Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Thảo Luận Sở Hữu Trí Tuệ Lần 4: NHÃN HIỆU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.71 KB, 13 trang )

BUỔI THẢO LUẬN THỨ TƯ:
NHÃN HIỆU
-----------------------------------A. Phần Câu hỏi sinh viên tự làm và CÓ thảo luận trên lớp với Giảng viên:
Bài tập 1: Đọc, nghiên cứu Bản án số 938/2013/KDTM-ST ngày 19/8/2013 của TAND
Tp. HCM và trả lời các câu hỏi sau:
1) Phân tích điều kiện bảo hộ nhãn hiệu. Nhãn hiệu của công ty Thuận Lê có được bảo
hộ theo Luật SHTT không? Vì sao?
* Căn cứ vào Điều 72, Luật Sở hữu trí tuệ về Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo
hộ thì ta có các điều kiện bảo hộ nhãn hiệu sau:
- Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba
chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc.
Tức là nhãn hiệu đó phải được nhận thức, cảm nhận bằng thị giác của con người chứ
không phải là vô hình thông qua việc nhìn ngắm, quan sát nhãn hàng hóa và thấy được nhãn
hiệu của hàng hóa đó để phân biệt với hàng hóa dịch vụ khác. Hay nói cách khác nhãn hiệu
phải tồn tại dưới dạng một vật chất nhất định để con người có thể nhìn thấy được. Để được
như vậy, nhãn hiệu phải tồn tại dưới dạng chữ viết, hình ảnh, hình vẽ hoặc sự kết hợp của
các yếu tố trên và được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc 1.
Tuy nhiên, có các trường hợp thỏa mãn điều kiện nhãn hiệu phải nhận thức được bằng thị
giác của con người, hiển thị bằng hình ảnh, chữ cái, con số, ...nói trên nhưng không được
bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiệu. Đó là các trường hợp được quy định tại Điều 73 Luật Sở
hữu trí tuệ.
- Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ
của chủ thể khác.
Nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố
dễ nhận biết dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi
nhớ và không thuộc các trường hợp thuộc Khoản 2, Điều 74, Luật Sở hữu trí tuệ. Dễ nhận
biết, dễ ghi nhớ được hiểu là khi quan sát thì người tiêu dùng có thể ấn tượng và lưu lại

1

< truy cập ngày 07/09/2018



1


trong trí nhớ của mình, bất kỳ ai khi đã nhìn thấy nhãn hiệu cũng đều dễ dàng nhận biết và
phân biệt nhãn hiệu đó với các loại nhãn hiệu khác.
Ví dụ như hình tam giác, đây là một loại hình học đơn giản. Theo Điểm a, Khoản 2, Điều
74, Luật Sở hữu trí tuệ, đây được xem là không có khả năng phân biệt, trừ trường hợp các
dấu hiệu đó được sử dụng và thừa nhận rộng rãi như nhãn hiệu bia BASS.
Mặt khác, nhãn hiệu cũng không được phép là tên sản phẩm hay tính chất sản phẩm (như
“nước khoáng thiên nhiên” hay “chuyên gia giặt tẩy các vết bẩn”), hay những dấu hiệu có
tính chất lừa đảo (như “thần dược” đối với thuốc chữa bệnh).
* Nhãn hiệu của Công ty Thuận Lê có được bảo hộ theo Luật Sở hữu trí tuệ.
Căn cứ vào Điều 72 Luật Sở hữu trí tuệ, xét hai điều kiện bảo hộ đối với nhãn hiệu Flower
Box của Công ty Thuận Lê:
- Thứ nhất, nhãn hiệu Flower Box của Công ty Thuận Lê là dấu hiệu nhìn thấy được dưới
dạng chữ cái, từ ngữ và không có dấu hiệu trùng hay gây nhầm lẫn với các đối tượng theo
Điều 73 Luật Sở hữu trí tuệ.
- Thứ hai, nhãn hiệu Flower Box có khả năng phân biệt với các nhãn hiệu khác, dễ ghi nhớ
và cũng không thuộc các trường hợp bị coi là không có khả năng phân biệt theo Khoản 2
Điều 74 Luật Sở hữu trí tuệ.
Căn cứ vào Điều 87, Luật Sở hữu trí tuệ, quy định về Quyền đăng ký nhãn hiệu:
“1. Tổ chức cá nhân có quyền đăng ký nhãn hiệu dùng cho hàng hoá do mình sản xuất
hoặc dịch vụ do mình cung cấp”.
Công ty TNHH Thuận Lê là tổ chức hoạt động kinh doanh mua bán hoa và cây cảnh nhãn
hiệu Flower Box - hàng hóa do mình sản xuất nên có quyền được bảo hộ nhãn hiệu. Hơn
nữa,công ty đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu.
Từ phân tích trên, ta thấy nhãn hiệu của Công ty Thuận Lê được bảo hộ theo Luật Sở hữu
trí tuệ.
2) Công ty Anh Quân sử dụng dấu hiệu “Flowerbox.vn” có xâm phạm quyền sở hữu trí

