Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

cau hoi va tra loi LICH SU DANG 21 CAU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.99 KB, 63 trang )

Câu 1: Phân tích nội dung và ý nghĩa của cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
* Nội Dung:
Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của Đảng được thông qua tại Hội
nghị thành lập Đảng (Từ ngày 6/01/1930 đến 08/02/1930) đã phản ánh về đường
hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách
mạng Việt Nam. Đây là những văn kiện được xem là Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, với những nội dung cơ bản như sau:
Chánh cương vắn tắt phân tích, đánh giá khái quát đặc điểm cơ bản nhất của
kinh tế - xã hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến.
Xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam: “chủ trương làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” chính là
làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội gắn liền mật thiết với nhau thể
hiện ở mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Về nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể, chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt
Nam là “ Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “ làm cho nước
Nam được hoàn toàn độc lập”. Đây là vấn đề căn cốt của cách mạng Việt Nam
lúc này. Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm
vụ cơ bản để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày trong đó chống
đế quốc giành độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu. Để sau đó “Dựng
ra chính phủ công nông binh”... “Thâu hết sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc
chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý”. Trong đó trước
hết là: “Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân
cày nghèo”
Về lực lượng cách mạng: xác định lực lượng cách mạng phải đoàn kết công
nhân, nông dân - đây là lực lượng cơ bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo;
đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu
nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Do vậy, Đảng “phải thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình”, phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày,…
hết dức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi vào phe vô
sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam


mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập”. Đây là cơ sở của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết dân tộc.
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, cương lĩnh khẳng
định phải bằng con đường bạo lực cách mạng chứ không thể là con đường cải
lương thoả hiệp “ không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà
đi vào đường thoả hiệp”. Có sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp để lôi kéo
tiểu tư sản, trí thức, trung nông về phía giai cấp vô sản, còn “ bộ phận nào đã ra
mặt phản cách mạng “ Đảng lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ”.
Phát huy tinh thần tự lực, tự cường, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của
các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản pháp.
1


Cương lĩnh nêu rõ cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của
cách mạng vô sản thế giới, “ Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam
độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và
vô sản giai cấp thế giới”.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng với tư cách là đội tiên phong của giai cấp vô
sản, Sách lược vắn tắt của Đảng ghi rõ: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai
cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp
mình lãnh đạo được dân chúng”. “ Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản
gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo
quần chúng”.
* Ý nghĩa lịch sử:
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các
luận điểm cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt
Nam. Trong đó thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc
đánh giá đặc điểm, tình hình, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt
Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu
của dân tộc Việt Nam lúc đó; đặc biệt đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các

giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó các văn kiện đã xác
định chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định
phương pháp cách mạng, nhiệm vụ của cách mạng và lực lượng của cách mạng
để thực hiện đường lối của chiến lược và sách lược đã đề ra.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh được quy luật khách
quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của cách
mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng
đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong
kiến. Đó chính là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng
Việt Nam: Kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết hợp truyền
thống yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân ta với những kinh nghiệm
của cách mạng thế giới ; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng; đạc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo, đặc điểm thực tiễn,
yêu cầu của cách mạng Việt Nam với tư tưởng tiến tiến của cách mạng thời đại.
Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một các
đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
Khẳng định dứt khoát nội dung, xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam là
gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, phù hợp với nội dung và xu thế
cách mạng thời đại mới.

2


Câu 2: Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện Đảng cầm quyền
* Khái niệm Đảng cầm quyền
Đảng cầm quyền là khái niệm chỉ thời kỳ đảng đã nắm được chính quyền
và sử dụng chính quyền đó như một công cụ của giai cấp nhằm thực hiện thắng

lợi mục tiêu chính trị của giai cấp.
Đảng cộng sản cầm quyền là khái niệm chỉ một giai đoạn mới, một thời kỳ
mới của cách mạng. Đó là thời kỳ chủ nghĩa xã hội không còn đơn thuần chỉ là
một mục đích, cương lĩnh, học thuyết nữa,mà trở thành công việc phấn đấu hàng
ngày của Đảng. Đó là thời kỳ mà nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, chủ yếu và
trọng tâm là tổ chức xây dựng đất nước; nhiệm vụ Bảo vệ tổ quốc là nhiệm vụ
chiến lược quan trọng.
* Nội dung
Nội dung của Đảng cộng sản trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng tập trung
thực hiện tốt các nội dung lãnh đạo chủ yếu sau:
- Xây dựng chủ trương, đường lối: Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, chiến lược,
đường lối, chính sách lớn trên các lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa
học, giáo dục, an ninh, quốc phòng,…Đây được coi là những quan điểm, nguyên
tắc, tư tưởng chỉ đạo của Đảng để Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị vận dụng, thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách, cụ thể
hóa thành chương trình, kế hoạch công tác và tổ chức thực hiện phù hợp với
chức năng của từng tổ chức. Đảng tôn trọng tính độc lập, sáng tạo và quy chế
hoạt động của từng tổ chức.
- Lãnh đạo xây dựng Nhà nước: Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực và hoạt động có hiệu quả, thực sự là nhà
nước của dân, do dân, vì dân; chăm lo xây dựng và củng cố các đoàn thể nhân
dân đủ sức tập hợp được rộng rãi quần chúng nhân dân và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Trên lĩnh vực này, sự lãnh
đạo của Đảng thể hiện ở việc đề ra các quan điểm, ngtắc tư tưởng chỉ đạo việc
xây dựng tổ chức và hoạt động của các tổ chức; giúp đở các tổ chức này xác
định mục tiêu, chức năng nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Đảng không can thiệp vào
công việc cụ thể, quy tắc, quy chế hoạt động của các thành viên khác trong hệ
thống chính trị.
- Lãnh đạo công tấc cán bộ: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản
lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nhất là cán bộ chủ chốt

trong hệ thống chính trị. Trên lĩnh vực này, nội dung lãnh đạo của Đảng thể hiện
ở việc Đảng đề ra các quan điểm, chủ trương về công tác cán bộ từ khâu đào tạo
bồi dưởng bố trí đánh giá sử dụng luân chuyển cán bộ... Đảng quyết định những
chính sách, lớn về cán bộ. Trực tiếp bố trí và quản lý cán bộ của các tổ chức
đảng trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
3


