Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

NGHIỆP VỤ KIỂM SÁT: Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện trong giải quyết vụ án hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.08 KB, 14 trang )

I. Mở đầu
Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính nhằm
đảm bảo cho việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án đúng pháp luật, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khởi kiện. Chính vì thế, cần nắm rõ các
quy định của pháp luật về trả lại đơn khởi kiện cũng như các quy định về nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát về vấn đề này để tiến hành kiểm sát được hiệu
quả, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khởi kiện luôn được
thực thi.


II. Nội dung
1. Khái quát chung về việc trả lại đơn khởi kiện
Kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính là hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tham gia tô
tụng trong giải quyết vụ án hành chính nhằm phát hiện vi phạm của Tòa án và
các chủ thể tham gia quan hệ tô tụng hành chính, trên cơ sở đó thực hiện thực
hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc phục, phòng ngừa,
ngăn chặn vi phạm đã xảy ra hoặc có thể xảy ra, góp phần bảo đảm cho Tòa án
giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức; pháp luật của nhà nước được chấp hành nghiêm
minh.
Khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi các quyết
định, hành vi của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền gửi đơn khởi kiện
vụ án hành chính đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền bằng các hình thức luật
quy định. Thụ lý vụ án hành chính là hành vi tô tụng đầu tiên của Tòa án trong
quá trình giải quyết vụ án hành chính. Tuy nhiên không phải bất kỳ trường hợp
nào Tòa án cũng thụ lý giải quyết mà trên cơ sở pháp luật, Tòa án sẽ trả lại đơn
khởi kiện cho người khởi kiện nếu không đáp ứng đúng và đủ điều kiện khởi
kiện mà pháp luật quy định. Theo đó, trả lại đơn khởi kiện là hoạt động của Tòa


án nhân dân (hành vi của Thẩm phán) trả lại đơn khởi kiện và tài liệu kèm theo
cho người khởi kiện khi thuộc một trong các căn cứ trả lại đơn khởi kiện theo
quy định của Luật Tô tụng hành chính.
Trả lại đơn khởi kiện là nội dung quan trọng trong tô tụng hành chính, bởi lẽ
khi có hành vi này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến quyền của người khởi kiện, đó là
quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp được quy định tại Điều
5 - Luật Tô tụng hành chính - “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ
án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
theo quy định của Luật này”; với việc trả lại đơn khởi kiện, cũng có nghĩa người
khởi kiện sẽ không được cơ quan Tòa án chấp nhận giải quyết đôi với yêu cầu


của mình. Vì vậy, đảm bảo việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án đúng quy định
của pháp luật sẽ góp phần vào việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức khi họ tham gia vào quan hệ tô tụng hành chính.
Như vậy, để thực hiện tôt công tác kiểm sát đôi với hành vi trả lại đơn khởi
kiện trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, đòi hỏi Viện kiểm sát – cụ thể
là những cán bộ kiểm sát được trực tiếp phân công làm nhiệm vụ cần phải nắm
chắc, hiểu rõ những quy định của định của pháp luật về vấn đề này; quyền hạn,
trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.
2. Quy định của pháp luật về các trường hợp trả lại đơn khởi kiện
Nhận và xem xét đơn khởi kiện là thủ tục đầu tiên để Toà án xem xét có thụ lý
vụ án hay không, bởi vì không phải tất cả các trường hợp có đơn khởi kiện Tòa
án đều thụ lý giải quyết. Có những trường hợp do chưa đủ điều kiện để thụ lý,
giải quyết thì Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện. Các trường hợp trả lại đơn khởi
kiện trong tô tụng hành chính đã được quy định cụ thể tại Điều 123 Luật Tô tụng
Hành chính 2015. Theo đó, việc trả lại đơn khởi kiện được quy định như sau:
“1. Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong những trường hợp sau đây:
a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện;
b) Người khởi kiện không có năng lực hành vi tô tụng hành chính đầy đủ;

c) Trường hợp pháp luật có quy định về điều kiện khởi kiện nhưng người khởi
kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó;
d) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật;
đ) Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;
e) Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu
nại trong trường hợp quy định tại Điều 33 của Luật Tô tụng Hành chính 2015.
g) Đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của
Luật này mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại
Điều 122 của Luật này;
h) Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật này
mà người khởi kiện không xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Tòa