tuệ của công ty Thuận Lê không? Nêu cơ sở pháp lý.
Công ty Anh Quân sử dụng dấu hiệu “Flowerbox.vn” có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
của công ty Thuận Lê.

2


Căn cứ vào Điều 5, Nghị định số 105/2006/NĐ-CP về Xác định hành vi xâm phạm, xét các
điều kiện:
- Thứ nhất, đối tượng bị xem xét (dấu hiệu “Flowerbox.vn”) thuộc phạm vi các đối tượng
đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Theo quy định tại Điểm a, Khoản 3, Điều 6, Luật Sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Ngày 14/4/2011, công ty Thuận Lê đã được cấp Giấy chứng nhận đăng
kí nhãn hiệu số 161818 do Cục Sở hữu trí tuệ cấp theo Quyết định số 6844/QĐ-SHTT và có
hiệu lực đến hết 10 năm tính từ ngày nộp, với tên đăng kí bảo hộ nhãn hiệu là “Flower box,
not just flower, we deliver your feelings”. Do vậy, dấu hiệu “Flowerbox.vn” – đối tượng
đang bị xem xét trong tình huống này là thuộc đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
- Thứ hai, có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.
Công ty Thuận Lê phát hiện cửa hàng kinh doanh thuộc Công ty Anh Quân kinh doanh
ngành nghề trùng với ngành nghề kinh doanh của công ty Thuận Lê, cũng như Website đã
lấy tên “Flowerbox.vn” là nhãn hiệu đã được đăng kí bảo hộ của công ty Thuận Lê để sử
dụng kinh doanh trái phép, không có sự cho phép của Công ty Thuận Lê.
Xác định dấu hiệu bị nghi ngờ có là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, ta xét 2
điều kiện sau:
+ Dấu hiệu bị nghi ngờ tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo
hộ: Nhãn hiệu “Flower Box” của Công ty Thuận Lê được cấp Giấy chứng nhận đăng kí nhãn
hiệu vào ngày 14/4/2011. Theo Khoản 6, Điều 93, Luật Sở hữu trí tuệ, hiệu lực đối với Giấy
chứng nhận đăng kí nhãn hiệu là 10 năm kể từ ngày nộp đơn nên đến năm 2012 thì nhãn
hiệu “Flower Box” của Công ty Thuận Lê vẫn còn được bảo hộ. Do vậy, dấu hiệu

“Flowerbox.vn” mà Công ty Anh Quân sử dụng có đặc điểm tương tự với nhãn hiệu mà
Công ty Thuận Lê đã đăng kí bảo hộ đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cách
phát âm, phiên âm đối với dấu hiệu, chữ và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng hoá
của hai công ty.
+ Công ty Anh Quân kinh doanh ngành nghề trùng với ngành nghề kinh doanh của công ty
Thuận Lê – là kinh doanh hoa.

3


Do vậy, công ty Anh Quân đã sử dụng dấu hiệu tương tự (có sự tương tự có thể gây nhầm
lẫn giữa nhãn hiệu “Flower box, not just flower, we deliver your feeling” của Công ty Thuận
Lê và “Flowerbox.vn” của Công ty Anh Quân) cho cùng loại một loại hàng hóa. Vì vậy, theo
quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 129, Luật Sở hữu trí tuệ và Khoản 3, Điều 11, Nghị định
105/2006/NĐ-CP về Yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu thì trường hợp này có yếu tố
xâm phạm.
- Thứ ba, người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể có quyền đối với nhãn
hiệu và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy
định tại Khoản 2, Điều 125, Luật Sở hữu trí tuệ.
Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 1, Điều 121, Luật Sở hữu trí tuệ, Công ty
Thuận Lê là tổ chức được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu nên Công
ty Thuận Lê là chủ sở hữu nhãn hiệu đối với nhãn hiệu đang bị xem xét. Do vậy, Công ty
Anh Quân không là là chủ thể có quyền đối với nhãn hiệu, cũng không là người được pháp
luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại Khoản 2, Điều 125, Luật Sở
hữu trí tuệ.
- Thứ tư, hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam: Hành vi sử dụng dấu hiệu
“Flowerbox.vn” của Công ty Anh Quân để kinh doanh tại Việt Nam. Do đó, hành vi bị xem
xét xảy ra tại Việt Nam.
Từ các phân tích trên, có thể thấy rằng, hành vi của Công ty Anh Quân đã xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ của Công ty Thuận Lê.

