Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

ĐỀ ÁN MỞ MÃ NGÀNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN

ĐỀ ÁN MỞ MÃ NGÀNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ
- Tên ngành đào tạo : Kinh tế phát triển
(chuyên ngành Quy hoạch phát triển)
- Mã số

: 8310105

- Tên cơ sở đào tạo : Học viện Chính sách và phát triển
- Trình độ

: Thạc sĩ

HÀ NỘI – NĂM 2018

0


PHẦN 1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1.1. Giới thiệu về Học viện Chính sách và Phát triển
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Học viện Chính sách và Phát triển được thành lập ngày 4/01/2008 theo Quyết
định số 10/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
- Tên bằng tiếng Anh: Academy of Policy and Development
- Tên viết tắt bằng tiếng Việt: HCP;


Bằng tiếng Anh: APD

- Cơ quan Bộ chủ quản: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Địa chỉ:Tòa nhà D25 Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngõ 7, phố Tôn Thất Thuyết,
quận Cầu Giấy, Tp. Hà Nội.
- Số điện thoại: (024) 37473186;

Fax:

(024)

37475217.

- Website:
Học viện đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao bậc Đại học, Thạc sĩ, Tiến sĩ
về chính sách công, kinh tế và quản lý, có tư duy năng động, sáng tạo, đủ năng lực
làm việc trong nước và quốc tế; nghiên cứu, bồi dưỡng, tư vấn và phản biện chính
sách. Mục tiêu đến năm 2030, Học viện trở thành trường đại học theo định hướng
nghiên cứu có uy tín trong nước và trong khu vực.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức và cán bộ giảng viên của Học viện
Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Học viện được thực hiện theo qui định của
pháp luật; công tác quản lý phù hợp với quy định của Nhà nước, cụ thể hóa bằng
quy chế được Bộ Kế hoạch và Đầu tư phê duyệt năm 2008(Quyết định số 584/QĐBKH ngày 12/5/2008 về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Học viện Chính sách và
Phát triển).
Hiện nay, cơ cấu tổ chức của Học viện (xem sơ đồ hình 1) gồm: Đảng bộ Học
viện; Các tổ chức đoàn thể (Công đoàn, Đoàn Thanh niên); Ban Giám đốc; Hội đồng
Khoa học và Đào tạo; 07 đơn vị chức năng giúp Giám đốc Học viện thực hiện hoạt
động quản lý gồm: Phòng Tổ chức - Hành chính; Phòng Quản lý đào tạo; Phòng Kế
hoạch - Tài chính; Phòng Khoa học và Hợp tác; Phòng Chính trị và Công tác sinh
viên; Trung tâm Thanh tra - Khảo thí; Trung tâm Bối dưỡng và Tư vấn phát triển,

1


08 đơn vị đào tạo gồm: Khoa Đào tạo quốc tế; Khoa Kinh tế đối ngoại; Khoa Tài
chính - Tiền tệ; Khoa Kế hoạch phát triển; Khoa Đầu tư (tiền thân là Khoa Quy
hoạch phát triển); Khoa Chính sách công; Khoa Quản trị doanh nghiệp; Khoa Đầu
thầu, 05 đơn vị hỗ trợ đào tạo gồm: Khoa Ngoại ngữ; Khoa Triết học và Chính trị
học; Khoa Toán; Bộ môn Luật kinh tế; Bộ môn Giáo dục thể chất và Quốc phòng và
01 Ban Quản lý dự án.

Hình 1. Cơ cấu tổ chức Học viện Chính sách và Phát triển
Tổng số cán bộ giảng viên của Học viện tính tại thời điểm 31/12/2017 là 124
người, trong đó có 76 giảng viên cơ hữu, chiếm tỷ lệ 61,3% tổng số cán bộ, giảng
viên cơ hữu toàn Học viện. Cơ cấu gồm 04 người là Phó Giáo sư, 17 người là Tiến
sĩ (không kể PGS), 54 người là Thạc sĩ. Tỷ lệ giảng viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ
trở lên (không kể PGS) trên tổng số giảng viên cơ hữu của Học viện là 22,3%. Tỷ
lệ giảng viên cơ hữu có trình độ thạc sĩ trên tổng số giảng viên cơ hữu của Học
viện là 71,1%.

2


1.2. Kết quả khảo sát, phân tích, đánh giá nhu cầu về nguồn nhân lực
trình độ thạc sĩ sự phù hợp với quy hoạch phát triển nguồn nhân lực
của địa phương, khu vực, quốc gia
1.2.1. Những vấn đề đặt ra đối với nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành
quy hoạch
Quy hoạch là một trong những công cụ hữu hiệu để giúp các cấp, các ngành
trong việc chỉ đạo, điều hành và thực hiện những nhiệm vụ chính trị, cụ thế hoá các
mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ để phát triển kinh

tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh và môi trường. Quy hoạch là căn cứ chủ yếu
để các cấp, các ngành định hướng mục tiêu phát triển theo ngành, lãnh thổ và là cơ sở
để xây dựng các chính sách, kế hoạch, chương trình phát triển và các dự án đầu tư.
Tuy nhiên, sau 30 năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước đã có nhiều thay đổi,
quy mô nền kinh tế lớn gấp nhiều lần trước đây, trong khi công tác quy hoạch chưa
theo kịp trước sự đổi mới và đã bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, gây khó khăn trong
điều hành phát triển kinh tế - xã hội của các cấp, các ngành, làm lãng phí nguồn lực
của đất nước, ảnh hưởng tới môi trường sinh thái và cản trở các hoạt động đầu tư,
sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp, người dân. Những hạn chế, yếu
kém đó là: (1) Quy hoạch được lập quá nhiều nhưng chất lượng quy hoạch thấp,
quy hoạch không gắn với nhu cầu sử dụng cũng như nguồn lực thực hiện và
thiếu tính khả thi gây lãng phí nguồn lực của đất nước.Tình trạng lập quy hoạch
quá nhiều, nhưng không hiệu quả gây lãng phí nguồn lực đang diễn ra ở tất cả các
bộ, ngành, địa phương và ngày càng có xu hướng gia tăng. Nhiều quy hoạch
vùng được lập nhưng không rõ đối tượng quản lý, không quy định trách nhiệm tổ
chức thực hiện nên không thể triển khai thực hiện được. Mục tiêu phát triển nhiều
khi xuất phát từ mong muốn chủ quan, không phù hợp với yêu cầu của thị trường và
nguồn lực thực có, dẫn đến quy hoạch thường xuyên bị phá vỡ, phải điều chỉnh trong
thời gian ngắn sau khi ban hành. Quy hoạch chủ yếu đưa ra các chỉ tiêu phát triển
một cách chung chung, thiếu tổ chức không gian phát triển hợp lý, khoa học. (2).
Quy hoạch thiếu gắn kết, không thống nhất và còn nhiều chồng chéo, mâu thuẫn
làm giảm hiệu lực, hiệu quả của quy hoạch. Sự thiếu gắn kết giữa các quy hoạch
3


