Tải bản đầy đủ (.docx) (168 trang)

Thực trạng bệnh dại ở người tại các tỉnh trung du, miền Núi phía Bắc và hiệu quả can thiệp truyền thông thay đổi hành vi trong trường học (FULL TEXT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 168 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG
-----------------------------------

NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG

THỰC TRẠNG BỆNH DẠI Ở NGƯỜI TẠI CÁC
TỈNH TRUNG DU, MIỀN NÚI PHÍA BẮC
VÀ HIỆU QUẢ CAN THIỆP TRUYỀN THÔNG
THAY ĐỔI HÀNH VI TRONG TRƯỜNG HỌC

LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y TẾ CÔNG CỘNG

HÀ NỘI – 2018


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh Dại là một bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm do vi rút Dại gây
ra. Bệnh rất dễ lan truyền thành dịch trong cộng đồng vì bệnh lây truyền từ
động vật (chủ yếu là chó) sang người và động vật qua chất tiết, nước bọt của
động vật có vi rút Dại thơng qua các vết cắn, cào, liếm trên da và niêm mạc bị
tổn thương [7, 61].
Hiện nay bệnh Dại đang là vấn đề y tế công cộng, nó đe dọa sức khỏe và
kinh tế của người dân sống trên toàn cầu. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế
giới, bệnh Dại xảy ra ở hơn 150 quốc gia trên Thế giới ở các mức độ khác
nhau [105], [117]. Hơn một nửa dân số Thế giới sống trong vùng có bệnh


Dại lưu hành. Mỗi năm có hơn chục triệu người bị động vật Dại hoặc nghi Dại
cắn phải đi tiêm phòng bằng vắc xin Dại trong đó có tới hơn 40% nạn nhân là
trẻ em dưới 15 tuổi; có khoảng 59.000 (25.000-159.000) người chết do bệnh Dại,
30-60% số người tử vong là trẻ em dưới 15 tuổi với phí tổn hàng năm là hàng tỷ
đơ la và nếu khơng được điều trị dự phịng thì mỗi năm trên Thế giới sẽ có
330.000 người mắc và chết do bệnh Dại [20], [91], [117].
Tỷ lệ chết Dại ở Việt Nam cũng khá cao đứng thứ 14 trên Thế giới và liên
tục đứng hàng đầu trong danh sách tử vong do các bệnh truyền nhiễm trong
những năm gần đây. Số người đi tiêm vắc xin phòng Dại hàng năm lên là nửa
triệu người với tốn phí hơn 300 tỷ đồng mỗi năm [121]. Trong thời gian gần
đây, bệnh Dại đã và đang gia tăng ở các tỉnh miền núi phía bắc, chiếm tới
54% số ca tử vong của cả nước [10]. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng bệnh
Dại tại khu vực miền núi và trung du phía bắc là cần thiết cả về khoa học và thực
tiễn nhằm cung cấp thêm bằng chứng khoa học cho công tác phòng chống Dại
cho vùng này cũng như cả nước.


Mặt khác trẻ em là nhóm đối tượng có nguy cơ cao chiếm tỷ lệ lớn
trong nhóm bị phơi nhiễm với bệnh Dại nên cần thiết được quan tâm và can thiệp
kịp thời để giảm thiểu nguy cơ. Theo mô hình của Liên minh Tồn cầu phịng
chống bệnh Dại, truyền thông giảm thiểu nguy cơ đối với trẻ em lứa tuổi đến
trường là một trong những biện pháp hiệu quả bền vững trong việc làm giảm tỷ lệ
trẻ em bị động vật cắn và điều đó cũng góp phần giảm được tỷ lệ phơi nhiễm
chung của cộng đồng. Để đánh giá hiệu quả của biện pháp truyền thông nguy cơ
bệnh Dại tại trường học, nghiên cứu lựa chọn Phú Thọ là tỉnh trung tâm của khu
vực Trung du và miền núi phía Bắc, tỉnh Phú Thọ liên tục có số trường hợp tử
vong đứng đầu cả nước từ nhiều năm gần đây để tiến hành điều tra và can thiệp
bằng truyền thông trong trường học. Kết quả của nghiên cứu sẽ cung cấp thêm
bằng chứng khoa học cho chương trình khống chế và loại trừ bệnh Dại về hiệu
quả của can thiệp truyền thông nhằm giảm số trường hợp tử vong. Vì những lý

do nêu trên, nghiên cứu “Thực trạng bệnh Dại ở người tại các tỉnh trung du,
miền Núi phía Bắc và hiệu quả can thiệp truyền thơng thay đổi hành vi trong
trường học” được triển khai với hai mục tiêu sau:
1.

Mô tả thực trạng mắc và điều trị dự phòng sau phơi nhiễm với

bệnh Dại ở người tại các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc, giai đoạn 20102015.
2.

Đánh giá hiệu quả can thiệp truyền thông thay đổi hành vi

phòng chống bệnh dại ở học sinh tiểu học và trung học cơ sở tại 3 huyện của tỉnh
Phú Thọ, 2015-2016.


Chương 1 - TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1

Một số khái niệm, đặc điểm về bệnh Dại
Bệnh Dại là bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm và lâu đời nhất

được biết đến của lồi người. Từ những năm 2300 trước cơng ngun bệnh đã
gây ra những cái chết kinh hoàng cho loài người. Bệnh Dại do vi rút Dại gây
ra lưu hành ở nhiều nước trên Thế giới, làm tổn thương hệ thần kinh trung
ương. Bệnh ở trên động vật máu nóng và lây sang người qua những vết cắn,
cào, liếm. Nguồn truyền bệnh Dại trên Thế giới chủ yếu là chó, mèo, dơi,
hoẵng, chồn, sói… Thời kỳ ủ bệnh của bệnh Dại trên người dài thường từ 2
tuần đến 6 tuần và phát bệnh khoảng 1 tuần thì chết [7], [40]. Năm 1857,
Louis – Pasteur sáng chế ra vắc xin (VX) phòng bệnh Dại đây là một bước

tiến nhảy vọt của lịch sử y học nói chung và điều trị bệnh Dại nói riêng. Sau
đó hàng loạt các thế hệ VX mới ra đời trong những năm tiếp theo góp phần
phịng chống bệnh dại (PCBD). Ngày nay, mặc dù đã có VX thế hệ mới an
toàn và hiệu lực tuy nhiên do chưa tiêm phịng Dại đầy đủ và kiểm sốt tốt
bệnh Dại trên đàn chó nên bệnh Dại vẫn quay trở lại và lưu hành ở 150 quốc
gia trên Thế giới với 70.000 người tử vong mỗi năm[116], [117].
1.1.1 Khái niệm bệnh Dại
Bệnh Dại (rabies) xuất phát từ chữ Latin rabere có nghĩa là “cuồng bạo
hoặc điên khùng”, rabere cũng có thể xuất hiện sớm hơn trong nguồn gốc của
cuốn sách Sanskrit là rabhas có nghĩa là “bạo lực”. Những người Hy Lạp cổ
đã mô tả trong sách của họ bằng từ lyssa nghĩa là “chứng điên khùng, dồ
Dại”. Điều này cũng được viết trong từ điển Oxford là lyssophobia cũng có
nghĩa là “hội chứng sợ nước, các triệu chứng mơ phỏng từ thực tế”. Cũng
khơng có gì ngạc nhiên rằng các nhà phẫu thuật, nhà viết kịch hay những nhà
triết học của những thế kỷ trước đã mô tả hình ảnh của những con chó bị Dại