3) Các yêu cầu của công ty Thuận Lê có phù hợp với quy định pháp luật không? Vì
sao?
Trong vụ án trên, công ty Thuận Lê đã đưa ra 3 yêu cầu:
- Yêu cầu 1: Chấm dứt ngay việc sử dụng nhãn hiệu “Flower box” dưới mọi hình thức.
Hành vi của Công ty Anh Quân là vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của Công ty Thuận Lê. Do
đó, yêu cầu này phù hợp với quy định của pháp luật và có cơ sở chấp nhận theo quy định tại
Khoản 1, Điều 202, Luật Sở hữu trí tuệ.
- Yêu cầu 2: Thông báo xin lỗi công khai trên phương tiện thông tin báo chí về việc đã sử
dụng trái phép nhãn hiệu “Flower box”. Hành vi của Công ty Anh Quân là vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ của Công ty Thuận Lê và gây thiệt hại cho Công ty Thuận Lê. Do đó, yêu cầu này
4


phù hợp với quy định của pháp luật và có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Khoản 2, Điều
202, Luật Sở hữu trí tuệ.
- Yêu cầu 3: Bồi thường thiệt hại do hành vi sử dụng trái phép nhãn hiệu “Flower box”.
Đối với khoản bồi thường do giảm doanh thu, lợi nhuận của Công ty Thuận Lê
(300.000.000 đồng): Theo điểm b, khoản 1, Điều 198, Luật Sở hữu trí tuệ, công ty Thuận Lê
là chủ sở hữu trí tuệ của nhãn hiệu đang tranh chấp và công ty Anh Quận là chủ thể xâm
phạm nên công ty Thuận Lê có quyền yêu cầu công ty Anh Quân . Do đó, yêu cầu này của
Công ty Thuận Lê là phù hợp với quy định của pháp luật.
Đối với khoản bồi thường các khoản chi phí cho công việc cần thiết mà Công ty Thuận
Lê phải thực hiện giải quyết việc vi phạm của Công ty Anh Quân (chi phí cho Luật sư, Thừa
phát lại, chi phí kiểm tra, xác minh thông tin về nhãn hiệu, hành vi vi phạm – 50.000.000
đồng): theo khoản 3, Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ, có quy định ngoài các khoản bồi thường
tại khoản 1, khoản 2, thì Chủ sở hữu trí tuệ có thể yêu cầu Tòa án buộc chủ thể xâm phạm
phải thanh toàn chi phí hợp lý để thuê luật sư. Còn đối với thừa phát lại, chi phí kiểm tra, xác
minh thông tin về nhãn hiệu, hành vi vi phạm, đây là chi phí hợp lý để thuê dịch vụ giám
định, ngăn chặn, khắc phục hành vi xâm phạm tại Điều 20, Nghị định số 105/2006/NĐ-CP.
Do đó, đây là chi chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại được bồi thường theo

Điểm a, Khoản 1, Điều 204, Luật Sở hữu trí tuệ. Vì vậy, yêu cầu về khoản bồi thường này
phù hợp với quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, ngày 08/7/2013, Công ty Thuận Lê có văn bản không thể cung cấp được
những chứng từ như yêu cầu của tòa, tại phiên tòa nguyên đơn chỉ nộp các bản đề xuất
chương trình Valentine, bảng tổng kết chi phí PR năm 2011 và hóa đơn bán lẻ của Công ty
Anh Quân chứ không có chứng cứ nào thể hiện sự thiệt hại của Công ty Thuận Lê và cũng
không cung cấp được những chứng cứ về chi phí cần thiết giải quyết liên quan đến hành vi
vi phạm của Công ty Anh Quân. Do vậy, trường hợp này, Công ty Thuận Lê đã không chứng
minh được thiệt hại do Công ty Anh Quân gây ra nên theo Khoản 1, Điều 205, Luật Sở hữu
trí tuệ thì yêu cầu này của Công ty Thuận Lê không có cơ sở chấp nhận.
4) Giả sử bạn là luật sư bảo vệ quyền lợi của công ty Anh Quân, hãy đưa ra lời tư vấn
thích hợp.