đặc biệt là khi xử lý các vấn đề mang tính liên ngành, liên vùng diễn ra khá phổ biến
hiện nay. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội mang tính chính trị, chỉ chú
trọng xác định những chỉ tiêu, định hướng phát triển, chưa chú trọng việc tổ chức
không gian lãnh thổ. Quy hoạch ngành thiếu tính tổng thể, xem nhẹ việc gắn kết
ngành và lãnh thổ. Quy hoạch xây dựng vùng chủ yếu thiên về tính kỹ thuật, thiếu

cơ sở để xác định động lực cho sự định hướng phát triển. Quy hoạch sử dụng đất
chưa thực hiện phân vùng chức năng sử dụng đất theo không gian mà mới chỉ chú ý
đến việc phân bổ các chỉ tiêu loại đất, thiếu sự gắn kết với quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội, quy hoạch ngành và quy hoạch xây dựng vùng. Chính vì vậy,
trên cùng một mặt bằng lãnh thổ cả bốn quy hoạch này không liên kết, khớp nối với
nhau. (3). Quy hoạch chưa thể hiện được vị trí, vai trò là công cụ của nhà nước
để điều hành phát triển kinh tế - xã hội và sự kết nối giữa chiến lược với kế hoạch
dẫn đến sự thiếu gắn kết trong mục tiêu, định hướng phát triển và giải pháp thực
hiện.Nội dung quy hoạch chưa chú trọng tới việc cụ thể hóa mục tiêu, định hướng
phát triển của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong tổ chức không gian phát
triển kinh tế, xã hội, môi trường nhằm phát huy lợi thế, năng lực cạnh tranh của cả
nước, của các vùng lãnh thổ và từng địa phương; từ đó có giải pháp thực hiện bằng
các kế hoạch 5 năm, hàng năm. Việc phân định nội dung giữa chiến lược - quy hoạch
- kế hoạch chưa được thể hiện rõ trong quy hoạch dẫn đến việc lập và triển khai kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều chồng chéo, thiếu thống nhất với chiến
lược và quy hoạch, nhất là trong đầu tư các dự án quan trọng quốc gia. (4). Phương
pháp và nội dung quy hoạch chưa đổi mới cho phù hợp với nền kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế. Trong khi xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh
mẽ, cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều ngành, lĩnh vực mới đã dẫn đến sự xung
đột ngày càng lớn về sử dụng không gian giữa các ngành trong một quốc gia và giữa
các quốc gia với nhau đòi hỏi phải đổi mới phương pháp lập quy hoạch để quy hoạch
có khả năng hài hòa, phối hợp một cách hiệu quả trong việc phát triển không gian
cho các ngành, các quốc gia và liên kết giữa các quốc gia. Do vậy, đa số các nước
hiện nay chuyển sang lập quy hoạch chiến lược, quy hoạch tích hợp đa ngành hay
quy hoạch tổng thể là chủ yếu. Trong khi đó, phương pháp và nội dung lập quy hoạch
4


của Việt Nam vẫn được thực hiện theo phương pháp cũ (quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội, quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát

triển ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu đều đang lập ra một cách độc lập với nhau)
nên không phát huy hiệu quả của quy hoạch, mà ngược lại làm giảm đáng kể năng
lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam. Mặt khác, quy hoạch không phù hợp với các
quy luật, nguyên lý kinh tế thị trường nên không phát huy được hiệu quả, ngược lại
còn cản trở thu hút đầu tư và gây trở ngại cho phát triển kinh tế - xã hội. Trong thực
tế, nhu cầu của nhiều sản phẩm do thị trường quyết định dựa trên quy luật cung cầu, quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh (không thể dự báo chính xác biến động
của thị trường trong nước và quốc tế) nhưng vẫn được các cấp, các ngành tổ chức
lập quy hoạch. (5). Việc tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện
quy hoạch bị buông lỏng, chưa xử lý kịp thời và thiếu kiên quyết trong chỉ đạo
điều hành.Quy định về công tác tổ chức lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch chưa
hợp lý, thiếu đồng bộ và còn mang tính hình thức. Các bộ, ngành, địa phương tự tổ
chức lập, thẩm định, trình phê duyệt nhưng chưa đảm bảo tính tuân thủ, mối quan
hệ hữu cơ giữa các quy hoạch và cơ chế phối hợp chưa tốt giữa các cơ quan quản lý
quy hoạch dẫn đến sự thiếu khớp nối, mâu thuẫn và chồng chéo giữa các loại quy
hoạch. Nhiều quy hoạch được phê duyệt nhưng không được triển khai thực hiện do
thiếu sự chỉ đạo, điều hành kiên quyết của các cấp, các ngành hoặc do thiếu cơ quan
trực tiếp quản lý, điều hành . Vì thế, nhiều dự án được xác định “ưu tiên đầu tư”
trong quy hoạch bị “treo”, không được triển khai thực hiện hoặc chậm triển khai.
Nguyên nhân dẫn tới những yếu kém nêu trên chủ yếu tập trung ở hai yếu tố:
nguồn nhân lực tham gia công tác quy hoạch (lập, thẩm định, triển khai, quản lý,
đánh giá) và hệ thống luật pháp về Quy hoạch.
Nhận thức được 02 khâu hạn chế trên, đối với việc hoàn thiện hệ thống luật
pháp về Quy hoạch, Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật Quy hoạch
ngày 24 tháng 11 năm 2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2019
là căn cứ pháp lý để các cấp, các ngành lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện và thống nhất
trong hoạt động quy hoạch. Luật Quy hoạch là công cụ quan trọng giúp Nhà nước
hoạch định, kiến tạo động lực, không gian phát triển, bảo đảm tính kết nối đồng bộ
giữa quy hoạch cấp quốc gia với quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh, nhằm khai thác
5



tối đa tiềm năng, lợi thế của đất nước để phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền
vững. Luật Quy hoạch là công cụ pháp lý quan trọng đẩy nhanh việc thực hiện khâu
đột phá chiến lược về phát triển hạ tầng; đồng thời loại bỏ các quy hoạch chồng
chéo, cản trở đầu tư, phát triển, tạo rào cản ra nhập thị trường của doanh nghiệp,
hàng hóa, dịch vụ đang gây khó khăn cho việc huy động các nguồn lực, hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân; tạo bước đột phá trong cải cách
thủ tục hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng trong huy động, tiếp
cận cũng như phát huy tối đa các nguồn lực trong hoạt động đầu tư và phát triển.
Đối với nguồn nhân lực trong công tác quy hoạch, việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực để triển khai kịp thời, đồng bộ các quy định của Luật Quy hoạch
nhằm đưa Luật Quy hoạch vào cuộc sống là rất cấp thiết. Bối cảnh mới đòi hỏi rất
nhiều cán bộ có chuyên môn sâu, rộng về lĩnh vực lập và quản lý quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế xã hội.Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa có cơ sở đào tạo
bậc Thạc sĩ và Tiến sĩ về chuyên ngành Quy hoạch phát triển. Chính vì thế, việc Học
viện Chính sách và Phát triển (trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tiến hành mở mã
ngành đào tạo Thạc sĩ Quy hoạch phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu cấp thiết về
nguồn nhân lực phục vụ công tác quy hoạch của cả nước.
1.2.2. Kết quả khảo sát đánh giá nhu cầu về nguồn nhân lực trình độ Thạc sĩ
chuyên ngành Quy hoạch phát triển
Nhân lực có trình độ Thạc sĩ chuyên ngành Quy hoạch phát triển được xác
định chủ yếu làm việc trong khu vực công và tại các cơ quan như Bộ Kế hoạch và
Đầu tư và Sở Kế hoạch và Đầu tư ở 63 địa phương, các Viện nghiên cứu và Vụ quản
lý thuộc các Bộ ngành khác liên quan đến hoạt động quy hoạch (chủ yếu là quản lý
và thẩm định). Xuất phát từ việc xác định nhóm cơ quan có nhu cầu nhân lực trình
độ Thạc sĩ Quy hoạch phát triển trên, Học viện Chính sách và Phát triển đã tiến hành
02 cuộc điều tra. Kết quả của cuộc điều tra lần thứ nhất vào năm 2010 (thuộc Đề tài
khoa học cấp Bộ do TS Ngô Thúy Quỳnh – Trưởng khoa Quy hoạch phát triển làm
chủ nhiệm đề tài) cho thấy nhu cầu nhân lực ngành Quy hoạch nói chung và nhu cầu
bổ sung các kiến thức – kỹ năng cho cán bộ ngành Quy hoạch ở các Bộ ngành và

Địa phương là rất lớn. Trong khoảng từ tháng 2 – tháng 3 năm 2018, Học viện đã
tiến hành một cuộc khảo sát quy mô đối với 63 Sở Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ
ngành trong cả nước nhằm xác định nhu cầu nhân lực, đặc biệt là nhân lực trình độ
6