- Kiểm tra, giám sát đối với Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị:
Đảng tiến hành kiểm tra, giám sát đối với Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống
chính trị. Nội dung kiểm tra giám sát của đảng chủ yếu tập trung vào việc quán
triệt và tổ chức thực hiện các quan điểm, ngtắc, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, việc
chấp hành pháp luật và tinh thần trách nhiệm trước nhân dân. Đảng vừa trực tiếp
kiểm tra, giám sát vừa tổ chức phối kếp hợp hoạt động kiểm tra, giám sát của cả
hệ thông kiểm tra giám sát của đảng, thanh tra nhà nước, kiểm tra, giám sát của
các đoàn thể nhân dân.
* Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong điều kiện Đảng cầm
quyền:
Với vai trò là người lãnh đạo cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, Đảng cộng sản
cầm quyền thực hiện sự lãnh đạo của mỉnh bằng những phương thức thích hợp:
- Lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược,chủ trương, đường lối: Đảng xây
dựng các cương lĩnh chính trị, đường lối, quan điểm, chủ trương, các nghị quyết
có tính nguyên tắc nhằm giải quyết các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính trị quan
trọng. Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua phương thức này, làm cho hệ tư tưởng,
đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng được thể chế hóa thành luât pháp và
chính sách. Mọi hoạt động của Nhà nước phải thể hiện được đường lối chính trị
của Đảng.
Với Mặt trận và các tỏ chức chính trị - xã hội, Đảng lãnh đạo bằng chính
việc hoạch định được đường lối và chủ trương quyết định, định hướng cho
phong trào hoạt động các mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội; lãnh đạo cụ

trị phải thực sự đoàn kết, tập hợp lực lượng, gây dụng các phong trào xã hội để
thực hiện Nhij quyết của Đảng, chấp hành luật pháp của Nhà nước, phất huy dân
chủ và quyền làm chủ của dân.
Đảng lãnh đạo nhưng Đảng không áp đặt, không bao biện làm sai nhất là
không tùy tiện can thiệp , đoàn thể, không trái với pháp luật vào các hoạt động
của chính quyền, đoàn thể, không trái với luật pháp.
- Lãnh đạo bằng Giáo dục thuyết phục: Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ
chức trong hệ thống chính trị bằng công tác tư tưởng, bằng các phương thức
giáo dục, thuyết phục đối với mọi đảng viên và nhân dân trong htuwcj hiện đúng
theo cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;
làm cho các chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch, mục tiêu hoạt động
của Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị được phhor birns rộng rãi
trong nhân dân, làm cho mọi người hiểu đúng, tự giác, nghiêm chỉnh chấp hành
một cách có hiệu quả.
- Lãnh đạo bằng công tác tổ chức, cán bộ: Đảng nắm chắc công tác cán bộ và
đội ngũ cán bộ của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Đảng đề ra đường lối về công tác cán bộ và thống nhất quản lý cán bộ, đồng thời
tôn trọng quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức. Đảng giới
thiệu và tạo mọi điều kiện cần thiết để những cán bộ, đảng viên có trình độ, năng
4


lực, phẩm chất chính trị vững vàng được giữ vững những vị trí quan trọng, chủ
chốt trong cơ quan nhà nước và trong các tổ chức của hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị bằng việc
nắm chắc và thường xuyên rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và cả hệ
thống chính trị; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, từ đó bố trí tổ chức
đảng viên phù hợp với mô hình tổ chức…
- Lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát: Đảng lãnh đạo Nhà nước và
các tổ chức trong hệ thống chính trị, các lĩnh vực của xã hội bằng việc thường

xuyên kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên như:
+ Lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng của các tổ chức này tiến hành
thanh tra kiểm soát, kiểm tra các hoạt động cả tổ chức và cán bộ, đảng viên, công
chức đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng.
+ Xây dựng chương trình và triển khai thực hiện công tác giám sát thường
xuyên và đột xuất đối với các tổ chức đảng và đảng viên.
- Lãnh đạo bằng phát huy vai trò làm chủ của nhân dân: Đảng lãnh đạo
Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị còn thể hiện bằng việc phát
huy vai trò làm chủ của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội
phải trở thành lực lượng tham mưu, nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã hội,
phát huy dân chủ. Đảng tạo điều kiện cho Mặt trận và các tổ chức đoàn thể tăng
thêm tính tự chủ, năng động, sáng tạo hơn trong hoạt động để gần dân, sát dân
hơn; phát huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng. Động viên, tạo điều
kiện thuận lợi để các đoàn thể nhân dân và nhân dân tham gia và thực hiện việc
giám sát, phản biện xã hội đối với mọi hoạt động của tổ chức đảng, cán bộ, công
chức một cách có chất lượng và hiệu quả.
* Đề xuất một số giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo chi bộ hoặc đảng
bộ
1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị: Nâng cao bản lĩnh chính trị,
trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Kiên
định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng
vội, đổi mới vô nguyên tắc.
2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận: Tiếp tục đổi
mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục,
hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ động viên các nhân tố mới, điển hình tiên tiến,
gương người tốt, việc tốt, giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng. Kiên
quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà bình” của

các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
5


viên. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội. Đổi mới
hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn theo hướng thiết thực, hiệu quả.
3. Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân:
Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng
và các tầng lớp nhân dân. Cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm
trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Các tổ chức đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao
động có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của
đất nước. Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng. Triển khai
thực hiện tốt Quy chế dân vận trong hệ thống chính trị; đổi mới và nâng cao chất
lượng công tác vận động nhân dân. Định kỳ lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về
tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Xử lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi
phạm về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, lối sống.
4. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính
trị: Kiện toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm
công tác tham mưu. Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ,
sinh hoạt cấp uỷ ở cơ sở đến sinh hoạt Thường trực, BTV, BCH; đồng thời giữ
nghiêm kỷ luật trong Đảng. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, lối làm việc vô nguyên tắc, vi
phạm kỷ luật, vi phạm dân chủ.
5. Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên: Tập
trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng, tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình cơ sở

đảng. Kiện toàn tổ chức của hệ thống chính trị, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện
của Đảng ở cơ sở. Đổi mới, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên,
bảo đảm chất lượng đảng viên theo yêu cầu của Điều lệ Đảng. Xây dựng các
tiêu chí, yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính trị, trình độ năng lực, phẩm chất đạo
đức, lối sống của đảng viên đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới; phát huy
tính tiền phong gương mẫu, chủ động, sáng tạo của đội ngũ đảng viên trong thực
hiện nhiệm vụ được giao. Kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ
tư cách đảng viên.
6. Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ:
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ. Thực hiện tốt Chiến lược
cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đổi mới tư duy, cách
làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ. Xây dựng
và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài. Nâng cao chất lượng công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp. Làm tốt
công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, chú ý cán bộ trẻ, nữ; xây dựng quy
hoạch cán bộ cấp chiến lược. Đánh giá và sử dụng đúng cán bộ trên cơ sở những
tiêu chuẩn, quy trình đã được bổ sung, hoàn thiện, lấy hiệu quả công tác thực tế
và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu. Không bổ nhiệm cán bộ
không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa. Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức,
miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Kịp thời thay thế cán bộ
6


yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, uy tín giảm sút.
Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ,
chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương. Thực hiện luân chuyển
cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy hoạch ở các ngành, các cấp; khắc phục tư
tưởng cục bộ, khép kín. Tăng cường công tác giáo dục, quản lý cán bộ. Chú
trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp. Đổi mới, trẻ hoá đội

ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế
thừa và phát triển.
7. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát: Các cấp uỷ, tổ
chức đảng phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát theo Điều lệ Đảng. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu tổ
chức đảng, nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân các cấp trong việc thực
hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. phải phối hợp chặt chẽ với công tác thanh
tra của Nhà nước, công tác giám sát của HĐND và các cơ quan hành pháp, tư
pháp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân theo đúng chức năng và thẩm
quyền của mỗi cơ quan. Hoàn thiện quy chế phối hợp giữa ủy ban kiểm tra đảng
với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc xem xét khiếu
nại, tố cáo và xử lý kỷ luật cán bộ, đảng viên.
8. Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ
hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn
trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam. Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của
Đảng từ huyện đến cơ sở. Thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát
huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của
người đứng đầu. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên,
cấp uỷ viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân.
Đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện,
kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục tình trạng rườm rà, bất hợp lý về
thủ tục, giảm bớt giấy tờ, hội họp; sâu sát thực tế, cơ sở; nói đi đôi với làm./.

