Tải bản đầy đủ (.pdf) (149 trang)

Khảo sát từ láy trong các giáo trình dạy tiếng việt cho người nước ngoài (xuất bản tại việt nam giai đoạn 1980 đến nay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.82 MB, 149 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHÍ HÀ CHI

KHẢO SÁT TỪ LÁY TRONG CÁC GIÁO TRÌNH DẠY
TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI (XUẤT BẢN
TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1980 ĐẾN NAY)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC

Hà Nội – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHÍ HÀ CHI

KHẢO SÁT TỪ LÁY TRONG CÁC GIÁO TRÌNH DẠY
TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI (XUẤT BẢN
TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1980 ĐẾN NAY)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC
Mã số: 60 22 01 13

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGUYỄN THIỆN NAM


Hà Nội – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ với đề tài “Khảo sát từ láy trong các
giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài (xuất bản tại Việt Nam giai
đoạn 1980 đến nay” là công trình nghiên cứu của tôi dƣới sự hƣớng dẫn của
PGS.TS Nguyễn Thiện Nam. Các kết quả nghiên cứu đƣa ra trong luận văn
này chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kì một công trình nào khác.
Học viên
Phí Hà Chi


LỜI CẢM ƠN
Trƣớc tiên tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS.
Nguyễn Thiện Nam, giáo viên hƣớng dẫn của tôi, ngƣời thầy đã nhiệt tình, tận
tâm hƣớng dẫn, hỗ trợ và chia sẻ những kinh nghiệm quý báu trong suốt quá
trình thực hiện nghiên cứu.
Qua đây, tôi cũng xin trân trọng cảm ơn nhà trƣờng, các quý thầy cô
giảng dạy và công tác tại khoa Ngôn ngữ học và khoa Việt Nam học, trƣờng
ĐH KHXH&NV – ĐHQG HN đã trang bị cho tôi những kiến thức chuyên
môn cũng nhƣ các kĩ năng và kinh nghiệm học tập, nghiên cứu trong suốt quá
trình học tập, trau dồi bản thân đến nay. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các
thầy cô trong Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ đã có những chia sẻ, đóng góp
chỉnh sửa để tôi có thể hoàn thiện luận văn của mình.
Cuối cùng, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình và các
đồng nghiệp cơ quan, bạn bè đã luôn ủng hộ, giúp đỡ và động viên tôi trong
thời gian học tập cũng nhƣ hoàn thành luận văn này.



MỤC LỤC
MỤC LỤC

1

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

3

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

4

MỞ ĐẦU

5

1. Lý do chọn đề tài

5

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

6

3. Mục tiêu nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn

12

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu


13

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

16

6. Bố cục của luận văn

16

NỘI DUNG
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về từ láy tiếng Việt

17

1.1. Khái niệm từ láy trong tiếng Việt

17

1.2. Phân loại từ láy tiếng Việt

23

1.2.1. Phân loại từ láy về đặc điểm cấu tạo

23

1.2.2. Phân loại từ láy về đặc điểm ngữ nghĩa


28

1.3. Tiểu kết

31

Chƣơng 2. Khảo sát từ láy trong các giáo trình tiếng Việt

32

2.1. Mô tả khảo sát

32

2.1.1. Các từ láy xét trên khía cạnh cấu tạo

34

2.1.1.1. Từ láy đôi

35

2.1.1.2. Từ láy ba

36

2.1.1.3. Từ láy bốn

36


2.1.1.4. Từ láy đƣợc sử dụng trong phần phát âm, chính tả

39

2.1.2. Các từ láy xét trên khía cạnh ngữ nghĩa

46

2.2. Giảng dạy từ láy trong các giáo trình tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài

58

2.2.1. Khái niệm và cấu trúc từ láy đƣợc giới thiệu trong các giáo trình

59

1


2.2.2. Bài luyện cho các dạng láy và từ láy trong giáo trình
2.3. Tiểu kết

68
77

Chƣơng 3. Thực tế tiếp cận, sử dụng từ láy của học viên nƣớc ngoài và
hƣớng đề xuất cách thức giới thiệu, luyện tập từ láy trong quá trình dạy

78


3.1. Thực tế tiếp cận, sử dụng từ láy của học viên nƣớc ngoài

78

3.1.1. Số liệu khảo sát

78

3.1.2. Nhận định về thực tế sử dụng từ láy của học viên nƣớc ngoài

82

3.2. Hƣớng đề xuất cách thức giới thiệu, luyện tập từ láy trong quá trình
giảng dạy

85

3.2.1. Hƣớng tiếp cận từ láy

85

3.2.2. Dạng bài luyện

89

3.3. Tiểu kết

93

KẾT LUẬN


94

TÀI LIỆU THAM KHẢO

97

PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Phụ lục 2

2


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
STT
1.

Ký hiệu / Viết tắt
GT

Chú thích
Giáo trình dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài

2.

/

Hoặc


3.

*

Đƣợc giới thiệu trong lý thuyết về từ láy

4.

=

Tƣơng đƣơng nghĩa

5.



Biến đổi thành

6.

LHT

Láy hoàn toàn

7.

LBP

Láy bộ phận


8.

N1, N2, N3

Nghĩa 1, nghĩa 2, nghĩa 3 (phân loại theo ngữ nghĩa)

9.

DT

Danh từ

10.

ĐT

Động từ

11.

TT

Tính từ

3


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Sơ đồ 1.1


Phân loại từ láy theo cấu tạo theo Hoàng Văn Hành

26

Sơ đồ 1.2

Cơ sở phân loại từ láy về đặc điểm cấu tạo của luận văn

28

Bảng 2.1

Số lƣợng từ láy thu đƣợc trong các giáo trình tiếng Việt

32

Biểu đồ 2.2 Loại từ láy phân theo cấu tạo

34

Biểu đồ 2.3 Các kiểu từ láy đôi

35

Bảng 2.4

Các từ láy bốn trong các giáo trình tiếng Việt

37


Bảng 2.5

Các từ láy trong phần phát âm, chính tả

39

Biểu đồ 2.6 Từ láy dùng trong phần phát âm, chính tả phân theo cấu tạo

40

Biểu đồ 2.7 Các từ láy phân theo ngữ nghĩa

47

Bảng 2.8

Số lƣợng các bài tập luyện từ láy trong các giáo trình

75

Biểu đồ 3.1 Từ láy đôi phân theo cấu tạo (trong thực tế sử dụng từ láy)

79

Biểu đồ 3.2 Từ láy phân theo ngữ nghĩa (trong thực tế sử dụng từ láy)

80

Biểu đồ 3.3 Từ láy phân theo từ loại (trong thực tế sử dụng từ láy)


