Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

ĐỀ ÁN Tăng cường công tác đào tạo theo nhu cầu xã hội trong lĩnh vực du lịch đến năm 2025

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.67 KB, 48 trang )

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU
LỊCH ___________________________________

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
_________________________________________________________

ĐỀ ÁN
“Tăng cường công tác đào tạo theo nhu cầu xã hội
trong lĩnh vực du lịch đến năm 2025”
(Ban hành theo Quyết định số 844/QĐ-BVHTTDL ngày 11 tháng 3 năm 2016
của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
_________________________

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết xây dựng Đề án
Trong thực tế, nguồn nhân lực có một vị trí, vai trò quyết định trong quá
trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của bất cứ quốc gia nào.
Khi nguồn nhân lực đủ về số lượng, cao về chất lượng và hợp lý về cơ cấu sẽ đảm
bảo cho kinh tế, văn hóa, xã hội tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Nguồn
nhân lực ấy được hình thành chủ yếu do sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Tại Việt
Nam, sự nghiệp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực luôn nhận được sự quan tâm
của Trung ương Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành và được thể hiện trong các
chủ trương, chính sách rất cụ thể. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như
hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã xác định cần thiết phải tăng cường công tác đào
tạo theo nhu cầu xã hội, định hướng hội nhập, đảm bảo đáp ứng yêu cầu dịch
chuyển lao động trong khu vực và quốc tế.
Chủ trương trên của Đảng và Nhà nước đã được khẳng định nhất quán
trong trong nhiều Nghị quyết, Quyết định của Trung ương, Chính phủ và các Bộ
ngành liên quan. Cụ thể:
- Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị lần thứ VIII Ban


Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Nghị quyết số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính
phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW đã xác định: “Tăng cường quản lý chất
lượng đầu ra ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học đảm bảo
chất lượng nguồn nhân lực theo yêu cầu của thị trường lao động”.
- Nghị định 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 về chính sách
khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy
nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường và Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày
08/12/2014 của Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt
Nam trong thời kỳ mới.


- Quyết định số 4279/QĐ-BVHTTDL ngày 25 tháng 12 năm 2014 của Bộ
trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc ban hành Kế hoạch hành động
của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai Chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế;
Như vậy, chủ trương tăng cường đào tạo đáp ứng với yêu cầu của bối cảnh
thực tiễn trong giáo dục nói chung, giáo dục đào tạo trong lĩnh vực du lịch nói
riêng nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của quốc gia đã được
khẳng định.
Thực tiễn phát triển ngành Du lịch trong bối cảnh mới, bối cảnh thực hiện
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
và Quy hoạch phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xây dựng và ban hành Quy hoạch
phát triển nhân lực ngành du lịch giai đoạn 2011-2020 (Quyết định số 3066/QĐBVHTTDL ngày 29/9/2011 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).
Quy hoạch phát triển nhân lực ngành du lịch đã có mục tiêu, kế hoạch, lộ trình

triển khai các kế hoạch đặt ra, đảm bảo đến năm 2020 có đội ngũ nhân lực đạt
chuẩn cao, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn ngành, doanh nghiệp và xã hội và đảm
bảo các yêu cầu phát triển, đưa Ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Với những yêu cầu mới về số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ nhân
lực đòi hỏi có những bước đột phá nhằm giải quyết những vấn đề bất cập, hạn
chế của nguồn nhân lực hiện nay, gồm: Thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu lao động
có kỹ năng nghề và trình độ chuyên môn cao, kỹ năng mềm và khả năng giao
tiếp bằng ngoại ngữ còn nhiều hạn chế, trình độ quản lý còn yếu, vấn đề đào tạo
phát triển đội ngũ nhân lực chưa gắn với yêu cầu thực tiễn, hội nhập quốc tế…
đã và đang ảnh hưởng tới chất lượng phát triển của ngành. Hoạt động đào tạo và
phát triển nhân lực du lịch đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, việc liên kết
hợp tác với doanh nghiệp trong đào tạo với các đối tác trong và ngoài nước đã
được triển khai tương đối mạnh ở một số cơ sở đào tạo tuy nhiên mới dừng ở
mức độ tự phát, hiệu quả chưa cao, chưa có hệ thống, chưa đáp ứng yêu cầu đặt
ra. Hiện trạng cho thấy, ở nhiều cơ sở đào tạo, việc nắm bắt nhu cầu xã hội, tổ
chức đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội còn thụ động, chưa có kế
hoạch, lộ trình và tầm nhìn cụ thể về vấn đề này.
Thời gian qua đã có những hội thảo khoa học liên quan đến vấn đề đào tạo
theo nhu cầu xã hội, nhiều quan điểm, ý kiến đã được đề xuất, tuy nhiên, cho
đến nay chưa có Đề án tổng thể và chi tiết về tăng cường công tác đào tạo theo
nhu cầu xã hội trong lĩnh vực du lịch.
Vì vậy, việc xây dựng Đề án Tăng cường công tác đào tạo theo nhu cầu xã
hội trong lĩnh vực du lịch đến năm 2025 để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch,
đảm bảo phát triển bền vững trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước là một việc làm cần thiết, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn và hội nhập
quốc tế.
2


2. Mục đích, yêu cầu, phạm vi và đối tượng Đề án

2.1. Mục đích của Đề án
Đề án nhằm rà soát, đánh giá thực trạng công tác đào tạo theo nhu cầu xã
hội trong lĩnh vực du lịch. Trên cơ sở đó, đề xuất những nhiệm vụ, nội dung tăng
cường công tác đào tạo theo nhu cầu xã hội, đặc biệt chú trọng vào việc liên kết
hợp tác với các đơn vị sử dụng nhân lực du lịch trong các khâu của quy trình đào
tạo nhằm đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực du lịch đáp ứng yêu cầu thực tế. Đề
xuất giải pháp tăng cường các điều kiện đảm bảo công tác đào tạo nhân lực du
lịch theo nhu cầu xã hội cũng như việc xây dựng, công bố và sử dụng chuẩn kỹ
năng nghề trong kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo nhân lực du lịch.
2.2. Yêu cầu của Đề án
Quán triệt những nội dung chủ yếu trong Kế hoạch hành động của ngành
Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai Chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế;
Quán triệt Kế hoạch hành động của ngành Du lịch triển khai hiện Nghị
quyết số 92/NQ-CP ngày 08/12/2014 của Chính phủ về một số giải pháp đẩy
mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới;
Thực hiện, cụ thể hóa nội dung quan trọng của Quy hoạch phát triển nhân
lực ngành du lịch giai đoạn 2011 - 2020 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
Rà soát, đánh giá nhu cầu của xã hội về nhân lực du lịch, các điều kiện
đảm bảo và hiện trạng đào tạo theo nhu cầu xã hội trong lĩnh vực du lịch, xác
định rõ ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của công tác đào tạo nhân lực du lịch
so với nhu cầu phát triển của thực tế; những biện pháp đã thực thi, rút ra bài học
kinh nghiệm và đề xuất hướng khắc phục trong thời gian tới.
Đề xuất định hướng giải pháp, nhất là giải pháp về liên kết hợp tác với
doanh nghiệp du lịch trong tổ chức thực hiện tăng cường công tác đào tạo theo
nhu cầu xã hội trong lĩnh vực Du lịch đảm bảo hiện thực và khả thi.
2.3. Phạm vi và đối tượng Đề án
- Đề án “Tăng cường công tác đào tạo theo nhu cầu xã hội trong lĩnh vực

du lịch đến năm 2020” tiến hành trên phạm vi cả nước; phần phân tích và đánh
giá thực trạng từ năm 2010 đến nay; phần nhiệm vụ và giải pháp cho thời gian từ
2016 - 2025.
- Đối tượng của Đề án: Công tác đào tạo nhân lực du lịch của các cơ sở
đào tạo du lịch trên toàn quốc, trong đó tập trung vào đối tượng nhân lực được
đào tạo để phục vụ tại các doanh nghiệp du lịch, khách sạn.
3. Những căn cứ chủ yếu xây dựng Đề án
3.1. Căn cứ mang tính quan điểm
3


Đề án được xây dựng dựa trên cơ sở quán triệt các quan điểm, chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước: Nghị quyết số 44/NQ-CP ban hành Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 08/12/2014 của Chính phủ về
một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới.
3.2. Căn cứ pháp lý
- Luật du lịch 2005, Luật giáo dục đại học, Luật giáo dục nghề nghiệp,
Luật việc làm và các nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành các luật nêu trên;
- Nghị định số 76/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch; Quyết định số 123/QĐ-TTg ngày 16 tháng 01 năm 2014
của Thủ tướng Chính phủ về danh sách các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
-Nghị định 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 về chính sách
khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy
nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường;

- Quyết định số 4279/QĐ-BVHTTDL ngày 25 tháng 12 năm 2014 của Bộ
trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc ban hành Kế hoạch hành động
của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai Chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế;
- Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30/12/2011, Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030";
- Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ
về việc phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030”;
- Quyết định số 3066/QĐ-BVHTTDL ngày 29/9/2011 của Bộ trưởng Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch về việc Ban hành “Quy hoạch phát triển nhân lực
ngành du lịch giai đoạn 2011- 2020”;
3.3. Căn cứ thực tiễn
- Các chiến lược phát triển ngành Du lịch; quy hoạch nhân lực du lịch;
- Những kết quả nghiên cứu, điều tra, khảo sát… về công tác đào tạo theo
nhu cầu xã hội trong lĩnh vực du lịch.

4


4. Kết cấu của Đề án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị và phụ lục, nội dung chính của Đề
án “Tăng cường công tác đào tạo theo nhu cầu xã hội trong lĩnh vực du lịch đến
năm 2025” chia thành 2 phần chính: Phần thứ Nhất trình bày về thực trạng nhân
lực và công tác đào tạo theo nhu cầu xã hội trong lĩnh vực du lịch từ năm 2010
đến nay; Phần thứ Hai đề cập phương hướng, mục tiêu và giải pháp chủ yếu
nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo theo nhu cầu xã hội trong lĩnh vực du lịch đến

năm 2025.