Thạc sĩ đối với chuyên ngành Quy hoạch phát triển phục vụ việc thực hiện triển khai
Luật Quy hoạch chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2019. Tính đến hết tháng 3/2018
đã có 42 trong tổng số 63 tỉnh/thành phố trả lời phiếu điều tra và có 7 trong tổng số
12 Bộ ngành được gửi phiếu điều tra trả lời. Kết quả cuộc khảo sát được tóm lược
qua một số nội dung sau:
a. Đối với thực trạng đội ngũ cán bộ ngành Quy hoạch
* Đối với các Sở Kế hoạch và Đầu tư (chỉ tính các địa phương có trả lời phiếu
điều tra)
Kết quả trả lời phiếu điều tra cho thấy phần lớn nhân lực trực tiếp tham gia công
tác Quy hoạch thuộc các Sở Kế hoạch và Đầu tư ở 42 tỉnh/thành phố được đào tạo ở
ngành gần hoặc không đúng chuyên ngành, trong đó nếu phân loại theo trình độ thì
Cử nhân vẫn chiếm đa số (chiếm 81,5%), tỉ lệ có trình độ từ Thạc sĩ trở lên còn rất
thấp (chiếm khoảng 19,5%). Đáng chú ý là tỉ lệ cán bộ đang trực tiếp tham gia công
tác quy hoạch được đào tạo đúng chuyên ngành còn rất thấp (chỉ chiếm 22,7%).
Bảng 1. Thực trạng đội ngũ cán bộ ngành quy hoạch tại Sở Kế hoạch và Đầu
tư của 42 tỉnh/thành phố ở Việt Nam
STT

Số
lượng

Số được đào tạo
đúng chuyên ngành


- Cán bộ trực tiếp tham gia
công tác quy hoạch

512

+ Cán bộ trực tiếp tham gia
khâu lập quy hoạch

Trình độ cán bộ
Cử
nhân

Thạc


Tiến


116

406

103

3

203

92


113

87

3

+ Cán bộ trực tiếp tham gia
khâu thẩm định, điều chỉnh

368

103

289

76

3

+ Cán bộ trực tiếp tham gia
khâu quản lý quy hoạch

465

116

384

78


3

- Cán bộ gián tiếp tham gia
công tác quy hoạch

125

0

93

32

0

Khác

Trong đó:

(Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm Đề án)

Tỉ lệ các cán bộ chỉ gián tiếp tham gia công tác quy hoạch (cán bộ các phòng,
ban chức năng khác có tham gia dạng góp ý hoặc phối hợp trong công tác quy hoạch)
có trình độ cử nhân vẫn còn khá lớn (74,4%). Đây cũng là nhóm đối tượng tiềm năng
đối với việc học nâng cao lên chuyên ngành Quy hoạch phát triển bởi họ cũng cần
7


có một số kiến thức, kỹ năng về quy hoạch để có thể tham gia một cách hiệu quả
hơn công tác quy hoạch.

* Đối với các Bộ ngành (chỉ tính các Bộ ngành có trả lời phiếu điều tra, gồm
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Tài
nguyên và Môi trường)
Kết quả trả lời phiếu điều tra cho thấy phần lớn nhân lực trực tiếp tham gia
công tác Quy hoạch thuộc các Bộ ngành ở 7 Bộ có nhiều hoạt động liên quan đến
công tác Quy hoạch, được đào tạo ở ngành gần hoặc không đúng chuyên ngành, trong
đó nếu phân loại theo trình độ thì Cử nhân vẫn chiếm đa số (chiếm 56,9%), tỉ lệ có
trình độ từ Thạc sĩ trở lên tuy cao hơn so với ở các địa phương song mới chiếm khoảng
43,1%. Đáng chú ý là tỉ lệ cán bộ đang trực tiếp tham gia công tác quy hoạch được
đào tạo đúng chuyên ngành chiếm chưa được 50% (mới đạt 44,%).
Bảng 2. Thực trạng đội ngũ cán bộ ngành quy hoạch tại các Bộ ngành
STT

Số
lượng

Số được đào tạo
đúng chuyên ngành

- Cán bộ trực tiếp tham
gia công tác quy hoạch

283

+ Cán bộ trực tiếp tham
gia khâu lập quy hoạch

Trình độ cán bộ
Cử

nhân

Thạc


Tiến


Khác

126

161

89

33

0

182

106

96

65

21


+ Cán bộ trực tiếp tham
gia khâu thẩm định, điều
chỉnh

138

68

65

54

19

+ Cán bộ trực tiếp tham
gia khâu quản lý quy hoạch

150

112

84

58

8

- Cán bộ gián tiếp tham
gia công tác quy hoạch


532

185

265

241

26

Trong đó:

(Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm Đề án)

Tỉ lệ các cán bộ gián tiếp tham gia công tác quy hoạch có trình độ cử nhân ở
các Bộ ngành hiện vẫn chiếm gần 50% (49,8%) với số lượng khoảng 265 cán bộ. Đây
cũng là nhóm đối tượng tiềm năng đối với việc học nâng cao lên chuyên ngành Quy
hoạch phát triển bởi họ cũng cần có một số kiến thức, kỹ năng về quy hoạch.
8


Thông qua các phiếu trả lời cũng cho thấy các vướng mắc về nội dung kiến
thức, kỹ năng đối với các cán bộ ngành quy hoạch hiện nay còn khá lớn mà nguyên
nhân chính được xác định là do được đào tạo chưa đúng chuyên ngành và thiếu các
đợt bồi dưỡng thường xuyên hoặc được đào tạo nâng cao trình độ một cách bài bản.
Thực trạng này đặt ra yêu cầu cần nâng cao hơn nữa chất lượng chuyên môn của đội
ngũ cán bộ này nhằm đáp ứng các yêu cầu của ngành quy hoạch nói chung và việc
triển khai thực hiện Luật Quy hoạch từ tháng 1/2019 nói riêng.
b. Đối với nhu cầu đội ngũ cán bộ ngành Quy hoạch trong giai đoạn 2018
– 2030

* Ở các Sở Kế hoạch và Đầu tư
Kết quả tổng hợp phiếu điều tra của các Sở Kế hoạch và Đầu tư cho thấy nhu
cầu Bổ sung và đào tạo lại/đào tạo nâng cao trình độ cán bộ ngành Quy hoạch là rất
lớn, đặc biệt là ở giai đoạn 2018 - 2030 khi Luật Quy hoạch mới đi vào triển khai.
Bảng 3. Nhu cầu bổ sung mới và đào tạo lại/đào tạo nâng cao trình độ
cán bộ ngành Quy hoạch ở các Sở Kế hoạch và Đầu tư
Nhóm cán bộ

Số lượng

Số được đào
tạo đúng
chuyên
ngành

Trình độ cán bộ
Cử
nhân

Thạc


Tiến


Tổng số cán
bộ trực tiếp
tham gia công
tác quy hoạch


Giai đoạn
2018 - 2025

121 – 205*

160

62

181

4

Giai đoạn
2025 - 2030

93 - 192

130

48

151

5

Tổng số cán
bộ gián tiếp
tham gia công
tác quy hoạch


Giai đoạn
2018 - 2025

85-97

0

0

16

0

Khác

Giai đoạn
67-54
0
0
11
0
2025 - 2030
Ghi chú: * Số đứng trước là cán bộ cần tuyển mới, số đứng sau là cán bộ cần đào tạo lại.

(Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm Đề án)

* Ở các Bộ ngành
Kết quả tổng hợp phiếu điều tra của các Bộ ngành cho thấy nhu cầu Bổ sung
và đào tạo lại/đào tạo nâng cao trình độ cán bộ ngành Quy hoạch cũng khá lớn, đặc

biệt là đối với nhân lực thuộc các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
9


Bảng 4. Nhu cầu bổ sung mới và đào tạo lại/đào tạo nâng cao trình độ
cán bộ ngành Quy hoạch ở các Bộ ngành
Nhóm cán bộ

Trình độ cán bộ

Số lượng

Số được đào
tạo đúng
chuyên ngành

Cử
nhân

Thạc


Tiến


Tổng số cán
bộ trực tiếp
tham gia công
tác quy hoạch


Giai đoạn
2018 - 2025

70 – 64*

55

56

52

22

Giai đoạn
2025 - 2030

54 - 59

45

22

48

18

Tổng số cán
bộ gián tiếp
tham gia công

tác quy hoạch

Giai đoạn
2018 - 2025

145-268

0

0

127

11

Khác

Giai đoạn
126-234
0
0
112
12
2025 - 2030
Ghi chú: * Số đứng trước là cán bộ cần tuyển mới; số đứng sau là cán bộ cần đào tạo lại.