5


Trong vụ án tranh chấp giữa Công ty Thuận Lê và Công ty Anh Quân, Công ty Anh Quân
đã có hành vi vi phạm về quyền sở hữu đối với nhãn hiệu, cụ thể là xâm phạm quyền theo
Điều 11, Nghị định 105/2006/NĐ-CP. Nhãn hiệu Flower Box của công ty Thuận Lê được
bảo hộ tổng thể, bao gồm cả dấu hiệu Flower Box và công ty bị đơn cũng không chứng minh
được hành vi sử dụng FlowerBox.vn của mình là không vi phạm. Vì vậy, Công ty Anh Quân
buộc phải tự nguyện chấm dứt hành vi xâm phạm và phải xin lỗi, cải chính công khai theo
yêu cầu của bên nguyên đơn.
Tuy nhiên, đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại, Công ty Anh Quân phải chứng minh rằng
bên phía công ty nguyên đơn không có thiệt hại nào từ việc công ty này sử dụng nhãn hiệu
FlowerBox.vn hoặc có thiệt hại nhưng giá trị nhỏ hơn so với mức công ty Thuận Lê yêu cầu
bồi thường nhằm theo hướng có lợi cho công ty bị đơn.
Để tránh việc tiếp tục xâm phạm quyền nhãn hiệu, Công ty Anh Quân nên tiến hành thủ
tục thay đổi tên nhãn hiệu về chữ, mẫu mã, hình ảnh, màu sắc... và đăng ký riêng rẽ để được
cấp Giấy chứng nhận bảo hộ nhãn hiệu đảm bảo không phát sinh tranh chấp với chủ sở hữu

nhãn hiệu khác.
Bài tập 2: Trả lời câu hỏi:
1) Hành vi của ông Vinh có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của công ty Việt My
không? Vì sao?
Hành vi của ông Vinh có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của công ty Việt My.
Căn cứ vào Điều 5, Nghị định số 105/2006/NĐ-CP về Xác định hành vi xâm phạm, xét các
điều kiện:
- Thứ nhất, đối tượng bị xem xét (nhãn hiệu “Thebol”) thuộc phạm vi các đối tượng đang
được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Theo quy định tại Điểm a, Khoản 3, Điều 6, Luật Sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Năm 2008, công ty Việt My sản xuất và kinh doanh sữa tắm mang
nhãn hiệu “Thebol” đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Do vậy, nhãn hiệu
“Thebol” – đối tượng đang bị xem xét trong tình huống này là đối tượng được bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ.
6


- Thứ hai, có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.
Vì muốn lợi dụng danh tiếng của sản phẩm này, ông Vinh đã sử dụng dấu hiệu “Thebol”
gắn lên sản phẩm sữa tắm của mình (với chất lượng kém hơn) và đem bán lẻ tại các sạp chợ,
cửa hàng tạp hóa.
Xác định dấu hiệu bị nghi ngờ có là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, ta xét 2
điều kiện sau:
+ Dấu hiệu bị nghi ngờ tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo
hộ: Năm 2008, Công ty Việt My sản xuất và kinh doanh sữa tắm mang nhãn hiệu “Thebol”
đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Theo Khoản 6, Điều 93, Luật Sở hữu trí
tuệ, hiệu lực đối với Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu là 10 năm kể từ ngày nộp đơn nên
đến năm 2012 thì nhãn hiệu “Thebol” của Công ty Việt My vẫn còn được bảo hộ. Do vậy,
dấu hiệu “Thebol” mà ông Vinh sử dụng có đặc điểm trùng với nhãn hiệu mà Công ty Việt