là những nỗi ám ảnh, sợ hãi cho loài ở vùng Lưỡng Hà vào thế kỷ 23 trước
công nguyên trong đạo luật của Babilon cổ đại đã ấn định những hình phạt
nghiêm khắc đối với những người chủ để chó bị Dại cắn chết người. Đạo luật
thời trung cổ 3000 năm sau đó ghi nhận nhiều tranh cãi liên quan đến những
vấn đề pháp luật và vết cắn bởi con chó. Từ năm 500 đến năm 322 trước cơng
ngun, hai nhà triết học Hy Lạp cổ đại Đêmơcrít và Arixtốt đã viết rằng
“bệnh Dại truyền từ những loài động vật bị điên Dại và bất kể loài động vật
nào cũng có thể bị bệnh này nếu bị chó điên tấn cơng, loại trừ lồi người”.
Những lý luận của ơng gây ra sự khó hiểu và khiến cho một số nhà bình luận
ở thế kỷ 19 hồi nghi về sự thay đổi hội chứng bệnh Dại qua nhiều thế kỷ qua.
200 năm sau công nguyên Galien đã đề ra phương pháp phẫu thuật cắt bỏ
phần cơ thể bị vết cắn để ngăn ngừa sự phát bệnh Dại.
Cuối thế kỷ 19, nhà Bác học Louis Pasteur đã mở ra một kỷ nguyên thực

sự mới đối với bệnh Dại. Khi ông tiêm truyền vi rút Dại vào não thỏ qua
khoảng hơn 100 lần ông đã tạo ra được một vi rút biến đổi có ái tính thần
kinh, bất hoạt một phần, có thời gian ủ bệnh thu ngắn xuống còn từ 6-7 ngày
và ông gọi đó là vi rút Dại cố định và vi rút sống giảm độc lực này được
dùng làm VX điều trị dự phịng. Đến nay trải qua nhiều cơng trình cải tiến
và nhờ ứng dụng của kỹ thuật sinh học phân tử đã mang lại nhiều tiến bộ
cho việc sản xuất VX Dại tái tổ hợp chấm dứt tình trạng khơng dự phịng
được của bệnh Dại.
Ngày nay bệnh Dại được Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa một cách đầy
đủ như sau: Một người có biểu hiện hội chứng thần kinh cấp tính (viêm não)
dưới các thể lâm sàng là kích động (bệnh Dại thể hung dữ) hoặc hội chứng
liệt (bệnh Dại thể trầm cảm) tiến triển đến hôn mê và tử vong, thường là do
suy hô hấp, trong vòng 7-10 ngày sau xuất hiện triệu chứng đầu tiên nếu
khơng được điều trị tích cực.


1.1.2 Đặc điểm dịch tễ học bệnh Dại
1.1.2.1 Nguồn truyền bệnh Dại
Thống kê trên toàn Thế giới cho thấy nguồn truyền bệnh Dại chính là
chó nhà 54%, tiếp đó là động vật hoang dã 42% và dơi 4% [60, 110, 112].
Ổ chứa vi rút Dại trong thiên nhiên là động vật có vú máu nóng, nhất là
ở các động vật như chó sói đồng, chó sói, chó rừng. Ngồi ra ổ chứa vi rút
Dại còn ở mèo, chồn, cầy và những động vật có vú khác [60].
Véc tơ chính của bệnh Dại là chó, đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới. Các
biến thể vi rút Dại xuất hiện ở Mexico tuy nhiên dưới tác động của chương
trình kiểm sốt bệnh Dại bằng VX đường ăn, vi rút Dại ở động vật máu nóng
đã bị khống chế ở Mỹ. Nguồn truyền bệnh Dại ở các nước Châu Âu, Bắc Mỹ
chủ yếu là động vật hoang dã chiếm tỷ lệ 88% phổ biến nhất là cáo đỏ, gấu
trúc, chồn. Hai nguồn truyền bệnh khác là chó và dơi có tỷ lệ thấp hơn rất
nhiều chiếm khoảng 6% [20], [112]. Biến đổi khí hậu có thể ảnh hưởng đến

sự phân bố và cường độ động vật gây Dại. Tăng nhiệt độ cao hơn dẫn đến
thay đổi đối với loài cáo đỏ và cáo Bắc cực và một số loài khác. Việc này dẫn
đến các chi phí liên quan đến những phản ứng đối với động vật hoang dã gây
bệnh hoặc các chi phí liên quan đến dự phịng bệnh Dại và tăng nguy cơ tử
vong với người và động vật. Ngoài ra biến đổi khí hậu tiềm tàng nguy cơ thúc
đẩy sự lan truyền vi rút Dại chủng 312 đến các nguồn truyền cổ điển như các
lồi móng guốc [109].
Ở Nam Mỹ, Trung Mỹ, Châu Mỹ La tinh và Châu Á nguồn truyền chủ
yếu ở chó (93-98%). Ngồi ra cịn thấy ở mèo, chuột. Các động vật khác sống
gần người như trâu bị, lợn, dê, cừu, ngựa có thể mắc bệnh Dại và trở thành
nguồn truyền bệnh tạm thời nhưng ít lan truyền bệnh. Năm 1991 ở vùng biên
giới phía đơng New York (Mỹ) lần đầu tiên xuất hiện bệnh Dại ở loại gấu trúc


Mỹ và sau đó bệnh Dại nhanh chóng lan rộng ở lồi này. Ở Châu Mỹ La tinh
có ổ chứa vi rút ở loài dơi hút máu và dơi ăn hoa quả [69].
Tác động trực tiếp và tương tác của biến đổi khí hậu đối với các lồi vật
chủ và độc lực bệnh truyền nhiễm thể hiện ở mức độ vĩ mô. Bang Alaska đại
diện cho Hoa Kỳ về biến đổi khí hậu và bệnh tật. Bệnh Dại là bệnh động vật ở
những con cáo Bắc cực. Hầu hết các trường hợp gia súc và động vật hoang dã
bị Dại từ phía Bắc và phía tây Alaska. Giám sát thụ động cho thấy có một xu
hướng rõ rệt theo mùa ở những con cáo điên xảy ra đỉnh cao vào mùa đông và
mùa xuân. Nghiên cứu mô tả các yếu tố khí hậu có liên quan đến sự xuất hiện
của bệnh Dại theo chu kỳ được báo cáo. Dựa trên mơ hình xác suất cho thấy
bệnh Dại xuất hiện theo mùa mạnh mẽ hơn trong các con cáo xuất hiện ở vĩ
độ cao hơn ở Alaska và bệnh Dại ở lồi cáo ở Bắc cực có vẻ như bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố khí hậu so với cáo già. Khi nhiệt độ tiếp tục xu hướng
nóng lên, số lượng cáo ở Bắc cực có thể giảm. Dịch tễ học tổng thể của bệnh
Dại tại Alaska có thể sẽ chuyển sang sự lây truyền virus lan rộng trong số
những con cáo đỏ như là ổ chứa chính trong khu vực. Thơng tin về cáo, ngồi

việc tăng cường giám sát bệnh Dại trên quy mô địa lý lớn hơn, sẽ rất quan
trọng để phát triển các mơ hình tồn diện hơn về lây truyền bệnh Dại ở khu
vực [44].
Ở các nước Đông Nam Châu Á nguồn truyền bệnh Dại gặp ở nhiều
động vật là vật ni trong đó chó nhà chiếm từ 93-96%. Số còn lại là các
động vật khác như mèo, gia súc, khỉ, cầy man gút [56], [114].
Ở Việt Nam, chó là ổ chứa vi rút chủ yếu chiếm 96-97%, sau đó là mèo
với tỷ lệ 3-4%, chưa phát hiện được các động vật khác bị bệnh Dại [12], [34],
[35, 37].