81

4


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Ngày nay, trong thời đại mới của thế kỉ XXI, đất nƣớc Việt Nam đang dần
khẳng định vị thế của mình trên trƣờng quốc tế, đẩy mạnh quá trình phát triển, giao
lƣu và hội nhập kinh tế, văn hóa, giáo dục,… Thời kì này cũng tạo nhiều điều kiện,
cơ hội cho ngƣời nƣớc ngoài sinh sống, làm việc và học tập ở Việt Nam, dẫn đến
nhu cầu học tiếng Việt ngày càng tăng cao. Số lƣợng ngƣời nƣớc ngoài học tiếng
Việt hiện nay nhiều hơn so với trƣớc đây và vẫn đang có xu hƣớng tăng nhanh. Để
đáp ứng nhu cầu thiết thực này, các cơ sở giảng dạy tiếng Việt đã đƣợc mở ở nhiều
nơi, nhất là ở hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Các khóa học
tiếng Việt đƣợc đƣa ra rất phong phú và bổ ích, cùng với đó là số lƣợng học liệu
dạy và học cũng trở nên nhiều và đa dạng hơn nhằm giúp cho ngƣời học đạt đƣợc
các mục tiêu thụ đắc tiếng Việt một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. Thực tế
việc giảng dạy tiếng Việt nhƣ một ngoại ngữ đã và đang đƣợc khảo sát nghiên cứu
và đem lại nhiều kết quả đáng ghi nhận, góp phần vào việc ứng dụng trong dạy và
học tiếng Việt. Song, ở mảng nghiên cứu này vẫn có những địa hạt chƣa đƣợc chú ý
tới. Trong thực tiễn giảng dạy tiếng Việt cho đối tƣợng học viên quốc tế, chúng tôi
nhận thấy từ láy là một trong những vấn đề không nằm ngoài quá trình dạy và học
tiếng Việt mà cả giáo viên cũng nhƣ học viên đều có thể gặp phải trở ngại trong
việc giới thiệu và cảm thụ nó.
Đƣợc cấu tạo bởi phƣơng thức tổ hợp các tiếng trên cơ sở hoà phối ngữ âm,
từ láy chiếm một số lƣợng không nhỏ trong tiếng Việt. Hơn nữa, từ láy là một đặc
trƣng trong tiếng Việt – ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính và đặc biệt có hệ thống

thanh điệu đa dạng, điều khiến cho từ láy trong tiếng Việt có thể xem nhƣ phong
phú và độc đáo hơn so với những ngôn ngữ không có thanh điệu khác. Nhƣ vậy, xét
về khía cạnh ngƣời nƣớc ngoài học tiếng Việt, bên cạnh những phƣơng thức cấu tạo
từ cơ bản và tất yếu là từ đơn, từ ghép, chắc hẳn ít nhiều họ cũng sẽ biết đến và
cũng có thể sử dụng từ láy. Nếu am hiểu và sử dụng đƣợc từ láy thì việc biểu đạt

5


suy nghĩ, ý tƣởng của ngƣời nƣớc ngoài sẽ cụ thể, sinh động và đa dạng hơn. Tuy
nhiên, nhƣ đã nói ở trên, từ láy tiếng Việt là một bộ phận không thể thiếu trong
tiếng Việt nhƣng cũng không đơn giản bởi nó bao gồm nhiều loại từ láy tạo nên từ
các phƣơng thức láy khác nhau, do đó việc tìm hiểu và áp dụng từ láy trong quá
trình học và thực tế sử dụng đối với học viên quốc tế thực sự cũng là một vấn đề
đáng quan tâm. Chúng tôi quyết định chọn đề tài: Khảo sát từ láy trong các giáo
trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài (xuất bản tại Việt Nam giai đoạn 1980
đến nay) để tiến hành thu thập, đánh giá số liệu, đƣa ra đề xuất nhằm đóng góp một
phần nhỏ vào các nghiên cứu tiếng Việt ở khía cạnh dạy tiếng Việt nhƣ một ngoại
ngữ.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Là một trong những khía cạnh không thể thiếu và đặc biệt của tiếng Việt, từ
láy từ lâu đã đƣợc quan tâm, xem xét và nghiên cứu. Về mặt lí thuyết, trƣớc hết phải
kể đến các hƣớng nghiên cứu về đặc điểm cấu tạo, phân loại, đặc trƣng ngữ nghĩa,
giá trị biểu trƣng, giá trị gợi tả âm thanh, hình ảnh. Những vấn đề này của từ láy
đƣợc nêu ra trong các sách và công trình nghiên cứu tiêu biểu nhƣ:
-

“Ngữ pháp tiếng Việt” (Tiếng – từ ghép – đoản ngữ) – Nguyễn Tài Cẩn (1975)


-

“Những đặc điểm của từ láy tiếng Việt” – Đào Thản (Tạp chí Ngôn ngữ, số 1,
1970)

-

“Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại” – Hồ Lê (1976)

-

“Thử tìm hiểu từ láy song tiết dạng X “ấp” XY” – Phi Tuyết Hinh (Tạp chí
Ngôn ngữ, số 4, 1977)

-

“Từ vựng học tiếng Việt” – Nguyễn Thiện Giáp (1978)

-

“Về những từ gọi là “từ láy” trong tiếng Việt” – Hoàng Tuệ (Ngôn ngữ, số 3,
1978)

-

“Về hiện tƣợng láy trong tiếng Việt” – Hoàng Văn Hành (Tạp chí Ngôn ngữ số
2, 1979)

-


“Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt” – Đỗ Hữu Châu (1981)
6


-

“Từ láy trong tiếng Việt và sự cần thiết phải nhận diện nó” - Phan Văn Hoàn
(Tạp chí ngôn ngữ, số 4, 1985)

-

“Từ láy trong tiếng Việt” - Hoàng Văn Hành (NXB Khoa học xã hội, 1985)

-

“Từ láy – những vấn đề còn bỏ ngỏ” - Hà Quang Năng, Phi Tuyết Hinh,
Nguyễn Văn Khang, NXB Khoa học xã hội, 1998).