My đã đăng kí bảo hộ đến mức không dễ dàng phân biệt với nhau về cách phát âm, phiên âm
đối với dấu hiệu, chữ và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng hoá của hai chủ thể.
+ Ông Vinh kinh doanh ngành nghề trùng với ngành nghề kinh doanh của Công ty Việt My
– là kinh doanh sữa tắm.
Do vậy, ông Vinh đã sử dụng dấu hiệu trùng (sử dụng dấu hiệu “Thebol” gắn lên sản phẩm
sữa tắm của mình) cho cùng loại một loại hàng hóa. Vì vậy, theo quy định tại Khoản 3, Điều
11, Nghị định 105/2006/NĐ-CP về Yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu thì trường hợp
này có yếu tố xâm phạm.
- Thứ ba, người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể có quyền đối với nhãn
hiệu và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy
định tại Khoản 2, Điều 125, Luật Sở hữu trí tuệ.
Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 1, Điều 121, Luật Sở hữu trí tuệ, Công ty
Việt My là tổ chức được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu nên Công ty
Việt My là chủ sở hữu nhãn hiệu đối với nhãn hiệu đang bị xem xét. Do vậy, ông Vinh
không là là chủ thể có quyền đối với nhãn hiệu, cũng không là người được pháp luật hoặc cơ
quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại Khoản 2, Điều 125, Luật Sở hữu trí tuệ.

7


- Thứ tư, hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam: Hành vi sử dụng dấu hiệu “Thebol” của
ông Vinh để gắn lên sản phẩm của mình và đem bán lẻ tại các sạp chợ, cửa hàng tạp hóa tại
Việt Nam. Do đó, hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam.
Từ các phân tích trên, có thể thấy rằng, hành vi của ông Vinh đã xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ của Công ty Việt Nam.
2) Theo pháp luật sở hữu trí tuệ hiện hành, những yêu cầu trên của công ty Việt My có
được chấp nhận hay không? Nêu rõ căn cứ pháp lý.
Trong vụ án, công ty Việt My có đưa ra 2 yêu cầu:
- Yêu cầu 1: Buộc ông Vinh chấm dứt sản xuất và bán sản phẩm mang dấu hiệu “Thebol”.
Hành vi của ông Vinh là vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của Công ty Việt My. Do đó, yêu cầu

này có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Khoản 1, Điều 202, Luật Sở hữu trí tuệ.
- Yêu cầu 2: Buộc bồi thường các khoản thiệt hại.
Khoản tiền 49.000.000 đồng là khoản tiền tương đương doanh thu từ 110 thùng sữa tắm
mà ông Vinh đã bán được. Đây là khoản lợi nhuận mà bị đơn (ông Vinh) đã thu được do
thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nếu cả 110 thùng sữa tắm này mà ông Vinh
bán được do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Do đó, theo Điểm a, Khoản 1, Điều 205, Luật
Sở hữu trí tuệ, đây là tổn thất vật chất được bồi thường nên yêu cầu về khoản tiền này có thể
được chấp nhận.
Khoản tiền 16.200.000 đồng là tiền mà công ty Việt My đã bỏ ra để mua sản phẩm của
ông Vinh nhằm giao nộp cho cơ quan có thẩm quyền và 50.000.000 đồng chi phí thuê luật sư
tư vấn. Đây có thể được xem là chi phí hợp lý ngăn chặn, khắc phục hành vi xâm phạm theo
quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 204, Luật Sở hữu trí tuệ và Điều 20, Nghị định
105/2006/NĐ-CP. Do vậy, yêu cầu về khoản tiền này có thể được chấp nhận.
Từ đó, yêu cầu bồi thường thiệt hại các khoản tiền của Công ty Việt My có thể được chấp
nhận.
3) Giả sử năm 2009, ông Vinh nộp đơn đăng ký nhãn hiệu “Thebol” cho sản phẩm sữa
tắm, cơ quan có thẩm quyền có cấp văn bằng bảo hộ cho ông không? Vì sao?
Giả sử năm 2009, ông Vinh nộp đơn đăng ký nhãn hiệu “Thebol” cho sản phẩm sữa tắm,
cơ quan có thẩm quyền sẽ không cấp văn bằng bảo hộ cho ông.