(Nguồn: Kết quả khảo sát của nhóm Đề án)

Đối với các Bộ ngành, do chất lượng hiện tại về trình độ cán bộ ngành Quy
hoạch cao hơn so với các địa phương nên số lượng cán bộ có nhu cầu học ở các bậc

học sau Đại học ít hơn so với các Địa phương.
Học viện Chính sách và Phát triển là cơ sở đào tạo bậc đại học và sau đại học
trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư - cơ quan được Chính phủ giao đầu mối cả nước
về công tác quy hoạch quốc gia. Do đó, thực hiện đào tạo chương trình thạc sĩ về
Quy hoạch phát triển vừa thể hiện chức năng xã hội, vừa là nhiệm vụ của Học viện
trong việc đáp ứng các yêu cầu của thị trường, cũng như của cơ quan chủ quản nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho Việt Nam hội nhập và phát triển. Cho đến
nay Học viện Chính sách và phát triển đã tuyển sinh được 06 khóa sinh viên chuyên
ngành Quy hoạch phát triển và hiện tại đã ra trường được 04 khóa (một khóa chuẩn
bị ra trường).
Hiện nay ở một số quốc gia trên thế giới đào tạo chuyên ngành có liên quan
đến Quy hoạch như chương trình đào tạo Cử nhân quy hoạch vùng và đô thị của Đại
học Michigan (Hoa Kỳ), Đại học Cardiff (Vương quốc Anh) hay đào tạo Thạc sĩ
Quy hoạch vùng của Đại học Massachusetts Amherst (Hoa Kỳ), Thạc sĩ Quy hoạch
đô thị và vùng của Đại học Bắc Carolina (Hoa Kỳ), Thạc sĩ Quy hoạch đô thị của
Đại học Harvard (Hoa Kỳ)... Ở Việt Nam, hiện có một số cơ sở đào tạo thạc sĩ chuyên
10


ngành về Quy hoạch vùng và đô thị (ĐH Kiến trúc Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh), Quy
hoạch đô thị và phát triển vùng (Trung tâm ĐH Pháp - ĐH Quốc gia Hà Nội); Quy
hoạch và quản lý giao thông vận tải/logicstic (Đại học Việt - Đức);… Nhìn chung,
các chương trình này thường tập trung vào đào tạo quy hoạch chuyên ngành (quy
hoạch đô thị, quy hoạch giao thông vận tải… Hiện tại chưa có cơ sở giáo dục đại
học nào trên cả nước có mở mã ngành Quy hoạch phát triển hệ cao học, trong khi đó
nhu cầu của những sinh viên đã tốt nghiệp ngành Quy hoạch phát triển cũng như các
cán bộ đang làm trong lĩnh vực này ở các Sở Kế hoạch và Đầu tư, các vụ/ban ngành
của các bộ được học bổ sung, nâng cao kiến thức chuyên sâu ngành Quy hoạch phát
triển ngày càng tăng, để có thể phục vụ công tác tại các cơ quan chuyên trách thuộc
ngành Kế hoạch và Đầu tư, cũng như các bộ, ban, ngành có liên quan khác. Đây là

nhu cầu mới phát sinh, nằm trong ba đột phá chiến lược phát triển của Việt Nam.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn là một trong những “điểm trống” trong đào tạo cao
học từ trước đến nay, do các cơ sở đào tạo chủ yếu chạy theo nhu cầu thị trường,
chứ không đào tạo theo nhu cầu quy hoạch phát triển và chiến lược nguồn nhân lực
của Quốc gia.

1.3. Giới thiệu về chuyên ngành Quy hoạch phát triển, Học viện
Chính sách và Phát triển
Quy hoạch phát triển được coi là “nghệ thuật” dẫn tới thành công trong phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Việt Nam hiện có 63 tỉnh, thành phố trực
thuộc TW và 700 đơn vị hành chính cấp huyện, nhiều vùng kinh tế - xã hội và hàng
chục khu kinh tế ven biển và khu kinh tế cửa khẩu cũng như các ngành, lĩnh vực cần
xây dựng quy hoạch phát triển cho thời kỳ dài hạn. Chính vì thế, nhu cầu về cán bộ
ngành quy hoạch phát triển là rất lớn. Tuy nhiên, đội ngũ chuyên gia làm quy hoạch
ở nước ta hiện nay còn rất mỏng về lực lượng. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực ở bậc Đại học trong các lĩnh vực xây dựng chiến lược phát triển, quy hoạch
phát triển tổng thể kinh tế - xã hội… đã trở thành nhu cầu cấp thiết của thực tiễn Việt
Nam trong việc hình thành đội ngũ những người làm chiến lược, quy hoạch có chất
lượng, góp phần quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.
Đứng trước thực tế đó, Khoa Quy hoạch phát triển đã được thành lập theo Quyết định
11


số 88/QĐ-HVCS&PT ngày 14 tháng 4 năm 2009 của Giám đốc Học viện Chính
sách và Phát triển.
Chuyên ngành Quy hoạch phát triển của Học viện Chính sách và Phát triển là
chuyên ngành được giảng dạy đầu tiên ở Việt Nam thuộc mã ngành Kinh tế mã số
31.01 theo Quyết định số 01/2017/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2017 của Thủ
tướng Chính phủ. Chương trình đào tạo của chuyên ngành được xây dựng trên cơ sở
tham khảo chương trình đào tạo của một số trường đại học uy tín trên thế giới và

bám sát chương trình khung của Bộ GD&ĐT với sự tham vấn của các chuyên gia
hàng đầu trong lĩnh vực quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư.
1.3.1 Về cơ cấu tổ chức
KHOA KINH TẾ

CHI BỘ KHOA

LÃNH ĐẠO KHOA

BỘ MÔN

BỘ MÔN

BỘ MÔN

QUY

KINH TẾ

ĐẤU

PHÁT TRIỂN

THẦU

HOẠCH

GIÁO VỤ
KHOA


CÔNG

ĐOÀN

ĐOÀN

TNCS

KHOA

HCM

PHÁT

1.3.2. Về nhân sự
Chuyên ngành Quy hoạch tại Học viện hiện nay có 07 cán bộ, trong đó có 05
TS, 02 ThS và một số giảng viên thỉnh giảng có trình độ PGS, TS là cán bộ giảng
dạy trong và ngoài Học viện.
1.3.3. Về chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo bậc cử nhân chuyên ngành Quy hoạch phát triển được
thiết kế hiện đại khoa học trên cơ sở tham khảo các chương trình đào tạo tiên tiến
của các trường trên thế giới như Đại học Cardiff, Anh; Đại học Michigan, Hoa Kỳ;
Đại học Georgetown (Hoa Kỳ) trên cơ sở đảm bảo theo các quy định chuẩn kiến
thức, kĩ năng của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
12