7



Câu 3: Phân tích nội dung Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ
(Chiến tranh đặc biệt, Chiến tranh cục bộ và Việt Nam hóa chiến tranh)
* Đánh thắng chiến lược chiến tranh đặc biệt (1961-1965)
Ngày 28/1/1961, G. Kennơđi lên làm tổng thống Hoa Kỳ và chính thức
thông qua chiến lượt toàn cầu mới với tên gọi “phản ứng linh hoạt” với ba kiểu
chiến tranh: chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ và chiến tranh tổng lực. Đặc
điểm của “ chiến tranh đặc biệt là dùng quân đội tay sai làm công cụ chiến tranh.
Nội dung cơ bản là càn quét, lập “ấp chiến lược”, bình định miền Nam trong
vòng 18 tháng bằng kế hoạch Xtalây-Taylo.
Tháng 1-1961, Bộ chính trị chủ trương chuyển từ khởi nghĩa sang chiến
tranh cách mạng. Tháng 10-1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập để
trực tiếp chỉ đạo cách mạng miền Nam, đẩy mạnh xây dựng lực lượng quân sự,
lẫn chính trị trên cả 3 vùng chiến lược.
Ngày 2-1-1963, tại Ấp Bắc (Mỹ Tho), lần đầu tiên chúng ta đánh bại 1
cuộc càn quét lớn của Mỹ - Nguỵ, mở ra khả năng đánh bại quân nguỵ trong
C/tranh đặc biệt.
Dưới sự chỉ đạo của Trung ương cục, cách mạng miền Nam có bước phát
triển mới. Phong trào phá ấp chiến lược diễn ra hết sức mạnh mẽ. Phong trào đấu
tranh của học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân diễn ra rầm rộ. Những
chiến thắng về chính trị và quân sự làm cho bộ máy chiến tranh Mỹ - Ngụy mâu
thẫm sâu sắc.
Ngày 1-11-1963, Mỹ giật dây làm đảo chính, giết chết Ngô Đình Diệm và
Ngô Đình Nhu, làm cho tình hình chính trị Sài gòn ngày càng phức tạp. Hệ
thống 9quyền đứng trước nguy cơ sụp đổ.
Tháng 9-1964, Bộ 9 trị cử Đại tướng Ng Chí Thanh và một số tướng lĩnh
cao cấp tăng cường vào chỉ đạo CM miền Nam. Trong Đông Xuân 1964-1965,
các chiến lược dịch An Lão (Bình Định), Bình Giã (Bà Rịa); Ba Gia(Quảng
Ngãi); đồng Xoài (Phước Long) liên tiếp diễn ra thắng lợi, làm phá sản chiến
lược “ chiến tranh đặc biệt”.

Đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặt biệt”, CM miền Nam vừa giữ được
quyền chủ động và tạo thế trận mới cho CM, vừa làm phá sản một hình thức
chiến tranh đẩy Mỹ và 9 quyền Sài Gòn vào thế bị động chiến lược trên toàn
chiến trường miền Nam.
* Đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” .
“Chiến tranh cục bộ” là một kiểu chiến tranh chiến lược phản ứng linh
hoạt” của Mỹ. Với sự có mặt trực tiếp của quân Mỹ trên chiến trường cùng với
quân nguỵ
Ngày 25-3-1965, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương khoá III nêu
rõ: “Ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng của cả nước giành thắng lợi
quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời chuẩn bị sẵn
8


sàng đối phó với quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây
ra”.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành TW khoá III, quân
và dân miền Nam đã đánh thắng trận đầu khi quân Mỹ đổ vào miền Nam. Đó là trận
thắng Núi Thành (26-5-1965), Vạn Tường (8-1965), Plâyme (11-1965).
Phối hợp với mặt trận quân sự, Trung ương cục miền Nam đã trực tiếp chỉ đạo
nhân dân đấu tranh chính trị và binh vận đối với các đơn vị lính Mỹ - Ngụy trên
toàn miền Nam.
Tháng 12 năm 1965, Hội nghị lần thứ 12 Ban chấp hành trung ương khóa
III nhận định: Mỹ đưa quân vào miền Nam nhưng tương quan lực lượng giữa ta
và địch vẫn không thay đổi lớn. Vì thế cuộc kháng chiến vẫn giữ vững và phát
triển thế chiến lược tiến công.
Quân và dân MN đã làm thất bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô
1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ- nguỵ. Hai ngọng kìm “ tìm diệt” và “ bình
định” bị bẻ gẫy.
Ở miền Bắc, sau sự kiện vịnh Bắc Bộ, Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại

rất khốc liệt. Đảng và Chính phủ quyết định điều chỉnh lại quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, giương cao khẩu hiệu chống Mỹ cứu nước.
Ngày 28/01/1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương khóa
III đã quyết định mở mặt trận ngoại giao để tranh thủ sự ủng hộ của các nước,
phát huy sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ.
Đêm 30-1-1968, cuộc tổng tiến công và nổi dậy đã được phát động trên
toàn miền Nam. Quân và dân ta đồng loạt tiến công địch ở 4/6 thành phố, 37/42
thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 là 1 đoàn chiến lược
đánh vào tận hang ổ kẻ thù. Chiến lược “ chiến tranh cục bộ” của Mỹ thất bại.
* Đánh thắng chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước (1969-1975).
Ngày 20-1-1969, R. Níchxơn lên cầm quyền và đưa ra học thuyết Ních
xơn với kế hoạch chiến tranh mới “Việt Nam hoá chiến tranh” và “dùng người
Việt đánh người Việt”. Đây là một chiến lược chiến tranh hết sức xảo quyệt. Mỹ
một mặt tăng cường viện trợ cho quân ngụy, một mặt tiến hành các cuộc hành
quân càn quét và thực hiện chương trình bình định.
Tháng 11/ 1968, trong chỉ thị gởi đảng bộ miền Nam, Bộ Chính trị vạch rõ
phương hướng của năm 1969 là “công kích và khởi nghĩa” mùa xuân và mùa hè.
Tháng 4/1969,Bộ Chính trị ra nghị quyết về “tình hình và nhiệm vụ trước mắt”
là: tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, phát triển chiến lược tiến
công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ.
Ngày 23/2/1969, quân và nhân dân ta đồng loạt mở cuộc tiến công mùa
xuân, ngày 11/5/1969 tiếp tục mở cuộc tiến công mùa hè trên toàn miền Nam.
9