án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, không
phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng”.
3. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện
Khi thực hiện hoạt động kiểm sát trả lại đơn khởi kiện, Kiểm sát viên cần thực
hiện các nội dung cụ thể bao gồm: kiểm sát căn cứ trả lại đơn khởi kiện, thực
hiện quyền kiến nghị và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả
lại đơn khởi kiện.
3.1 Kiểm sát đối với căn cứ để Tòa án trả lại đơn khởi kiện
Để kiểm sát căn cứ trả lại đơn khởi kiện của thẩm phán có đúng căn cứ pháp
luật hay không, Kiểm sát viên cần nghiên cứu, xem xét về lý do trả lại đơn khởi
kiện mà thẩm phán nêu ra khi trả lại đơn khởi kiện cho người người nộp đơn
khởi kiện, trên cơ sở xác định lý do trả lại đơn khởi kiện nêu tại văn bản trả lại
đơn khởi kiện, so sánh, đôi chiếu với các căn cứ pháp luật tương ứng; để kiểm
sát đúng căn cứ, kiểm sát viên cần nắm vững, làm rõ từng nội dung của mỗi căn
cứ, phân tích lý do trả lại đơn khởi kiện một cách cẩn thận, nghiêm túc để tránh
việc nhầm lẫn hoặc hiểu không đúng nội dung của các căn cứ, dẫn đến những

kết luận sai khi tiến hành kiểm sát căn cứ trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính.
Kiểm sát viên cần lưu ý trường hợp trả lại đơn khởi kiện do “người khởi kiện
không có quyền khởi kiện” và trường hợp “sự việc không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án” theo quy định tại điểm a và điểm e khoản 1 Điều 123 Luật Tô
tụng hành chính:
- Theo đó, đôi với trường hợp “người khởi kiện không có quyền khởi kiện”.
Quyền khởi kiện vụ án hành chính được hiểu bao gồm: người khởi kiện là người
trực tiếp bị tác động bởi quyết định quyết định, hành vi bị khởi kiện hay nói
cách khác, họ là người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm bởi quyết định
hành chính, hành vi hành chính đang bị khiếu kiện và thời hiệu khởi kiện của
người khởi kiện vẫn còn theo quy định của pháp luật. Như vậy, mặc dù thời hiệu
khởi kiện không được quy định là căn cứ trả lại đơn khởi kiện riêng biệt, nhưng
trong trường hợp xác định thời hiệu khởi kiện đôi với quyết định, hành vi đang
bị khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng, Tòa án có thể ra quyết định


trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 123 Luật Tô tụng
hành chính.
Ngoài ra, khi tiến hành việc kiểm sát, Viện kiểm sát cần nghiên cứu kỹ lưỡng
về tư cách chủ thể của người khởi kiện. Trước tiên, cán bộ kiểm sát phải xác
định điều kiện cần, người khởi kiện phải là người có quyền và lợi ích bị xâm
phạm bởi chính quyết định hành chính, hành vi hành chính đó. Đôi với khởi kiện
về quyết định hành chính, hành vi hành chính thì chủ thể là bao gồm cá nhân, cơ
quan, tổ chức; đôi với khởi kiện về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thì chủ
thể là cá nhân và tổ chức; còn đôi với khởi kiện về danh sách cử tri bầu cử đại
biểu Quôc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, danh sách
cử tri trưng cầu ý dân thì chủ thể chỉ là cá nhân. Tuy nhiên, Kiểm sát viên cần
nắm rõ quyết định hành chính nào là đôi tượng của khởi kiện vụ án hành chính,
cụ thể, việc xác định quyết định hành chính là đôi tượng khởi kiện vụ án hành
chính phải đảm bảo đủ các điều kiện sau: Quyết định đó làm phát sinh, thay đổi,

hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan tổ chức, cá nhân hoặc có
nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Cần khẳng định rằng: Quyền khởi kiện và chủ thể khởi kiện là hai yếu tô gắn
bó mật thiết với nhau. Quyền khởi kiện chỉ được thực hiện bởi một chủ thể nhất
định và chủ thể được thực hiện quyền khởi kiện khi lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm phạm. Như vậy, trong quá trình xem xét về tư cách của người khởi kiện
thông qua những yếu tô nêu trên, Viện kiểm sát có thể đưa ra nhận định về tính
hợp pháp đôi với hành vi trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.
- Đôi với trường hợp trả lại đơn khởi kiện khi “sự việc không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án”, Kiểm sát viên cần căn cứ vào Điều 30 Luật Tô
tụng hành chính chứ không căn cứ Điều 31, 32 Luật Tô tụng hành chính để làm
rõ. Theo đó, Tòa án có thẩm quyền giải quyết đôi với các khiếu kiện hành chính
sau: Quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi
việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và
quyết định lập danh sách cử tri. Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của


Tòa án là những sự việc không nằm trong các loại đôi tượng khởi kiện vụ án.
Nếu là đôi tượng khởi kiện vụ án hành chính nhưng không thuộc thẩm quyền
giải quyết theo cấp thì Tòa án chuyển đơn khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền
giải quyết theo quy định của pháp luật chứ không áp dụng điểm e khoản 1 Điều
123 để trả lại đơn khởi kiện.
3.2 Thực hiện quyền kiến nghị và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, kiến
nghị về việc trả lại đơn khởi kiện
3.2.1 Thực hiện quyền kiến nghị
Luật Tô tụng hành chính quy định khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng
cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại
đơn khởi kiện. Văn bản trả lại đơn khởi kiện được gửi ngay cho Viện kiểm sát
cùng cấp. Sau khi nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của Toà án cùng cấp,

trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được văn bản, Viện trưởng viện kiểm sát
phân công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên thụ lý xem xét, lập hồ sơ
kiểm sát, lập phiếu kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện theo quy định của Luật Tô
tụng hành chính và Quy chế nghiệp vụ của ngành.
Khi thực hiện kiểm sát trả lại đơn khởi kiện, Kiểm sát viên được phân công
phải tiến hành kiểm tra, xem xét, đánh giá việc trả lại đơn khởi kiện của Thẩm
phán, nếu thấy việc trả lại đơn khởi kiện không đúng thì thực hiện quyền kiến
nghị với Chánh án Toà án đã trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 1
Điều 124 Luật Tô tụng hành chính và phân công Kiểm sát viên, Kiểm sát viên
dự khuyết tham gia phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Tòa
án. Trước đây, khi thi hành Luật Tô tụng hành chính năm 2010, công tác kiểm
sát việc trả lại đơn khởi kiện gặp rất nhiều khó khăn vì Tòa án gửi cho Viện
kiểm sát thông báo trả lại đơn khởi kiện với nội dung ngắn gọn và nêu rất chung
chung. Muôn xác định được việc trả lại đơn khởi kiện có đúng pháp luật hay
không thì Viện kiểm sát phải kiểm tra những tài liệu chứng cứ kèm theo đơn
khởi kiện mà đương sự gửi đến Tòa án, trong khi đó, Luật Tô tụng hành chính
năm 2010 quy định trong trường hợp này Tòa án phải chuyển trả lại đơn khởi
kiện và hồ sơ, tài liệu cho người khởi kiện (khoản 2 Điều 109 Luật Tô tụng hành


chính năm 2010) nên Viện kiểm sát cũng không có căn cứ để kiến nghị về việc
trả lại đơn khởi kiện. Mặt khác, Viện kiểm sát chỉ có thể kiểm sát việc trả lại đơn
khởi kiện khi Tòa án gửi thông báo trả lại đơn khởi kiện cho Viện kiểm sát,
trường hợp Tòa án không gửi thông báo cho Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát
không thể thực hiện chức năng kiểm sát vì Luật không quy định Viện kiểm sát
được quyền kiểm sát trực tiếp tại Tòa án về việc xem xét và thụ lý đơn khởi
kiện. Khắc phục những khó khăn, vướng mắc nêu trên, tại đoạn 2, khoản 2, Điều
123 Luật Tô tụng hành chính năm 2015 đã quy định cụ thể đơn khởi kiện và tài
liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao lại và
lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu.