-

“Từ điển từ láy tiếng Việt” - Hoàng Văn Hành (chủ biên), NXB Giáo dục Hà
Nội, 1995


Nhờ đặc điểm ngữ nghĩa, giá trị biểu đạt, biểu cảm nên từ láy thƣờng đƣợc
sử dụng nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật văn chƣơng. Khảo sát, nghiên cứu về
từ láy xuất hiện trong các tác phẩm văn học, tất nhiên là một hƣớng nghiên cứu khá
phổ biến về mặt ứng dụng. Có thể điểm tên một số nghiên cứu hƣớng đề tài này
nhƣ:

-

“Giá trị nghệ thuật và các phƣơng thức sử dụng hiện tƣợng láy trong thơ ca Việt
Nam” – Nguyễn Thị Thanh Hà (Luận án Tiến sĩ)

-

“Vai trò của từ láy trong một số tác phẩm văn chƣơng” – Nguyễn Thị Thanh
Hòa (Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ)

-

“Từ láy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu” – Hoàng Thị Lan (Luận văn Thạc sĩ
Ngôn ngữ)

-

“Hệ thống từ láy tiếng Việt trong một số khúc ngâm thế kỉ XIX” – Nguyễn Thị
Hƣờng (Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn)

-

“Tìm hiểu giá trị từ láy trong sử dụng (Khảo sát qua thơ Hồ Xuân Hƣơng,
Nguyễn Khuyến, Tú Xƣơng)” - Nguyễn Thị Thu Hƣơng (Luận văn Thạc sĩ Ngữ
văn)

-

“Tìm hiểu về từ láy trong một số truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tƣ” – Trần Thị
Kim Loan (Khóa luận tốt nghiệp)


-

“Bƣớc đầu tìm hiểu về từ láy trong Truyện Kiều của Nguyễn Du” – Nguyễn Thị
Thủy (Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Ngôn ngữ)

7


-

“Từ láy trong thơ Hàn Mặc Tử” – Nguyễn Ngọc Vẹn (Luận văn tốt nghiệp
chuyên ngành Ngữ văn)

Qua việc thống kê số lƣợng và phân tích đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa, sự

phân bố của từ láy trong các tác phẩm văn học đƣợc nghiên cứu, giá trị ngữ âm và
ngữ nghĩa của các từ láy đƣợc khái quát trong việc tạo nên giá trị thẩm mĩ trong văn
học. Hai giá trị nổi bật đó là khả năng tạo tính nhạc và tính họa, góp phần tạo nên
các hình tƣợng nghệ thuật, tăng sức gợi tả, đặc biệt là trong các tác phẩm thơ ca.
Nhƣ vậy, các khảo sát, nghiên cứu này chỉ ra vai trò, hiệu quả và phƣơng thức sử
dụng của từ láy trong văn chƣơng, giúp ngƣời đọc, ngƣời học có cái nhìn và nhận
thức chung về giá trị về mặt ứng dụng của từ láy.
Khía cạnh dạy từ láy tiếng Việt trong các trƣờng phổ thông trong nƣớc cũng
đƣợc khảo sát nghiên cứu trong một số luận văn, khóa luận tốt nghiệp và bài viết
nghiên cứu đăng trên các tạp chí và các website về giáo dục và khoa học. Dƣới đây
xin điểm qua một số nghiên cứu về nội dung này:
Hoàng Thị Thu Hƣơng trong Khóa luận tốt nghiệp “Khảo sát lớp từ láy trong sách
giáo khoa tiếng Việt 4” đã thực hiện một khảo sát nhằm liệt kê số lƣợng, phân tích
mặt cấu tạo, từ loại, vai trò ngữ pháp và giá trị biểu đạt của các từ láy đƣợc cung

cấp trong nội dung sách giáo khoa tiếng Việt lớp 4 đang đƣợc sử dụng trong chƣơng
trình giảng dạy toàn quốc. Nhìn chung, phần nhiều các điều tra, nghiên cứu khác
hƣớng vào tình hình thực tế việc dạy và học từ láy trong nhà trƣờng:
-

“Khả năng nhận biết từ láy của học sinh tiểu học (Khảo sát ở học sinh lớp 5
trƣờng Tiểu học Tiền Phong B, Mê Linh, Hà Nội) – Nguyễn Thị Thu Hƣơng
(Khóa luận tốt nghiệp Đại học, chuyên ngành Phƣơng pháp dạy học tiếng Việt)

-

“Về khái niệm từ đơn, từ ghép, từ láy đƣợc dạy ở Tiểu học” – Lê Phƣơng Nga
(Tạp chí Giáo dục Tiểu học, số 2 – 1996)

-

“Trở lại vấn đề phân biệt từ đơn, từ láy, cụm từ trong tiếng Việt” – Nguyễn Thị
Lƣơng (Tạp chí Giáo dục Tiểu học, số 5 – 1996)

8


-

“Khả năng nhận biết và sử dụng từ láy, từ ghép ở Tiểu học” – Hà Quang Năng
(Tạp chí Ngôn ngữ & đời sống, số 10 – 2002)

-

“Từ khả năng phân biệt từ ghép và từ láy của học sinh Tiểu học và Trung học

cơ sở nghĩ về cách dạy tiếng Việt” – Nguyễn Đức Tồn (Tạp chí Ngôn ngữ &
Đời sống, số 12 - 2008

-

“Nâng cao hiệu quả sử dụng từ láy cho học sinh lớp 9 qua môn ngữ văn” –
Nguyễn Thị Nga (Trƣờng THCS Lao Bảo) (Website: Sáng kiến kinh nghiệm)

-

“Một số phƣơng pháp dạy tốt từ láy cho học sinh lớp 4, 5” - Lƣu Thị Kim Liên
– Nguyễn Thị Dy (Website: Sáng kiến kinh nghiệm)

-

“Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng phân biệt từ đơn, từ ghép, từ láy cho học
sinh lớp 4, lớp 5” – Nguyễn Thị Thu Hƣơng (Trƣờng TH Cổ Dũng – Kim
Thành – Hải Dƣơng) (Website: Sáng kiến kinh nghiệm)


Trong chƣơng trình học tiếng Việt và Ngữ văn, từ láy nằm trong hệ thống những
kiến thức cơ bản của tiếng Việt. Nhƣ vậy các khảo sát nghiên cứu trên đƣợc thực
hiện trên nhóm đối tƣợng là học sinh phổ thông các trƣờng Tiểu học và Trung học
Cơ sở, Trung học phổ thông đƣợc giảng dạy nội dung này nhằm đƣa ra thực tế học
và sử dụng từ láy hiện nay. Bằng việc sử dụng các phiếu điều tra, khảo sát, kết hợp
với kinh nghiệm giảng dạy, tác giả của những bài nghiên cứu này đã có những mô
tả sát thực về thực trạng hiểu, nhận biết và cảm thụ từ láy của các nhóm đối tƣợng
học sinh nhất định (các nhóm đối tƣợng đƣợc lựa chọn theo các tiêu chí: cấp học,
vùng, trƣờng hoặc cụ thể là một lớp học). Trong đó các tác giả phân tích một số lỗi
và hạn chế còn tồn tại trong quá trình học: mức độ hiểu và vận dụng khái niệm từ