1.1.2.2 Phương thức lây truyền
Bệnh Dại được lây truyền qua nước bọt của động vật mắc bệnh bài tiết
ra ngoài và theo vết cắn, vết liếm, vết xước trên da bị rách (hoặc qua màng
niêm mạc còn nguyên vẹn) vào cơ thể người. Thời gian vi rút Dại có thể xuất
hiện trong nước bọt của chó lên tới khoảng 10 ngày thậm chí là 13 ngày (rất
hiếm) trước khi có dấu hiệu khởi phát, chính vì vậy Tổ chức Y tế Thế giới
khuyến cáo khi bị chó cắn song song với việc tiêm VX phịng Dại ngay, có
thể theo dõi được con chó trong vịng 10 ngày nếu chó vẫn bình thường thì có
thể dừng việc tiêm VX phịng Dại. Tại một số quốc gia như Pháp khuyến cáo
theo dõi chó trong vịng 15 ngày. Tại Việt Nam từ năm 1991-2014 cũng áp
dụng việc theo dõi chó cắn người trong vòng 15 ngày kể từ khi bị cắn, tháng
6/2014 áp dụng theo dõi chó trong vịng 10 ngày kể từ khi bị cắn, nếu chó có
biểu hiện bất thường thì tiếp tục tiêm phịng đủ hết phác đồ, nếu chó vẫn bình
thường, khơng có dấu hiệu thay đổi hành vi thì có thể dừng tiêm phịng [5],
[20], [27], [40].
Vi rút Dại sau khi xâm nhập vào vết thương hở từ đó theo dây thần
kinh đến các hạch và thần kinh trung ương, phá hủy thần kinh trung ương gây
ra các triệu chứng của bệnh. Sự lây truyền bệnh qua đường khơng khí đã được
chứng minh trong quần thể lồi dơi sống ở hang động với những người vào

hang động đó làm việc và người làm việc ở mơi trường phịng thí nghiệm.
Tuy vậy trường hợp này cũng rất hiếm khi xảy ra [92].
Sự lây truyền bệnh Dại từ người sang người có thể xảy ra do tiếp xúc
với nước dãi của người bị bệnh Dại, nhưng trên thực tế rất hiếm khi xảy ra.
Chỉ có một trường hợp được cơng bố bệnh Dại lây từ người sang người là do
cấy ghép giác mạc lấy từ người bị chết vì bệnh Dại mà đã khơng được chẩn
đốn từ trước [23].


1.1.2.3 Khối cảm thụ bệnh Dại
Bệnh Dại là một bệnh của động vật, lây truyền sang động vật và sang
người, người chỉ mắc một cách ngẫu nhiên và khơng có vai trò dịch tễ. Bệnh
lây truyền qua nước bọt của động vật mắc bệnh bài tiết ra ngoài theo vết cắn,
vết liếm, vết xước trên da bị rách vào cơ thể. Vi rút sẽ theo dây thần kinh
hướng tâm tới hệ thần kinh trung ương và sinh sản ở đó.
Thời kỳ ủ bệnh tương ứng với sự di chuyển và sự nhân lên của vi rút
dài hay ngắn tuỳ thuộc vào vị trí vết thương gần hay xa thần kinh trung ương
và cũng tuỳ theo sự phân bố nhiều hay ít dây thần kinh ở vùng bị cắn. Nếu bị
cắn ở chân thì thời kỳ ủ bệnh dài hơn bị cắn ở đầu và mặt. Ngồi ra cịn phụ
thuộc vào chiều rộng, chiều sâu và số lượng vết cắn [3], [35].
Sau quá trình nhân lên trong các trung tâm thần kinh, vi rút sẽ theo các
dây thần kinh hướng tâm tới hệ thần kinh trung ương, sinh sản ở đó làm tổn
thương các tế bào tuỷ sống và não tuy nhiên tại thời điểm này thần kinh chưa
bị tổn thương đáng kể nên chưa xuất hiện biểu hiện của triệu chứng viêm não.
Từ thần kinh trung ương, vi rút theo các dây thần kinh ly tâm tới tuyến nước
bọt để được giải phóng ra ngồi theo sự bong ra của các tế bào thần kinh của
các hạch giao cảm. Do đó ở chó và mèo thường từ 3-7 ngày trước khi có triệu
chứng lâm sàng đã có vi rút trong nước bọt và có mặt tối đa là 13 ngày trước
khi con vật có các triệu chứng bị bệnh [30], [20], [14], [61].
Thời kỳ khởi phát: Bệnh nhân (BN) thường có các biểu hiện như:

+ Mệt mỏi, chán ăn, nhức đầu, sốt, đau cơ …
+ Cảm giác ngứa, đau hay dị cảm ở vết cắn (triệu chứng kiến bò)
+ Thay đổi tính tình.
+ Ít gặp hơn như: Ho, ớn lạnh, đau họng, đau bụng, buồn nơn, tiêu
chảy, tiêu khó …


Thời kỳ phát bệnh của bệnh Dại thường kéo dài từ 1-10 ngày và hậu
quả chắc chắn là dẫn đến tử vong.
Triệu chứng toàn phát của bệnh Dại ở người thường bao gồm 2 thể là
thể điên cuồng và thể bại liệt.
+ Thể điên cuồng: người bệnh có biểu hiện kích động, sợ nước, sợ gió,
sợ ánh sáng, sợ tiếng động, co giật, la hét, giẫy dụa và sau đó liệt cơ hô hấp,
ngừng tim rồi dẫn đến tử vong.
+ Thể bại liệt: chiếm khoảng 30% tổng số ca bệnh ở người. Biểu hiện
thể này diễn ra ít kịch tính hơn và thường dài hơn so với dạng điên cuồng. Cơ
bắp dần dần trở nên tê liệt, bắt đầu từ chỗ cắn hoặc cào. Tình trạng hơn mê
chậm phát triển, và cuối cùng là tử vong. Hình thức gây liệt của bệnh Dại
thường bị chẩn đoán sai, gây ra việc thiếu hụt trong báo cáo ca bệnh Dại
[119].
1.1.3 Điều trị dự phòng bệnh Dại
Bệnh Dại rất nguy hiểm khi đã mắc thì hầu như tử vong 100% tuy
nhiên có thể điều trị dự phòng được bệnh Dại bằng biện pháp duy nhất là tiêm
VX phòng Dại và/hoặc huyết thanh kháng dại (HTKD) càng sớm càng tốt sau
khi phơi nhiễm [7].
Tất cả các động vật máu nóng đều là tác nhân có tiềm năng lây truyền
bệnh Dại cho người. Tất cả các vết cắn, cào của các động vật này đều có thể
coi như nghi ngờ lây nhiễm nếu như khơng thể loại trừ được rằng các động
vật đó khơng nhiễm Dại bằng xét nghiệm. Bệnh Dại khi đã mắc thì gần 100%
dẫn đến tử vong cho nên việc tiêm VX Dại là rất cấp bách, cần tham khảo ý