Khi cuộc chiến tranh đang ở vào những thời điểm khó khăn thì dân tộc
Việt Nam phải chịu một tổn thất lớn lao, vào lúc 9 giờ 47’ ngày 2-9-1969 Chủ
tịch Hồ Chí Minh qua đời. Biến đau thương thành hành động CM, nhân dân

miền Nam cùng với cả nước quyết tâm thực hiện Di chúc của Người là đánh
thắng giặc Mỹ, thống nhất đất nước.
Tháng 1/1970, Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương khóa III
đề ra nhiệm vụ trước mắt là: đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên tất cả các mặt, vừa
tấn công vừa xây dựng lực lượng, giành thắng lợi từng bước đi lên giành thắng
lợi quyết định. Tháng 6/1970, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới trên
bán đảo Đông Dương và nhiệm vụ của chúng ta. Nghị quyết đã nêu rõ: Huy động
sức mạnh của cả nước tiến hành tổng tiến công và phản công đánh Mỹ và tai sai
trên toàn Đông Dương.
Trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta liên tục phản công thắng lợi
cuộc hành quân của 10 vạn Mỹ - nguỵ sang Campuchia; đánh thắng Chiến dịch
đường 9- Nam Lào, đánh thắng chiến dịch “ Toàn thắng 1/71” của Mỹ - nguỵ
vào đông bắc Campuchia và chiến dịch đánh vào ngã ba biên giới ở Tây bắc
Kon Tum.
Đầu năm 1972, Bộ chính trị và Thường vụ Quân uỷ Trung ương thông
qua kế hoạch cuộc tiến công Xuân-Hè 1972. Ngày 30-3-1972, ta mở cuộc tiến
công Xuân- Hè 1972 trên toàn miền Nam. Ta đã tiêu diệt và làm tan rã 30 vạn tên
địch: 50% sư đoàn, 65% trung đoàn bộ binh bị đánh thiệt hại nặng, tiêu diệt và
bức rút 2.200 đồn bốt trên tổng số 9.000 đồn bốt địch.
Cùng với những thắng lợi ở miền Nam, nhân dân miền Bắc đánh thắng
cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của Mỹ, lập nên một chiến công lịch sử "Hà
Nội – Điện Biên Phủ trên không" qua 12 ngày đêm, buộc Mỹ phải trở lại bàn
đàm phán để ký kết Hiệp định Pari vào ngày 27/1/1973 với “hiệp định về chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”
Hiệp định Pari được ký kết nhưng miền Nam vẫn chưa có hòa bình, Tháng
7/1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung ương khóa III đã ra Nghị quyết
“Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách
mạng miền Nam trong giai đoạn mới”.
Sau một thời gian chuẩn bị, từ ngày 30/9/1974 đến ngày 8/10/1974. Bộ
Chính trị họp bàn về chủ trương giải phóng miền Nam. Tại Hội nghị này Bộ

Chính trị trị phê chuẩn kế hoạch 2 năm và kế hoạch tác chiến năm 1975.
Từ ngày 8/12/1974 đến ngày 8/1/1975 Bộ Chính trị tiếp tục họp và nêu rõ
“nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những
trận quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ...”.
Ngày 10/3/1975 mở chiến dịch Tây Nguyên giải phóng Buôn Ma Thuột và
toàn bộ Tây Nguyên. Ngày 21/3/1975 chiến dịch Huế- Đà Nẵng bắt đầu. Ngày
25/3/1975, Bộ Chính trị bổ sung quyết tâm chiến lược: giải phóng miền Nam
trước mùa mưa. Ngày 26/3/1975 giải phóng Huế, 29/3/1975 giải phóng Đà
10


Nẵng. Trên đà thắng lợi của mặt trận Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng. Ngày
18/3/1975, Bộ Chính trị quyết định giải phón miền Nam 1975.
Sau khi tạo thế và lực, ngày 26/4/1975 chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh giải
phóng Sài Gòn -Gia Định bắt đầu. Vào 11giờ 30 ngày 30/4/1975 cờ chiến thắng
đã cấm trên Dinh độc lập. Cuộc kh/chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng
lợi.
Sau nhiều cuộc tổng tiến công và làm thất bại âm mưu của đế Quốc Mỹ,
vào lúc 11g30’ ngày 30-04-1975, cờ chiến thắng đã cắm trên Dinh Độc lập.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi.
* Ý nghĩa lịch sử:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khẳng định là một
trong những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong Thế kỷ XX. Thắng lợi
đó đã chấm dứt 117 năm chống các thế lực thực dân, đế quốc XL và hoàn thành
sự nghiệp GPMN, kết thúc cuộc cánh mạng dân chủ nhân dân trên cả nước,
hoàn thành sự nghiệp thống nhất tổ quốc.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khẳng định tính đúng
đắn, khoa học và sáng tạo của đường lối chiến tranh nhân dân dưới ánh sáng lý
luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là đường lối kháng chiến độc
lập, tự chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền

Chủ nghĩa xã hội, kết hợp trong nước với quốc tế, phối hợp nhịp nhàng sức
mạnh hai miền Nam Bắc để đi đến thắng lợi
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mở ra một thời kỳ
mới cho dân tộc Việt Nam thời kỳ cả nước thống nhất đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội.
Việt Nam trở thành ngọn cờ tiêu biểu cho phong trào đấu tranh vì độc lập dân
tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội.
3.5. Những bài học kinh nghiệm:
Một là, Kiên định mục tiêu, giữ vững độc lập tự chủ, xây dựng đường lối
và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Hai là, Xây dựng căn cứ địa cách mạng và hậu phương chiến tranh vững chắc
cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ba là, Thực hiện đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế trên cơ sở tôn trọng
độc lập, chủ quyền, lợi ích của các nước trong cộng đồng thế giới.
Bốn là, Xây dựng Đảng và đội nhủ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ và yêu
của cuộc kháng chiến…

11


Câu 4. Nêu bản chất và nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ; Liên hệ
Đảng bộ, chi bộ của đồng chí
Nguyên tắc tập trung dân chủ của ĐCS đã được các nhà kinh điển của CN
Mác – Lênin đề cập rất sớm.
Khái niệm “tập trung dân chủ” được V.I. Lênin sử dụng lần đầu tiên tại
Hội nghị Tammécpho (năm 1905), sau đó đưa vào Điều lệ Đảng Công nhân dân
chủ - xã hội Nga.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn trung thành với tư tưởng của C. Mác,
Ph.Ăngghen và V.I. Lênin về tập trung dân chủ, đồng thời bổ sung, phát triển tư
tưởng đó trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng phù hợp với điều kiện
và hoàn cảnh cụ thể của ĐCSVN.