láy chƣa cao, khả năng nhận biết nghĩa của từ láy chƣa thực sự tốt, đặc biệt là vấn
đề nhầm lẫn giữa từ láy với từ ghép xảy ra phổ biến. Sau thực trạng sử dụng từ láy
và phân biệt từ láy với từ ghép, các hƣớng lí giải của các hạn chế này đƣợc đƣa ra
nhằm xác định gốc rễ của vấn đề để từ đó, các tác giả có những đề xuất mang tính
bƣớc đầu hoặc chi tiết, cặn kẽ về các biện pháp khắc phục cũng nhƣ các dạng mẫu
bài tập vận dụng. Một số khảo sát của các giáo viên còn thực hiện thêm một khảo
9


sát việc vận dụng các giải pháp và mô tả những kết quả bƣớc đầu đạt đƣợc kèm theo
những kinh nghiệm rút ra từ thực tế vận dụng đó. Một trong những nghiên cứu nổi
bật nhất trong đó phải kể đến “Dạy và học từ láy ở trƣờng phổ thông” (2003) [18]
của tác giả Hà Quang Năng. Công trình nghiên cứu này đƣợc thực hiện công phu
với cơ sở lý luận về từ láy tiếng Việt bao quát, sâu rộng cung với khảo sát nghiên
cứu về việc dạy và học từ láy trong các trƣờng phổ thông. Khảo sát đƣợc thực hiện
nhằm đánh giá nội dung giảng dạy từ láy trong các sách giáo khoa, ở đó tác giả chỉ
ra sự thiếu nhất quán về quan niệm từ láy đƣợc cung cấp trong các sách giáo khoa
cũ và sự khắc phục thiếu xót này trong các sách giáo khoa mới. Tiếp đó là kết quả
thống kê từ các phiếu khảo sát về từ láy dành cho đối tƣợng học sinh phổ thông ở cả
ba cấp học. Khả năng nhận diện và sử dụng từ láy của các học sinh đã đƣợc nhận
định, mô tả và đánh giá, từ đó các bài tập luyện đƣợc đƣa ra một cách đa dạng, phù
hợp với mục đích giúp học sinh hiểu rõ, sử dụng đúng và mở rộng vốn từ láy theo
trình độ của mình. Đây là một nghiên cứu có tính ứng dụng cao trong giảng dạy
tiếng Việt cho ngƣời bản địa.
Về phần khảo sát, nghiên cứu từ láy trong giảng dạy tiếng Việt cho đối tƣợng
học viên nƣớc ngoài, số lƣợng bài viết và công trình chƣa nhiều. Dƣới đây là hai bài
viết nghiên cứu có liên quan:
Bài viết thứ nhất là “Cách giảng dạy từ láy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài”
của hai tác giả Trần Trọng Giảng và Phạm Thị Lại Giang [6]. Bài viết hƣớng tới đối
tƣợng ngƣời dạy và học tiếng Việt qua ngôn ngữ trung gian là tiếng Anh, trong đó

chỉ ra hai điểm bất lợi trong dạy và học tiếng Việt nhƣ một ngoại ngữ. “Thứ nhất,
trong quá trình dịch nghĩa, không phải lúc nào tiếng Anh cũng có từ cùng loại và
tƣơng đƣơng về nghĩa với từ láy trong tiếng Việt; thứ hai, bởi giá trị gợi tả, biểu
cảm và phong cách nên trong nhiều trƣờng hợp, từ láy mang một nghĩa riêng biệt
khác hoàn toàn với tính từ gốc.” Từ những bất lợi này, hai tác giả có đề xuất những
thủ pháp cụ thể trong quá trình dạy từ láy cho học viên bản ngữ nói tiếng Anh học
tiếng Việt cũng nhƣ đề cập đến việc dịch chuyển nghĩa một số từ láy trong tiếng
Việt – một ngôn ngữ đơn lập sang tiếng Anh – một ngôn ngữ biến hình. Nguyên tắc
10


giảng dạy từ láy đƣợc đƣa ra gồm 2 bƣớc và phƣơng pháp giảng dạy từ láy gồm 3
bƣớc, tiếp đó là các ví dụ về một bài giảng minh họa với giáo án dạy cụ thể, chi tiết.
Cuối cùng các dạng bài tập thực hành từ láy đƣợc đƣa ra nhằm ôn lại cách sử dụng
của các từ láy mà học viên vừa đƣợc giới thiệu trong bài giảng. Có thể nói bài viết
chỉ mới bƣớc đầu giới thiệu một cách giảng dạy từ láy có từ gốc là tính từ cho học
viên bản ngữ tiếng Anh học tiếng Việt cũng nhƣ đề cập đến việc chuyển dịch nghĩa
một số từ láy trong tiếng Việt sang tiếng Anh.
Với mục đích góp phần thúc đẩy sự nghiên cứu so sánh – đối chiếu ngôn ngữ
trong xu thế phát triển của ngôn ngữ học hiện đại, cũng nhƣ góp phần giúp ích cho
đối tƣợng ngƣời Hàn học tiếng Việt và ngƣợc lại, cho ngƣời Việt học tiếng Hàn, Đỗ
Thị Bích Lài đƣa ra một bài viết khảo sát “Những tƣơng đồng và khác biệt của từ
láy trong tiếng Việt và tiếng Hàn” [15]. Bài viết cũng đề cập đến một luận văn của
một ngƣời nghiên cứu ngƣời Hàn - Cho Hae Kyung mà trƣớc đó có khảo sát đề tài
này với những miêu tả bƣớc đầu về cấu trúc, sơ lƣợc về ngữ nghĩa của từ láy tiếng
Hàn và tiếng Việt. Song tác giả bài viết nhận định công trình đó chƣa nêu bật những
điểm dị biệt về bản chất từ láy trong hai thứ tiếng khác nhau này. Đặt ra giới hạn
khảo sát ở hai kiểu từ láy tiêu biểu cho cả hai ngôn ngữ, đó là từ láy hai âm tiết và
từ láy bốn âm tiết, tác giả cung cấp những so sánh rất cụ thể và chi tiết về mặt cấu
trúc và đặc biệt là mặt ngữ nghĩa. Ngoài ra, một số lỗi ngƣời Hàn học tiếng Việt gặp

phải về mặt ngữ nghĩa của từ láy tiếng Việt đƣợc nhắc đến trong các ví dụ, từ đó tác
giả cũng chỉ ra đƣợc cách hoạt động của các từ láy với nghĩa phái sinh trong câu,
phát ngôn trong sự so sánh với hoạt động của từ gốc. Nhƣ vậy, bài viết tổng quát
này đƣợc xem là rất hữu ích cho nhóm đối tƣợng ngƣời Hàn học tiếng Việt và ngƣời
Việt học tiếng Hàn trong việc tiếp cận hiện tƣợng từ láy về cả mặt cấu tạo và ngữ
nghĩa.
Qua việc tìm hiểu những bài viết, công trình nghiên cứu về từ láy và có đề
cập đến từ láy nhƣ trên, chúng tôi thấy rằng đã có những cơ sở về mặt lí thuyết của
từ láy khá cụ thể và hệ thống, tạo cơ sở cho những nghiên cứu những vấn đề khác
liên quan. Đồng thời một lần nữa có thể khẳng định: Việc xem xét, thống kê và mô