1.3.4. Về kinh nghiệm đào tạo
Tính đến hết năm học 2017 – 2018, khoa Quy hoạch phát triển đã tuyển sinh

được 06 khóa với tổng số 302 sinh viên, trong đó có 189 sinh viên đã tốt nghiệp.
Các môn chuyên ngành được phân phối hợp lý theo các kỳ học từ năm học thứ 2
nhằm giúp sinh viên có điều kiện sớm tiếp cận với chuyên môn và có điều kiện để
phát huy trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng trong thực tiễn. Phần lớn các môn
học do khoa đảm nhận đều là các môn học mới các tài liệu được sử dụng trong giảng
dạy chủ yếu được các giảng viên trong Khoa biên soạn với sự cộng tác của các
chuyên gia, nhà khoa học có uy tín. Ngoài các giờ giảng trên lớp, đối với mỗi môn
học chuyên ngành, Khoa tổ chức từ 2 – 3 buổi nói chuyện chuyên đề thông qua việc
mời các chuyên gia từ các Viện nghiên cứu, Trường Đại học lớn đến nói chuyện
nhằm bổ sung một số kiến thức chuyên sâu cũng như gắn lý thuyết với thực tiễn phát
triển. Tại các buổi nói chuyện chuyên đề với các chuyên gia như TS Nguyễn Bá Ân,
TS Hoàng Ngọc Phong, TS Trần Hồng Quang… (Viện Chiến lược phát triển – Bộ
Kế hoạch và Đầu tư), TS Ngô Công Thành, ông Vũ Quang Các… (Vụ Quản lý quy
hoạch - Bộ Kế hoạch và Đầu tư), GS,TS Lê Thông, GS, TS Đỗ Thị Minh Đức,…
(Trường Đại học Sư phạm Hà Nội), TS Khuất Việt Hùng (Bộ Giao thông vận tải),
PGS.TS Hoàng Phúc Lâm (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)… các sinh
viên luôn tham gia đầy đủ, tích cực trao đổi và để lại những ấn tượng tốt.
1.3.5 Về năng lực nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của giảng viên và sinh viên chuyên ngành Quy hoạch phát triển. Từ năm 2010 trở
lại đây, các giảng viên trong Khoa đã hoàn thành 04 đề tài khoa học cấp Bộ, 02 tiểu
đề án (Thuộc Đề án: “Đánh giá và kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả đối với
một số chính sách phát triển do Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất đã được cấp có thẩm
quyền ban hành”), 03 Nhiệm vụ môi trường cấp Bộ, 02 đề tài cấp Học viện và làm
chủ nhiệm các Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của một số địa phương.

13


1.4. Lý do đề nghị mở mã ngành đào tạo trình độ Thạc sĩ

1.4.1. Căn cứ pháp lý
- Luật Giáo dục Đại học 2012 (Luật số 08/2012/QH13);
- Đề án đổi mới giáo dục đại học 2006-2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
- Thông tư 09/2017/TT-BGDĐT ngày 4 tháng 4 năm 2017 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo quy định điều kiện trình tự, thủ tục mở ngành hoặc chuyên ngành đào tạo
và đình chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định mở ngành hoặc chuyên ngành đào tạo
trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ;
- Thông tư 15/2014/TT-BGDĐT ngày 15 tháng 05 năm 2014 Bộ Giáo dục về
ban hành quy chế đào tạo Thạc sĩ;
- Thông tư số 07/2015/TT-BGDĐT ngày 16 tháng 04 năm 2015 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu
cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào
tạo của Giáo dục đại học và quy trình xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình
đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ.
- Luật Quy hoạch số 21/2017/QH14 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
khóa XIV thông qua ngày 24/11/2017.
1.4.2. Căn cứ vào nhu cầu và vai trò của ngành Quy hoạch phát triển đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
Sự ra đời của Luật Quy hoạch được xem là một bước ngoặt trong việc hoàn
thiện các căn cứ pháp lý cho công tác quy hoạch ở Việt Nam. Để triển khai kịp thời,
đồng bộ các quy định của Luật Quy hoạch để đưa Luật Quy hoạch vào cuộc sống thì
cần rất nhiều cán bộ có chuyên môn sâu, rộng về lĩnh vực lập và quản lý quy hoạch.
Tuy nhiên, theo khảo sát sơ bộ tại một cơ quan quản lý Nhà nước có nghiệp vụ gắn
liền với công tác quy hoạch như các Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc bộ phận phụ trách
quy hoạch của các Bộ ngành cho thấy nhu cầu nhân lực cho lĩnh vực quy hoạch là
tương đối lớn. Theo khảo sát của Học viện (tiến hành năm 3/2018) 100% cán bộ phụ
trách lĩnh vực quy hoạch tại các địa phương hiện nay đều là các cán bộ được đào tạo
ở các chuyên ngành gần, như Kế hoạch phát triển, Kinh tế phát triển, Địa lý học,
Kinh tế học,.... Như vậy, về tổng thể có thể thấy nhu cầu đào tạo về chuyên ngành
quy hoạch, đặc biệt là ở bậc Thạc sĩ đối với cả cấp Trung ương và Địa phương hiện

nay của nước ta là rất lớn(xem thêm mục 1.2).
14


Học viện Chính sách và Phát triển là cơ sở đào tạo bậc đại học và sau đại học
trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư - cơ quan chủ quản về công tác quy hoạch quốc
gia. Do đó, thực hiện đào tạo chương trình thạc sĩ về Quy hoạch phát triển vừa thể
hiện chức năng xã hội, vừa là nhiệm vụ của Học viện trong việc đáp ứng các yêu
cầu của thị trường, cũng như của cơ quan chủ quản nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cho Việt Nam hội nhập và phát triển. Cho đến nay Học viện Chính
sách và phát triển đã tuyển sinh được 06 khóa sinh viên chuyên ngành Quy hoạch
phát triển trong đó 04 khóa đã tốt nghiệp. Do đặc thù công việc và khối lượng kiến
thức chuyên môn, thực tế cho thấy Cử nhân chuyên ngành Quy hoạch phát triển
hiện mới chỉ đáp ứng được những yêu cầu cơ bản về kiến thức - kỹ năng. Trong
khi đó, yêu cầu về công việc thực tế đòi hỏi ở người làm công tác quy hoạch cần
có các trải nghiệm thực tiễn, đặc biệt là trong công tác quản lý quy hoạch. Vì vậy,
để có thể đáp ứng được yêu cầu về kiến thức - kỹ năng để triển khai Luật Quy
hoạch nói riêng và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch ở Việt Nam nói chung
thì việc đào tạo mới và đào tạo lại nguồn nhân lực đang trực tiếp tham gia công tác
quy hoạch là hết sức cấp thiết.
Học viên thuộc chuyên ngành Quy hoạch được được cung cấp kiến thức
chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ liên quan đến công tác lập, quản lý, điều phối và
giám sát việc ban hành, áp dụng và thực hiện huy hoạch ở các ngành, lĩnh vực theo
các vùng lãnh thổ; các chiến lược trong marketing lãnh thổ, năng lực cạnh tranh của
lãnh thổ thông qua các tình huống thực tiễn. Trong đó, với đặc thù gắn liền với hoạt
động quản lý Nhà nước về Quy hoạch, các Học viên sẽ được đào tạo chuyên sâu về
công tác quản lý quy hoạch. Ngoài ra, chương trình thiết kế các chuyên đề thực tế
tạo cơ hội cho học viên tiếp xúc với các chuyên gia làm việc trong lĩnh vực hoạch
định, quản lý và thực thi chính sách từ các Bộ, Ban, Ngành của nhà nước nhằm tăng
cường hiểu biết cũng như các vấn đề, trở ngại, thách thức trong thực tế cho học viên.

Học viên tốt nghiệp chương trình Quy hoạch có thể làm việc trong ngành Kế
hoạch và Đầu tư (các Sở Kế hoạch và Đầu tư, bộ phận phụ trách công tác quy hoạch
của các Bộ ngành…), các cơ quan quản lý Nhà nước từ cấp Trung ương đến địa
phương khác có liên quan, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức kinh tế.