Hướng dẫn thi hành Luật tô tụng hành chính năm 2015, Thông tư liên tịch sô
03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC cũng đã quy định cụ thể về quyền hạn của
Viện kiểm sát khi kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Để đảm bảo
hiệu quả, chất lượng hoạt động kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, Điều 21
Thông tư liên tịch sô 03/2016/TTLT – VKSNDTC – TANDTC quy định: Trường
hợp Viện kiểm sát cần xem xét kiến nghị trả lại đơn khởi kiện hoặc sau khi nhận
được thông báo mở phiên họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn
khởi kiện thì Viện kiểm sát gửi văn bản yêu cầu Tòa án cho sao chụp một sô
hoặc toàn bộ bản sao đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo. Trong thời hạn 24
giờ kể từ khi nhận được văn bản cần sao chụp, Viện kiểm sát trả lại văn bản cho
Tòa án. Theo những quy định trên, thì việc kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện của
Tòa án thuận lợi hơn vì Viện kiểm sát được quyền yêu cầu Tòa án cho sao chụp bản
sao đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ trong trường hợp trả lại đơn khởi kiện. Việc
tiếp cận được với các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện sẽ giúp cho công
tác kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện được chặt chẽ và có căn cứ pháp luật hơn
Như vậy, quyền kiến nghị đôi với việc trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính
là một quyền hạn đặc trưng của Viện kiểm sát khi thực hiện kiểm sát hoạt động
của thẩm phán đôi với việc trả lại đơn khởi kiện; vừa là phương thức kiểm soát
quyền lực cũng vừa thể hiện tính thông nhất trong việc thực hiện mục tiêu giải
quyết vụ án hành chính giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, đảm bảo viêc


giải quyết vụ án hành chính tuân thủ nghiêm túc quy định của pháp luật, hướng
các chủ thể trong quan hệ tô tụng đó thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn cũng
như các quyền và nghĩa vụ được Luật Tô tụng hành chính ghi nhận.
3.2.2 Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi
kiện
Khi kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, một nội dung quan trọng ảnh hưởng
đến hiệu quả của việc trả lại đơn khởi kiện là việc giải quyết khiếu nai, kiến nghị
về việc trả lại đơn khởi kiện; kết quả của việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị là

cơ sở trực tiếp quyết định một chủ thể có quyền khởi kiện vụ án hành chính để
yêu cầu tòa án bảo vệ quyền, lợi ích của mình hay không. Cùng với quyền kiến
nghị của Viện kiểm sát về việc trả lại đơn khởi kiện, Luật Tô tụng hành chính
cũng quy định quyền tự bảo vệ quyền lợi của mình cho người khởi kiện, theo đó
khi cho rằng việc trả lại đơn khởi kiện của thẩm phán không đúng căn cứ pháp
luật, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền khởi kiện của mình, người khởi kiện có
quyền khiếu nại đôi với tòa án để yêu cầu tòa án xem xét, giải quyết. Khi nhận
được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, tòa án phải tiến hành giải
quyết khiếu nại, kiến nghị đó trong thời hạn luật định và Viện kiểm sát thực hiện
hoạt động kiểm sát đôi với việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị đó.
Luật Tô tụng hành chính quy định trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, kiến
nghị về việc trả lại đơn khởi kiện bằng việc mở phiên họp, theo đó tòa án giải
quyết khiếu nại, kiến nghị bằng việc mở phiên họp, phiên họp xem xét, giải
quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp,
trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp…
Như vậy, vai trò của Viện kiểm sát đôi với việc trả lại đơn khởi kiện có ý nghĩa
rất quan trọng bằng việc ghi nhận sự tham gia phiên họp giải quyết khiếu nại,
kiến nghị. Không chỉ tham gia phiên họp giải quyết kiến nghị của mình mà đôi
với việc giải quyết khiếu nại, Viện kiểm sát cũng tham gia để thực hiện kiểm sát
việc trả lại đơn khởi nói chung, kiểm sát phiên họp giải quyết khiếu nại về việc
trả lại đơn khởi kiện nói riêng. Tại phiên họp, đại diện Viện kiểm sát kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, người khởi kiện… và phát biểu ý kiến