* Bản chất
- Tập trung trong Đảng: Đó là tập trung trí tuệ, ý chí hành động của toàn
thể cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng nhằm tạo nên sức mạnh tinh thần, vật chất
hướng vào mục tiêu cách mạng của Đảng.
- Hồ Chí Minh: "có đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan
lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số
nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung
ương".
- Tập trung trong Đảng thể hiện:
+ Đảng có một cương lĩnh chính trị, cương lĩnh đó thể hiện sự tập trung ý
chí của mọi đảng viên và được mọi đảng viên thừa nhận, chấp hành.
+ Đảng có một điều lệ thống nhất thể hiện tiêu chuẩn mà mọi đảng viên và
tổ chức đảng phải tuân thủ.
+ Đảng có một trung tâm lãnh đạo thống nhất, lãnh đạo mọi tổ chức, mọi
cá nhân.
+ Đảng phải có một kỷ luật thống nhất áp dụng cho mọi tổ chức, mọi cá
nhân.
+ Tập trung không chỉ trong quyền uy về mặt tư tưởng mà còn quyền uy
về mặt vật chất.
- Dân chủ trong Đảng:Đó là quyền của mọi đảng viên, quần chúng tham gia
ý kiến đóng góp vào nghị quyết, cương lĩnh của Đảng để đi đến thống nhất ý chí và
phát huy tính sáng tạo và chủ động.Dân chủ trong Đảng thể hiện:
+ Quyền chính đáng của đảng viên trong việc quản lý của tổ chức Đảng.
+ Quyền chính đáng của đảng viên trong việc đóng góp ý kiến xây dựng
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
+ Đảng viên bầu ra cơ quan lãnh đạo của Đảng.
+ Quyền phê bình, chất vấn người lãnh đạo, cơ quan lãnh đạo của Đảng;
người lãnh đạo, cơ quan lãnh đạo chịu sự giám sát và có trách nhiệm trả lời chất
vấn của đảng viên.
- Theo Hồ Chí MInh

12


1- Các cơ quan lãnh đạo đều do quần chúng đảng viên bầu lên.
2- Phương châm, chính sách, nghị quyết của Đảng đều do quần chúng
đảng viên tập trung kinh nghiệm và ý kiến mà thành. Rồi lại do các cuộc hội
nghị của Đảng thảo luận giải quyết, chứ không ai được tự ý độc đoán.
3- Quyền lực của cơ quan lãnh đạo là do quần chúng đảng viên giao phó
cho, chứ không phải tự ai tranh giành được. Vì vậy, người lãnh đạo phải gần gủi
và học hỏi quần chúng đảng viên, nghe ngóng ý kiến của họ. Nếu lên mặt với
quần chúng, lạm dụng quyền lực – như thế là sai lầm.
4- Trật tự của Đảng là: cá nhân phục tùng tổ chức; số ít phải phục tùng số
nhiều; cấp dưới phải phục tùng cấp trên; các địa phương phải phục tùng trung
ương".
(HCM: Toàn tập, Nxb CTQG, H 2002, t.7, tr.241)
* Nội dung
Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ đã được Đảng ta chỉ rõ
trong Điều 9 Điều lệ Đảng do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
thông qua:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo của mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai
kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp
là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
3. Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình
trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo
tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê
bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số

phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ
chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành TW.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành
khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu
quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến
Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền
nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của
mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
13


* Sự thống nhất giữa tập trung và dân chủ trong nguyên tắc tập
trung dân chủ.
- Tập trung trên nền tảng dân chủ:
Trật tự của Đảng là: cá nhân phải phục tùng tổ chức; số ít phải phục tùng
số nhiều; cấp dưới phải phục tùng cấp trên; các địa phương phải phục tùng trung
ương.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc thống nhất, chứ không phải là sự kết
hợp giữa hai mặt tập trung và dân chủ.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc hướng tới sự tập trung, thống nhất, nhưng
đó là sự tập trung trên cơ sở dân chủ, mọi quyết định đều phải được thảo luận trên
cơ sở dân chủ, toàn bộ quá trình đi tới sự tập trung phải là một quá trình dân chủ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm tạo lập sự thống nhất về mục tiêu, lý
tưởng, về đường lối, quan điểm, về tổ chức và hành động, tránh cho toàn Đảng
và các tổ chức đảng không bị phân tán, chia rẽ, bè phái, biến Đảng thành một

câu lạc bộ bàn cãi suông mà khi đi đến quyết định, hành động thì “trống đánh
xuôi, kèn thổi ngược”. Vì vậy, yêu cầu hàng đầu là Đảng phải tạo lập cho được
sự thông nhất, tập trung về tư tưởng, ý chí, hành động, dùng sức mạnh của tổ
chức để giải quyết mọi vấn đề; có sự lãnh đạo, điều hành thông suốt từ trên
xuống dưới. sự hiệp đồng chặt chẽ giữa các tổ chức đảng và các đảng viên trên
cơ sở đường lối chung, nghị quyết đã được nhất trí thông qua.
Tập trung theo nguyên tắc tập trung dân chủ đối lập hoàn toàn với tập
trung quan liêu, tập trung độc đoán, cá nhân người lãnh đạo hay cơ quan lãnh
đạo áp đặt ý kiến, ý chí của mình cho tổ chức đảng và cấp dưới. Ở đây, mọi
quyết định tập trung đều phải được hình thành và tổ chức thực hiện thông qua
con đường dân chủ, bằng việc phát huy tối đa mọi sự sáng tạo. Việc chấp hành
các nghị quyết, quyết định của cấp trên và kỷ luật của Đảng đều phải dựa trên cơ
sở tự giác.
- Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung:
Trong nguyên tắc thống nhất này, tập trung và dân chủ tác động cùng
chiều theo tỷ lệ thuận, đòi hỏi và bảo vệ lẫn nhau. Thực hiện đúng tập trung dân
chủ thì cả tính tập trung và tính dân chủ đều được bảo đảm. Khi tập trung đã trên
cơ sở dân chủ thì tập trung càng cổ vũ cho dân chủ, trở thành đòi hỏi của dân
chủ, càng thúc đẩy dân chủ rộng rãi và có chất lượng hơn. Cũng tương tự, dân
chủ trong sự hướng tới tập trung, phục vụ cho tập trung, đi tới sự thống nhất,
những đề xuất đúng đắn của cá nhân sẽ trở thành ý chí chung của tập thể và
được bảo đảm bằng tổ chức, thành quyết định và hành động chung, khi đó dân
chủ thật sự có tổ chức, có mục đích, có thực chất. Tập trung và tập trung trí tuệ,
tập trung lực lượng, tập trung sức mạnh, tập trung ý chí, tập trung hành động.
Bản chất sự tập trung của Đảng đối lập với tập trung quan liêu. Vì tập trung của
Đảng gắn liền với dân chủ, tập trung trên cơ sở dân chủ. Tập trung càng cao thì
dân chủ càng phải rộng, và dân chủ càng phải rộng thì tập trung càng cao.
14