15


1.4.3. Căn cứ thực tiễn về đào tạo ngành Quy hoạch phát triển ở Việt Nam và trên
thế giới
Quy hoạch phát triển là một chuyên ngành khoa học mang tính tổng hợp và
có mối liên hệ mật thiết về nội dung với các ngành khoa học khác, đặc biệt là Kinh
tế học, Địa lý học. Do đặc thù về nội dung, tính đến nay cả trên thế giới và Việt Nam
có rất ít cơ sở đào tạo chuyên ngành Quy hoạch phát triển1 với nội hàm là quy hoạch
tổng thể kinh tế - xã hội của cả nước và các vùng lãnh thổ. Chuyên ngành Quy hoạch
phát triển của Học viện Chính sách và Phát triển là chuyên ngành được giảng dạy
đầu tiên ở Việt Nam. Trong quá trình khảo sát về kinh nghiệm đào tạo, nhóm tác giả
nhận thấy các cơ sở đào tạo khác trên thế giới chỉ có đào tạo chuyên ngành gần với
chuyên ngành quy hoạch phát triển hiểu theo nghĩa trên. Dưới đây là kết quả khảo
sát một số cơ sở đào tạo ở trong nước và ngoài nước:
1.4.3.1. Tại Việt Nam
* Ở bậc Cử nhân: Hiện nay ở nước ta đã có một số trường đào tạo KTS Quy
hoạch (chủ yếu là Quy hoạch vùng và Đô thị) là : Đại học Kiến trúc Hà Nội đào tạo
được 26 năm (năm 1992), Đại học Kiến trúc TP HCM đào tạo được 20 năm (năm
1998) Đại học Xây dựng Hà Nội (năm 2008), Đại học Thủ Dầu Một (năm 2011) và
Đại học Xây dựng miền Tây (năm 2015). Hàng năm, các trường Đại học đào tạo ra
trường (tốt nghiệp) khoảng 450 KTS quy hoạch/cử nhân.
Chương trình KTS quy hoạch của các cơ sở đào tạo trên được xây dựng với
khối lượng kiến thức toàn khóa là 135 - 160 tín chỉ (từ 4,0 – 5,0 năm), trong đó
chương trình tập trung nhiều vào kiến thức về quy hoạch xây dựng (đặc biệt là quy

hoạch đô thị), gồm các học phần: quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn, quy hoạch
hạ tầng, quy hoạch vùng… Trong khi đó, nội dung kiến thức chưa đáp ứng được
những yêu cầu về vai trò và chức năng của nhà quy hoạch, các kiến thức về kinh tế,
quản lý và GIS – những mảng kiến thức đặc biệt quan trọng đối với công tác quy
hoạch nói chung và quản lý quy hoạch nói riêng nhìn chung còn hạn chế.

Các chương trình đào tạo về Quy hoạch ở Việt Nam hiện nay chủ yếu đào tạo chuyên sâu về Quy hoạch các ngành
và lĩnh vực cụ thể như Quy hoạch đô thị, Quy hoạch vùng với nội dung chủ yếu thiên về kĩ thuật. Hiện chưa có một
chương trình đào tạo về Quy hoạch đối với nội dung về phát triển kinh tế - xã hội.
1

16


Ngoài các cơ sở trên, tại Đại học Tôn Đức Thắng cũng tiến hành đào tạo ngành
Quy hoạch và quản lý đô thị. Tuy nhiên, đối tượng quy hoạch chuyên sâu mà ngành
này hướng đến là đô thị vì thế khối lượng kiến thức chuyên môn của ngành nhìn
chung có sự khác biệt lớn đối với yêu cầu của cử nhân quy hoạch phát triển tổng thể
kinh tế - xã hội.
* Ở bậc Thạc sĩ: Hiện nay ở Việt Nam mới có 02 cơ sở đào tạo chương trình
Thạc sĩQuy hoạch vùng và đô thị là Đại học Kiến trúc Hà Nội và Đại học Kiến trúc
Tp. Hồ Chí Minh. Chương trình của 02 trường này tập trung cung cấp cho người học
một chương trình đào tạo nâng cao làm cơ sở lý luận cho việc hành nghề và nghiên
cứu quy hoạch đô thị trong bối cảnh Việt Nam.
Chương trình được đào tạo kéo dài 02 năm, với tổng số 45 tín chỉ, cung cấp
cho học viên kiến thức chuyên sâu về các vấn đề về quy hoạch đô thị như: Lý luận
phát triển không gian đô thị, Chính sách và công cụ quản lý đô thị, Kinh tế và tài
chính đô thị, Thiết kế đô thị, Quản lý vận tải hành khách công cộng đô thị, Quản lý
hạ tầng kỹ thuật đô thị, Quản lý quy hoạch, kiến trúc & xây dựng đô thị, Đánh giá
môi trường đô thị… trong khi các kiến thức về Quản lý quy hoạch, kinh tế,… gần

như chưa được đề cập.
1.4.3.2. Trên thế giới
* Ở bậc Cử nhân: Như đã nêu trên, các quốc gia khác trên thế giới chủ yếu đào
tạo ngành/chuyên ngành Quy hoạch vùng và đô thị. Dưới đây là một số cơ sở đào
tạo tiêu biểu:
- Chương trình của trường Quy hoạch vùng và đô thị - Đại học Cardiff, Anh
Khóa học cử nhân ngành Quy hoạch đô thị và quy hoạch vùng cung cấp cho
sinh viên nhữn kiến thức về lập quy hoạch vùng và đô thị. Chương trình học bao
gồm cả kiến thức về mặt lý thuyết và cả kỹ thuật cần thiết phục vụ cho việc xác định
các vấn đề, các giá trị và thái độ của việc lập quy hoạch cũng như đối với cộng đồng.
Ngoài ra sinh viên còn được cung cấp những kỹ năng lập cũng như xây dựng chính
sách quy hoạch cho quốc gia, vùng, đô thị, nông thôn và các địa phương nhỏ hơn.
- Chương trình Quy hoạch vùng và đô thị - Đại học Michigan, Hoa Kỳ
Chương trình bao gồm 02 nhóm môn học:

17


+ Các môn đại cương: Tùy thuộc vào đặc điểm đào tạo của từng trường nhưng
nhìn chung bao gồm các môn như: Xã hội học, Địa lý, Toán xác suất thống kê, chính
trị, nghệ thuật, ngôn ngữ.
+ Các môn học bắt buộc gắn với chuyên ngành như: Vai trò của quy hoạch
vùng và đô thị, Kỹ thuật nghiên cứu trong quy hoạch vùng và đô thị, Lý thuyết quy
hoạch, Kế hoạch sử dựng đất, Luật quy hoạch, Quy hoạch phát triển kinh tế địa
phương, Thực hành quy hoạch, Đại cương về GIS, Đại cương về chính quyền Mỹ,
Phương pháp thống kê…
* Ở bậc Thạc sĩ:
- Trường Khoa học Kinh tế và Chính trị London (London School of Economics
and Political Science)
Chương trình Thạc sĩ Quy hoạch vùng và đô thị được mở vào năm 1966 và thu

hút được sự quan tâm của số lượng lớn học viên, nhà nghiên cứu. Nội dung chương
trình nhằm cung cấp một sự hiểu biết chung về những nhân tố ảnh hưởng đến quá
trình lập quy hoạch, các kỹ năng nghiên cứu của nhà quy hoạch. Những kỹ năng này
bao gồm phân tích kinh tế khu vực và đô thị, đánh giá các chính sách môi trường và
khu vực, nghiên cứu các yếu tố thể chế và chính trị tác động đến phát triển thành phố
và khu vực. Các môn học chuyên ngành chính: Tính kinh tế của Quy hoạch vùng và
đô thị, các khía cạnh xã hội và chính trị của quy hoạch vùng và đô thị, chính sách đô
thị và quy hoạch, Chính sách và phát triển vùng, kỹ thuật phân tích không gian kinh
tế,…
- Trường Đại học Georgetown (Hoa Kỳ)
Đại học Georgetown là một trong những trường hàng đầu tại Hoa Kỳ trong đào
tạo Thạc sĩ chuyên ngành Quy hoạch vùng và đô thị. Nội dung chuyên sâu của
chương trình tập trung ở một số môn học như: Thiết kế đô thị và sử dụng đất; Nhà
ở, cộng đồng và phát triển kinh tế, Lịch sử và lý thuyết quy hoạch đô thị… Ngoài
các môn học trên, học viên còn được tiếp xúc với các chuyên gia xuất sắc đến để
thuyết trình về một loạt các chủ đề đa dạng như duy trì giao thông công cộng, lập kế
hoạch đầu tư tại các thành phố và xử lý các sáng kiến quy hoạch...
Thông qua các chương trình đào tạo của một số trường trên thế giới và Việt Nam
có thể nhận thấy hiện nay chưa có bất cứ một chương trình đào tạo chuyên sâu nào về
Quy hoạch phát triển (với nội hàm về quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội) ở Việt Nam.
18