5


Phần thứ Nhất
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU XÃ HỘI
TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH TỪ NĂM 2010 ĐẾN NAY
1.1. Thực trạng nhu cầu xã hội về nhân lực du lịch
1.1.1. Quy mô (số lượng)
Nhân lực ngành Du lịch hiện khoảng 1.931.550 người (trong đó có
603.600 lao động trực tiếp và trên 1.327.950 lao động gián tiếp), chiếm khoảng
3,6% tổng số lao động cả nước. Ước năm 2020, tổng nhân lực của ngành Du lịch
là 2,3 triệu người, trong đó có trên 800.000 lao động trực tiếp.
1.1.2. Chất lượng
Nhân lực du lịch trực tiếp có trình độ đào tạo sơ cấp, trung cấp và cao
đẳng du lịch chiếm 47,3% nhân lực được đào tạo, bằng 19,8% nhân lực toàn
Ngành. Nhân lực được đào tạo đại học và sau đại học về du lịch chiếm 7,4% số
nhân lực có chuyên môn du lịch, chiếm 3,2% tổng nhân lực. Nhân lực trình độ
dưới sơ cấp (đào tạo truyền nghề, dưới 3 tháng) chiếm 45,3% nhân lực có
chuyên môn, bằng 19,4% nhân lực toàn Ngành. Nếu chỉ tính nhân lực có trình
độ sơ cấp trở lên thì nhân lực được đào tạo chiếm khoảng 23% tổng nhân lực
toàn Ngành. Nếu tính thêm số nhân lực được đào tạo truyền nghề, dưới 3 tháng
thì nhân lực được đào tạo của ngành Du lịch đạt khoảng 42% tổng nhân lực toàn
Ngành. Nhân lực là hướng dẫn viên du lịch tốt nghiệp đại học chiếm khoảng
65,5% tổng số hướng dẫn viên; tỷ lệ này trong marketing du lịch là 84,2% và lễ
tân là 65,3%. Trong lĩnh vực phục vụ buồng, bar, bàn, bếp... lao động có trình độ
trung cấp và sơ cấp lại chiếm tỷ lệ lớn: Nhân viên bếp là 85,61%; bàn, buồng,
bar tương ứng là: 72,4%, 70,7%, 75,5%.
Nhân lực du lịch gián tiếp chưa thống kê được đầy đủ, năm 2015 có

khoảng 1.327.950 người, trong đó trình độ dưới sơ cấp là 725.060 người, chiếm
khoảng 54,6%; sơ cấp 236.375 người, chiếm khoảng 17,8%; trung cấp 201.848
người, chiếm khoảng 15,2%; đại học và cao đẳng 162.010 người, chiếm khoảng
12,2%; và trên đại học là 2.656 người, chiếm khoảng 0,2% tổng nhân lực gián
tiếp. Năm 2020 ước nhân lực gián tiếp khoảng trên 1,5 triệu người.
Về trình độ ngoại ngữ: Nhân lực sử dụng được ngoại ngữ khá cao, chiếm
60% tổng nhân lực; tuy nhiên đặc thù của Ngành đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa.
Nhân lực biết ngoại ngữ nhiều nhất là tiếng Anh, chiếm khoảng 42% tổng số
nhân lực toàn Ngành. Nhân lực sử dụng tiếng Trung, tiếng Pháp và các tiếng
khác là 5%, 4% và 9% nhân lực toàn Ngành. Riêng về số nhân lực biết sử dụng
tiếng Anh thì 85% nhân lực có trình độ tiếng Anh ở mức cơ sở, có thể giao tiếp
bình thường và có 15% số nhân lực có trình độ đại học, đọc, nói và giao tiếp
thông thạo. Số này chủ yếu nằm vào nhóm nhân lực làm hướng dẫn du lịch, lễ
tân khách sạn.
Phân tích theo nghề thì hướng dẫn du lịch, lữ hành, lễ tân, phục vụ nhà
6


hàng... có tỷ lệ sử dụng ngoại ngữ tương đối cao, đạt khoảng 88,6%. Song, số
nhân lực sử dụng thành thạo từ hai ngoại ngữ trở lên còn thấp, chiếm khoảng
3,8%. Nhóm nhân lực làm nghề hướng dẫn viên du lịch có số người tốt nghiệp
đại học ngoại ngữ chiếm tỷ lệ cao nhất là (49,6%), sau đó là nhóm marketing du
lịch (46,8%), lễ tân khách sạn khoảng 40%, trong khi đó nhóm nhân viên chế
biến món ăn hầu như không có người nghiệp đại học ngoại ngữ.
Về trình độ tin học: Toàn ngành Du lịch hiện có 434.854 người biết sử
dụng máy tính phục vụ được yêu cầu công việc, chiếm khoảng 72,04% tổng số
nhân lực là lao động trực tiếp thống kê được của Ngành; có 168.746 người
không biết sử dụng máy tính phục vụ yêu cầu công việc.
Về tính chuyên nghiệp: Để xác định mức độ đánh giá về tính chuyên
nghiệp của đội ngũ lao động hiện nay theo các cấp bậc trình độ được đào tạo

trong nhà trường, điều tra bảng hỏi đã được triển khai với các đối tượng là cơ
quan quản lý nhà nước về du lịch (các Sở VHTTDL/ Sở Du lịch) và các doanh
nghiệp du lịch. Kết quả cho thấy, mức độ đánh giá đối với đội ngũ nhân lực có
trình độ đại học và sau đại học được đánh giá tương đối cao, đạt 3,4130 theo
đánh giá của sở quản lý nhà nước và 3,0811 theo đánh giá của doanh nghiệp.
Đội ngũ lao động ở mức cấp độ đào tạo cao đẳng và trung cấp đạt mức điểm
3,2174 theo đánh giá của sở quản lý nhà nước và đạt 3,0541 theo đánh giá của
doanh nghiệp. Với cấp độ đào tạo sơ cấp nghề và ngắn hạn, cả 2 chủ thể đều
đánh giá thấp dưới mức độ bình thường với mức điểm của Sở quản lý nhà nước
là 2,9565 và mức điểm đánh giá của doanh nghiệp 2,4595. Mức độ đánh giá
thấp nhất: Hoàn toàn không đáp ứng yêu cầu và Đáp ứng một phần vẫn xuất
hiện trong các đánh giá. Mặt khác, mức độ đánh giá Đáp ứng ở mức độ khá còn
thấp, chưa cao, tỉ lệ đánh giá Đáp ứng rất tốt rất thấp (Tham khảo Bảng 1, Bảng
2 và Phụ lục 1, Phụ lục 2).
Như vậy, đánh giá chung, mức điểm đánh giá về tính chuyên nghiệp của
đội ngũ lao động hiện nay của cả hai chủ thể là người sử dụng lao động chưa
được cao. Đây là một vấn đề cần quan tâm đối với vấn đề đào tạo nguồn nhân
lực hiện nay.
Bảng 1. Đánh giá của các sở quản lý nhà nước
về du lịch về tính chuyên nghiệp sau khi ra trường của nhân lực du lịch
Các chỉ tiêu
Mức điểm đánh giá bình quân
Tổng số điểm đánh giá
Số lượng cơ quan đánh giá
Mức điểm đánh giá mức thấp nhất
Mức điểm đánh giá cao nhất

Đầu ra ĐH Đầu ra TC Đầu ra SCN
và SDH
và CĐ

và NH
3,4130
3,2174
2,9565
157,00
148,00
136,00
46
46
46
2
2
2
5
4
4

- Ghi chú: Mức điểm đánh giá từ 1 đến 5, cụ thể: Đáp ứng rất tốt (5 điểm), Đáp ứng ở mức độ khá (4
điểm), Bình thường (3 điểm), Đáp ứng được một phần (2 điểm) và Hoàn toàn không đáp ứng (1 điểm);
SĐH (sau đại học), ĐH (đại học), CĐ (cao đẳng), SCN (sơ cấp nghề), NH (ngắn hạn).
- Nguồn: Kết quả điều tra năm 2015.

7


Bảng 2. Đánh giá của các doanh nghiệp du lịch
về tính chuyên nghiệp của nhân lực sau khi ra trường
Các chỉ tiêu
Giá trị trung bình cộng
Tổng điểm

Số doanh nghiệp
Mức độ đánh giá cao nhất
Mức độ đánh giá thấp nhất

Đầu ra ĐH
Đầu ra TC
và SDH
và CĐ
3,0811
3,0541

Đầu ra SCN
và NH
2,4595

114,00
37
4

113,00
37
4

91,00
37
4

2

2


1

- Ghi chú: Mức điểm đánh giá từ 1 đến 5, cụ thể: Rất tốt (5 điểm), Đáp ứng ở mức độ khá (4 điểm),
Bình thường (3 điểm), Đáp ứng được một phần (2 điểm) và Hoàn toàn không đáp ứng được yêu cầu
(1 điểm).
- Nguồn: Kết quả điều tra năm 2015.