kiến các cán bộ y tế (CBYT) ở các điểm tiêm VX Dại.
Định nghĩa phơi nhiễm bệnh dại
Là người bị chó, mèo, động vật dại, nghi dại cắn, cào, liếm hoặc bị
nước bọt dính vào niêm mạc (như mắt, miệng, niêm mạc bị trầy xước) hoặc


tiếp xúc qua da bị tổn thương và niêm mạc với bệnh phẩm/vi rút Dại tại
phịng thí nghiệm [5].
1.1.3.1 Phân loại mức độ vết thương và cách xử trí
Khi bị động vật cắn, ngay lập tức phải xối rửa vết thương bằng nước và
0

xà phòng trong vòng 15 phút hoặc nước sạch, sau đó sát khuẩn bằng cồn 40 0

70 hoặc cồn i ốt để là giảm thiệu lượng vi rút Dại tại vết cắn. Có thể sử dụng
các chất khử trùng thông thường như rượu, cồn, các loại dầu gội, dầu tắm để
rửa vết thương ngay sau khi bị cắn. Không làm dập nát, tổn thương thêm vết
thương. Sau đó đến ngay CSYT, hạn chế khâu kín ngay vết thương. Trong
trường hợp bắt buộc phải khâu do vết thương quá lớn, mất nhiều máu nguy
hiểm đến tính mạng sau khi đã tiêm phong bế HTKD vào tất cả các vết
thương và nên khâu ngắt quãng/bỏ mũi. Cố gắng trì hoãn khâu vết thương
sau vài giờ đến 3 ngày. Tùy trường hợp cụ thể có thể áp dụng thêm tiêm
phịng uốn ván và sử dụng kháng sinh [5], [7, 118].
Từ năm 1996 đến 2014 hệ thống giám sát và PCBD ở Việt Nam - Dự án
khống chế và loại trừ bệnh Dại, Bộ Y tế đã sử dụng bảng phân loại vết thương
trong khám và chỉ định điều trị dự phịng như sau [30] :
Bảng 2.1 Tóm tắt điều trị dự phịng cho người bị phơi nhiễm với bệnh
Dại
Tình trạng vết cắn


Tình trạng động vật

Điều trị dự phịng

(kể cả động vật đã được tiêm phòng)
Tại thời điểm cắn

Trong 15 ngày

Da lành

Khơng điều trị

Da bị xước ở gần thần

Bình thường

Tiêm VX ngay

kinh trung ương

Có triệu chứng

Tiêm HTKH

Dại
Da bị xước nhẹ

và VX Dại ngay.


Bình thường

Theo dõi động vật.
ốm, triệu chứng

Tiêm VX ngay


Dại hoặc không
theo dõi được con
vật
Vết xước nhẹ, xa thần

Không theo dõi

kinh trung ương

được con vật

Tiêm VX ngay.

Có triệu chứng

Tiêm HTKD và

Dại

VX Dại ngay.

kinh trung ương


- Bình thường

Tiêm HTKD và VX

- Vết thương sâu

- Khơng theo dõi

phịng Dại càng sớm

- Có nhiều vết thương

được con vật

càng tốt

- Vết thương gần thần

- Vết thương vùng đầu
chi, bộ phận sinh dục.

Hiện nay, việc khám phân độ vết thương và cách xử trí điều trị dự phòng
sau phơi nhiễm được áp dụng theo Quyết định số 1622/QĐ-BYT ngày
08/5/2014 của Bộ Y tế về việc phế duyệt "Hướng dẫn giám sát, PCBD trên
người" [5].
Bảng 2.2. Bảng phân độ vết thương và chỉ định điều trị dự phịng bệnh Dại
Phân
độ vết
thương


Tình trạng
vết thương

Tình trạng động vật
(Kể cả động vật đã được
tiêm phòng Dại)
Tại thời điểm
cắn người

Độ I

Sờ, cho động vật ăn, liếm
trên da lành

Độ II

Vết xước, vết cào, liếm
trên da bị tổn thương, niêm

Trong
vòng 10
ngày

Điều trị dự phịng

Khơng điều trị

Bình thường


Bình
thường

Tiêm VX Dại
ngay, dừng tiêm


mạc

sau ngày thứ 10
Ốm, có
xuất hiện
triệu chứng
Dại, mất
tích
Có triệu chứng
Dại, hoặc khơng
theo dõi được
con vật

Tiêm VX Dại ngay
và đủ liều

Bình
thường
Bình thường
Vết cắn/cào chảy máu ở
vùng xa thần kinh trung
ương
Có triệu chứng

Dại, hoặc không
theo dõi được
con vật

Độ III

- Vết cắn/cào sâu, nhiều vết
- Vết cắn/cào gần thần kinh
trung ương như đầu, mặt,
cổ
- Vết cắn/cào ở vùng có
nhiều dây thần kinh như
đầu chi, bộ phận sinh dục

- Bình thường
- Có triệu chứng
Dại
- Khơng theo
dõi được con
vật

Tiêm VX Dại ngay
và đủ liều

Ốm, có
xuất hiện
triệu chứng
Dại, mất
tích


Tiêm VX Dại
ngay, dừng tiêm
sau ngày thứ 10

Tiêm VX Dại ngay
và đủ liều

Tiêm HTKD và
VX Dại ngay

Tiêm HTKD và
VX phòng Dại
ngay.

Để điều trị dự phòng bệnh Dại dùng VX Dại tế bào và/hoặc HTKD theo
tình trạng động vật, tình trạng vết thương và tình hình dịch tễ bệnh Dại ở


vùng BN bị phơi nhiễm. Việc khám cho BN có tiếp xúc hoặc bị động vật cắn
để có quyết định điều trị dự phòng bằng VX Dại hoặc VX và HTKD phải
thực hiện càng sớm càng tốt. Hiệu quả điều trị dự phòng phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như: loại VX Dại, kỹ thuật tiêm, bảo quản sinh phẩm và đáp ứng miễn
dịch của người bệnh [5]. Vì vậy việc giám sát và kiểm soát để thực hiện các
nội dung trên là rấtcần thiết và nghiêm ngặt.
1.1.3.2 Điều trị dự phịng bệnh Dại bằng vắc xin Dại
Có 2 loại phác đồ điều trị dự phòng bệnh Dại bằng VX hiện nay đang sử
dụng tại Việt Nam bao gồm phác đồ tiêm bắp và phác đồ tiêm trong da để
tiêm phòng cho các trường hợp bị động vật cắn có chỉ định phải tiêm VX
phòng Dại.
 Phác đồ tiêm bắp