11


tả và đánh giá về nhóm từ láy xuất hiện trong việc giảng dạy tiếng Việt cho ngƣời
nƣớc ngoài hiện nay chƣa đƣợc quan tâm, đề cập đến, trong khi từ láy trong tiếng
Việt là một nét đặc trƣng với giá trị biểu đạt tình thái cao. Chính vì thế, chúng tôi đã
quyết định lựa chọn đề tài: “Khảo sát từ láy trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài (xuất bản tại Việt Nam giai đoạn 1980 đến nay)” để thực hiện
trong luận văn này.

3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA LUẬN VĂN

Luận văn này đề ra các mục tiêu: tập trung khảo sát, thống kê số lƣợng từ láy
và mô tả các dạng từ láy đƣợc đƣa vào giáo trình, trong đó bao gồm cả việc nhận
diện mục đích từ láy có mặt các phần, các cấu trúc hay các chủ đề bài học khác
nhau. Từ đó trả lời cho câu hỏi: Học viên nƣớc ngoài khi học tiếng Việt có thể
không cần biết đến từ láy hay không? Từ kết quả định lƣợng và mô tả từ láy có
đƣợc cũng có thể nhận định việc giới thiệu các từ láy đó đem lại hiệu quả thế nào,
dễ hiểu hay khó hiểu và có phù hợp hay không trong các trƣờng hợp đƣa ra. Ngoài

ra, trong luận văn này còn tìm hiểu sơ bộ về thực tế sử dụng từ láy của học viên,
nhận định lỗi có thể mắc phải khi sử dụng từ láy và hƣớng đề đạt việc giới thiệu từ
láy đến học viên cũng nhƣ các dạng bài tập để luyện tập nhằm giúp học viên nƣớc
ngoài dễ dàng tiếp nhận và sử dụng hiệu quả, thành thạo, đúng ngữ cảnh.
Với nghiên cứu này, luận văn bƣớc đầu cung cấp một dữ liệu thống kê các từ
láy đƣợc sử dụng và giảng dạy trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc
ngoài. Đây là có thể đƣợc coi là một dữ liệu tham khảo cho các nghiên cứu liên
quan. Cùng với số liệu nghiên cứu, luận văn cũng đƣa ra một số đề xuất về hƣớng
giảng dạy về từ láy. Qua đây, luận văn hƣớng đến đóng góp một phần nhỏ trong
việc cung cấp một cái nhìn rõ hơn trƣờng hợp từ vựng, ngữ pháp này nói riêng và
nghiên cứu tiếng Việt trong ứng dụng giảng dạy nó nhƣ một ngoại ngữ nói chung.

12


4. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các từ láy xuất hiện trong các giáo
trình dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài đƣợc xuất bản ở Việt Nam trong khoảng
thời gian từ năm 1980 đến nay (2016). Tƣ liệu nghiên cứu là các giáo trình tiếng
Việt tiêu biểu đƣợc sử dụng phổ biến trong các trƣờng đại học ở hai thành phố lớn
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Các tƣ liệu này đƣợc xem xét bao quát tổng thể
từ cấp độ từ thấp đến cao, tức là ở cả ba trình độ: cơ sở (A), trung cấp (B) và cao
cấp (C).
Danh sách tƣ liệu thuộc phạm vi khảo sát của chúng tôi bao gồm 12 bộ giáo trình
với số lƣợng tổng cộng 23 cuốn:
1. Giáo trình cơ sở tiếng Việt thực hành, tập I, Nguyễn Văn Lai (Chủ biên), Khoa
Tiếng Việt, Trƣờng Đại học Tổng hợp, Hà Nội, 1980 (Mã: 01 – T1)
2. Giáo trình cơ sở Tiếng Việt thực hành, tập II, Đặng Ngọc Cừ - Phan Hải (Chủ
biên), Khoa Tiếng Việt, Trƣờng Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1980 (Mã: 01 –

T2)
3. Tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài, quyển 1, Bùi Phụng (Chủ biên), Bộ Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, 1987 (Mã: 02 – T1)
4. Tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài, quyển 2, Bùi Phụng (Chủ biên), Bộ Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, 1987 (Mã: 02 – T2)
5. Tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài – Learning Modern Spoken Vietnamese, Bùi
Phụng (Chủ biên), NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, 1992 (Mã 03)
6. Tiếng Việt cơ sở - Vietnamese for beginners, Vũ Văn Thi, Khoa Tiếng Việt và
Văn hóa Việt Nam cho ngƣời nƣớc ngoài, Trƣờng Đại học KHXH & NV, Đại
học Quốc gia Hà Nội, NXB Khoa học xã hội, 1996 (tái bản năm 2011) (Mã:
04 - A)
7. Tiếng Việt thực hành (Dùng cho ngƣời nƣớc ngoài), Đinh Thanh Huệ (Chủ
biên), Khoa Tiếng Việt và Văn hóa Việt Nam cho ngƣời nƣớc ngoài, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997 (Mã: 05)
13


8. Tiếng Việt nâng cao (cho ngƣời nƣớc ngoài) – Intermediate Vietnamese (for
non – native Speakers), Nguyễn Thiện Nam, Khoa Tiếng Việt và Văn hóa Việt
Nam cho ngƣời nƣớc ngoài, Trƣờng Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc gia
Hà Nội, NXB Giáo dục, 1998 (Mã: 06 – B, C)
9. Giáo trình Tiếng Việt – VSL, tập 1, Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên), Khoa Việt
Nam học và Tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài, Trƣờng Đại học KHXH & NV,
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh, 2003 (Mã: 07 – T1)
10. Giáo trình Tiếng Việt – VSL, tập 2, Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên), Khoa Việt
Nam học và Tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài, Trƣờng Đại học KHXH & NV,
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh, 2003 (Mã: 07 – T2)
11. Giáo trình Tiếng Việt – VSL, tập 3, Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên), Khoa Việt