8


Theo Khoản 6, Điều 93, Luật Sở hữu trí tuệ, Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu
lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn. Năm 2008, công ty Việt My sản xuất
và kinh doanh sữa tắm mang nhãn hiệu “Thebol” đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu. Do đó, đến năm 2009, nhãn hiệu trên vẫn thuộc quyền sở hữu trí tuệ của công ty
Việt My (văn bằng bảo hộ không bị chấm dứt hay bị hủy bỏ hiệu lực).
Việc sử dụng dấu hiệu “Thebol” của ông Vinh không đáp ứng điều kiện về khả năng phân
biệt của nhãn hiệu, cụ thể là dấu hiệu mà ông Vinh đăng kí (đây không phải là nhãn hiệu liên

kết) tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được đăng ký cho hàng hóa đó trên cơ
sở đơn đăng ký có ngày nộp đơn sớm hơn theo Điểm e, Khoản 2, Điều 74, Luật Sở hữu trí
tuệ. Từ đó, việc sử dụng dấu hiệu “Thebol” của ông Vinh không đáp ứng điều kiện chung
đối với nhãn hiệu được bảo hộ theo Khoản 2, Điều 72, Luật Sở hữu trí tuệ. Vì vậy, ông Vinh
sẽ không được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ nếu ông nộp đơn đăng nhãn hiệu
“Thebol” cho sản phẩm sữa tắm của mình vào năm 2009.
B. Phần Câu hỏi sinh viên tự làm và KHÔNG thảo luận trên lớp với Giảng viên:
Tìm 02 ví dụ về hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu trên thực tế và phân tích vì
sao hành vi đó xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Nêu rõ cơ sở pháp lý.
* Ví dụ 01: Nhãn hiệu Hảo Hạng của Asia Foods xâm phạm đến quyền đối với nhãn hiệu
của VinaAcecook (Việt Nam) là Hảo Hảo2.
Nhãn hiệu của sản phẩm mì Hảo Hảo được VinaAcecook chính thức cho ra mắt trên thị
trường Việt Nam vào năm 2000. Hiện VinaAcecook là chủ sở hữu hợp pháp nhãn hiệu hàng
hóa “Hảo Hảo” số 62360 cho sản phẩm mì ăn liền thuộc nhóm 30. Nhãn hiệu này cũng đã
được gia hạn quyền chủ sở hữu đến ngày 27/06/2023, theo quyết định gia hạn số 65278/QĐSHTT, ngày 15/11/2012.
Tuy nhiên, vào cuối tháng 1/2015, thị trường xuất hiện loại mì ăn liền dưới nhãn hiệu “Hảo
Hạng” của Công ty Cổ phần Thực phẩm Á Châu – Asia Food. Sản phẩm này có nhiều dấu
hiệu tương tự, gây nhầm lẫn với nhãn hiệu “Hảo Hảo” của VinaAcecook. Như ngoài cái tên
giống nghĩa, chỉ thay từ đồng âm “Hảo” bằng “Hạng”, mẫu bì bao bì từ sản phẩm đến thùng
đựng mì đều tương tự.
2

< Truy cập ngày
09/09/2018

9


Mẫu bao gói mì ăn liền mang dấu hiệu “Mì Hảo Hạng, Tôm chua cay & Hình” của Công
ty Cổ phần Thực phẩm Á Châu sử dụng trong thực tế (khác với mẫu được bảo hộ theo Giấy

chứng nhận Đăng kí nhãn hiệu hàng hoá số 119302) có cách trình bày kiểu chữ; đặc biệt là
dấu hiệu hình tô và sợi mì, hình các con tôm, rau thơm… với màu sắc chủ đạo của bao gói
tạo thành một tổng thể tương tự, gây nhầm lẫn với nhãn hiệu “Hảo Hảo, Mì tôm chua cay,
hình” được bảo hộ theo Giấy chứng nhận Đăng kí nhãn hiệu hàng hoá số 62360.
Phân tích hành vi xâm phạm:
Căn cứ vào Điều 5, Nghị định số 105/2006/NĐ-CP về Xác định hành vi xâm phạm, xét các
điều kiện:
- Thứ nhất, đối tượng bị xem xét (nhãn hiệu “Hảo Hảo, mì tôm chua cay, hình”) thuộc
phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Theo quy định tại Điểm a, Khoản 3, Điều 6, Luật Sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. VinaAcecook là đã được cấp Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu hàng
hóa “Hảo Hảo” số 62360 cho sản phẩm mì ăn liền thuộc và nhãn hiệu này cũng đã được gia
hạn quyền chủ sở đến ngày 27/06/2023 hợp pháp. Do vậy, nhãn hiệu “Hảo Hảo, mì tôm chua
cay, hình” – đối tượng đang bị xem xét trong tình huống này là đối tượng được bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ.
- Thứ hai, có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.
Công ty VinaAcecook phát hiện Công ty Asia Foods kinh doanh sản phẩm mì gói trùng với
sản phẩm của Công ty VinaAcecook với nhãn hiệu “Mì Hảo Hạng, Tôm chua cay & Hình”
có các yếu tố tương tự với nhãn hiệu “Hảo Hảo, mì tôm chua cay, hình” của Công ty Asia
Foods.
Xác định dấu hiệu bị nghi ngờ có là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, ta xét 2
điều kiện sau:
+ Dấu hiệu bị nghi ngờ tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo
hộ: Nhãn hiệu “Hảo Hảo, mì tôm chua cay, hình” của Công ty VinaAcecook được gia hạn
quyền chủ sở hữu đến ngày 27/06/2023. Theo Khoản 6, Điều 93, Luật Sở hữu trí tuệ, hiệu
lực đối với Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu là 10 năm kể từ ngày nộp đơn nên đến năm
tháng 01/2015 – khi Công ty Asia Foods bắt đầu kinh doanh sản phẩm thì nhãn hiệu “Hảo
10