Chỉ định tiêm: tất cả những người bị động vật cắn hay tiếp xúc.
Kỹ thuật tiêm và liều lượng: Tiêm bắp vào cơ delta. Đối với trẻ q nhỏ
thì tiêm vào phía trước ngồi của đùi. Khơng tiêm vào mơng vì khơng đánh
giá được mức độ hấp thụ của VX.
Phác đồ tiêm và liều tiêm: 1-1-1-1-1. Người lớn và trẻ con như nhau.
Liều tiêm 0,5 ml/mũi tiêm. Tiêm 05 mũi vào các ngày 0, 3, 7, 14, 28 kể từ
ngày tiêm mũi đầu tiên (ngày 0).
Phác đồ tiêm giảm liều: 2-1-1. Người lớn và trẻ con như nhau, liều tiêm
0,5ml/mũi tiêm. Tiêm 4 mũi như sau: ngày 0 tiêm 02 mũi, ngày 7 tiêm 1 mũi,
ngày 21 hoặc 28 tiêm 1 mũi kể từ ngày tiêm mũi tiêm đầu tiên (ngày 0).
 Phác đồ tiêm trong da 2-2-2-2
Phác đồ tiêm trong da chỉ áp dụng đối với BN sau khi bị động vật cắn
Kỹ thuật tiêm: tiêm trong da tại vùng cơ delta.
Liều lượng: Người lớn và trẻ em như nhau. Liều tiêm 0,1ml/mũi. Tiêm
08 mũi, ngày 0, 3, 7, 28 mỗi ngày tiêm 2 mũi vào 2 tay.


Việc sử dụng phác đồ tiêm trong da hiện nay được WHO và Bộ Y tế Việt
Nam khuyến cáo sử dụng vì phác đồ này an tồn, hiệu quả và tiết kiệm VX,
giảm giá thành nhằm tăng độ tiếp cận với VX Dại của những người bị động
vật cắn đặc biệt là nhóm người nghèo, người dân tộc thiểu số, người ở khu
vực vùng sâu vùng xa [5], [55].
1.1.3.3 Điều trị dự phòng bệnh Dại bằng huyết thanh kháng dại
HTKD được chỉ định trong một số trường hợp vết thương nặng ở mức độ
3 hoặc vết thương trung bình ở mức độ 2 nhưng khơng theo dõi được chó
hoặc chó nghi ngờ hoặc bị Dại. Sau khi bị chó cắn phải rửa ngay vết thương
và sử dụng HTKD có tác dụng trung hòa vi rút tại chỗ vết thương, tuy nhiên
HTKD khơng thể thay thế được VX phịng Dại vì vậy BN nếu có chỉ định
phải dùng HTKD càng sớm càng tốt ngay sau khi bị phơi nhiễm và chỉ dùng 1
lần trong điều trị cho vết thương [2], [96], [100], [102].

- Sử dụng HTKD bằng cách tiêm phong bế tại vùng vết thương bị động
vật cắn để HTKD thấm sâu vào bên trong và xung quanh vết thương tới mức
tối đa. Phần còn lại tiêm bắp sâu ở vị trí cách xa vị trí tiêm VX dại. Các vết
thương ở vị trí giải phẫu đặc biệt (như các đầu ngón tay) phải thấm đẫm một
cách cẩn thận. Trong trường hợp bị nhiều vết cắn mà số lượng HTKD cần
tiêm khơng đủ nhiều để tiêm cho tồn bộ các vết thương (do cân nặng của
bệnh nhân ít) thì pha lỗng HTKD từ 2-3 lần với nước muối sinh lý để đảm
bảo tất cả các vết thương đều được tiêm HTKD [2], [96], [100].
- Trường hợp khơng có HTKD tại điểm tiêm VX có thể sử dụng phác đồ
tiêm bắp, nhưng tiêm 2 liều VX phòng Dại (ở 2 bên cánh tay) vào ngày 0
(ngày đầu tiên bệnh nhân đến), và giới thiệu bệnh nhân đến điểm tiêm khác để
tiêm HTKD. Ngoài ra đối với vết thương độ II ở những người bị ức chế miễn
dịch nên sử dụng HTKD [2], [96], [100].


- Thời gian chỉ định tiêm huyết thanh: Tiêm càng sớm càng tốt ngay sau
khi bệnh nhân bị động vật nghi Dại cắn và chưa có dấu hiệu lên cơn Dại.
Không sử dụng HTKD sau 7 ngày kể từ mũi tiêm VX đầu tiên [2], [96],
[100], [102].
1.2

Các nghiên cứu về bệnh Dại trên Thế giới và ở Việt nam

1.2.1 Thực trạng mắc bệnh Dại trên Thế giới
Bệnh Dại hiện đang là một vấn đề y tế công cộng đặc biệt nghiêm
trọng, bệnh Dại phổ biến trên toàn Thế giới từ Châu Âu, Châu Á đến Châu
Phi và Châu Mỹ [29, 45], [47], [77], [64], [70]. Hơn 150 nước lưu hành bệnh
Dại trên động vật với 3,3 tỷ người sống trong vùng nguy cơ mắc bệnh Dại mà
chủ yếu là các nước Châu Á và Châu Phi [87, 116]. Bệnh Dại là một trong
mười bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ tử vong cao nhất Thế giới. Mỗi năm có

khoảng 70.000 người trên Thế giới bị chết do bệnh Dại, phần lớn các trường
hợp này được báo cáo từ những nước thuộc vùng nhiệt đới, nơi có tới 3/4 dân
số Thế giới sinh sống. Thống kê của Tổ chức y tế Thế giới (TCYTTG) thì
năm 2016, Thế giới ghi nhận 59.000 (KTC 95%: 25.000-159.999) bệnh nhân
(BN) mắc Dại. Phần lớn là ở các nước Châu Phi và Châu Á. Trong đó 44% số
BN ở Châu Phi tương ứng với 24.000 trường hợp tử vong (tỷ lệ tử vong là
4/100.000 dân) và 56% số BN tử vong là ở Châu Á [50, 111, 116]. Trong đó
chỉ tính riêng Ấn Độ ước lượng có tới 20.000 trường hợp tử vong mỗi năm,
chiếm tỷ lệ là 2/100.000 dân. Hội nghị quốc tế lần thứ 4 về giám sát bệnh Dại
ở Châu Á được tổ chức tại Hà Nội tháng 3 năm 2001 cho thấy các nước trong
khu vực Đông Nam Á, hàng năm tỷ lệ chết vì bệnh Dại chiếm tới 80% số BN
trên tồn Thế giới [73]. Bên cạnh Ấn Độ, tình hình bệnh ở Trung Quốc cũng
khá nghiêm trọng. Tại nước này năm 2016 có 644 người chết vì bệnh Dại,
năm 2015 có 801, với tỷ lệ nam/nữ là 2/1 và chủ yếu do chó cắn [44].