Nam học và Tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài, Trƣờng Đại học KHXH & NV,
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, NXB Giáo dục, 2003 (Mã: 07 – T3)
12. Giáo trình Tiếng Việt – VSL, tập 4, Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên), Khoa Việt
Nam học và Tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài, Trƣờng Đại học KHXH & NV,
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh, 2003 (Mã: 07 – T4)
13. Tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài – Trình độ nâng cao – Vietnamese for
foreigners Intermediate Level, Trịnh Đức Hiển (Chủ biên), Khoa Tiếng Việt
và Văn hóa Việt Nam cho ngƣời nƣớc ngoài, Trƣờng Đại học KHXH & NV,
Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003 (Mã: 08 – B,
C)
14. Tiếng Việt (sách dành cho ngƣời nƣớc ngoài) – Trình độ A, tập 1, Đoàn Thiện
Thuật (Chủ biên), Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, 2004 (Mã: 09 –
A – T1)

14


15. Tiếng Việt (sách dành cho ngƣời nƣớc ngoài) – Trình độ A, tập 2, Đoàn Thiện
Thuật (Chủ biên), Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, 2004 (Mã: 09 –
A – T2)
16. Thực hành Tiếng Việt (sách dùng cho ngƣời nƣớc ngoài), Trình độ B, Đoàn
Thiện Thuật (Chủ biên), Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, NXB Thế
giới, 2004 (tái bản năm 2013) (Mã: 09 – B)
17. Thực hành Tiếng Việt (sách dùng cho ngƣời nƣớc ngoài), Trình độ C, Đoàn
Thiện Thuật (Chủ biên), Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, NXB Thế
giới, 2004 (tái bản năm 2013) (Mã: 09 – C)
18. Tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài – Chƣơng trình cơ sở - Vietnamese for
foreigners, Nguyễn Văn Phúc (Chủ biên) – Đào Văn Hùng – Nguyễn Văn
Chính, NCB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007 (Mã: 10 – A)

19. Tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài – Vietnamese for foreigners, Nguyễn Anh
Quế, NXB Văn hóa thông tin Hà Nội, 2007 (Mã: 11)
20. Tiếng Việt cơ sở (dành cho ngƣời nƣớc ngoài) Quyển 1 – Nguyễn Việt
Hƣơng, Viện Phát triển Ngôn ngữ, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (Mã: 12 –
A – T1)
21. Tiếng Việt cơ sở (dành cho ngƣời nƣớc ngoài) Quyển 2 – Nguyễn Việt
Hƣơng, Viện Phát triển Ngôn ngữ, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (Mã: 12 –
A – T2)
22. Tiếng Việt nâng cao (dành cho ngƣời nƣớc ngoài) Quyển 1 – Nguyễn Việt
Hƣơng, Viện Phát triển Ngôn ngữ, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội (Mã: 12 –
B, C – T1)
23. Tiếng Việt nâng cao (dành cho ngƣời nƣớc ngoài) Quyển 2 – Nguyễn Việt
Hƣơng, Viện Phát triển Ngôn ngữ, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010 (Mã:
12 – B, C – T2)

15


5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khi thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu định
tính kết hợp với phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng, bên cạnh đó là một số thủ
pháp nhƣ so sánh đối chiếu, phân tích ngữ cảnh, thủ pháp đơn giản hóa. Từ các
phƣơng pháp, thủ pháp nghiên cứu này chúng tôi có đƣợc sự phân tích, miêu tả tổng
hợp và đánh giá các tƣ liệu nghiên cứu có đề cập đến từ láy. Thêm vào đó, các
phƣơng pháp này cũng đƣợc áp dụng vào các tƣ liệu viết nhằm khảo sát tình hình sử
dụng từ láy của học viên ngƣời nƣớc ngoài, qua đó mang lại một cái nhìn ban đầu
về việc thụ đắc và ứng dụng từ láy của ngƣời học trong thực tiễn.

6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Mở đầu

Nội dung
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về từ láy tiếng Việt
Chƣơng 2. Khảo sát từ láy trong các giáo trình tiếng Việt
Chƣơng 3. Thực tế tiếp cận, sử dụng từ láy của học viên nƣớc ngoài
và hƣớng đề xuất cách thức giới thiệu, luyện tập từ láy trong quá trình
dạy
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

16


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. CƠ SƠ LÝ LUẬN VỀ TỪ LÁY TIẾNG VIỆT

1.1. Khái niệm từ láy trong tiếng Việt
Là một vấn đề khá nổi bật trong Việt ngữ học, từ láy, với một số lƣợng
phong phú trong kho từ vựng, đã đƣợc các nhà nghiên cứu tìm hiểu và phân tích
dƣới nhiều góc độ. Xuất phát từ những quan điểm, cách nhìn nhận và đánh giá khác
nhau, có thể thấy riêng về mặt tên gọi của khái niệm này cũng đã có nhiều khác
biệt. Nhà nghiên cứu Hà Quang Năng trong nghiên cứu của mình đã tổng hợp về
các cách gọi từ láy: “từ phản điệp (Đỗ Hữu Châu, 1962), từ lắp láy (Hồ Lê, 1976),
từ lấp láy (Nguyễn Nguyên Trứ, 1970), từ láy âm (Nguyễn Tài Cẩn, 1975; Nguyễn
Văn Tu, 1976), từ láy (Hoàng Tuệ, 1978; Đào Thản, 1970; Hoàng Văn Hành, 1979,
1985; Nguyễn Thiện Giáp, 1985; Đỗ Hữu Châu, 1981, 1986; Diệp Quang Ban,
1989) v.v…” [19; tr. 7]. Cách gọi “từ láy” đƣợc nhiều nhà nghiên cứu sử dụng và
đến nay trong các sách giáo khoa phổ thông cũng áp dụng tên gọi này.
Các định nghĩa khác nhau về từ láy cũng đƣợc trình bày trong các công trình
và bài viết nghiên cứu khác nhau của các tác giả. Nhìn chung có hai hƣớng quan

điểm phổ biến đƣợc đƣa ra:
-

Hƣớng thứ nhất: Coi láy cũng là ghép

-

Hƣớng thứ hai: Coi láy là sự hòa phối ngữ âm có giá trị biểu trƣng hóa.
Nhìn nhận theo hƣớng quan điểm thứ nhất có các nhà Việt ngữ học nhƣ

Trƣơng Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Tài Cẩn, Hồ Lê,…
-

Trong “Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam” (1963), hai tác giả Trƣơng Văn