Hảo, mì tôm chua cay, hình” của Công ty VinaAcecook vẫn còn được bảo hộ. Do vậy, dấu
hiệu “Mì Hảo Hạng, Tôm chua cay & Hình” mà Công ty Asia Foods sử dụng trong thực tế
(khác với mẫu được bảo hộ theo Giấy chứng nhận Đăng kí nhãn hiệu hàng hoá số 119302)
có cách trình bày kiểu chữ; đặc biệt là dấu hiệu hình tô và sợi mì, hình các con tôm, rau
thơm… với màu sắc chủ đạo của bao gói tạo thành một tổng thể tương tự, gây nhầm lẫn với
nhãn hiệu “Hảo Hảo, Mì tôm chua cay” đã đăng kí bảo hộ đến mức không dễ dàng phân biệt
với nhau và gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về hàng hoá của hai công ty.
+ Công ty Asia Foods kinh doanh ngành nghề trùng với ngành nghề kinh doanh của công
ty VinaAcecook – là kinh doanh sản phẩm mì ăn liền.
Do vậy, Công ty Asia Foods đã sử dụng dấu hiệu tương tự với Công ty VinaAcecook cho
cùng loại một loại hàng hóa. Vì vậy, theo quy định tại Khoản 3, Điều 11, Nghị định
105/2006/NĐ-CP về Yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu thì trường hợp này có yếu tố
xâm phạm.
- Thứ ba, người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể có quyền đối với nhãn
hiệu và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy
định tại Khoản 2, Điều 125, Luật Sở hữu trí tuệ.
Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 1, Điều 121, Luật Sở hữu trí tuệ, Công ty
cổ phần Acecook Việt Nam (VinaAcecook) là tổ chức được cơ quan có thẩm quyền cấp văn
bằng bảo hộ nhãn hiệu nên Công ty cổ phần Acecook Việt Nam (VinaAcecook) là chủ sở
hữu nhãn hiệu đối với nhãn hiệu đang bị xem xét. Do vậy, Công ty cổ phần thực phẩm Á
Châu (Asia Foods) không là là chủ thể có quyền đối với nhãn hiệu, cũng không là chủ thể
được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại Khoản 2, Điều 125,
Luật Sở hữu trí tuệ.
- Thứ tư, hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam: Hành vi sử dụng các dấu hiệu thuộc về
nhãn hiệu “Hảo Hảo, mì tôm chua cay” của Asia Foods để làm bao bì sản phẩm của mình và
kinh doanh tại thị trường Việt Nam. Do đó, hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam.
Từ các phân tích trên, có thể thấy rằng, hành vi của Asia Foods đã xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ của VinaAcecook.
* Ví dụ 2: Vụ việc xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ nhãn hiệu “Bảo Xuân”3.