1.2. Thực trạng công tác đào tạo nhân lực du lịch theo nhu cầu xã hội
1.2.1. Thực trạng các điều kiện phục vụ công tác đào tạo theo nhu cầu
xã hội
1.2.1.1. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đào tạo du lịch
Những năm qua công tác quản lý nhà nước về đào tạo nhân lực du lịch
dần được củng cố: tập trung vào kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng và thực
hiện văn bản quy phạm pháp luật, chuẩn hóa chuyên môn đào tạo du lịch. Thành
lập và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về đào tạo và một số tổ chức
liên quan đến đào tạo nhân lực ngành Du lịch theo nhu cầu xã hội. Ở Trung
ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (trực tiếp là Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Đào
tạo và Tổng cục Du lịch) đã phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục - Đào tạo và
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
phát triển nguồn nhân lực du lịch toàn quốc. Ở địa phương, các Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Giáo dục - Đào tạo và Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội tham mưu cho UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà
nước về đào tạo, phát triển nhân lực du lịch trên địa bàn.
1.2.1.2. Hệ thống các văn bản QPPL trong giáo dục, đào tạo và dạy nghề
Các luật liên quan đến đào tạo du lịch là Luật giáo dục 2005, Luật dạy
nghề 2006 (đã hết hiệu lực từ 1/7/2015, tuy nhiên vẫn còn một số nội dung liên
quan vẫn đang được quy định bởi luật này), Luật du lịch 2005; Luật giáo dục đại
học 2013, Luật giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Nghị định số 75/2006/NĐ-CP
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật giáo dục, đặc biệt Nghị định

16/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp
công lập. Đây là những văn bản pháp quy quan trọng tạo điều kiện cho các cơ sở
đào tạo nói chung, cơ sở đào tạo du lịch nói riêng được mở rộng quyền chủ động
trong hoạt động và là tiền đề thúc đẩy hoạt động đào tạo.
8


Việc xây dựng và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục
và đào tạo được cụ thể hóa thành quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở đào
tạo du lịch; các tiêu chuẩn, quy định của ngành.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xây dựng “Chiến lược phát triển nhân
lực ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030”; Quy
hoạch phát triển nhân lực du lịch đến năm 2020. Xây dựng và ban hành hệ thống
tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia trong lĩnh vực du lịch để trên cơ sở đó người
lao động phấn đấu nâng cao trình độ về kiến thức và kỹ năng, tích lũy kinh
nghiệm tìm kiếm cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp; người sử dụng lao động
có cơ sở để tuyển chọn lao động, bố trí công việc và trả lương cho người lao
động; cơ sở đào tạo có căn cứ để xây dựng chương trình đào tạo tiếp cận chuẩn
kỹ năng, đáp ứng nhu cầu của xã hội; đồng thời cơ quan có thẩm quyền có căn
cứ để đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động.
Hiện nay, lĩnh vực du lịch đang có các hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề
đang song song tồn tại như sau:
- Hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia bao gồm 08 nghề 1 thuộc
nhóm nghề du lịch được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành
tại Thông tư số 01/2014/TT-BVHTTDL ngày 15/01/2014 trên cơ sở thỏa thuận
nhất trí của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và quy định của Luật dạy
nghề.
- Hệ thống Tiêu chuẩn kỹ năng nghề du lịch bao gồm 10 nghề (VTOS) 2
(Phiên bản mới 2013) do Dự án EU hỗ trợ xây dựng. Những tiêu chuẩn này làm
cơ sở cho người sử dụng lao động và cơ sở đào tạo gắn kết với nhu cầu xã hội;

người có nhu cầu có thể tự học, góp phần nâng cao và công nhận tiêu chuẩn
phục vụ cho đội ngũ lao động nghề ở trình độ cơ bản; quy định về tiêu chuẩn
hướng dẫn viên du lịch quốc tế, tiêu chuẩn giám đốc và nhân viên khách sạn...
- Hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề ASEAN bao gồm 06 nghề3 đã được
Bộ trưởng du lịch các nước ASEAN ký và cam kết thực hiện Thỏa thuận thừa
nhận lẫn nhau đối với lĩnh vực du lịch (MRA-TP). Thời gian thực hiện từ
31/12/2015.
- Các bộ tiêu chuẩn của Malaysia do Tổng cục Dạy nghề tiếp nhận khi
thực hiện chuyển giao đào tạo nghề trong đó có một số nghề thuộc lĩnh vực du
lịch.
Như vậy, hiện có rất nhiều hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề trong lĩnh
vực du lịch, có hệ thống tiêu chuẩn được xây dựng theo hướng tiếp cận các bước
công việc trong khi đó các hệ thống tiêu chuẩn khác lại được xây dựng theo
hướng tiếp cận năng lực của người lao động. Việc tồn tại cùng lúc nhiều hệ
1

Gồm: Nghề Quản trị Khách sạn, nghề Kỹ thuật chế biến món ăn, nghề Quản trị Lữ hành, nghề Hướng dẫn Du
lịch, nghề Dịch vụ nhà hàng, nghề Quản trị Du lịch MICE, nghề Quản trị Khu Resort và nghề Quản trị dịch vụ
thể thao giải trí.
2
Nghiệp vụ phục vụ buồng, lễ tân, nhà hàng, chế biến món ăn Âu, chế biến món ăn Việt Nam, làm bánh Âu, đặt
giữ chỗ buồng khách sạn, quản lý khách sạn vừa và nhỏ, an ninh khách sạn, đại lý lữ hành, điều hành tour,
hướng dẫn du lịch, đặt giữ chỗ trong lữ hành) và chuẩn tiếng Anh TOEIC trong du lịch.
3
Gồm: Nghề Lễ tân, Phục vụ Buồng, Phục vụ Nhà hàng, Chế biến món ăn, Đại lý Lữ hành và Điều hành Du lịch

9


thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề nêu trên gây khó khăn, lúng túng cho việc quản

lý của cơ quan quản lý nhà nước lẫn việc áp dụng thực hiện của các doanh
nghiệp, cơ sở đào tạo du lịch. Do đó cần có sự thống nhất quy định một hệ thống
tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia trong lĩnh vực du lịch để triển khai thực hiện
nhất quán trên cả nước.
Ngoài ra, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đề xuất với Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội danh mục 24 nghề và vị trí làm việc thuộc lĩnh vực
Khách sạn và Lữ hành phải sử dụng lao động đã qua đào tạo4.
1.2.1.3. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo
Cơ sở vật chất kỹ thuật: Các cơ sở đào tạo du lịch trực thuộc Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch đã được hoặc đang xây dựng mới, nâng cấp; cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, từng bước đổi mới, hiện đại hóa. Một số cơ sở đào
tạo chuyên về du lịch được xây dựng, mở rộng khá khang trang, nhất là các
trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề, đặc biệt là chín trường được thụ
hưởng dự án do Luxembourg tài trợ 5. Trong khuôn khổ Dự án đào tạo phát triển
nhân lực ngành Du lịch do EU tài trợ, cơ sở vật chất kỹ thuật của 14 trường thụ
hưởng Dự án được tăng cường và các trung tâm thẩm định kỹ năng nghề du lịch
được trang thiết bị hiện đại, đạt tiêu chuẩn EU. Trong khuôn khổ Dự án Nâng
cao kỹ năng nghề vốn vay ân hạn của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) của
Tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cơ sở vật chất kỹ
thuật đào tạo, dạy nghề du lịch của Trường Cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu,
Trường Cao đẳng nghề Du lịch-Thương mại Nghệ An và Trường Cao đẳng nghề
Phú Yên cũng được tăng cường. Công tác đầu tư nâng cấp và xây dựng mới cơ
sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo ở một số cơ sở đào tạo du lịch khác
được các Bộ, ngành, địa phương và các cơ sở đào tạo quan tâm. Cơ sở đào tạo
được mở rộng, nâng cấp, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, thí nghiệm và thực
hành được nâng cấp, từng bước đồng bộ hóa và hiện đại hóa. Một số cơ sở đào
tạo đã đầu tư xây dựng cơ sở thực hành (xưởng trường, khách sạn trường...)
tương đối hiện đại, đồng bộ. Một số trường đã có trung tâm thực hành nghề. Tuy
nhiên hiện vẫn còn một số cơ sở đào tạo cơ sở vật chất, thiết bị còn thiếu hoặc
chưa được trang bị đồng bộ, nhiều cơ sở chưa có xưởng thực hành, khách sạn
thực hành đặc biệt là các khoa đào tạo du lịch thuộc các trường đại học, các

trường không chuyên về du lịch nhưng vẫn được phép đào tạo du lịch.
1.2.1.4. Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên giáo viên
4

Đối với ngành Khách sạn có 8 nghề, vị trí công việc: Lễ tân; Phục vụ buồng; Phục vụ nhà hàng; Phục vụ bar;
Chế biến món ăn; Đặt giữ buồng; An ninh khách sạn; Quản lý khách sạn nhỏ và vừa. Đối với ngành Lữ hành có
16 nghề, vị trí công việc: Hướng dẫn viên du lịch quốc tế; Hướng dẫn viên du lịch nội địa; Thuyết minh viên du
lịch; Điều hành tour du lịch; Điều hành phương tiện vận chuyển du lịch; Xúc tiến du lịch và phát triển thị trường;
Phát triển sản phẩm du lịch; Bán sản phẩm du lịch; Quản lý khu, tuyến, điểm, đô thị du lịch; Quản lý, phát triển
tài nguyên du lịch; Đại lý lữ hành; Đặt giữ chỗ lữ hành; Quản trị lữ hành; Quản trị du lịch MICE; Quản trị dịch
vụ giải trí, thể thao và dịch vụ du lịch khác.
5
Trường Cao đẳng Du lịch Hà Nội, Trường Cao đẳng nghề Du lịch và Dịch Hải Phòng, Trường Cao đẳng nghề
Du lịch Huế, Trường Cao đẳng nghề Du lịch Đà Nẵng, Trường Cao đẳng nghề Du lịch Nha Trang, Trường Cao
đẳng nghề Du lịch Đà Lạt, Trường Trung cấp nghiệp vụ Du lịch Khách sạn Saigontourist (Tổng công ty Du lịch
Sài Gòn ) và Trường cao đẳng nghề Du lịch Vũng Tàu.