Việc điều tra và ghi nhận ca bệnh Dại trên người cịn nhiều thiếu hụt và
khơng có số liệu. Năm 2014, kết quả điều tra dịch tễ học và các yếu tố nguy
cơ gây bệnh Dại và cắn động vật ở hai thành phố của Mozambic cho thấy có
số 14 trường hợp mắc bệnh Dại ở người chưa báo cáo trong thời gian bốn
tháng và 819 trường hợp cắn động vật trong một bản xem xét lại hồ sơ trong 3
tháng. 97,8% do chó cắn và khơng có con chó nào đã được tiêm phòng. Các
yếu tố dịch tễ liên quan đến bệnh Dại ở người là người bị cắn nhiều hơn ở
nhóm trẻ <15 tuổi, bị chó chạy rơng cắn, vết thương sâu, cắn vào đầu, không
sử dụng xà phòng và nước để làm sạch vết thương và tiêm VX sau khi cắn.
Như vậy việc thực hiện các biện pháp kiểm soát bệnh Dại kém đã dẫn đến sự
bùng nổ và phát triển bệnh Dại [48].

Hình 1.1. Bản đồ phân bố vùng lưu hành bệnh Dại trên chó và bệnh Dại
ở người Thế giới – TCYTTG 2017

Các yếu tố dịch tễ học thường gặp trong bệnh Dại là bệnh Dại gặp ở cả
hai giới tuy nhiên tỷ lệ mắc Dại ở nam cao hơn ở nữ [12], [114]. Sự chênh


lệch này được giải thích là do tính chất cơng việc của nam giới phải hoạt động
nặng và nhiều hơn nữ giới dẫn đến nguy cơ phơi nhiễm cao hơn ở nữ.
Bệnh Dại gặp ở mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, trẻ em < 15 tuổi có nguy cơ
mắc Dại cao hơn người lớn. Tỷ lệ trẻ em ở Châu Á lên tới 40% tổng số trẻ
em. Con số này ở Trung Quốc là 21,3% được đánh giá là một vấn đề
nghiêm trọng ở quốc gia này, hơn một nửa số nạn nhân khơng được chăm
sóc vết thương ban đầu [104]. Nghiên cứu (NC) này cũng chỉ ra rằng kiến
thức về bệnh Dại theo nhóm nguy cơ cần được xem xét trong các chương
trình PCBD trong tương lai.
NC 21 trường hợp trẻ em tử vong ở Cơng Gơ tính trung bình là ba trẻ tử
vong mỗi tháng. Có 12 trẻ trai (57,1%) và 9 trẻ gái (42,9%). 100% do chó
cắn. Tất cả các con chó này khơng được tiêm phịng. Khi nhập viện, tất cả các
bệnh nhân cho thấy biểu hiện bệnh Dại dữ dội. Chỉ có hai trường hợp (9,5%)
đã được điều trị và được tiêm VX phòng bệnh Dại (ARV) sau khi xảy ra sự cố
cắn. Hai (9 ± 5%) bệnh nhân nhận được tiêm HTKD nhưng vẫn tử vong. Tỷ
lệ tử vong là 100% [86]. Tuy nhiên trong NC này mới chỉ đưa ra nguyên nhân
phần lớn trẻ chưa được tiêm VX phòng Dại khi bị phơi nhiễm mà đưa được ra
lý do tại sao trẻ không được tiêm phòng.
1.2.2 Thực trạng mắc bệnh Dại tại Việt Nam
Bệnh Dại lưu hành và phát triển ở hầu hết các tỉnh, thành phố của Việt
Nam. Tình hình bệnh Dại trong 5 năm 1984-1988 ở Việt Nam có 1.234 người
mắc tập trung tại các tỉnh Hà Bắc, Hà Tuyên, Bắc Thái, Hà Nội… Giai đoạn
tiếp theo từ 1988-1991, Việt Nam tỷ lệ tử vong trung bình của giai đoạn này
là 1,0/100.000 dân với tổng số ca tử vong là 1.748 người [37].
Số liệu thu thập về 2.988 người bị chó mèo cắn và 110 người chết do
không tiêm VX Dại trong vòng 5 năm từ 1990 đến 1994 tại 3 huyện huyện

Gia Lâm (Hà Nội), Thuận Thành (Bắc Ninh) và Mê Linh (Vĩnh Phúc) cho


thấy có tổng cộng 16.265 người bị chó, mèo cắn, trong đó có 2.988 người bị
chó cắn nhưng khơng đi tiêm VX (18%). Số người bị chết do lên cơn Dại là
110 người trong đó có 92 người khơng đi tiêm VX (89%). Nguyên nhân chủ
yếu khiến người bị động vật cắn không đi tiêm VX là do người dân chưa hiểu
biết về mức độ nguy hiểm của bệnh Dại và tác dụng của việc tiêm VX phòng
Dại sau khi bị động vật cắn (80,4%), không đủ tiền tiêm VX và phương tiện
đi lại để đến địa điểm tiêm (9,6%), số cịn lại là do bận cơng việc hoặc đi chữa
bệnh ở các thầy lang [36, 85]. Đây là nghiên cứu đầu tiên của Việt Nam có
ghi nhận tỷ lệ người bị động vật cắn tại cộng đồng.
Trong 6 năm từ 1989-1994 tại 23 tỉnh/thành phố Việt Nam ghi nhận
1.218 ca mắc bệnh Dại. Từ năm 1996 trở lại đây các biện pháp PCBD đã
được tăng cường nên số ca tử vong đã giảm mạnh khoảng 75%. NC về tình
hình bệnh Dại ở Việt Nam giai đoạn 1992-1999 cho thấy tỷ lệ tử vong chung
ở giai đoạn này là 0,3/100.000 dân đặc biệt cao ở miền Bắc (0,6/100.000 dân).
Các khu vực còn lại: miền Nam 0,11/100.000 dân, miền Trung 0,15/100.000
dân, Tây Nguyên 0,18/100.000 dân.
Tương tự trong 6 năm từ 1994-2009, miền Bắc cũng dẫn đầu số BN
mắc Dại trong cả nước. Trong giai đoạn này, tỷ lệ mắc Dại trung bình trên
100.000 dân tại cao nhất tại khu vực miền Bắc khoảng 0,12; sau đó miền Nam
là 0,053; miền Trung là 0,093. Ngun nhân mắc do khơng đi tiêm phịng chủ
yếu là do chủ quan và thiếu hiểu biết về bệnh Dại [12], [37].
Trong giai đoạn 2009-2011, đặc điểm dịch tễ học bệnh Dại tại khu vực
miền bắc cũng ghi nhận bệnh Dại ở miền bắc lưu hành cao với 15/28 tỉnh
thành có ca bệnh, ca bệnh xảy ra quanh năm nhưng cao hơn vào mùa hè. Điều
kiện khí hậu ở Việt Nam với nét đặc trưng của khí hậu nhiệt đới nóng ẩm đã
tạo điều kiện cho sự lây truyền của bệnh Dại dễ dàng hơn các miền khác.