Liên hệ Đảng bộ, chi bộ của đồng chí
Những năm qua, chi bộ đang sinh hoạt luôn làm tốt công tác xây dựng Đảng;
thường xuyên quán triệt, thực hiện phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng; đặc biệt
là trong quá trình triển khai thực hiện kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI) về công tác xây dựng Đảng, thông qua phát huy dân
chủ trong sinh hoạt Đảng đã góp phần đánh giá những kết quả đạt được của từng
đảng viên, đồng thời chỉ rõ những hạn chế, tồn tại cần khắc phục.
Ngoài ra, Chi bộ đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
sinh hoạt của chi bộ trên cơ sở giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh
hoạt Đảng, bảo đảm sự đoàn kết thống nhất, đồng thời phát huy dân chủ trong
sinh hoạt Đảng, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần
chúng nhân dân; chi uỷ luôn chấp hành nghiêm túc nguyên tắc sinh hoạt Đảng;
phát huy dân chủ trong sinh hoạt, học tập, công tác; xây dựng và thực hiện tốt
quy chế làm việc, nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo của chi bộ, giúp cho chi
uỷ và các chi uỷ viên nhận thức rõ phạm vi chức trách, nhiệm vụ của mình.
Thông qua đó, việc phân công tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được tiến
hành cụ thể và có nhiều biện pháp cải tiến và nâng cao được chất lượng sinh
hoạt Đảng.
Quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc xây dựng và thực hiện nghiêm
túc quy chế dân chủ cơ sở, của cơ quan, đơn vị, xác định rõ những việc cán bộ,
đảng viên, được biết, được bàn, được kiểm tra và trách nhiệm trong tổ chức thực
hiện...
Tuy nhiên, trong sinh hoạt chi bộ vẫn còn một vài đảng viên ngại phát
biểu ý kiến, chưa mạnh dạn đấu tranh xây dựng nội bộ; các chi uỷ viên còn làm
việc kiêm nhiệm, chi bộ ghép nhiều cơ quan nên công tác kiểm tra, giám sát và
triển khai các chủ trương, đường lối của đảng đôi lúc chưa kịp thời.
Giải pháp:
- Tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên có nhận thức đúng, đầy đủ về
bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ; về mối quan hệ biện chứng
giữa hai mặt tập trung và dân chủ gắn với việc liên hệ, kiểm điểm về nhận thức

và thực hiện nguyên tắc này ở chi bộ, đơn vị mình.
- Lấy nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị làm trọng tâm, trong quá trình
nghiên cứu, quán triệt phải chỉ ra được kết quả và những yếu kém trong tổ chức
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tìm ra các nguyên nhân chủ quan, khách
quan của việc thực hiện chưa tốt hoặc cố tình vi phạm nguyên tắc để khắc phục,
bảo đảm sự thống nhất về ý chí và hành động trong chi bộ và đơn vị.
- Trong quá trình quán triệt cần phải xác định rõ vai trò cá nhân của cán bộ
lãnh đạo, người đứng đầu đơn vị, đồng thời cụ thể hoá chức trách, nhiệm vụ,
quyền hạn và các mối quan hệ phối hợp công tác của từng cán bộ, đảng viên, của
từng cấp uỷ viên, tổ chức đảng.
- Nâng cao chất lượng sinh hoạt định kỳ: phải duy trì nghiêm chế độ sinh hoạt
định kỳ. Để buổi sinh hoạt định kỳ có chất lượng, cấp uỷ, bí thư hoặc phó bí thư
chủ trì sinh hoạt phải làm tốt việc chuẩn bị nội dung, xây dựng dự thảo nghị
15


quyết bám sát nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và tạo mọi điều kiện cho
đảng viên đóng góp xây dựng nghị quyết.
- Người chủ trì sinh hoạt phải lắng nghe và tập hợp các ý kiến của đảng viên;
khi có nhiều ý kiến khác nhau về một vấn đề cần phải điều hành thảo luận đi đến
thống nhất trước khi biểu quyết.
- Đối với những vấn đề quan trọng cần bỏ phiếu kín, phải chấp hành nghiêm
quy trình bỏ phiếu, tổ chức kiểm phiếu chặt chẽ, công bố kết quả công khai và
lập biên bản bảo lưu kết quả.
- Mọi đảng viên phải nghiêm chỉnh thực hiện nghị quyết đã được tập thể thông
qua, việc cố tình thực hiện ý kiến riêng đã bị đa số bác bỏ là vi phạm nguyên tắc.
Thực hiện tốt công tác tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng; tăng cường
kiểm tra việc thực hiện Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, kiên quyết
xử lý nghiêm đối với những người cố tình vi phạm, che giấu khuyết điểm; động
viên, khen thưởng, bảo vệ những người dám đấu tranh, tố cáo những khuyết

điểm và sai phạm ngay trong tổ chức của mình.
- Nghiêm cấm trù dập những người đấu tranh, phê bình thẳng thắn, có ý thức
xây dựng”. Việc tổ chức tự phê bình, phê bình phải được tiến hành trên tinh thần
dân chủ, thẳng thắn và xây dựng; phải trên tinh thần đồng chí, thương yêu lẫn
nhau, để cùng tiến bộ.
- Góp ý phải chân thành và tự giác, tránh lợi dụng phê bình để vu cáo, đả kích
đồng chí, đồng đội, gây rối nội bộ; khắc phục tình trạng nể nang, hình thức, bao
che cho nhau, thấy đúng không kiên quyết bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh
hoặc khi được phê bình thì tiếp thu một cách miễn cưỡng và không sửa chữa
khuyết điểm.

16


Câu 5. Trình bày nội dung Đảng lãng đạo xây dựng XHCN ở Miền Bắc
1. Hoàn cảnh lịch sử:
Sau năm 1954, miền Bắc nước ta được giải phóng, quá độ xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ âm mưu chia cắt lâu
dài biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới phòng tuyến chống chủ nghĩa
cộng sản, căn cứ quân sự khống chế các nước trong vùng.
Thực hiện âm mưu đó, Mỹ lập chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, tăng cường
khủng bố, đưa máy chém đi khắp miền Nam đàn áp dã man những người cách
mạng.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân là hoàn toàn chính
nghĩa. Chiến tranh kéo dài 21 năm, nhân dân ta đã đánh bại chiến tranh đon
phương (1954 - 1960), chiến tranh đặc biệt (1961 - 1965), chiến tranh cục bộ
(1965 - 1968); Việt Nam hóa chiến tranh (1969 - 1975) của đế quốc Mỹ, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nuớc.
2. Nội dung cơ bản đường lối kháng chiến của Đảng (1954 - 1965):
a) Các văn kiện hình thành đường lối:

- Các Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 (3/1955), đến Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ 15 (1/1959), khóa II đề ra đường lối khôi phục kinh tế, cải
tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đường lối cách mạng dân tộc dân chủ ở miền
Nam.
- Đại hội III của Đảng (9/1960) quyết định xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Băc, đấu tranh cho hoà bình, thống nhất nước nhà và bầu ông Lê Duẩn là
Tổng Bí thư Đảng.
- Các Hội nghị Trung ương khóa III của Đảng (1960 - 1975) cụ thể hóa
đường lối của Đại hội III về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và lãnh đạo
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
b) Đường lối chung của cách mạng Việt Nam:
Tăng cường đoàn kết toàn dân, đồng thời đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện thống
nhất nước nhà, xây dựng Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chù và
giàu mạnh, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình ở Đông
Nam Á và thế giới. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết
định nhất đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam và sự nghiệp đấu tranh
thống nhất nước nhà.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực
tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và
tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà.
Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và ở miền Nam thuộc hai chiến lược khác
nhau, nhung tiến hành đồng thời, có quan hệ mật thiết, thúc đẩy lẫn nhau nhàm
giải quyết mâu thuẫn chung giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và tay sai, thực
hiện mục tiêu chung trước mắt là hoà bình thống nhất Tổ quốc.
c) Đường lối đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
Đoàn kết toàn dân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên
Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ
nghĩa xã hội, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực
17



hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới.
Sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên
chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh;
phát triển thành phần kinh tế quốc doanh.
Thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ.
Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật;
biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông
nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến.
Trong 10 năm đầu (1954 - 1964), thực hiện đường lối đó, trong điều kiện hòa
bình, miền Bắc nước ta đã thay đổi, tiến những bước dài chưa từng có trong lịch
sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều đổi mới.
d) Thắng lợi thực hiện đường lối:
Từ đầu năm 1960, phong trào Đồng khởi bùng nổ toàn miền Nam, giải
phóng nhiều vùng đất đai. Ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam thành lập. Cách mạng miền Nam chuyển mạnh từ thế giữ gìn lực
lượng chuyển sang thế tiến công ngày càng mạnh mẽ.
Phong trào đấu tranh ở đô thị, sự nổi dậy phá vỡ hàng vạn ấp chiến lược
của Mỹ - nguỵ cùng các chiến thắng Bình Giã (Bà Rịa), Ba Gia (Quàng Ngãi) và
Đồng Xoài (Bình Phước)... đã làm phá sản “Chiến tranh đặc biệt”của Mỹ - nguỵ.
Từ 1964 - 1968, quân dân miền Bắc tổ chức lại sản xuất, “tay cày tay súng”,
“tay búa tay súng”, đánh trả máy bay Mỹ với tinh thần “nhằm thằng quân thù mà
bắn“ đã bắn rơi 3.243 máy bay, bắn chìm 143 tàu chiến và chi viện chiến trường
với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.
Quân dân miền Nam đẩy mạnh cao trào đánh Mỹ, diệt nguỵ, giành thắng

lợi ở các trận Vạn Tường (8/1965), các chiến dịch mùa khô 1965 - 1966, mùa
khô 1966 - 1967. Thắng lợi của cuộcTổng công kích mùa Xuân năm 1968 của
quân dân miền Nam đã buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt không
điều kiện ném bom miền Bắc, chấp nhận rút quân viễn chinh Mỹ và chư hầu ra
khỏi miền Nam và ngồi đàm phán với ta tại Hội nghị Paris (11/1968). Chiến
lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ bị phá sản hoàn toàn.
Quân dân miền Nam đẩy mạnh chống “Việt Nam hoá chiến tranh”, đánh
bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ - nguỵ (3/1971), mở cuộc tiến công
chiến lược năm 1972 đánh vào Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ.
Từ 18 đến 30/12/1972, quân dân Hà Nội lập chiến công trận "'Điện Biên Phủ
trên không”, bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 “pháo đài bay” B52 của đế
quốc Mỹ; buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris (27/1/1973) công nhận độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân đội Mỹ và
quân đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho
nguỵ nhào” và Chỉ thị của Bộ Chính trị, từ cuối năm 1974, quân dân ta mở cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với ba đòn tiến công là chiến
18


dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh (từ
10/3 đến 30/4/1975), giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
e) Nguyên nhân thắng lợi:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả tổng hợp
của nhiều nhân tố, trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố
quyết định hàng đầu. Đảng có đường lối chính trị, quân sự và phương pháp cách
mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, tổng hợp.
Nhân dân cả nước ta chiến đấu gian khổ hy sinh vì có chính nghĩa. Thắng
lợi đó là kết quả đấu tranh anh dũng của cán bộ, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng

bào yêu nước ở miền Nam ngày đêm đối mặt với quân thù, xứng đáng với danh
hiệu “Thành đồng của Tổ quốc”.
Đó là kết quả của đồng bào và chiến sĩ miền Bắc vừa xây dựng, vừa chống
chiến tranh phá hoại, vừa hoàn thành nghĩa vụ hậu phương lớn, chi viện tiền
tuyến lớn đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Đó là kết quả của đoàn kết chiến đấu của nhân dân Việt Nam, Lào,
Campuchia; sự ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ
nghĩa; sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ
Mỹ.
3. Ý nghĩa lịch sử:
Nhân dân ta đã quét sạch bọn đế quốc xâm lược, chấm dứt ách thống trị tàn
bạo hon một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; mở ra kỷ
nguyên mới: cả nước hoà bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhân dân ta đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài
ngày nhất của chủ nghĩa đế quốc kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, làm suy
yếu, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chủ nghĩa đế quốc ở Đông Nam Á,
mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới, góp phần tăng cường lực lượng
xã hội chủ nghĩa, phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình thế giới.
Báo cáo chính trị tại Đại hội IV của Đảng (12/1976) khẳng định: "Năm
tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong
những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về toàn thắng của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như
một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to
lớn và có tính thời đại sâu sắc"1
4. Bài học Kinh nghiệm:
Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy
động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ.
Hai là, Đảng đã tìm ra được phương pháp đấu tranh cách mạng đúng đắn,
sáng tạo.

Ba là, sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của Trung ương Đảng và công tác tổ
chức chiến đấu tài giỏi của Đảng qua các cấp bộ Đảng và các cấp chỉ huy quân
đội.
Bốn là, coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng
ở miền Nam và tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước.
19


Câu 6: Phân tích nội dung cơ bản Đường lối đổi mới tại Đại hội VI
* Bối cảnh lịch sử Đại hội VI của Đảng
Trước Đại hội VI, đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội:
Sản xuất đình trệ cả trong nông nghiệp và công nghiệp. Năng suất lao động
và hiệu quả kinh tế gị giảm sút, nhiều mặt bị mất cân đối nghiêm trọng. Phân
phối lưu thông rối rn. Lam phát tăng 3 con số (1976 là 128%, 1981 là 313%,
1986 là 774,7%).
Quá trình đổi mới từng phần. Đường lối đổi mới được hình thành từ những
khởi động đổi mới từng phần ở các địa phương, cơ sở từ cuối những năm 70 và
đầu những năm 80. Đảng và Nhà nước đã kịp thời tổng kết thực tiễn, điều chỉnh
cơ chế, chính sách để thúc đẩy sản xuất phát triển nhằm khắc phục những tác
động xấu của khủng hoảng kinh tế - xã hội.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần tứ VI (12/1986) hoạch định đường lối
đổi mới:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ
ngày 15 đến ngày 18/12/1986 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu
thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên. Đại hội đã nghe và thảo luận Báo cáo
chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V do Tổng Bí thư Trường
Chinh trình bày và nhiều văn kiện quan trọng khác.
Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, gồm những nội dung cơ bản
sau:
- Đổi mới cơ cấu kinh tế: Có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các