10


Đội ngũ giảng viên, giáo viên, đào tạo viên và cán bộ quản lý: Theo thống
kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện cả nước có khoảng 5.000 người
tham gia đào tạo mới về du lịch, trong đó có 2.000 giáo viên, giảng viên du lịch
(cả cơ hữu và thỉnh giảng), 540 cán bộ quản lý, phục vụ đào tạo các cấp và
2.579 đào tạo viên du lịch (có chứng chỉ đào tạo của Hội đồng cấp chứng chỉ Du
lịch Việt Nam).
Giảng viên, giáo viên cơ hữu là 1.460 người, chiếm khoảng 28% tổng số
nhân lực tham gia đào tạo mới về du lịch; giảng viên thỉnh giảng là 600 lượt
người, chiếm 11,6%. (Thực tế con số này cao hơn nhiều, có khoa đào tạo du lịch
giảng viên thỉnh giảng chiếm đến 73% tổng số giáo viên: 82 giảng viên thỉnh

giảng/29 giảng viên cơ hữu); cán bộ quản lý, phục vụ đào tạo khoảng 500 người,
chiếm 10%; đào tạo viên du lịch khoảng 2.600 người, chiếm 49%. Giáo viên,
giảng viên ở độ tuổi dưới 30 tuổi chiếm khoảng 29%, từ 31-50 tuổi chiếm 60%,
trên 50 tuổi chiến 11%. Hầu hết giảng viên, giáo viên đều biết ngoại ngữ
(khoảng 100 người biết 2 ngoại ngữ trở lên) và tin học phục vụ nghiên cứu,
giảng dạy. Trong số giảng viên, giáo viên du lịch có 2 giáo sư, 11 phó giáo sư, 1
tiến sĩ khoa học, 36 tiến sĩ, 210 thạc sĩ và 5 chuyên gia, nghệ nhân. Các khoa, bộ
môn đào tạo đại học du lịch đã huy động được các chuyên gia ngành Du lịch
làm giáo viên kiêm nhiệm, thỉnh giảng.
Thông qua các dự án do Luxembourg và EU tài trợ, dự án Tăng cường và
phát triển dạy nghề thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về Dạy nghề và Việc
làm và các chương trình dự án khác, nhiều giảng viên, giáo viên du lịch đã được
đào tạo nghiệp vụ tại Luxembourg, Singapore, Malaysia, Áo, Úc, New Zealand,
đào tạo bồi dưỡng trong nước đang phát huy tốt kiến thức đã học. Nhiều giảng
viên đã và đang được học tập, nghiên cứu du lịch, đào tạo du lịch tại các nước có
ngành du lịch phát triển. Đội ngũ giảng viên, giáo viên du lịch đang được trẻ
hóa, chính quy và hiện đại hóa để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, đội ngũ giảng viên, giáo viên các cơ sở đào tạo du lịch vẫn
còn bộc lộ nhiều hạn chế về cả số lượng, chất lượng và cơ cấu, đặc biệt thiếu
giáo viên giàu kinh nghiệm thực tế. Kiến thức chuyên sâu về du lịch của
giảng viên, giáo viên tích lũy chủ yếu qua các lớp bồi dưỡng và tự học; số
giảng viên giáo viên sử dụng thành thạo ngoại ngữ không nhiều.
Trong số giảng viên lâu năm, đội ngũ giảng viên, giáo viên được đào
tạo chính quy chuyên ngành du lịch có trình độ, chuyên môn vững về du lịch
chiếm tỷ lệ rất thấp (khoảng 30%), phần lớn còn lại có chuyên môn không
phải là du lịch. Đội ngũ giảng viên có học hàm, học vị cao chiếm tỉ lệ thấp,
năng lực ngoại ngữ, kỹ năng tin học, kiến thức hội nhập quốc tế vẫn còn hạn
chế. Giảng viên, giáo viên mới được đào tạo cơ bản hơn nhưng kinh nghiệm
giảng dạy và kinh nghiệm thực tiễn chưa nhiều. Những hạn chế này là khó
khăn rất lớn cho công tác hội nhập của các cơ sở đào tạo chuyên ngành, hạn

chế sức cạnh tranh.
11


1.2.1.5. Chương trình đào tạo, giáo trình
Đã ban hành chương trình khung trung học chuyên nghiệp ngành Du lịch.
Đã xây dựng và ban hành 14 Chương trình khung đào tạo nghề trình độ cao
đẳng nghề và trung cấp nghề. Các chương trình khung đào tạo nghề và 14
chương trình đào tạo chuyên nghiệp được biên soạn trước đây trong khuôn khổ
Chương trình hành động quốc gia về du lịch6 được phổ biến và tổ chức thực
hiện, tạo cơ sở tốt cho các cơ sở đào tạo du lịch trong toàn quốc. Biên soạn 51
giáo trình môn học cấp Bộ, 15 giáo trình chuyên ngành thuộc Dự án VIE/031.
Đã ban hành tạm thời chương trình khung đào tạo ngắn hạn nghiệp vụ hướng
dẫn du lịch và ngoại ngữ du lịch.
Chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo từng bước được đổi mới,
gắn với yêu cầu của thực tế. Chương trình, giáo trình của các cơ sở đào tạo du
lịch thể hiện tính liên thông cao. Công nghệ thông tin đã được sử dụng trong đào
tạo. Một số chương trình đào tạo bước đầu tiếp cận và hội nhập trình độ quốc tế.
Bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế như nội dung chương trình, phương pháp
giảng dạy chưa theo kịp yêu cầu của thực tế và trình độ quốc tế. Việc gắn kết nội
dung giảng dạy với thực tiễn ở một số cơ sở đào tạo còn hạn chế, kiến thức
chương trình, nội dung đào tạo chậm bổ sung, đổi mới, kết quả đào tạo chưa phù
hợp với nhu cầu của thực tiễn, còn thấp so với yêu cầu; việc áp dụng các phương
pháp đào tạo tiên tiến, hiện đại và công nghệ thông tin trong đào tạo còn chưa
thực sự phát huy hiệu quả.
1.2.1.6. Đánh giá về các điều kiện phục vụ đào tạo của các cơ sở đào tạo
du lịch hiện nay
Để có cái nhìn khách quan hơn về các điều kiện phục vụ đào tạo của các
cơ sở đào tạo chuyên ngành du lịch hiện nay, ý kiến đánh giá của người lao động
và cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước về du

lịch được kiểm chứng. Kết quả đánh giá của các đối tượng này về các điều kiện
phục vụ đào tạo của các cơ sở đào tạo tương đối tốt, mức điểm đánh giá đều đạt
trên 4 điểm, mức độ Khá. Cụ thể, mức độ đánh giá về chất lượng đội ngũ giáo
viên đạt 4,3333/5 điểm, mức độ đánh giá về chương trình, giáo trình đào tạo đạt
mức điểm 4,2650/5 điểm, mức độ đánh giá về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
đào tạo đạt mức 4,1453 điểm/5 điểm và mức độ đánh giá về các cơ sở thực tập
rèn luyện kỹ năng do nhà trường đã chuẩn bị đạt mức 4,4274 điểm/5 điểm. Tuy
vậy, mức độ đánh giá đáp ứng được một phần vẫn tồn tại và có tần xuất cao, vẫn
cần quan tâm để cải thiện trong thời gian tới đây (Tham khảo Bảng 3).
Bảng 3. Đánh giá của người lao động và cán bộ quản lý
về các điều kiện phục vụ đào tạo của các nhà trường
6

6 chương trình trung cấp, 2 chương trình cao đẳng, 2 chương trình đại học, 2 chương trình liên thông trung cấp
lên cao đẳng và 2 chương trình cao đẳng lên đại học.

12


Đánh giá
Đội ngũ
giáo viên

Tổng điểm
Giá trị đánh
giá bình quân
Tổng điểm
Mức độ đánh
giá thấp nhất
Mức độ đánh

giá cao nhất

Chương trình,
giáo trình

Cơ sở vật chất
kỹ thuật phục vụ
đào tạo

Cơ sở thực tập
(doanh nghiệp)
rèn luyện kỹ năng

117

117

117

117

4,3333

4,2650

4,1453

4,4274

507,00


499,00

485,00

518,00

2

2

2

2

5

5

5

5

- Ghi chú: Mức điểm đánh giá từ 1 đến 5, cụ thể: Đáp ứng rất tốt (5 điểm), Đáp ứng ở mức độ khá (4
điểm), Bình thường (3 điểm), Đáp ứng một phần (2 điểm) và Hoàn toàn không đáp ứng (1 điểm);
- Nguồn: Kết quả điều tra năm 2015

1.2.2. Thực trạng đào tạo theo nhu cầu xã hội từ năm 2010 đến nay
1.2.2.1. Hệ thống các cơ sở đào tạo du lịch trên cả nước
Cả nước hiện có 156 cơ sở tham gia đào tạo du lịch ở trình độ đại học, cao

đẳng, trung cấp và đào tạo ngắn hạn, gồm: 48 trường đại học; 43 trường cao
đẳng (trong đó có 10 trường cao đẳng nghề); 40 trường trung cấp (trong đó có
04 trường trung cấp nghề); 02 công ty đào tạo và 23 trung tâm, lớp đào tạo nghề.
Trường duy nhất trực thuộc doanh nghiệp là Trường Trung cấp Du lịch - Khách
sạn Saigontourist của Tổng Công ty Du lịch Saigontourist. Theo quy định, các
cơ sở đào tạo có thể đào tạo các bậc đào tạo thấp hơn; cơ sở đào tạo du lịch
chuyên nghiệp có thể tham gia đào tạo nghề, vì thế hiện nay cả nước có 169 lượt
cơ sở đào tạo tham gia đào tạo du lịch các cấp đào tạo từ công nhân bán lành
nghề đến sau đại học. Như vậy so với số liệu thống kê năm 2010 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, các cơ sở tham gia đào tạo du lịch giảm khoảng 49,7%
do một số nguyên nhân chính: Một là chưa thống kê đầy đủ cơ sở đào tạo du
lịch; hai là một số cơ sở được sáp nhập lại; ba là một số cơ sở giải thể hoặc dừng
tuyển sinh.
1.2.2.2. Kết quả đào tạo
a) Đào tạo mới
Hiện nay, mỗi năm cả nước tuyển sinh khoảng 22.000 học sinh, sinh viên
du lịch, trong đó giáo dục đại học là 3.870 sinh viên (1.770 sinh viên đại học,
cao đẳng chuyên nghiệp và 2.100 sinh viên cao đẳng nghề du lịch); trung cấp là
18.190 học sinh (tăng gần 30% so với năm 2007; gồm 14.495 học sinh trung học
chuyên nghiệp và 3.695 học sinh trung cấp nghề du lịch); sơ cấp nghề và đào tạo
du lịch dưới 3 tháng chưa có số liệu thống kê đầy đủ, ước khoảng 5.000 người
học. Số lượng học sinh, sinh viên tốt nghiệp hàng năm khoảng 20.000. Đào tạo
nghề sơ cấp, ngắn hạn có xu hướng tăng. Từ năm 2003, một số trường đại học
13