đôi với việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Căn cứ tài liệu, chứng cứ có liên
quan đến trả lại đơn khởi kiện, ý kiến của Viện kiểm sát và đương sự tại phiên
họp, Thẩm phán phải ra một trong các quyết định: giữ nguyên việc trả lại đơn
khởi kiện và thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp biết hoặc nhận lại
đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo để tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục
chung. Nếu không nhất trí với kết quả gải quyết kiến nghị của Tòa án cùng cấp,

Viện kiểm sát có quyền kiến nghị lần thứ hai đến Chánh án Tòa án nhân dân cấp
trên trực tiếp để xem xét, quyết định lần cuôi.
Việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị thực hiện theo quy định của Điều 124
Luật tô tụng hành chính. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết
định trả lời khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, trường
hợp thấy quyết định trả lời khiếu nại, kiến nghị không đúng thì thực hiện quyền
kiến nghị với Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp. Trong thời hạn 10 ngày kể
từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án
Tòa án cấp trên một cấp trực tiếp phải ra một trong các sô quyết định: giữ
nguyên việc trả lại đơn khởi kiện hoặc yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận lại đơn
khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thu lý vụ án. Quyết
định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp
là quyết định cuôi cùng.
4. Những vướng mắc trong thực tiễn kiểm sát
Có thể nói, Luật Tô tụng hành chính năm 2015 đã có một sô quy định thay đổi,
tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Viện kiểm sát khi tiến hành công tác kiểm sát việc
trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Tuy nhiên, việc quy định mở phiên họp giải quyết
khiếu nại, kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện là một quy định hoàn toàn mới nên
trong thực tiễn thi hành vẫn không tránh khỏi những hạn chế, vướng mắc như:
Thứ nhất, về việc Tòa án thông báo cho Viện kiểm sát về ngày mở phiên họp: Tại
khoản 3 Điều 124 Luật tô tụng hành chính năm 2015 quy định trong thời hạn 05
ngày kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải mở phiên họp xem xét, giải
quyết khiếu nại, kiến nghị. Và tại khoản 2 Điều 12 Thông tư liên tịch sô 03 quy
định Tòa án thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp về ngày mở


phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện
ngay sau khi quyết định mở phiên họp.
Tuy nhiên, quyết định mở phiên họp của Thẩm phán có được thể hiện bằng
văn bản hay không? được ban hành trước khi mở phiên họp bao lâu và có được

