Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

tiểu luận so sánh phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại Tòa án và Trọng tài.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.44 KB, 22 trang )

A. MỞ ĐẦU
Thương mại quốc tế là hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ thương mại giữa các thương nhân có quốc tịch khác nhau hoặc có trụ sở
thương mại tại các nước khác nhau nhằm mục đích lợi nhuận. Trong quan hệ
thương mại quốc tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau như sự khác biệt về mặt
pháp luật, ngôn ngữ, tập quán… và nhất là sự thay đổi về điều kiện thực hiện
hợp đồng nên các tranh chấp phát sinh giữa các bên liên quan nhiều khi là khó
tránh khỏi. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp phát sinh trong thương mại quốc
tế là một trong những vấn đề vừa mang tính pháp lí vừa mang tính kỹ thuật được
các nhà kinh doanh thương mại quốc tế rất quan tâm.
Khi phải đương đầu với các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng thương mại
quốc tế, các nhà kinh doanh luôn muốn làm thế nào để giải quyết các tranh chấp
đó một cách nhanh chóng, suôn sẻ, đạt được hiệu quả cao nhất mà vẫn giữ được
uy tín và bí mật kinh doanh. Vì thế, các nhà kinh doanh muốn biết và cần biết có
những phương thức nào có thể được áp dụng để giải quyết các tranh chấp này.
Khiếu nại và trung gian hòa giải là phương thức thường được sử dụng khi có
tranh chấp xảy ra mà các bên trong hợp đồng muốn giải quyết trực tiếp với nhau.
Song, trường hợp áp dụng các phương thức nêu trên mà không mang lại hiệu
quả khi đó các bên bắt buộc phải áp dụng các phương thức khác mang tính chất
bắt buộc cao hơn, đó là đi kiện trước các tòa án hoặc trọng tài thương mại. Tuy
nhiên, mỗi phương pháp lại có những thế mạnh và điểm yếu riêng nên cần phải
nắm rõ được ưu nhược điểm của chúng để có thể đạt hiểu quả cao nhất khi áp
dụng.
Do đó trong phạm vi bài này, em xin được so sánh phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại quốc tế tại Tòa án và Trọng tài.


B.NỘI DUNG
I. Khái quát chung về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại và phương thức Tòa án
1. Giải quyết tranh chấp bằng thương thức trọng tại thương mại


Trọng tài là phương pháp giải quyết tranh chấp đã có từ lâu đời và được áp
dụng trong nhiều lĩnh vự khác nhau như dân sự, thương mại, kinh tế…
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp bằng cách giao vụ
việc tranh chấp cho người thứ ba là các trọng tài viên để họ xét xử và ra quyết
định cuối cùng trong trường hợp các bên không tự dàn xếp được với nhau bằng
con đường thương lượng trực tiếp đồng thời không muốn đưa vụ tranh chấp ra
xét xử tại tòa án thương mại.
Phương pháp trọng tài được tiến hành theo một thủ tục nhất định và được kết
thúc bằng phán quyết trọng tài. Sự khác biệt cơ bản giữa phán quyết của trọng
tài với quyết định của tòa án là có giá trị chung thẩm, ràng buộc các bên và có
hiệu lực pháp lý tương tự quyết định của tòa án, trừ khi quyết định đó có những
sai sót dân đến vô hiệu.
Trọng tài thương mại không có thẩm quyền xét xử đương nhiên đối với các
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thương mại quốc tế. Thẩm quyền của trọng tài
thương mại nói chung được quy định trực tiếp hoặc gián tiếp trong hợp đồng
hoặc các điều ước quốc tế có liên quan.
Các loại trọng tài thương mại
Trên thế giới đã có nhiều mô hình tổ chức trọng tài khác nhau. Ở mỗi giai
đoạn lịch sử, tùy từng điều kiện cụ thể mà mỗi nước lựa chọn cho mình mô hình
thích hợp. Về cơ bản có thể kể đến các loại trọng tài sau:
- Trọng tài chính phủ và trọng tài phi chính phủ
Trọng tài chính phủ là cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh do nhà nước thành lập, được nhà nước tài trợ bằng ngân sách quốc gia.
Các trọng tài viên trong cơ quan này được coi là công chức nhà nước, làm công
ăn lương do ngân sách chi trả. Ở Việt Nam từ ngày 30/6/1994 trở về trước tồn