đã bắt đầu đào tạo thạc sỹ, nhưng quy mô còn hạn chế. Hiện nay chưa có cơ sở
đào tạo sau đại học bậc thạc sĩ và tiến sĩ chuyên ngành Du lịch với mã số riêng.
Tuyển sinh thạc sỹ và tiến sĩ với các đề tài về du lịch tăng nhưng quy mô còn
hạn chế. Nhìn chung, quy mô tuyển sinh các chuyên ngành du lịch ở tất cả các

bậc đào tạo ngày càng tăng, trong đó tốc độ tăng ở bậc đại học, cao đẳng nhanh
hơn so với bậc đào tạo trung học và dạy nghề do nhiều trường mới được mở
ngành đào tạo du lịch.
Chất lượng đào tạo có những bước tiến bộ. Ước khoảng 70% sinh viên tốt
nghiệp đại học, cao đẳng du lịch và 80% học sinh tốt nghiệp trung cấp du lịch
tìm được việc làm, cơ bản đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công việc và làm
việc có hiệu quả, có khả năng tiếp tục tự đào tạo, hòa nhập với tập thể lao động
và cộng đồng. Một số trường, chủ yếu là các trường du lịch trực thuộc Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, có học sinh, sinh viên đạt giải quốc gia và quốc tế
trong các cuộc thi quốc gia về du lịch, thi tay nghề quốc gia, thi tay nghề
ASEAN và thế giới. Trong điều kiện còn khó khăn, các cơ sở đào tạo du lịch đã
có cố gắng đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo. Đào tạo lý thuyết gắn với
thực hành được quan tâm hơn, khắc phục cơ bản tình trạng dạy “chay”. Hầu hết
các trường trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và các khoa, tổ bộ môn du lịch
của các trường đại học, cao đẳng đã tổ chức cho học sinh, sinh viên thực hành,
kiến tập, thực tập, tham gia các hoạt động du lịch và các hoạt động xã hội theo
định hướng nghề nghiệp. Hiện nay các cơ sở đào tạo về du lịch của cả nước đào
tạo 55 ngành, 123 chuyên ngành, nghề du lịch và liên quan đến du lịch.
b) Đào tạo lại, bồi dưỡng
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo Trường Cán bộ quản lý văn hóa,
thể thao và du lịch phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ và các địa phương tổ chức
các lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về du lịch trong toàn quốc. Công
chức hành chính của Tổng cục Du lịch được bồi dưỡng kiến thức quản lý hành
chính nhà nước tiền công vụ và ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên
viên cao cấp tương ứng với cơ cấu, cương vị công tác; cập nhật kiến thức tin
học, ngoại ngữ và quản lý nhà nước về du lịch. Bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học
chuyển hướng mạnh từ đại trà, phong trào sang chiều sâu, nâng cao theo yêu cầu
công vụ
Dự án Phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam do EU tài trợ xây dựng
và đưa vào vận hành hệ thống thẩm định và cấp chứng chỉ nghề theo hệ thống

Tiêu chuẩn kỹ năng 10 nghề du lịch Việt Nam (VTOS). Tổ chức nhiều khóa đào
tạo Đào tạo viên cho cán bộ nghiệp vụ của các khách sạn tại các trung tâm du
lịch lớn; tổ chức các khóa bồi dưỡng cho cán bộ quản lý nhà nước về du lịch;
nâng cao nhận thức về du lịch cho cán bộ của ngành Hải quan và Công an về tạo
điều kiện thuận lợi cho khách du lịch quốc tế đến Việt Nam; các khóa đào tạo
cán bộ quản lý doanh nghiệp cấp phòng trở lên; các khóa tiếng Anh và đào tạo
phương pháp giảng dạy hiện đại cho giảng viên giáo viên du lịch. Gửi 15 giáo
viên và 5 cán bộ quản lý nhà nước đi học 3 tháng ở Malaysia; 10 giáo viên học
chế biến món ăn Âu 1 tháng ở Áo.
14


Công tác đào tạo lại, bồi dưỡng viên chức quản lý, giảng viên, giáo viên
và người lao động trong các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp du lịch cũng có tiến
bộ. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trực tiếp là Tổng cục Du lịch và Hiệp hội
Du lịch quan tâm định hướng, hỗ trợ tổ chức các khóa bồi dưỡng, ưu tiên nội
dung quản trị kinh doanh lữ hành, nhà hàng, lễ tân, phục vụ ăn uống, quản trị
lưu trú, tiếp thị sản phẩm du lịch, tin học... Nhiều khóa bồi dưỡng chuyên đề về
du lịch được tổ chức cho giám đốc, phó giám đốc khách sạn, công ty lữ hành;
hướng dẫn viên; nhân viên lễ tân; nhân viên bếp. Các khách sạn, khu du lịch liên
doanh với nước ngoài, rất chú trọng đào tạo lại và bồi dưỡng người lao động, có
trung tâm đào tạo, bồi dưỡng lao động. Các doanh nghiệp du lịch đã quan tâm
bồi dưỡng cán bộ, nhân viên, liên kết với các cơ sở đào tạo để bồi dưỡng, huấn
luyện đội ngũ lao động; tổ chức các phòng hoặc trung tâm đào tạo của doanh
nghiệp, đầu tư nhiều cho đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học và chuyên môn
nghiệp vụ. Một số doanh nghiệp đã xây dựng chiến lược phát triển nhân lực, tập
trung đầu tư đào tạo bộ máy khung bằng cách gửi đi học nước ngoài, mời
chuyên gia của các chuỗi khách sạn quốc tế lớn đến huấn luyện hoặc gửi đi học
ở các cơ sở đào tạo du lịch ở trong nước. Nhiều doanh nghiệp tập trung đào tạo
đội ngũ giám sát, sử dụng các đào tạo viên đã được VTCB cấp chứng chỉ để đào

tạo lại, huấn luyện nhân viên tại chỗ.
1.2.2.3. Kết quả liên kết, hợp tác trong đào tạo nhân lực du lịch theo nhu cầu
xã hội
a) Liên kết, hợp tác quốc tế
Trong lĩnh vực du lịch đã ký kết 44 Hiệp định song phương và văn bản
hợp tác cấp chính phủ với các nước, Hiệp định hợp tác du lịch 10 nước ASEAN,
Thoả thuận thừa nhân lẫn nhau trong nghề du lịch (MRA-TP), tham gia các tổ
chức quốc tế liên quan đến du lịch, các chương trình và dự án hợp tác khu vực,
liên khu vực. Trong các cam kết quốc tế đó hợp tác phát triển nhân lực du lịch
luôn là nội dung được ưu tiên. Bộ Văn hóa, Thể thào và Du lịch (Tổng cục Du
lịch) đã tham gia xây dựng và ký tiêu chuẩn nghề du lịch ASEAN và cơ chế thừa
nhận lẫn nhau. Đây là cơ sở quan trọng để các nước ASEAN thống nhất ký hiệp
định chung về hợp tác đào tạo và sử dụng lao động du lịch.
Việc huy động nguồn lực quốc tế cho phát triển nhân lực ngành Du lịch
trong những năm qua đã thu được những kết quả đáng kể. Dự án Phát triển
nguồn nhân lực du lịch Việt Nam do EU tài trợ (Dự án EU) với vốn tài trợ
không hoàn lại 12 triệu EURO kết thúc, đạt được tất cả các mục tiêu đặt ra. Giai
đoạn 2 tài trợ 11 triệu EURO tập trung phát triển du lịch có trách nhiệm với môi
trường trong đó có hợp phần dành cho đào tạo nhân lực du lịch. Đã tiếp nhận và
triển khai thực hiện Dự án “Tăng cường năng lực nguồn nhân lực ngành Du lịch
và Khách sạn Việt Nam - VIE031” 3,384 triệu Euro do Luxembourg tài trợ. Đầu
năm 2013 Luxembourg đã quyết định kéo dài Dự án đến 30/6/2015 và tăng thêm
1 triệu EURO, hiện Dự án đã hoàn thành và đạt được kết quả tốt hỗ trợ tích cực
cho các cơ sở đào tạo du lịch trực thuộc Bộ và trường Trung cấp Khách sạn và
Du lịch Saigontourist trực thuộc Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn trong việc tăng
15


cường cơ sở vật chất, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giáo viên, biên soạn
giáo trình. Dự án ADB “Phát triển Du lịch bền vững Tiểu vùng Sông Mekong

mở rộng” triển khai Hợp phần “Phát triển nhân lực Du lịch Việt Nam” với kinh
phí 2,5 triệu USD (đào tạo cán bộ quản lý nhà nước về du lịch và liên quan đến
du lịch; đào tạo lao động của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong du lịch). Bên cạnh
đó còn có dự án Đổi mới và phát triển dạy nghề do Tổng cục Dạy nghề thuộc
Bộ LĐ-TBXH chủ trì và các dự án hỗ trợ kỹ thuật của Pháp, Tây Ban Nha,
Singapore, Bỉ, Tổ chức Du lịch thế giới của Liên hợp quốc (UNWTO), Cơ quan
hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA)...; nhiều chương trình nghiên cứu, khảo sát, tư
vấn và các khóa đào tạo về phát triển nhân lực ngành Du lịch với sự hợp tác của
chuyên gia nước ngoài được tổ chức.
b) Liên kết trong nước
Nhiều cơ sở đào tạo du lịch liên kết với nhau, với doanh nghiệp, Hiệp hội
Du lịch và với các Sở quản lý nhà nước để xây dựng chương trình đào tạo, cấp
chứng chỉ các trình độ, ngành nghề do đối tác đặt hàng, tham gia đóng góp xây
dựng và đánh giá chương trình đào tạo, tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo tiếp
cận tốt hơn với nhu cầu đào tạo, khảo sát doanh nghiệp để đánh giá chất lượng
đào tạo và hoàn thiện, đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp thực tiễn.
Các cơ sở đào tạo du lịch trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
thành lập Hội đồng Hiệu trưởng các trường du lịch để giao lưu, học tập chia sẻ
kinh nghiệm trong quản lý đào tạo, trao đổi chương trình, giáo trình, giảng viên,
giáo viên, sinh viên, hợp tác hỗ trợ nhau đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp
tác quốc tế, liên kết đào tạo chặt chẽ hơn.
Doanh nghiệp du lịch đã tạo điều kiện cho cán bộ quản lý cao cấp và
chuyên gia giỏi tham gia giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, làm giáo viên thỉnh
giảng hoặc báo cáo chuyên đề; hỗ trợ trang thiết bị dạy, học và tài liệu học tập;
tư vấn thiết kế các phòng thực hành (buồng, bar, bếp) và mua sắm trang thiết bị,
tài liệu học tập chuyên ngành cho cơ sở đào tạo. Đã tạo điều kiện để sinh viên,
người học cao học, nghiên cứu sinh thực tập, nghiên cứu thực hiện các đề tài
khóa luận, luận văn và luận án liên quan đến hoạt động doanh nghiệp. Doanh
nghiệp đối tác đã tài trợ hàng tỷ đồng, hàng trăm nghìn đô la cho cơ sở đào tạo
du lịch; tạo điều kiện cho giảng viên, giáo viên kiến tập tại doanh nghiệp, xét

