã hội. Những tác phẩm
văn học thời kỳ đổi mới của Ma Văn Kháng là lời tâm sự, lời đối thoại, tranh
biện của tác giả với mọi người về cuộc đời, về văn chương nghệ thật. Nhà văn
muốn khẳng định một điều: cuộc sống tuy có nhiều cái bất biến, muôn màu
muôn vẻ nhưng chất chứa nhiều ý nghĩa; mặc dù cuộc sống có bề nổi là những
vòng luẩn quẩn trong bao toan tính thấp hèn, những xuống cấp của nhân cách
con người nhưng chìm dưới mạch ngầm vẫn là chiều sâu của căn cốt tình người,

SVTH: Anh Lung

Page 25


×