tại tổ chức Trọng tài kinh tế nhà nước với chức năng chủ yếu là giải quyết các
tranh chấp từ hợp đồng kinh tế, cũng là một tổ chức trọng tài chính phủ.
Trọng tài phi chính phủ là tổ chức xã hội – nghề nghiệp, hoạt động theo

nguyên tắc tự trang trải, không được ngân sách nhà nước tài trợ. Trọng tài phi
chính phủ thường được thành lập trên cơ sở sự sáng lập của các trọng tài viên
căn cứ vào những quy định của Nhà nước hoặc theo đề nghị của tổ chức phi
chính phủ nào đó, thường là các phòng thương mại và công nghiệp ở các nước
- Trọng tài theo vụ việc và trọng tài quy chế
Trọng tài theo vụ việc là trọng tài được thành lập để giải quyết một vụ tranh
chấp cụ thể, gồm các trọng tài viên do các bên lựa chọn. Sau khi giải quyết xong
một vụ việc thì ủy ban trọng tài tự giải thể. Đây là tổ chức trọng tài không tồn tại
thường xuyên nên không có điều lệ và quy chế hoạt động riêng, cũng không có
quy tắc tố tụng cụ thể. Vì thế, mỗi khi được lựa chọn các trọng tài viên có thể
cùng nhau xây dựng thủ tục xét xử cho từng vụ việc.
Trọng tài quy chế là tổ chức trọng tài hoạt động thường xuyên, có điều lệ
riêng và quy chế hoạt động cụ thể. Mỗi tổ chức trọng tài quy chế đều đưa ra một
bản quy tắc tố tụng hướng dẫn trình tự tiến hành trọng tài. Các tổ chức trọng tài
này được gọi dưới các tên như tòa án trọng tài, trung tâm trọng tài hay hiệp hội
trọng tài…
2.Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại Tòa Án
Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại tòa án là là hình thức giải quyết
thông qua hoạt động của cơ quan tài phán nhà nước . Cơ quan tài phán nhà nước
có quyền nhân danh nhà nước đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi
hành. Do đó, trên thực tiễn đã có nhiều các trung tâm trọng tài thương mại quốc
tế thành lập và hoạt động, song phương thức giải quyết bằng tòa án vẫn có vai
trò quan trọng và được các bên lựa chọn như giải pháp cuối cùng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi phương thức thương lượng và hòa giải
không có hiệu quả cũng như không muốn giải quyết bằng trọng tài.
Cơ sở pháp lý về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với tranh chấp
thương mại quốc tế:


Việc chọn lựa Toà án nước nào đó để giải quyết tranh chấp là do sự thoả thuận

của các bên có tranh chấp. Khi lựa chọn Toà án để yêu cầu giải quyết tranh chấp,
các bên cần lưu ý đến thẩm quyền của Toà án được lựa chọn, tính khách quan
của Toà án được chọn đối với các chủ thể có tranh chấp, hiệu lực thi hành bản án
ở các nước có liên quan đến vụ kiện, thời gian xét xử vụ kiện, mức án phí…
Việc quy định chức năng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục hoạt động của cơ quan
tư pháp (Tòa án) thuộc về chủ quyền của mỗi quốc gia. Do vậy, pháp luật của
mỗi quốc gia đều có những quy định về vấn đề này. Đối với nhưng nước theo hệ
thống án lệ thì các án lệ (case law) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải
quyết các tranh chấp thương mại quốc tế.
Cùng với các căn cứ pháp lý của luật quốc gia, điều ước quốc tế cũng đóng
vai trò quan trọng trong việc quy định thẩm quyền của Tòa án các quốc gia giải
quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Có thể kể đến một số công ước quốc tế
như là công ước La hay về tư pháp quốc tế, công ước Brussels về các vấn đề dân
sự và thương mại.
Hệ thống Toà án nhân dân ở nước ta bao gồm:
– Toà án nhân dân tối cao
– Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố thuộc TW (gọi chung là Toà án nhân dân
cấp tỉnh)
– Các Toà án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung
là Toà án nhân dân cấp huyện)
– Các Toà án quân sự
– Các Toà án do luật định
– Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc
biệt