cấp học bổng cho sinh viên đạt kết quả cao trong học tập; tài trợ cho sinh viên
xuất sắc.
Việc các cơ sở đào tạo đạo tạo, bồi dưỡng người lao động theo đơn đặt
hàng của các doanh nghiệp, hiệp hội và cơ quan quản lý nhà nước về du lịch đã
phổ biến hơn. Quan hệ phối hợp giữa cơ sở đào tạo và các đối tác được tăng
cường trong thẩm định đề tài, dự án mang tính chuyên môn và khả năng ứng
dụng trong ngành Du lịch; tổ chức hội thảo khoa học, giới thiệu việc làm; hỗ trợ
cơ sở đào tạo luyện kỹ năng “mềm” cho học sinh, sinh viên, gắn đào tạo trong
trường với hoạt động thực tiễn của doanh nghiệp.
Một số cơ sở đào tạo du lịch đã thành lập Ban Hướng nghiệp và Tư vấn
việc làm để tư vấn, giới thiệu ngành nghề, chuyên ngành đào tạo, cơ hội việc
16


làm sau khi tốt nghiệp cho đối tượng tuyển sinh của trường; tư vấn phương pháp
học tập, nội dung, đặc điểm ngành, nghề và trình độ đang được đào tạo; chính
sách, pháp luật Nhà nước liên quan đến ngành, nghề cho người học; tham gia
với địa phương về công tác hướng nghiệp và tư vấn việc làm, đào tạo theo yêu
cầu xã hội; thiết lập hệ thống thông tin về việc làm, thông tin hai chiều giữa nhà
trường và đơn vị sử dụng lao động; về học sinh, sinh viên tốt nghiệp theo từng
năm học để cung cấp cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng lao động.
1.2.3. Mức độ đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay
1.2.3.1. Về kiến thức chuyên môn
Về kiến thức chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo của đội ngũ nhân lực
du lịch hiện nay, kết quả điều tra xã hội học cho thấy, mức độ đánh giá của bản
thân người lao động và cán bộ quản lý đặt mức độ tương đối cao với mức điểm
4,3077/5 điểm. Tuy nhiên, mức độ đánh giá của các sở VHTTDL/Sở DL và các
doanh nghiệp chỉ đạt mức trên trung bình tương ứng với 3,4130/5 điểm và
3,1351/5 điểm. Với kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, mức độ đánh giá thấp nhất
dừng ở mức độ: Chưa đầy đủ, tần suất xuất hiện đánh giá này vẫn còn tương đối

nhiều, đây cũng là một vấn đề đặt ra đối với hoạt động đào tạo nguồn nhân lực
hiện nay (Tham khảo Bảng 4, Bảng 5, Bảng 6 và các Phụ lục 1, 2 và 3).
1.2.3.2. Về kỹ năng nghề nghiệp
Về kiến thức chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo của đội ngũ nhân lực
du lịch hiện nay, kết quả điều tra xã hội học cho thấy, mức độ đánh giá của bản
thân người lao động và cán bộ quản lý đặt mức độ tương đối cao với mức điểm
4,2479/5 điểm khá cao so với mức độ đánh giá của các sở VHTTDL/Sở DL và
các doanh nghiệp chỉ đạt mức trên trung bình tương ứng với 3,4565/5 điểm và
3,08211/5 điểm. Như vậy, theo đánh giá của các chủ thể sử dụng nguồn nhân
lực, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ chưa được cao, mới đáp ứng phần nào yêu
cầu của thực tế. Mặt khác, mức độ đánh giá thấp nhất dừng ở mức độ: Hoàn toàn
không phù hợp có xuất hiện trong đánh giá của doanh nghiệp và người lao động
và cán bộ quản lý. Ngoài ra, mức độ đánh giá Chưa đầy đủ có tần suất xuất hiện
vẫn còn tương đối nhiều, đây cũng là một vấn đề đặt ra đôi với hoạt động đào
tạo nguồn nhân lực hiện nay (Tham khảo Bảng 4, Bảng 5, Bảng 6 và các Phụ lục
1, 2 và 3).
1.2.3.3. Về thái độ, đạo đức nghề nghiệp
Về thái độ, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhân lực du lịch hiện nay,
kết quả điều tra xã hội học cho thấy, mức độ đánh giá của bản thân người lao
động và cán bộ quản lý đặt mức độ tương đối cao với mức điểm 4,3077/5 điểm,
tương đồng với đánh giá về kỹ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên, mức độ đánh giá
của các sở VHTTDL/Sở DL và các doanh nghiệp chỉ đạt mức trên trung bình
tương ứng với 3,6087/5 điểm và 3,3243/5 điểm. Mức độ đánh giá này có cao
hơn so với mức độ đánh giá về kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng
nghiệp vụ. Tuy nhiên vẫn chưa được cao so với mong muốn.
17


Với thái độ và đạo đức nghề nghiệp, mức độ đánh giá thấp nhất xuất hiện ở
mức độ: Hoàn toàn không phù hợp, theo đánh giá cả Người lao động và cán bộ

quản lý. Bên cạnh đó, mức độ đánh giá: Chưa đầy đủ, có tần suất xuất hiện còn
tương đối nhiều, đây cũng là một vấn đề đặt ra đối với hoạt động đào tạo nguồn
nhân lực hiện nay (Tham khảo Bảng 4, Bảng 5, Bảng 6 và các Phụ lục 1,2 và 3).
Bảng 4. Đánh giá của các sở quản lý nhà nước
về du lịch về kiến thức, kỹ năng và thái độ được đào tạo trong nhà trường
Các chỉ tiêu
Số lượng cơ quan đánh giá
Mức điểm đánh giá bình quân
Tổng số điểm đánh giá
Mức điểm đánh giá mức thấp nhất
Mức điểm đánh giá cáo nhất

Kiến thức
được
đào tạo
46
3,4130
157,00
2
5

Kỹ năng
được
đào tạo
46
3,4565
159,00
2
5


Thái độ
được
đào tạo
46
3,6087
166,00
2
5

- Ghi chú: Mức điểm đánh giá từ 1 đến 5, cụ thể: Rất tốt (5 điểm), Khá (4 điểm), Bình thường
(3 điểm), Chưa đầy đủ (2 điểm) và Hoàn toàn không phù hợp (1 điểm).
- Nguồn: Kết quả điều tra năm 2015.

Bảng 5. Đánh giá của các doanh nghiệp du lịch
về kiến thức, kỹ năng và thái độ được đào tạo trong nhà trường
Các chỉ tiêu
Số doanh nghiệp

Kiến thức
được
đào tạo

Kỹ năng
được
đào tạo

Thái độ
được
đào
tạo


37

37

37

Giá trị trung bình cộng

3,1351

3,0811

3,3243

Tổng điểm

116,00

114,00

123,00

4
2

5
1

5

2

Mức độ đánh giá cao nhất
Mức độ đánh giá thấp nhất

- Ghi chú: Mức điểm đánh giá từ 1 đến 5, cụ thể: Rất tốt (5 điểm), Khá (4 điểm), Bình thường
(3 điểm), Chưa đầy đủ (2 điểm) và Hoàn toàn không phù hợp (1 điểm).
- Nguồn: Kết quả điều tra năm 2015.

Bảng 6. Đánh giá cùa người lao động và cán bộ quản lý
về kiến thức, kỹ năng và thái độ sau khi ra trường
18


Các chỉ tiêu
Tổng điểm
Giá trị bình quân
Tổng điểm
Mức độ đánh giá thấp nhất
Mức độ đánh giá cao nhất

Đáp ứng
về kiến thức
117
4,3077
504.00
3
5

Đáp ứng

về kỹ năng
117
4,2479
497,00
1
5

Đáp ứng
về thái độ
117
4,3077
504,00
1
5

- Ghi chú: Mức điểm đánh giá từ 1 đến 5, cụ thể: Rất tốt (5 điểm), Khá (4 điểm), Bình thường
(3 điểm), Chưa đầy đủ (2 điểm) và Hoàn toàn không phù hợp (1 điểm).
- Nguồn: Kết quả điều tra năm 2015.