Chình và Nguyễn Hiến Lê có viết: “Chúng ta có nhiều từ hai âm, cũng có từ ba âm
và từ bốn âm. Tiếng đôi, tiếng ba, tiếng tƣ ta gọi là từ kép. Trong ngôn ngữ của ta,
từ kép hai âm nhiều nhất, từ kép ba, bốn âm ít hơn. Dù hai, ba hay bốn âm, từ kép
cũng chỉ diễn tả ý đơn giản nhƣ từ đơn” [4; tr. 62]

17


-

Theo cách nhìn của Nguyễn Tài Cẩn: “Từ láy âm là loại từ ghép trong đó,

theo con mắt nhìn của ngƣời Việt hiện nay, các thành tố trực tiếp đƣợc kết hợp với
nhau chủ yếu theo quan hệ ngữ âm. Quan hệ ngữ âm đƣợc thể hiện ra ở chỗ là các
thành tố trực tiếp phải có tƣơng ứng với nhau về hai mặt: mặt yếu tố siêu âm đoạn

tính (thanh điệu) và mặt yếu tố âm đoạn tính (phụ âm đầu, âm chính giữa vần và âm
cuối vần…)” [1, tr. 109]
-

Hồ Lê coi từ láy là “một loại từ ghép thực bộ phận gồm hai từ tố - một từ tố

vốn là nguyên vị thực và một từ tố vốn không phải là nguyên vị thực có quan hệ lắp
láy với nhau. Có thể gọi nó là từ ghép thực bộ phận lắp láy, hoặc gọn hơn là từ ghép
lắp láy” [16, tr. 261]
- Nguyễn Văn Tu đã nêu: “Sở dĩ chúng tôi gọi chung những từ láy âm là
những từ ghép vì thực chất chúng đƣợc tạo ra bởi một số từ tố với bản thân nó
không bị biến âm hoặc bị biến âm. … Từ láy âm đƣợc tạo thành bằng việc ghép hai
từ tố hoặc hai âm tiết có quan hệ về ngữ âm trên cơ sở láy âm, trên cơ sở láy lại bản
thân cái âm tiết chính hoặc từ tố chính” [22, tr. 68]
Nhóm các nhà nghiên cứu chung hƣớng nhận định láy là sự hòa phối ngữ âm
có giá trị biểu trƣng hóa, tiêu biểu là Hoàng Tuệ, Đỗ Hữu Châu, Hoàng Văn Hành,
Nguyễn Thiện Giáp.
-

Với quan điểm coi láy và ghép là hai phƣơng thức cơ bản để cấu tạo từ tiếng

Việt, nhà nghiên cứu Hoàng Tuệ đƣa ra ý kiến: ““Láy” có lẽ chớ nên xem là “có
quan hệ ngữ âm” giữa các âm tiết một cách chung chung, mà nên hiểu là “láy” khi
có một sự hòa phối ngữ âm giữa những yếu tố tƣơng ứng của các âm tiết, đó là một
sự hòa phối ngữ âm có tác dụng biểu trƣng hóa” [23, tr. 23]. Theo đó, từ láy đƣợc
xem xét ở về cả cấu trúc và cả cơ trình cấu tạo của nó nữa. Tác giả có nói về mối
tƣơng quan âm nghĩa nhất định trong từ láy. “Tƣơng quan ấy có tính chất tự nhiên,
trực tiếp trong trƣờng hợp những từ nhƣ gâu gâu, cu cu… (…); đó là những tiếng
vang thực sự. Nhƣng tƣơng quan ấy tinh tế hơn nhiều, và có thể nói là đã đƣợc cách
điệu hóa trong trƣờng hợp những từ nhƣ lác đác, bâng khuâng, long lanh, mênh

mông… Sự cách điệu hóa ấy chính là sự biểu trƣng hóa ngữ âm (…) chính mối
18


tƣơng quan này tạo nên sắc thái biểu cảm hay gợi ý của từ - giá trị ấy của từ láy,
ngƣời bản ngữ tỏ ra nhạy cảm so với ngƣời nƣớc ngoài dùng tiếng Việt”. [23, tr. 23]
-

Qua các công trình nghiên cứu có liên quan, Đỗ Hữu Châu định nghĩa: “Từ

láy là những từ đƣợc cấu tạo theo phƣơng thức láy, đó là phƣơng thức lặp lại toàn
bộ hay bộ phận hình thức âm tiết (với những thanh điệu giữ nguyên hay biến đổi
theo quy tắc biến thanh, tức là quy tắc thanh điệu biến đổi theo hai nhóm, gồm
nhóm cao: thanh hỏi, thanh sắc, thanh ngang và nhóm thấp: thanh huyền, thanh ngã,
thanh nặng) của một hình vị hay đơn vị có nghĩa” [2; tr. 40].
-

Nguyễn Thiện Giáp, với cách gọi “ngữ láy âm” tƣơng đƣơng với “từ láy”, đã

khái quát: “Ngữ láy âm là những đơn vị đƣợc hình thành do sự lặp lại hoàn toàn hay
lặp lại có kèm theo sự biến đổi ngữ âm nào đó của từ đã có. Chúng vừa có sự hài
hòa về ngữ âm, vừa có giá trị gợi cảm, gợi tả.” [9; tr. 86]
-

Trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”, các tác giả đƣa ra quan

điểm: “Phƣơng thức tổ hợp các tiếng trên cơ sở hòa phối ngữ âm cho ta các từ láy
(còn gọi là từ lấp láy, từ láy âm).[..].. Một từ sẽ đƣợc gọi là từ láy khi các thành tố
cấu tạo nên chúng có thành phần ngữ âm đƣợc lặp lại, nhƣng vừa có lặp (còn gọi là
điệp) vừa có biến đổi (gọi là đối). Ví dụ: đỏ đắn: điệp phần âm đầu, đối ở phần

vần.” [5; tr.146].
-

Hoàng Văn Hành cho rằng: “Từ láy, nói chung, là từ đƣợc cấu tạo bằng cách

nhân đôi tiếng gốc theo những quy tắc nhất định, sao cho quan hệ giữa các tiếng
trong từ vừa điệp, vừa đối, vừa hài hòa với nhau về âm và về nghĩa, có giá trị biểu
trƣng hóa” [10; tr. 354]. Tác giả cũng cho rằng: “Khi thừa nhận láy là sự hòa phối
ngữ âm có giá trị biểu trƣng hóa, thì cũng có nghĩa là chúng ta đã coi láy là một cơ
chế” [10; tr. 466].
Theo những định nghĩa về từ láy vừa đƣợc liệt kê dựa trên hƣớng quan điểm thứ
hai, chúng ta có thể nhận thấy các tác giả ở đây rõ ràng coi láy không phải là ghép,
không bao hàm trong ghép cũng nhƣ từ láy không thuộc từ ghép mà độc lập, tách
riêng với từ ghép.