thành phần kinh tế khác ngoài kinh tế xã hội chủ nghĩa. Các thành phần đó là:
kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể); kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa;
kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên tự túc tự cấp.
Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện ba
chương trình kinh tế lớn.
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: Kiên quyết xóa bỏ cơ chế quản lý tập
trung quan liêu hành chính bao cấp; đổi mới kế hoạch hóa, kết hợp kế hoạch hóa
với thị trường, từng bước đưa nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Phương hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là “xòa bỏ
tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách
quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế. Trong cơ chế quản lý đó, tình kế
hoạch là đặc trưng số một và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa – tiền tệ là đặc
trưng thứ hai. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch
hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ.
- Đổi mới và tăng cường vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước về kinh
tế: Tăng cường bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương thành một thể
thống nhất, có sự phân biệt rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm tùy cấp
theo nguyên tắc tập trung dân chủ: “phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính –
20


kinh tế của các cơ quan nhà nước Trung ương và địa phương với chức năng
quản lý sản xuất – kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở”. Thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội, thực hiện cơ chế “quản lý đất nước
bằng pháp luật, chứ không chỉ bằng đạo lý”.
- Đổi mới hoạt động kinh tế đối ngoại: Đổi mới hoạt động kinh tế đối
ngoại trên cơ sở mở rộng nâng cao hiệu quả kinh tế đôi ngoại. Mở rộng hợp tác
đầu tư với nước ngoài.
- Đổi mới tư duy lý luận và phong cách lãnh đạo của Đảng: Đổi mới sự

lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nâng cao nhận thức lý luận, vận đụng đúng quy
luật khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí hoặc bảo thủ trì trệ. Đổi
mới bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước tiên là đổi mới tư duy kinh tế trên cơ sở
nắm vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê nin, kế thừa tư
tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng
đại, đánh dấu bước ngoặc trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội đã tìm lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội bằng việc đề ra
đường lối đổi mới, đặt nền tẳng cho việc tìm ra con đường lên chủ nghĩa xã hội.
Đường lối đổi mới là sản phẩm của tư duy khoa học của toàn Đảng, toàn dân,
thể hiện quyết tâm đổi mới của Đảng.
Đaị hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI được hoạch định trên cơ sở tư duy
mới về lý luận, về chủ nghĩa xã họi và thời kỳ quá độ, khắc phục tư duy giáo
điều, bảo thủ, cứng nhắc thiếu năng động, chủ quan, nóng vội;
Điều hết sức quan trọng là Đảng Cộng sản Việt Nam khi quyết định đường lối
đổi mới đã nắm vững những chỉ dẫn của V.I. Lê nin về những đặc trưng của thời
kỳ quá độ, nhất là sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế và tính lâu
dài của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
* Thành công của nhiệm kỳ Đại hội VI
+ 1989, Thành công vấn đề lương thực và trở thành nước xuất khẩu thứ 3
thế giới;
+ 1990, hạ lạm phát xuống còn 2 con số (67%),
+ Chính trị, XH ổn định vượt qua thách thức do tác động của khủng
hoảng và sụp đổ XHCN;
* Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại
- Quyết định đường lối đổi mới của ĐH thật sự là một quyết định sáng
suốt, đúng lúc, kịp thời, đánh dấu một bước ngoặc quan trọng trong sự nghiệp
quá độ lên CNXH và mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam.
- Đại hội thể hiện sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và cũng thể
hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và trước dân tộc

- Là tiền đề cho quá trình bổ sung và phát triễn đường lối đổi mới, mở đầu
cho công cuộc đổi mới tòan diện của đất nước
21


- Đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về bản lĩnh chính trị và năng lực
lãnh đạo của Đảng. Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật vào những sai lầm khuyết
điểm và đổi mới theo xu thế mới của thời đại
Tóm lại, ĐH lần thứ VI của Đảng là ĐH đổi mới toàn diện đất nước,
hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để với tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật.

22


Câu 7: Trình bày những thành tựu, hạn chế và những bài học kinh nghiệm
qua 30 năm đổi mới
1. Thành tựu
Một là, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém
phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Hai là, kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển; chính trị - xã hội ổn định; quốc
phòng - an ninh được tăng cường; văn hóa - xã hội có bước phát triển, bộ mặt
đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi.
Ba là, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng; đại
đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
Bốn là, công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ
thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng
lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn

vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Năm là, quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi
mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới
của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch
sử.
Nguyên nhân của những thành tựu trên đây là do:
- Đảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện. Đảng ta
đã nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại và vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam;
- Có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra những chủ
trương, quyết sách phù hợp cho từng giai đoạn cách mạng, khi tình hình thế giới
và trong nước thay đổi.
- Đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đã nỗ lực phấn đấu,
tận dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đường lối
đổi mới. Sự nghiệp đổi mới được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ.
2. Những hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân
Một là, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa
làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực
tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội còn có một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm
rõ.
23



Hai là, kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng,
yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ
mô có lúc thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm.
Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi
trường; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Việc tạo nền
tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt
được mục tiêu đề ra.
Ba là, bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp như tham
nhũng, lãng phí, “diễn biến hóa bình” của các thế lực thù địch với những thủ
đoạn mới, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; niềm
tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, vào chế độ có mặt bị giảm sút.
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây có cả nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
- Về khách quan: Đổi mới là một sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài, rất
khó khăn, phức tạp, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới và khu vực
có những mặt tác động không thuận lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế lực
thù địch và cơ hội chính trị.
- Về chủ quan: Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa được
quan tâm đúng mức; đổi mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt
còn lạc hậu, hạn chế so với chuyển biến nhanh của thực tiễn. Dự báo tình hình
chậm và thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến chất lượng các quyết sách, chủ
trương, đường lối của Đảng. Nhận thức và giải quyết tám mối quan hệ lớn còn
hạn chế. Đổi mới thiếu đồng bộ, lúng túng trên một số lĩnh vực.
Nhận thức, phương pháp và cách thức chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương,
đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn
nhiều hạn chế. Nhiều chủ trương, nghị quyết đúng không được tích cực triển
khai thực hiện, kết quả đạt thấp. Một số chính sách không phù hợp với thực tiễn,

chậm được sửa đổi, bổ sung.
Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt các cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa được
coi trọng thường xuyên, đúng mức, hiệu quả thấp. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán
bộ còn nể nang, cục bộ; chưa quan tâm đến việc xây dựng cơ chế, chính sách để
trọng dụng người có đức, có tài.
3. Những bài học rút ra sau 30 năm đổi mới
Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên
cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy
truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm
quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích
của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm,
sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc.
24


Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy
luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do
thực tiễn đặt ra.
Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự
chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng
có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ
cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao

hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với
nhân dân.

25


×