1.3. Đánh giá thực trạng công tác đào tạo theo nhu cầu xã hội
1.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân
1.3.1.1. Ưu điểm
- Số cơ sở đào tạo, quy mô, ngành nghề, cơ cấu đào tạo du lịch được sắp
xếp bố trí lại theo hướng tiếp cận nhu cầu xã hội. Cơ sở đào tạo du lịch phân bổ
theo 3 khu vực lớn trên phạm vi cả nước và tương đối hợp lý theo vùng miền, cơ
cấu ngành nghề đào tạo.
- Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên, giáo viên dần được
nâng cao, chuẩn hóa. Cán bộ, giáo viên, giảng viên được bồi dưỡng trình độ
chuyên môn, tỷ lệ có trình độ sau đại học tăng dần.
- Chương trình, giáo trình dần được hoàn thiện: Hiện nay, công tác xây

dựng chương trình, giáo trình đang được các trường tích cực triển khai xây
dựng, hoàn thiện dưới sự chỉ đạo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp
chặt chẽ với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tổng cục Dạy nghề Bộ Lao động Thương binh và Xã hội nhằm đảm bảo xây dựng hệ thống chương trình đào tạo
du lịch áp dụng thống nhất trên toàn quốc.
- Đầu tư tài chính, cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học ngày càng được
chú trọng, tăng cường: Ngoài nguồn ngân sách nhà nước cấp, các trường đều có
kế hoạch tự chủ về tài chính, tạo ra các nguồn tài chính hợp pháp, đáp ứng hoạt
động đào tạo, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác của trường. Công tác
quản lý tài chính cũng đã từng bước chuẩn hóa theo đúng quy định của Nhà
nước, đảm bảo phân bổ, sử dụng tài chính hợp lý và hiệu quả cho các đơn vị và
các hoạt động của trường.
- Kết quả đào tạo và chất lượng sinh viên tốt nghiệp của các trường du
lịch trực thuộc Bộ có khả năng đáp ứng tốt hơn yêu cầu công việc: Học sinh,
sinh viên các trường du lịch sau khi tốt nghiệp ra trường phần lớn phát huy được
khả năng tại lĩnh vực công tác của mình. Sinh viên tự khẳng định mình trong
học tập, giao tiếp, bộc lộ tư chất và phát huy được khả năng.
1.3.1.2. Những nguyên nhân của ưu điểm:

19


Thứ nhất, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước coi giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, được cụ thể hóa thành hệ thống văn bản
pháp quy của Chính phủ, các Bộ, ngành, từ định hướng và sự quản lý đúng đắn,
kịp thời của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tạo hành lang pháp lý cho công
tác đào tạo đi vào nền nếp, bài bản, quy mô và ngày càng phát triển.
Thứ hai, chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa - xã
hội, tạo điều kiện cho sự nghiệp đào tạo du lịch phát triển, tăng quy mô, đa dạng,
phong phú về loại hình, ngành nghề đào tạo, huy động mọi nguồn lực, đầu tư
của xã hội tham gia vào sự nghiệp đào tạo của ngành, đáp ứng nhu cầu đào tạo

ngày càng cao trong xã hội.
Thứ ba, các cơ sở đào tạo chủ động, nỗ lực cố gắng trong sự nghiệp đào
tạo. Các Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các địa phương nơi các trường du lịch trực
thuộc Bộ có trụ sở chính hỗ trợ, tạo điều kiện để các trường phát triển đồng thời
tăng cường quản lý và sát sao trong tổ chức thực hiện.
1.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
1.3.2.1. Hạn chế
- Quy mô đào tạo chưa đủ lớn, ngành nghề đào tạo thiếu, phân bố cơ sở đào
tạo du lịch chưa trải hết các vùng có nhu cầu lớn về đào tạo du lịch: Các cơ sở đào
tạo du lịch trực thuộc Bộ tuy đã phát triển nhưng năng lực đào tạo vẫn chưa đồng
đều và chỉ phân bổ ở các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Bà Rịa-Vũng Tàu.
- Đội ngũ giảng viên, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục còn thiếu về số
lượng, trình độ chuyên môn chưa cao, thiếu kinh nghiệm thực tế và phương pháp
giảng dạy chưa thật sự cuốn hút: Hầu hết các trường chưa xây dựng được kế hoạch
dài hạn phát triển đội ngũ giảng viên, giáo viên và cán bộ quản lý. Đã xảy ra sự hụt
hẫng về cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên sâu. Hiện nay, số
lượng cán bộ, giáo viên được gửi đi đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt
là đào tạo dài hạn tại nước ngoài gặp khó khăn vì khả năng ngoại ngữ, kinh phí đào
tạo và tâm lý ngại đi học trong thời gian dài của cán bộ, giảng viên. Bên cạnh đó là
phương pháp giảng dạy theo cách truyền thống, ngại thay đổi giáo án, ít ứng dụng
công nghệ mới và kết hợp nhiều phương pháp trong giảng dạy và đào tạo du lịch,
đặc biệt rất nhiều GVGV thiếu kinh nghiệm thực tế hoặc không cập nhật những kiến
thức, điều kiện phát triển thực tế của ngành. Do đó, bài giảng đôi khi còn tẻ nhạt,
thiếu thuyết phục và hấp dẫn.
- Chương trình đào tạo còn chậm đổi mới, giáo trình một số nghề còn thiếu
hoặc chưa hoàn chỉnh. Nhiều giáo trình không còn phù hợp, chưa chỉnh sửa, cập
nhật, ảnh hưởng đến tính thống nhất, chuẩn mực trong hệ thống đào tạo. Thư viện
của các trường mới đang được quan tâm đầu tư, còn khó khăn trong kinh phí nhập
sách báo, giáo trình điện tử của các nước để GVGV, HSSV tham khảo.

- Cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học chưa đồng bộ, còn thiếu: Cơ sở vật
chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập của các trường tuy đã
20


được đầu tư nhưng còn thiếu và chưa đồng bộ, còn lạc hậu. Xét về mặt tỷ trọng, tổng
mức đầu tư xây dựng cơ bản mới chỉ đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu thực tế của
các trường, nhất là các trường mới được thành lập.
- Thiếu sự quan tâm đúng mức về đào tạo ngoại ngữ, các kỹ năng mềm
cho học sinh, sinh viên. Các cơ sở đào tạo du lịch đã nhận thức được tầm quan
trọng của ngoại ngữ trong đào tạo du lịch và đã tăng thời lượng dạy ngoại ngữ
trong chương trình đào tạo, tuy nhiên phương pháp dạy ngoại ngữ chưa thực sự
hiệu quả và tích cực, đồng thời còn thiếu sự kết hợp rèn luyện, bồi dưỡng kỹ
năng ngoại ngữ, kỹ năng làm việc nhóm khi đào tạo các môn học, mô-đun nghề.
- Công tác phân loại và định hướng nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên
còn yếu. Chưa thực hiện, hoặc thực hiện chưa tốt việc phân loại và định hướng
nghề nghiệp cho HSSV ngay trong quá trình đào tạo và lựa chọn hoặc tư vấn cơ
sở thực tập phù hợp với khả năng, thế mạnh của từng học sinh, sinh viên.
- Thiếu sự liên kết, liên thông: Chưa có sự gắn kết và mối quan hệ thường
xuyên, chặt chẽ giữa đào tạo và cơ sở sử dụng nhân lực. Chưa thu hút được các
tổ chức sử dụng nhân lực, trước hết và đặc biệt là các doanh nghiệp vào quá
trình đào tạo nhân lực từ khâu tham gia hoạch định chính sách cho đến trực tiếp
đào tạo và đóng góp, trợ giúp kinh phí, nơi thực tập, kiến tập cho đào tạo nhân
lực. Các cơ sở đào tạo cũng thiếu sự liên kết với nhau.
1.3.2.2. Những nguyên nhân của hạn chế:
Thứ nhất, các tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng giảng dạy và học tập như:
Cơ sở vật chất, phương pháp đào tạo hiện nay chưa thực sự đáp ứng yêu cầu.
Chương trình đào tạo, nội dung giảng dạy chưa được đổi mới và cập nhật
thường xuyên. Giáo trình, tài liệu học tập, xưởng thực hành còn bất cập so với
yêu cầu thực tế. Hoạt động đánh giá và kiểm định các điều kiện đảm bảo chất

lượng đào tạo theo lộ trình được các cơ sở đào tạo triển khai ở giai đoạn đầu còn
gặp nhiều khó khăn do thiếu đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm. Công tác thanh
tra, kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo thường chỉ chú
trọng ở các đợt tuyển sinh đầu vào và tổ chức thi tốt nghiệp.
Thứ hai, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn thiếu về số lượng,
hạn chế về trình độ và chưa đồng bộ về cơ cấu. Tỷ lệ giảng viên, giáo viên có chức
danh giáo sư, phó giáo sư, có trình độ tiến sĩ trong các trường còn thấp so với yêu
cầu và so với mặt bằng chung các ngành đào tạo đại trà. Công tác đổi mới phương
pháp giảng dạy và học tập đã được triển khai song hiệu quả chưa cao. Trong các
trường vẫn còn tình trạng đọc-chép. Nhiều giảng viên, giáo viên trong tình trạng quá
tải nên không có thời gian để đầu tư nghiên cứu và đổi mới nội dung giảng dạy.
Thứ ba, cơ chế tài chính, đầu tư kinh phí, xây dựng cơ sở vật chất và chế độ
học phí còn bất cập. Ngân sách sự nghiệp cho lĩnh vực đào tạo du lịch có tăng nhưng
vẫn ở mức rất nhỏ so với yêu cầu phát triển. Việc cấp kinh phí đào tạo tính theo đầu
học sinh, sinh viên hiện nay là quá thấp đối với cả các ngành/ nghề đào tạo. Những
nguyên nhân này gây rất nhiều khó khăn cho các cơ sở đào tạo trong việc cân đối các
21


nguồn kinh phí, vừa để bảo đảm bù đắp chi phí, vừa đảm bảo nâng cao chất lượng
đào tạo để từng bước theo kịp các nước trong khu vực.
Thứ tư, chưa có cơ chế, chính sách phù hợp thúc đẩy mối quan hệ hợp tác
giữa cơ sở đào tạo và cơ sở sử dụng nhân lực du lịch. Trên thực tế chưa có những
ràng buộc về mặt pháp lý nhằm tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp sử dụng
lao động đối với sự nghiệp đào tạo nhân lực ban đầu của ngành tại các cơ sở đào tạo.
Thứ năm, hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia đối với các nghề trong
lĩnh vực du lịch chưa thống nhất để các cơ sở đào tạo căn cứ vào đó xây dựng
chương trình, kế hoạch đào tạo sát với yêu cầu thực tế. Bên cạnh đó, các doanh
nghiệp căn cứ vào hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia để tuyển dụng, đánh
giá và trả lương nhân viên.

Thứ sáu, chế độ chính sách đối với giảng viên, giáo viên và học sinh, sinh
viên các trường chưa hợp lý. Hệ thống các văn bản chế độ chính sách về chế độ
ưu đãi phụ cấp cho giảng viên, giáo viên và học sinh, sinh viên còn ở mức thấp,
chưa phù hợp, chưa có tác dụng khích lệ động viên, khuyến khích đội ngũ giảng
viên, giáo viên và học sinh sinh viên tài năng toàn tâm toàn ý cống hiến cho sự
nghiệp đào tạo du lịch. Chưa có chính sách thu hút các tài năng nhằm tạo nguồn
đội ngũ kế cận sự nghiệp đào tạo du lịch trong tương lai.