19


Ngoài hai hƣớng quan điểm trên còn có quan điểm coi láy là phụ tố nhƣ tác
giả Lê Văn Lý. Ông gọi từ láy là “từ ngữ kép phản phúc”: “Đó là những từ ngữ đơn
đƣợc lắp đi lắp lại trong những yếu tố thành phần của chúng (tr. 34). Theo quan
niệm của tác giả thì “từ ngữ kép phản phúc” đƣợc cấu tạo nhờ các loại phụ tố sau
đây:
a)

Tiếp vị ngữ, nhƣ -i- trong bền bỉ, thầm thì, chăm chỉ, v.v…

b)

Tiếp đầu ngữ, nhƣ -a- trong tả tơi, nhá nhem, trà trộn, tha thiết, v.v…


c)

Tiếp trung ngữ, gồm có -a- hoặc –ơ- ví dụ: ấm ớ > ấm a ấm ớ…, líu tíu > líu
ta líu tíu, ngất ngƣởng > ngất ngơ ngất ngƣởng, v.v…” [10; tr. 457]

Tuy nhiên, quan điểm này chƣa hoàn toàn bao quát đƣợc những trƣờng hợp láy
khác xuất hiện trong tiếng Việt nên không đƣợc nhiều ngƣời ủng hộ.
Qua tất cả các khái niệm về từ láy đƣợc đƣa ra theo các điểm nhìn khác nhau
trên đây, có thể thấy:
Nói đến từ láy thì điểm nổi bật và quan trọng trƣớc hết đó là mặt ngữ âm.
Các thành tố trong từ láy đều có quan hệ ngữ âm với nhau. Đây cũng chính là điểm
giống nhau đƣợc nêu ra trong các khái niệm từ láy trên. Đặc biệt, đối với những
khái niệm hƣớng theo quan điểm coi láy là ghép thì mặt ngữ âm là khía cạnh duy
nhất – khía cạnh về cấu tạo, đƣợc tập trung để định nghĩa một từ láy trong tiếng
Việt. Trong khi đó, các ý kiến theo nhƣ quan điểm thứ hai cho rằng láy là sự hòa
phối ngữ âm có giá trị biểu trƣng hóa, ngoài việc nhắc đến mặt ngữ âm còn nhắc
đến mặt ngữ nghĩa của từ láy. Nhƣ vậy có thể thấy hƣớng quan điểm thứ hai đầy đủ
và xác đáng hơn, do đó, chúng tôi cũng đồng tình với quan điểm này. Ngoài ra,
chúng tôi còn cho rằng, từ láy có mô hình cấu trúc đặc biệt mang chức năng biểu
đạt, biểu cảm phong phú và với một số lƣợng không nhỏ trong kho từ vựng tiếng
Việt (hơn 5000 từ - theo “Từ điển từ láy tiếng Việt” [11] do Hoàng Văn Hành chủ
biên) nên việc tách riêng từ láy thành một kiểu loại giúp cho việc tìm hiểu, phân
tích rõ ràng, chi tiết và hệ thống hơn.

20


Trong các khái niệm từ láy của các tác giả khác nhau từ trƣớc đến nay, khái
niệm của Hoàng Văn Hành có tính hợp lí, bao quát và chặt chẽ, hoàn thiện hơn cả,

do vậy mà nó nhận đƣợc nhiều sự đồng tình của những ngƣời có quan tâm và các
nhà nghiên cứu khác. Khái niệm và các nghiên cứu liên quan của ông đã khái quát
đƣợc quan hệ ngữ âm hay cụ thể hơn là sự hòa phối ngữ âm dựa trên cơ sở hai quy
tắc “điệp” và “đối”. Điều này các nhà nghiên cứu khác trƣớc đó cũng có nhắc đến
dƣới hình thức của các cấu trúc tạo nên từ láy. Tuy nhiên, ông là ngƣời đã gọi tên và
chỉ ra rõ mối quan hệ của chúng trong phƣơng thức láy: “Điệp là sự lặp lại, sự đồng
nhất về âm, về nghĩa; còn đối là sự sai khác, sự dị biệt, cũng về âm, về nghĩa. (…)
Sự tác động của quy tắc điệp và quy tắc đối trong quá trình cấu tạo từ láy là sự tác
động có quan hệ chi phối và ràng buộc lẫn nhau. (…) Có thể nói điệp và đối là hai
mặt của một cơ trình, gắn bó hữu cơ với nhau, có cái nọ thì nhất thiết phải có cái
kia, dù cho những biểu hiện của nó dƣới hình thái nào thì cũng vậy.” [10; tr. 466467]. Hay cụ thể hơn: “điệp (hay thế điệp) là trạng thái đồng nhất trong quan hệ
giữa các tiếng của từ láy, là hệ quả của sự nhân đôi tiếng gốc trong quá trình cấu tạo
từ láy. Còn đối (hay thế đối) là trạng thái dị biệt trong quan hệ giữa các tiếng của từ
láy, là hệ quả của sự biến đổi hoặc kết hợp ở tiếng láy để đảm bảo có sự hòa phối về
âm và về nghĩa với tiếng gốc” [10; tr. 467]. Đây thực sự là hai quy tắc mang tính kết
hợp chặt chẽ làm nên đặc trƣng của từ láy.
Để làm cơ sở lý luận cho luận văn này, chúng tôi nhận thấy rằng có thể dựa
trên khái niệm của tác giả Hoàng Văn Hành, đồng thời tính đến sự phù hợp với việc
giảng dạy tiếng Việt nhƣ một ngoại ngữ có thể khái quát đặc điểm của từ láy trong
tiếng Việt nhƣ sau (có tổng hợp từ các khái niệm khác của các nhà nghiên cứu):
Từ láy là kiểu từ đƣợc tạo nên từ phƣơng thức láy – một trong các phƣơng
thức cấu tạo từ trong tiếng Việt. Từ láy trong tiếng Việt là từ đa âm tiết, với số
lƣợng âm tiết tối thiểu là hai và tối đa là bốn âm tiết. Trong một từ láy có thể không
có âm tiết có nghĩa hoặc những trƣờng hợp phổ biến hơn là các từ láy gồm một âm
tiết có nghĩa đƣợc gọi là thành tố gốc hay tiếng gốc (theo cách gọi của Hoàng Văn
Hành) hoặc hình vị gốc (theo Đỗ Hữu Châu) và các âm tiết còn lại đƣợc gọi là

21



×