Nguyên nhân tử vong chủ yếu vẫn là không đi tiêm phòng do chủ quan và
thiếu hiểu biết [18].
Trong NC mô tả lấy Yên Bái, Thái Nguyên, Hà Nam, Quảng Bình,
Bình Thuận, Gia Lai, Cần Thơ và Bình Dương được thực hiện nhằm mô tả xu
hướng mắc bệnh nghi Dại và mối tương quan giữa một số yếu tố khí hậu thời
tiết và số ca nghi mắc Dại. Số liệu về bệnh nghi Dại và số liệu về thời tiết khí
hậu như nhiệt độ trung bình, lượng mưa, độ ẩm, tốc độ gió, số giờ nắng trong
10 năm từ 2002-2011 đã được thu thập và phân tích. Số ca nghi mắc Dại, tỷ
suất mắc/100.000 dân và hệ số tương quan giữa số ca nghi mắc và yếu tố thời
tiết khí hậu đã được tính tốn. Kết quả: Trong 10 năm từ 2002-2011, số ca
nghi mắc Dại và tỷ suất nghi mắc Dại ở 8 tỉnh đại diện cho 8 vùng sinh thái
thay đổi khơng đều nhưng nhìn chung có xu hướng giảm. Tỷ suất nghi Dại
trung bình/100.000 dân/năm cao nhất tại tỉnh Bình Thuận (1.504 ca/100.000
dân/năm) và thấp nhất tại Hà Nam (100/100.000 dân/năm). Tất cả các tỉnh
trong nghiên cứu đều có ít nhất một yếu tố thời tiết liên quan đến số ca nghi
Dại trong giai đoạn từ 2002-2011 với p<0,05. Tuy nhiên, mối liên quan giữa
yếu tố thời tiết và bệnh Dại trong 10 năm nghiên cứu là mối tương quan yếu
(r<0,40) [1].
NC về tình hình mắc bệnh Dại tại Tây Nguyên từ 1993 – 2001 cho thấy
nguồn truyền bệnh Dại sang người chủ yếu là chó (84,1%). Mọi lứa tuổi đều
có thể mắc Dại nhưng bệnh gặp nhiều ở nam giới (71%). Tình trạng con vật
lúc cắn người biểu hiện: chạy rông (20,3%), lên cơn Dại (14,5%), sống bình
thường (13,1%) và ốm (7,2%), chết sau khi cắn người (11,6%). Tử vong xuất
hiện ở tất cả các tháng trong năm. Nhiều vết cắn sâu, chảy máu nhiều hoặc vết
cắn ở vùng đầu, mặt, cổ, tay là yếu tố nguy cơ tử vong cao. Nguyên nhân dẫn
đến tử vong phần lớn do người bị động vật cắn nhưng không đến tiêm phòng
Dại (84,1%), 5,8% đến thầy lang chữa bệnh và số cịn lại là khơng tn thủ



đúng quy trình điều trị dự phịng đặc hiệu hoặc đang điều trị thì bỏ dở [33],
[90].

2008-2013: 445 ca tử vong
1 chấm = 1 ca

Hình 1.2. Phân bố mắc bệnh Dại ở Việt Nam, 2008-2013
Năm 2015-2016, trong số 169 trường hợp mắc Dại được báo cáo ở Việt
Nam, có 2 trường hợp mắc bệnh Dại là bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ và 4 phụ
nữ mang thai, tất cả đều bị con chó cắn. Cả sáu bệnh nhân đều tử vong. Ba
trong số bốn phụ nữ mang thai đã sinh mổ. Một trong ba trẻ sơ sinh chết vì
các biến chứng được cho là không liên quan đến bệnh Dại; người phụ nữ
mang thai thứ tư nhiễm bệnh Dại quá sớm trong thai kỳ để thai nhi có thể
sống được. Hai trong số các bệnh nhân tìm chăm sóc y tế hoặc chữa thuốc


nam tuy nhiên khơng ai điều trị dự phịng sau khi bị cắn. Trong mỗi trường
hợp, các gia đình của bệnh nhân báo cáo sự sợ hãi ảnh hưởng của tiêm VX
đối với thai nhi hoặc trẻ bú mẹ. Đây là rào cản chính để sử dụng điều trị dự
phịng. Những phát hiện này làm nổi bật lên nhu cầu thơng tin của sức khoẻ
cộng đồng về sự an tồn và hiệu quả của điều trị dự phòng trong việc phòng
bệnh Dại ở tất cả những người phơi nhiễm, bao gồm cả phụ nữ mang thai và
cho con bú [58].
Tỷ lệ tử vong do bệnh Dại ở trẻ em dưới 15 tuổi chiếm tỷ lệ cao
(45,8%) do lứa tuổi này nhỏ nên vết cắn thường nặng, gần vùng thần kinh
trung ương và các trẻ em chưa biết nói với gia đình khi bị động vật cắn để
được đi tiêm phịng kịp thời. Thời gian ủ bệnh tỷ lệ nghịch với mức độ vết
thương, nếu vết thương càng nặng, càng nhiều, càng gần thần kinh trung ương
bao nhiêu thì thời gian ủ bệnh Dại càng ngắn bấy nhiêu [21, 35].
Có nhiều lý do để không đi tiêm VX sau khi bị động vật cắn như chủ

quan nghĩ khơng có chó Dại, chó con hoặc chó nhà ni thì khơng bị Dại
49,3%, 23,3% trẻ em cịn nhỏ sợ khơng dám nói với bố mẹ, khơng có tiền
11,2%, khơng thích tiêm 4,1%, đi chữa thầy lang 3,1%, khơng có phương tiện
đi lại 1%, nhà xa 1%; 2,2% BN là thiếu tiền nên không đi tiêm phòng dẫn đến
tử vong[32], [35].
1.2.3 Thực trạng phơi nhiễm và điều trị dự phòng bệnh Dại trên Thế giới
Động vật cắn ở người là một vấn đề ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ cộng
đồng đặc biệt là trẻ em. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, mỗi năm
trên Thế giới có trên 15 triệu người bị động vật Dại hoặc nghi Dại cắn phải đi
điều trị dự phòng bằng VX (VX) Dại [80], [115]. Mặc dù tất cả các nhóm
tuổi đều có thể ảnh hưởng bị ảnh hưởng của bệnh Dại tuy nhiên đối tượng
chịu tác động nhiều nhất là nhóm trẻ dưới 15 tuổi. 30-50% các trường hợp
điều trị dự phòng Dại sau phơi nhiễm nằm trong độ tuổi từ 5–14 và phần lớn


là trẻ nam [55]. Hàng năm ở Ấn Độ có khoảng 3 triệu người phải tiêm VX
Dại, trong số đó có 40% là trẻ em dưới 14 tuổi và 92 – 95% là do bị chó cắn.
Việc điều trị dự phịng ước tính đã giúp ngăn chặn được 330.304 BN tử vong
tại Châu Á và Châu Phi (90% CI: 141.844 – 563.515) [45], [113], [115].
Hàng năm, số người bị động vật cắn phải điều trị dự phòng bằng VX vào
khoảng 5 triệu người. Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở các nước Nepan,
Srilanca, Bangladet và Indonesia[50], [122]. 40-60% người phải tiêm phòng
sau phơi nhiễm là trẻ em dưới 15 tuổi. Đây là lứa tuổi nhỏ hiếu động nên dễ
bị động vật cắn và các vết thương thường bị nặng và nhiều [12], [66]. Vì vậy
tại một số nơi được khuyến cáo trẻ em sống ở những vùng có lưu hành bệnh
Dại cao có thể được tiêm phịng trước phơi nhiễm bệnh Dại cũng là 1 biện
pháp hữu hiệu để giảm thiểu nguy cơ nếu bị phơi nhiễm với bệnh Dại [96].
Việc bị động vật cắn đã để lại gánh nặng lớn về kinh tế. Mỗi trường
hợp bị phơi nhiễm với bệnh Dại tại châu Á chi phí mất khoảng 475,9 USD và
mỗi năm 1,74 (90% CI = 0,75-2,93) triệu DALYs đã mất đi do bệnh Dại, 0,04