Do đó việc mở mới mã ngành đào tạo này là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu
thực tiễn thực hiện và triển khai Luật Quy hoạch ở Việt Nam.
1.4.4. Căn cứ ngành đào tạo đáp ứng được nhu cầu của người học
Hiện nay nhu cầu được đào tạo tiếp tục lên bậc cao học về lĩnh vực Quy hoạch
phát triển như đã trình bày ở các nội dung trên là rất lớn nhưng số lượng cơ sở đào
tạo cao học về lĩnh vực này chưa có ở Việt Nam. Qua khảo sát nhu cầu của người
học, với số sinh viên đã tốt nghiệp tại trường với khối ngành Kinh tế có rất nhiều

sinh viên có nguyện vọng được tiếp tục học tập nâng cao lên trình độ thạc sĩ và cũng
qua khảo sát nhu cầu của cơ quan quản lý và thực thi Luật Quy hoạch, xây dựng Quy
hoạch trên phạm vi cả nước (Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Sở Kế hoạch và Đầu tư các
tỉnh; các Bộ, Ngành, Sở liên quan, các Viện nghiên cứu, các Cơ quan tư vấn Quy
hoạch) đều có nhu cầu được đào tạo nâng cao cho các cán bộ của cơ quan.
Vì vậy, việc mở ngành đào tạo Quy hoạch phát triển có trình độ Thạc sĩ là một
yêu cầu chính đáng và hết sức cần thiết, đáp ứng được nguyện vọng, nhu cầu của
người học hiện nay.
1.4.5. Căn cứ vào các khả năng đảm bảo chất lượng và hợp tác đào tạo của
Học viện
Học viện có đội ngũ cán bộ giảng dạy về Quy hoạch phát triển với trình độ cao,
đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ với các chuyên gia về Quy hoạch phát triển thuộc
Vụ Quản lý Quy hoạch, Viện Chiến lược phát triển, Viện Quản lý kinh tế Trung
ương (Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Đây là những cơ quan đầu mối được Chính phủ giao
thực hiện nhiệm vụ quản lý và xây dựng quy hoạch phát triển ở Việt Nam. Chính vì
thế, phần lớn các chuyên gia thuộc 03 cơ quan phối hợp đào tạo trên có rất nhiều
kinh nghiệm cả về lý thuyết và thực tiễn công tác quy hoạch phát triển ở Việt Nam.
Số lượng cán bộ giảng dạy của Học viện có khả năng đáp ứng chương trình đào
tạo gồm 04 PGS; 17 tiến sĩ. Đội ngũ giảng viên có nhiều năm kinh nghiệm thực tế nên
do đó đáp ứng được nhu cầu đào tạo của chuyên ngành. Học viện cũng đã có đủ điều
kiện cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên để đào tạo được Thạc sĩ Quy hoạch phát
triển đạt chuẩn theo quy chế và quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

19


PHẦN 2. NĂNG LỰC CỦA CƠ SỞ ĐÀO TẠO
2.1. Khái quát chung về quá trình đào tạo
2.1.1. Các ngành, trình độ và hình thức đang đào tạo
Từ năm 2012 đến tháng 12 năm 2017, Học viện Chính sách và Phát triển có

5 ngành đào tạo bậc đại học (Kinh tế, Chính sách công, Tài chính – Ngân hàng,
Kinh tế quốc tế, Quản trị doanh nghiệp) với 10 chuyên ngành/chương trình đào tạo.
Trong đó, có 02 chương trình chất lượng cao (Kinh tế đối ngoại, Tài chính ngân
hàng) và 08 chương trình đại trà (Quản lý công, Tài chính, Ngân hàng, Đầu tư, Đấu
thầu, Kế hoạch phát triển, Kinh tế đối ngoại, Quản trị doanh nghiệp). Học viện đào
tạo sau đại học trình độ Thạc sĩ có 03 chuyên ngành đào tạo (Chính sách công, Tài
chính – ngân hàng, Kinh tế quốc tế).
2.1.2. Quy mô đào tạo các trình độ, hình thức đào tạo
Học viện Chính sách và Phát triển thực hiện đào tạo các ngành Kinh tế, Chính
sách công, Quản lý Nhà nước, Quản trị kinh doanh và Tài chính ngân hàng. Trong
khoảng thời gian 10 năm thành lập, Học viện có 8 năm đào tạo trình độ đại học, 3
năm đào tạo Thạc sĩ. Học viện tuân thủ các quy định liên quan đến công tác đào tạo
và ban hành các văn bản quản lý về QLĐT. Trong 5 năm gần đây, Học viện đã sắp
xếp lại các ngành học, phát triển thêm 3 ngành học mới, sửa đổi, bổ sung toàn bộ
các CTĐT. Xây dựng và công khai khoảng hơn 200 đề cương chi tiết các học phần.
Sự phát triển này xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo của Học viện và
đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao của xã hội. Các CTĐT mới xây
dựng được tham khảo từ các chương trình của các nước tiên tiến, có sự đóng góp ý
kiến của các nhà khoa học trong và ngoài trường, của các nhà sử dụng lao động, các
cựu sinh viên của trường. CTĐT được định kỳ bổ sung, điều chỉnh. Các CTĐT có
mục tiêu rõ ràng, liên thông, đáp ứng được chuẩn đầu ra.
Đào tạo bậc đại học gồm: Hình thức đào tạo đại học hệ chính quy với quy mô
tuyển sinh từ 350 - 500 sinh viên/khóa; hình thức đào tạo chất lượng cao (tuyển sinh
từ năm 2015) đáp ứng yêu cầu xã hội về nguồn nhân lực có chất lượng cao; hình
20


thức liên kết đào tạo với các trường đại học nước ngoài: trường MiddleSex (Đại học
của Anh) theo hình thức 3+1; trường Purdue (Đại học của Mỹ) theo chương trình
liên kết 2+2.Hiện nay, Học viện đang tổ chức đào tạo cho 2.222 sinh viên với 49 lớp

sinh viên, thuộc 08 chuyên ngành đào tạo (Khoa Đào tạo quốc tế 330 sinh viên, Khoa
Chính sách công 153 sinh viên, Khoa Quản trị doanh nghiệp 275 sinh viên, Khoa
Đầu tư 279 sinh viên, Khoa Đấu thầu 159 sinh viên, Khoa Kinh tế đối ngoại 417
sinh viên, Khoa Tài chính tiền tệ 353 sinh viên, Khoa Kế hoạch phát triển 340 sinh
viên). Học viện Chính sách và Phát triểnluôn hướng đến chính sách phục vụ người
học theo quan điểm “Người học là trung tâm” và đồng thời là “chủ thể tương tác
nâng cao chất lượng đào tạo”. Người học được Học viện hướng dẫn đầy đủ về
chương trình đào tạo, kiểm tra đánh giá và các quy định trong quy chế đào tạo của
Bộ Giáo dục và Đào tạo.Người học tại Học viện được đảm bảo đầy đủ các quyền
lợi, các chế độ chính sách xã hội và được chăm sóc, tạo điều kiện để tu dưỡng, rèn
luyện bằng các biện pháp thiết thực, hiệu quả, mà còn tham gia vào quá trình đánh
giá các khâu, quy trình, chương trình đào tạo, chất lượng phục vụ. Người học tại
Học viện có chỉ số năng lực tốt, có nền tảng kiến thức phổ thông vững chắc, sức học
tốt; thái độ tinh thần học tập chăm chỉ, tự tin, thể hiện được năng lực của bản thân,
có khả năng đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng nói riêng và của xã hội nói chung.
Học viện đã có 4 khoá sinh viên tốt nghiệp. Trong đó: năm 2014 là 267 sinh
viên, năm 2015 là 317 sinh viên, năm 2016 là 277 sinh viên và năm 2017 là 395 sinh
viên. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp luôn đạt khoảng 80% so với số tuyển vào. Tỷ lệ sinh
viên có việc làm sau 12 tháng đạt trên 80%, trong đó khoảng 30% có việc làm đúng
ngành đào tạo.
Đào tạo bậc sau đại học gồm: đào tạo trình độ Thạc sĩ với 3 khoá về các
chuyên ngành Chính sách Công, Tài chính Ngân hàng tại Học viện và đào tạo Thạc
sĩ cho các vùng trọng điểm của quốc gia: Quảng Ninh, Thái Bình, Hải Dương, Điện
Biên và một số tỉnh nhằm đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho các vùng này.
Học viện tuyển sinh cao học từ năm 2015 và trong 3 năm qua đã tuyển được 273 học
viên cao học.Riêng đào tạo Tiến sĩ Học viện đang xin chỉ tiêu của Bộ Giáo dục và
Đào tạo và sẽ triển khai giảng dạy vào thời gian tới (năm 2018).