gửi cho Viện kiểm sát hay không? thì cả Luật và Thông tư không quy định rõ. Vì
vậy, việc quy định Tòa án thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát về ngày
mở phiên họp ngay sau khi quyết định mở phiên họp là rất mơ hồ, thiếu căn cứ nên
thực tế đã xảy ra có nhiều trường hợp Tòa án thông báo cho Viện kiểm sát trước khi
mở phiên họp chỉ có 01 ngày thì không đủ thời gian nghiên cứu hồ sơ khiếu nại và
thực hiện các thao tác nghiệp vụ để tham gia phiên họp.
Thứ hai: Luật tô tụng hành chính năm 2015 và Thông tư liên tịch sô 03 không
quy định Tòa án phải gửi cho Viện kiểm sát bản sao đơn khởi kiện và tài liệu
chứng cứ trong trường hợp trả lại đơn khởi kiện mà Viện kiểm sát phải gửi văn
bản yêu cầu Tòa án cho sao chụp bản sao đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ và
việc sao chụp tại liệu chứng cứ phải được thực hiện tại trụ sở Tòa án. Việc quy
định như trên làm cho Viện kiểm sát không chủ động mà phải phụ thuộc vào Tòa
án vì có trường hợp khi Kiểm sát viên liên hệ để sao chụp tài liệu, chứng cứ thì
cùng lúc đó Tòa án cũng đang nghiên cứu, hoặc thẩm phán, thư ký được phân
công vắng mặt hoặc bận công tác khác thì Kiểm sát viên không sao chụp được
hồ sơ sẽ dẫn đến không đảm bảo thời hạn để Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến
nghị hoặc tham gia phiên họp giải quyết khiếu nại.
Thứ ba: Nội dung phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên họp xem xét, giải
quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện đã được hướng dẫn cụ
thể tại Điều 26 Thông tư liên tịch sô 03. Tuy nhiên, bản phát biểu của Kiểm sát
viên tại phiên họp có phải gửi cho Tòa án để lưu vào hồ sơ giải quyết khiếu nại,
kiến nghị hay không thì không được quy định.
Thứ tư: Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện là một trong những khâu quan
trọng trong kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính. Tuy nhiên, đến nay
Viện kiểm sát nhân dân tôi cao chưa có hệ thông biểu mẫu sổ sách theo dõi. Vì
vậy, trong quá trình kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện trong thời gian qua việc


lập sổ để theo dõi các thông báo trả lại đơn khởi kiện các đơn vị đều phải tự
nghiên cứu thực hiện nên chưa đảm bảo tính hệ thông và khoa học.

Để thực hiện tôt chức năng kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, tham gia
phiên họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Tòa án theo quy định của Luật tô
tụng hành chính năm 2015, trong công tác nghiệp vụ mỗi cán bộ, Kiểm sát viên
cần nghiên cứu áp dụng đúng các quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn
thi hành. Do có nhiều nội dung được quy định mới chưa được hướng dẫn cụ thể
nên bên cạnh việc nghiên cứu áp dụng đúng quy định của Luật thì chúng ta cũng
cần có những phương pháp, cách thức cụ thể để theo dõi, kiểm sát; tăng cường
công tác phôi hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát nhất là trong việc gửi thông báo
cho Viện kiểm sát về ngày mở phiên họp và việc sao chụp tài liệu, chứng cứ.
Bên cạnh đó, trong thời gian tới Viện kiểm sát nhân dân tôi cao cần tiến hành tập
huấn cho Viện kiểm sát địa phương về công tác này.


III. Kết luận
Có thể nói, các quy định của pháp luật về kiểm sát giải quyết vụ án hành chính,
đặc biệt là quy định về kiểm sát trả lại đơn khởi kiện ngày càng cụ thể, chặt chẽ
hơn, tuy vẫn còn một sô những vướng mắc trong thực tiễn thi hành, nhưng những
quy định này đã phần nào tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công tác kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân. Để thực hiện tôt chức năng kiểm
sát việc trả lại đơn khởi kiện, tham gia phiên họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị của
Tòa án theo quy định của Luật tô tụng hành chính năm 2015, mỗi cán bộ kiểm sát
cần nghiên cứu áp dụng đúng các quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn thi
hành, giúp cho việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án đúng quy định của pháp luật
góp phần đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức
khi họ tham gia vào quan hệ tô tụng hành chính.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật tô tụng hành chính 2015.
2. Thông tư liên tịch sô 03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC – Quy định việc

phôi hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành
một sô quy định cảu Luật tô tụng hành chính.
3. Tập bài giảng môn Kiểm sát giải quyết vụ án hành chính – Trường Đại học
Kiểm sát Hà Nội.
4. lamdong.gov.vn – nghiệp vụ kiểm sát- hướng dẫn nghiệp vụ - Những vấn
đề cần lưu ý khi kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện theo quy định của Luật Tô
tụng hành chính 2015, Đỗ Thị Thúy – Phòng 10.


MỤC LỤC



×