triệu DALYs nữa mất đi do tỷ lệ mắc và tử vong liên quan đến tác dụng phụ
của VX phòng bệnh Dại. Chi phí ước tính hàng năm cho bệnh Dại chỉ tính
riêng ở khu vực Châu Á và Châu Phi đã vào khoảng 583,5 triệu USD (90% CI
= 540,1-626,3 triệu USD) trong đó phần lớn là ở Châu Á nơi tỷ lệ tiêm phòng
Dại sau cắn cao đã tiêu tốn hết 563 triệu USD (90% CI: 520 - 605,8 triệu
USD), và ở Châu Phi là 20,5 triệu USD (90% CI: 19,3-21,8 triệu USD) [73],
[115]. Do đó, nếu như bệnh Dại khơng được loại trừ, chi phí cho việc PCBD
ở cả người và động vật sẽ tiếp tục tăng lên đặc biệt ở các nước đang phát
triển. Tuy nhiên không chỉ riêng ở các nước đang phát triển, chi phí cho bệnh
Dại cũng là một vấn đề đáng quan tâm kể cả ở các nước phát triển và có tỷ lệ
mắc bệnh thấp. Mỗi năm, nước Mỹ đã phải tiêu tốn hơn 300 triệu USD cho
việc phịng ngừa bệnh Dại, trong khi đó tại Châu Mỹ La Tinh (không bao


gồm Brazil), ngân sách cho chương trình PCBD năm 2000 là gần 10,1 triệu
USD và hơn 22,2 triệu USD trong năm 2001 [81], [84]. Tại Châu Âu, 80%
các trường hợp Dại có nguồn lây từ động vật hoang dã [41], [78]. Ở Pháp, chi
phí cho việc PCBD ở cáo bao gồm cả việc cho uống VX trong giai đoạn
1986-1995 ước tính khoảng 261 triệu USD [111].
Trung tâm bệnh động vật châu Mỹ ở Argentina đánh giá rằng hàng năm
ở khu vực Châu Mỹ bệnh Dại đã gây thiệt hại cho ngành chăn nuôi gia súc tới
28 triệu USD [71]. Tại Châu Âu, bệnh Dại chủ yếu xảy ra ở Đức, Áo, Thụy
Sỹ, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan, Tiệp Khắc và Hungary [78]. Ở Anh mới đây
thấy bệnh lan truyền từ chó sói đồng sang động vật ni trong nhà, thường
gặp nhất ở mèo. Ở Mỹ và Canada, thú hoang dã bị bệnh thường xảy ra ở gấu
trúc, chồn, cáo, chó sói đồng và dơi. Bệnh đã tiến triển thành dịch động vật ở
gấu trúc với hơn 10 trường hợp. Mặc dù các quốc gia này đã thường xuyên
thực hiện việc tiêm VX cho động vật hoang dã và động vật ni nhưng hàng
năm vẫn có tới hàng chục nghìn người bị động vật nghi Dại cắn phải khám
bệnh và sử dụng tới 1,2 triệu liều VX [29], [43].

1.2.4 Thực trạng phơi nhiễm và điều trị dự phòng bệnh Dại ở Việt Nam
Người bị phơi nhiễm và điều trị dự phòng bệnh dại ở Việt Nam được
giám sát và báo cáo bởi hệ thống giám sát và điều trị dự phòng bệnh Dại từ
tuyến trung ương đến tuyến huyện bao gồm các Viện Vệ sinh Dịch tễ/Viện
Pasteur, TTYTDP tuyến tỉnh/huyện. Tại các trung tâm này gồm 2 thành phần
tham gia và giám sát gồm điểm tiêm VX phòng Dại và khoa dịch tễ/kiểm soát
bệnh truyền nhiễm. Các điểm tiêm bao phủ hầu hết các huyện/tỉnh trên toàn
quốc với hơn 656 điểm tiêm/697 huyện thị[5], [5]. Tại các điêm tiêm, người
đến tiêm được tư vấn và ghi đầy đủ các thông tin vào sổ theo dõi người tiêm
VX phòng Dại và HTKD. Mỗi người được phát 01 phiếu tiêm chủng cá nhân
để thuận tiện cho BN chủ động việc theo dõi lịch tiêm phòng của bản thân.


Các điểm tiêm phải chịu trách nhiệm thực hiện các nội dung như: trực tiếp
khám cho BN, xử lý vết cắn tư vấn và tiêm cho BN. Tại các điểm tiêm phịng
Dại sẽ phát hiện được địa điểm có động vật bị Dại qua khai thác từ BN đến
tiêm. Chính nhờ biện pháp theo dõi, giám sát, quản lý BN bằng phiếu tiêm cá
nhân và sổ theo dõi in sẵn có đầy đủ các thơng tin liên quan đến BN và nội
dung PCBD mà chương trình PCBD có được thơng tin, số liệu chính xác, đầy
đủ từ đó có chỉ đạo kịp thời [4]. Tuy nhiên hệ thống giám sát bệnh Dại ở Việt
Nam mới chỉ giám sát được người đến tiêm VX và HTKD ở tại các phòng
tiêm chủng mà chưa giám sát được tỷ lệ người bị động vật cắn ở cộng đồng
nên thực trạng phơi nhiễm ở cộng đồng vẫn còn thiếu hụt [37], [18], [12].
Nếu chỉ xét riêng chỉ số tiêm phòng Dại trên người ghi nhận tại các
điểm tiêm mà chưa tính đến chỉ số phơi nhiễm tại cộng đồng thì ở Việt Nam
cao đứng thứ 14 trên Thế giới và thứ 4 trong khu vực Đơng Nam Á [109].
Giai đoạn 1988-1991, Việt Nam có 2.095.393 người bị chó mèo cắn phải đi
tiêm phịng Dại, tỷ lệ trung bình là 690/100.000 dân. Từ năm 1996 trở lại đây
các biện pháp PCBD đã được tăng cường nên tỷ lệ người đi tiêm phòng Dại
tăng nhanh từ 300/100.000 dân năm 1992 đã tăng lên đến 700/100.000 dân

năm 1999. Trong 10 năm (1996-2005) cả nước ghi nhận có 5.776.370 người
bị động vật cắn đã được tiêm phòng Dại tại các điểm tiêm phịng trên tồn
quốc. Tỷ lệ tiêm VX trên 100.000 dân thấp nhất là năm 1996 (652), cao nhất
là năm 2002 (796), trung bình trong 6 năm là 672. Trong giai đoạn này, tỷ lệ
tiêm phòng cao nhất ở miền Nam là 1500; miền Trung là 900. Tỷ lệ người đi
tiêm phòng cũng phân bố tương đối đều qua các tháng, tuy nhiên từ tháng 3-8
thì tỷ lệ tiêm phòng cao hơn các tháng khác [37], [12]. Có thể nhiệt độ tăng
ảnh hưởng đến đàn chó gây ra chó dễ kích động và cắn người nhiều hơn dẫn
đến lượng người đi tiêm VX Dại nhiều hơn.


×