21



Hình thức đào tạo ngắn hạn cấp chứng chỉ cho người học: Học viện thường
xuyên và định kỳ mở các lớp đào tạo ngắn hạn bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cho
người học về các lĩnh vực: Đấu thầu cơ bản, nâng cao; Nghiệp vụ kinh doanh XNK.
Đào tạo theo nhu cầu xã hội bao gồm: Đào tạo theo đơn đặt hàng của Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam về Kỹ năng sư phạm nâng cao.
Các chương trình học đều được đánh giá phù hợp với nhu cầu xã hội và thực
hiện theo đúng quy trình quản lý, có tài liệu bài môn học, đảm bảo chất lượng đào
tạo thông qua các ý kiến phản hồi của người học về các khóa đào tạo.
Đối với chuyên ngành Quy hoạch phát triển, Học viện đã đào tạo được 06
khóa, số lượng sinh viên tuyển sinh của các khóa cụ thể như sau:
Hình 2. Số lượng tuyển sinh chuyên ngành Quy hoạch phát triển
100

80
80
60

50

45

45

Khóa 3

Khóa 4

40


42

40
20
0
Khóa 1

Khóa 2

Khóa 5

Khóa 6

Hiện đã có 04 khóa sinh viên tốt nghiệp Cử nhân chuyên ngành Quy hoạch
phát triển, số lượng cụ thể như sau:
Hình 3. Số lượng sinh viên tốt nghiệp
chuyên ngành Quy hoạch phát triển

100
80

71

60
40

38

39


41

Khóa 2

Khóa 3

Khóa 4

20
0
Khóa 1

22


Nhìn chung, tỉ lệ giữa số sinh viên tốt nghiệp với số sinh viên tuyển sinh đầu
vào của chuyên ngành Quy hoạch phát triển là khá cao, đạt khoảng 90%.
2.1.3. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm trong 2 năm gần nhất của ngành đăng
ký đào tạo
* Đối với quy mô toàn Học viện, tỷ lệ người học có việc làm phù hợp với
ngành nghề đào tạo tăng hàng năm, theo báo cáo tổng hợp về khảo sát cựu sinh viên
ra trường, tỷ lệ sau 6 tháng có việc làm đạt trên 90%.
Người học tại Học viện Chính sách và Phát triển hoàn toàn có đủ năng lực và
kỹ năng để tự tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi tốt nghiệp. Theo Kết quả
khảo sát sơ bộ của Phòng Chính trị và Công tác sinh viên và các Khoa quản lý sinh
viên về tình hình sinh viên tự tìm việc làm và tạo việc làm đối với Cựu sinh viên
khóa 1, 2, 3, 4, có tới: 87% sinh viên tạo việc làm thông qua các hình thức tự kinh
doanh và chiếm 68,9% sinh viên làm khu vực ngoài nhà nước và 15,3% sinh viên
làm trong khu vực nhà nước. Nhằm tạo điều kiện hỗ trợ sinh viên tìm kiếm việc làm,
ngay trong thời gian học tại Học viện, thông qua giới thiệu của giảng viên các khoa

và trong quá trình thực tập, nhiều người học đã tiếp cận được với cơ hội nghề nghiệp
và có việc làm sau khi vừa tốt nghiệp.
Học viện đã tiến hành khảo sát mức độ phù hợp việc làm của sinh viên sau
khi tốt nghiệp. Kết quả điều tra sơ bộ bước đầu cho thấy, tỷ lệ trung bình sinh
viên tốt nghiệp có việc làm là 79,98%, trong đó có 63% sinh viên tốt nghiệp có
việc làm phù hợp với chuyên ngành đào tạo; tỷ lệ sinh viên có việc làm phù hợp
với chuyên ngành đào tạo có xu hướng tăng theo từng năm, tuy chưa nhiều. Cụ
thể, năm 2015, tỷ lệ này là 58,56%, năm 2016 là 59,38%, năm 2017 là 71,06%.
Trong số những người học của Học viện đã tốt nghiệp thực sự trưởng thành và có
khả năng tạo được làm cho người khác.
* Đối với chuyên ngành Quy hoạch phát triển, qua kết quả điều tra sơ bộ đối
với các sinh viên Tốt nghiệp trong 02 năm gần nhất (khóa 3 và khóa 4) cho thấy tỉ
lệ có việc làm của sinh viên đạt 83,5%. Số lượng sinh viên chưa tìm được việc làm
chủ yếu là các đối tượng học tiếp lên trình độ cao hơn hoặc lí do về gia đình (đã lập
gia đình và sinh con nhỏ đối với sinh viên nữ).

23


2.2. Đội ngũ giảng viên, cán bộ cơ hữu
Bảng 5. Danh sách giảng viên, nhà khoa học cơ hữu tham gia đào tạo các học phần trong chương trình đào tạo chuyên
ngành Quy hoạch phát triển trình độ Thạc sĩ
TT
1.

2.

3.

4.


5.

Họ và tên,
năm sinh,
chức vụ hiện
tại

Học
hàm,
năm
phong

Đào
Văn PGS
Hùng, 1960, 2005
Giám đốc Học
viện
Trần Trọng PGS
Nguyên, Phó 2015
Giám đốc Học
viện
Phạm
Quý
Thọ,
1955,
Giảng viên cao
cấp
Ngô
Phúc

Hạnh, 1977,
Trưởng khoa
Nguyễn Thạc
Hoát,
1960,
Trưởng khoa

PGS
2002

PGS,
2014

Học vị,
nước,
năm tốt
nghiệp
Tiến sỹ
Việt Nam

Tiến sỹ
Việt Nam

Tiến sỹ
LB Nga
TS Việt
Nam
Tiến sỹ
Việt Nam


Ngành/ Chuyên
ngành

Tham gia đào tạo
SĐH (năm, CSĐT)

Thành tích khoa học (số
lượng đề tài, các bài báo)

Tham gia giảng dạy
học phần

02 giáo trình, 04 sách
chuyên khảo, 02 đề tài cấp
Nhà nước, 08 đề tài cấp Bộ;
04 kỷ yếu Hội thảo cấp Bộ;
15 bài báo khoa học
04 sách chuyên khảo, 02 đề
tài NCKH cấp Bộ, 02 đề tài
NCKH cấp cơ sở, 20 bài
báo khoa học, 04 kỷ yếu hội
thảo
01 đề tài cấp Nhà nước, 12
đề tài cấp Bộ, 28 bài báo
khoa học, 03 kỷ yếu hội
thảo
04 giáo trình, chủ nhiệm 03
đề tài cấp cơ sở, tác giả
hoặc đồng tác giả của 29 bài
báo

02 đề tài cấp bộ, 03 bài báo
khoa học, 10 bài viết kỳ yếu
hội thảo

Quản trị Nhà nước

Tài chính –
Ngân hàng

Đại học Kinh tế
quốc dân, Viện
Chiến lược phát
triển…

Kinh tế

Đại học Kinh tế
quốc dân, Viện Toán
học…

Kinh tế

Đại học Kinh tế
quốc dân, …

Kinh tế

Đại học Thương mại

Tài chính –

Ngân hàng

Đại học Kinh tế
quốc dân, Viện
Chiến lược phát
triển…

24

Phân tích và dự báo
kinh tế - xã hội

Chính sách công

Chính sách công

Quản lý dự án đầu tư

Ghi
chú


×