22


Phần thứ Hai
PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC ĐÀO TẠO THEO NHU CẦU XÃ HỘI
TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH ĐẾN NĂM 2025
2.1. Phương hướng, nhu cầu đào tạo nhân lực du lịch đến năm 2025
2.1.1. Phương hướng đào tạo nhân lực du lịch đến năm 2025
Công tác đào tạo theo nhu cầu xã hội trong lĩnh vực du lịch cần bám sát
định hướng phát triển du lịch mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
đã xác định và tư tưởng chính về phát triển du lịch nêu trong dự thảo văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Quán triệt thực hiện Nghị quyết số 29NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đồng thời phải tiếp tục thực hiện các quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo và giải pháp về đổi mới công tác giáo dục, đào tạo, dạy
nghề, chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam của Đảng và Nhà nước; các văn
bản chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và của Bộ Nội vụ, Bộ Giáo
dục-Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội. Nỗ lực huy động mọi nguồn
lực tập trung đẩy mạnh đào tạo phát triển nhân lực ngành Du lịch theo nhu cầu
xã hội khẩn trương, hiệu quả hơn, tạo được chuyển biến mạnh mẽ cả về số
lượng và chất lượng.

2.1.2. Nhu cầu đào tạo nhân lực du lịch đến năm 2025
Theo Chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2473/QĐ-TTg ngày 30 tháng
12 năm 2011 xác định nhu cầu nhân lực du lịch đến năm 2020 cụ thể như sau:
a) Về số lượng lao động: Đến năm 2020, lao động du lịch sẽ cần 870.000
lao động trực tiếp, giai đoạn 2021 - 2025 nhân lực du lịch tăng bình quân mỗi
năm khoảng 6%, lao động du lịch gián tiếp theo nhu cầu xã hội sẽ cần khoảng
2,2 - 2,5 triệu người.
b) Về chất lượng lao động: Được trang bị đúng, đủ kiến thức, kỹ năng
(quy trình kỹ thuật nghiệp vụ, chuyên môn, kỹ năng giao tiếp); có tinh thần thái
độ phục vụ chu đáo tận tuỵ, sẵn sàng phục vụ khách; và có năng lực ngoại ngữ,
tin học đảm bảo yêu cầu của từng nghiệp vụ cụ thể.
c) Về cơ cấu lao động: Đảm bảo hợp lý giữa các trình độ đào tạo (đại học,
cao đẳng, trung học và nghề); giữa các loại công việc (quản lý và lao động trực
tiếp); giữa các vùng, miền, địa phương tương ứng với tốc độ phát triển du lịch;
và giữa các ngành nghề (khách sạn, nhà hàng, lữ hành, các dịch vụ khác).
d) Về chuyên môn nghiệp vụ: Trong thời gian tới, bên cạnh đào tạo tiếng
Anh vẫn có nhu cầu lớn, nhu cầu đào tạo các ngoại ngữ khác cũng cao. Các kỹ
năng nghiệp vụ hoặc các năng lực chuyên sâu như kiến thức quản lý, lãnh đạo;
hoạch định chính sách; quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch; phát triển và
23


quản trị thương hiệu; khai thác phát triển sản phẩm du lịch có nhu cầu đào tạo
rất lớn. Yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ phải đảm bảo thực
thi được các công việc ở vị trí làm việc và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
đ) Về chuẩn hóa chức danh và nội dung đào tạo nhân lực du lịch theo
nhu cầu xã hội: Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu, toàn diện
đặt ra yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực ngành Du lịch phải chuẩn hóa
(chuẩn hóa chức danh lao động; cơ sở vật chất trường lớp; giảng viên, giáo viên;

và chương trình). Trước hết các chuyên ngành đào tạo (cả về kiến thức, kỹ năng,
phong cách) của từng chức danh nghề nghiệp du lịch phải được chuẩn hóa,
thống nhất, thể chế hóa bằng văn bản quy phạm pháp luật và áp dụng trong
phạm vi cả nước. Đồng thời cần thừa nhận và áp dụng các tiêu chuẩn nghề du
lịch khu vực ASEAN và tiếp thu chọn lọc chuẩn của các khu vực khác để có thể
áp dụng phù hợp với Việt Nam. Sự thừa nhận lẫn nhau (về chương trình, nội
dung kiến thức, kỹ năng chuyên ngành đào tạo và văn bằng, chứng chỉ ứng với
các trình độ đào tạo) là điều kiện để thúc đẩy quá trình tham gia thị trường lao
động du lịch trong khu vực và thế giới. Hướng tới lao động du lịch được đào tạo
của Việt Nam có thể di chuyển thuận lợi, đủ năng lực tham gia thực hiện các
công đoạn trong phân công lao động quốc tế trong du lịch.
2.2. Mục tiêu đào tạo theo nhu cầu xã hội trong lĩnh vực du lịch đến
năm 2025
2.2.1. Mục tiêu tổng quát
Đáp ứng tốt hơn nhu cầu đào tạo về du lịch của xã hội, trước mắt là đảm
bảo thực hiện mục tiêu đáp ứng 60 - 80% nhu cầu đào tạo nhân lực trực tiếp của
ngành Du lịch. Phấn đấu xây dựng được đội ngũ lao động ngành Du lịch đủ về
số lượng, cân đối về cơ cấu, cao về chất lượng, đảm bảo đáp ứng yêu cầu phát
triển du lịch nhanh và bền vững, phát huy được vai trò một ngành kinh tế mũi
nhọn, đủ sức cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu và toàn
diện, góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo; đồng thời đáp ứng
nhu cầu của nhân dân về học tập các ngành nghề liên quan đến du lịch để cải
thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống gia đình, cộng đồng.
2.2.2. Mục tiêu cụ thể
2.2.2.1. Đối với khối giáo dục đại học
- 100% các cơ sở giáo dục đại học trong lĩnh vực du lịch áp dụng khung
trình độ quốc gia, các tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia để xây dựng chương
trình, giáo trình và xác định chuẩn đầu ra trong đó 80% nhân lực được đào tạo
có khả năng đáp ứng nhu cầu xã hội.
- 100% các cơ sở giáo dục đại học trong lĩnh vực du lịch đào tạo, bồi

dưỡng năng lực ngoại ngữ đáp ứng nhu cầu và tuân thủ đúng quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về năng lực ngoại ngữ theo Khung năng lực Châu Âu đối
với cử nhân tốt nghiệp đại học.

24


- 80% các cơ sở giáo dục đại học trong lĩnh vực du lịch phối hợp, liên kết
chặt chẽ với các doanh nghiệp du lịch trong việc xây dựng chương trình, giáo
đào tạo, thực hành, thực tập thường xuyên trong quá trình đào tạo.
- Phấn đấu 80% nhân lực du lịch được đào tạo có các kỹ năng mềm như
khả năng giao tiếp hiệu quả, thái độ làm việc nghiêm túc, tư duy độc lập, sáng
tạo đồng thời có kỹ năng phối hợp, làm việc nhóm.
2.2.2.2. Đối với khối giáo dục nghề nghiệp
- 100% các cơ sở đào tạo du lịch thuộc khối giáo dục nghề nghiệp áp dụng
khung trình độ quốc gia, các tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia để xây dựng
chương trình, giáo trình và xác định chuẩn đầu ra trong đó 90% nhân lực được
đào tạo có khả năng đáp ứng nhu cầu xã hội.
- 70% nhân lực du lịch được đào tạo tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp có
khả năng sử dụng ngoại ngữ đáp ứng nhu cầu công việc.
- 100% nhân lực du lịch được đào tạo tại khối các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp được thực hành thường xuyên và được thực tập đúng chuyên ngành,
chuyên nghề đào tạo tại các doanh nghiệp du lịch.
- Phấn đấu 100% nhân lực du lịch được đào tạo có thái độ làm việc
nghiêm túc, tận tâm, có khả năng làm việc độc lập 70% trong số đó có các kỹ
năng mềm như khả năng giao tiếp hiệu quả, khả năng phối hợp làm việc nhóm.
2.3. Giải pháp tăng cường công tác đào tạo theo nhu cầu xã hội trong
lĩnh vực du lịch đến năm 2025
2.3.1. Hoàn thiện cơ chế chính sách, hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về đào tạo theo nhu cầu xã hội trong lĩnh vực du lịch

- Tiếp tục đề nghị bổ sung những ngành/nghề còn thiếu trong danh mục
ngành/nghề đào tạo, nhất là danh mục ngành/nghề đào tạo chuyên nghiệp: Phối
hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội rà soát
và cho bổ sung, cụ thể hóa những ngành/nghề còn thiếu hoặc chưa có trong
Danh mục giáo dục, đào tạo cấp 4 trình độ cao đẳng, đại học (đào tạo chuyên
nghiệp) ban hành theo Thông tư số 14/2010/TT-BGĐT, ngày 27/4/2010; Thông
tư 21/2014/TT-BLĐTBXH quy định Danh mục nghề đào tạo trình độ trung cấp
nghề, trình độ cao đẳng nghề cho phù hợp thực tế trong bối cảnh hội nhập du
lịch với khu vực và thế giới.
- Thống nhất xây dựng và đề nghị ban hành tiêu chuẩn kỹ năng nghề
quốc gia: Xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia đối với các
nghề trong lĩnh vực du lịch trên cơ sở thống nhất các bộ tiêu chuẩn kỹ năng nghề
hiện có, theo hướng tiếp cận đơn vị năng lực và hài hòa với bộ tiêu chuẩn kỹ
năng nghề ASEAN theo quy định của Luật giáo dục nghề nghiệp. Phối hợp với
Tổng cục Dạy nghề (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) chỉ đạo xây dựng
bộ đề thi, ngân hàng câu hỏi để kiểm tra và thừa nhận năng lực của người lao
động trong lĩnh vực du lịch trên quy mô toàn quốc.
25


×