3

< truy cập
ngày 09/09/2018

11


Từ năm 2010, Công ty TNHH Dược Phẩm Ích Nhân phân phối sản phẩm Bảo Xuân dưới
dạng thực phẩm chức năng phục vụ cho sức khỏe và sắc đẹp phụ nữ. Công ty cũng đã đăng
ký quyền sở hữu trí tuệ sản phẩm này và đã được cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và
Công nghệ chấp thuận cấp giấy chứng nhận số 172843 theo Quyết định số 37785/QĐ-SHTT
ngày 3/10/2011.
Tuy nhiên, năm 2012, Cơ sở Ngân Anh lại tung ra thị trường nhiều loại sản phẩm cũng làm
đẹp cho phụ nữ là kem “Bảo Xuân”. Với việc này, Công ty Ích Nhân thấy mình bị xâm phạm
nhãn hiệu liền khiếu nại lên các cấp có thẩm quyền.
Phân tích hành vi xâm phạm:
Căn cứ vào Điều 5, Nghị định số 105/2006/NĐ-CP về Xác định hành vi xâm phạm, xét các
điều kiện:
- Thứ nhất, đối tượng bị xem xét (nhãn hiệu “Bảo Xuân”) thuộc phạm vi các đối tượng
đang được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Theo quy định tại Điểm a, Khoản 3, Điều 6, Luật Sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu công nghiệp
đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Nhãn hiệu “Bảo Xuân” của Công ty Ích Nhân đã được Cục Sở hữu trí
tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng kí nhãn hiệu hàng hoá ngày 3/10/2011. Do vậy, nhãn hiệu
“Bảo Xuân” – đối tượng đang bị xem xét trong tình huống này là đối tượng được bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ.
- Thứ hai, có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.
Công ty Thuận Lê phát hiện cửa hàng kinh doanh thuộc Công ty Anh Quân kinh doanh
ngành nghề trùng với ngành nghề kinh doanh của công ty Thuận Lê, cũng như Website đã

lấy tên “Flowerbox.vn” là nhãn hiệu đã được đăng kí bảo hộ của công ty Thuận Lê để sử
dụng kinh doanh trái phép, không có sự cho phép của Công ty Thuận Lê.
Xác định dấu hiệu bị nghi ngờ có là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, ta xét 2
điều kiện sau:
+ Dấu hiệu bị nghi ngờ tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo
hộ: Năm 2011, Công ty Ích Nhân đã được cấp Giấy chứng nhận đăng kí đối với nhãn hiệu
“Bảo Xuân”. Theo Khoản 6, Điều 93, Luật Sở hữu trí tuệ, hiệu lực đối với Giấy chứng nhận
đăng kí nhãn hiệu là 10 năm kể từ ngày nộp đơn nên đến năm 2012 – khi Cơ sở Ngân Anh
12


lại tung ra thị trường sản phẩm tương tự thì nhãn hiệu “Bảo Xuân” của Công ty Ích Nhân
vẫn còn được bảo hộ. Do vậy, dấu hiệu “Bảo Xuân” mà Cơ sở Ngân Anh sử dụng có đặc
điểm trùng với nhãn hiệu mà Công ty Ích Nhân đã đăng kí bảo hộ đến mức không dễ dàng
phân biệt với nhau về cách phát âm, phiên âm đối với dấu hiệu, chữ và gây nhầm lẫn cho
người tiêu dùng về hàng hoá của hai chủ thể.
+ Cơ sở Ngân Anh kinh doanh ngành nghề trùng với ngành nghề kinh doanh của công ty
Ích Nhân – là kinh doanh sản phẩm làm đẹp cho phụ nữ
Do vậy, Cơ sở Ngân Anh đã sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu của Công ty Ích Nhân
cho cùng loại một loại hàng hóa. Vì vậy, theo quy định tại Khoản 3, Điều 11, Nghị định
105/2006/NĐ-CP về Yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu thì trường hợp này có yếu tố
xâm phạm.
- Thứ ba, người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể có quyền đối với nhãn
hiệu và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy
định tại Khoản 2, Điều 125, Luật Sở hữu trí tuệ.
Trong trường hợp này, theo quy định tại Khoản 1, Điều 121, Luật Sở hữu trí tuệ, Công ty
Ích Nhân là tổ chức được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu nên Công
ty Ích Nhân là chủ sở hữu nhãn hiệu đối với nhãn hiệu đang bị xem xét. Do vậy, Cơ sở Ngân
Anh không là là chủ thể có quyền đối với nhãn hiệu, cũng không là chủ thể được pháp luật
hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại Khoản 2, Điều 125, Luật Sở hữu trí

tuệ.
- Thứ tư, hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam: Hành vi sử dụng nhãn hiệu “Bảo Xuân”
để đặt tên sản phẩm của mình và kinh doanh tại thị trường Việt Nam. Do đó, hành vi bị xem
xét xảy ra tại Việt Nam.
Từ các phân tích trên, có thể thấy rằng, hành vi của Cơ sở Ngân Anh đã xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ của Công ty Ích Nhân.

13



×