II. So sánh phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế thống
qua trọng tại và phương thức giải quyết thông qua Tòa án.
1. Những điểm tương đồng
Thứ nhất, Đều là hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương

mại.
Thứ hai, Đều dựa trên những nguyên tắc chung như: tôn trọng quyền tự định
đoạt của các đương sự và đảm bảo quyền độc lập của người tài phán.
2. Điểm khác biệt và những nét ưu, nhược điểm của phương thức giải
quyết tranh chấp thông qua trọng tài thương mại với phương thức giải
quyết tranh chấp thông qua tòa án
a) Ưu điểm
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo tối đa quyền tự chủ
của các bên.
Vì phải đảm bảo trình tự thủ tục chặt chẽ hơn nên ở phương thức giải quyết
bằng Tòa án thì quyền tự định đoạt của đương sự bị hạn chế hơn so với phương
thức trọng tại thương mại.
Đây là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại không mang ý chí
quyền lực nhà mà chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý chí tự do lựa
chọn của các bên. Quyền tự chủ được thể hiện như các bên có quyền lựa chọn cơ
quan trọng tài; lựa chọn hình thức trọng tài; lựa chon quy tắc tố tụng trọng tài;
lựa chọn trọng tài viên để giải quyết tranh chấp cho mình không phụ thuộc vòa
nơi đặt trụ sở hoặc nơi cư trú của các bên tuỳ theo hình thức trọng tài mà các
bên lựa chọn, các bên có thể lựa chọn trọng tài viên trong một trung tâm trọng
tài, trọng tài viên ở bất kì trung tâm trọng tài nào, hoặc người không có tên trong
danh sách trọng tài viên; các bên tranh chấp còn có quyền lựa chọn địa điểm,
thời gian giải quyết tranh chấp từ đó có thể sắp xếp thời gian hợp lí vừa đảm bảo
việc giải quyết tranh chấp vừa điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh; đối với
các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài các bên có thể lựa chọn pháp luật áp


dụng để giải quyết tranh chấp và ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài; các
bên có thể chọn một Hội đồng Trọng tài dựa trên trình độ, năng lực.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thể hiện tính năng
động, linh hoạt, mềm dẻo và tiết kiệm thời gian hơn.

So với thủ tục chặc chẽ, không khỏi khiến các thương gia cảm thấy bị gò bò
và và đôi khi cảm thấy cứng nhắc của phương thức thông qua Tòa án thì
phương thức trọng tại thương mại linh hoạt, và mềm dẻo hơn hẳn.
Cụ thể như: các bên thông thường được tự do lựa chọn thời gian, địa điểm
phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng, hiệu
quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép, thủ tục giải quyết
tranh chấp thương mại cũng đơn giản, không có nhiều công đoạn tố tụng. Nếu
như các bên lựa chọn trọng tài viên là người giải quyết tranh chấp thì hầu như
không có quy định bắt buộc về thủ tục tố tụng nào. Chỉ khi lựa chọn Hội đồng
trọng tài hoặc Trung tâm trọng tài, các bên mới phải tuân thủ thủ tục tố tụng
trọng tài. Khi xem xét thực tiễn hoạt động của trọng tài thương mại ở mỗi quốc
gia cũng như trên bình diện quốc tế, các nhà nghiên cứu đều nhận xét rằng quá
trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài diễn ra nhanh hơn rất nhiều so với thủ
tục tiến hành giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Mặc dù trong một vài trường hợp,
tính nhanh chóng của thủ tục trọng tài có thể bị hạn chế và thời gian giải quyết
tranh chấp phải kéo dài thêm, nhất là khi tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định
của trọng tài; tuy nhiên các bên tranh chấp vẫn đánh giá cao ưu điểm này của
trọng tài. Thủ tục giải quyết thông qua trọng tài nhanh, gọn, linh hoạt đáp ứng
đòi hỏi hoạt động thương mại của các bên có liên quan.
Đồng thời hoạt động xét xử của Trọng tài là liên tục vì Hội đồng Trọng tài xét
xử vụ kiện là do các bên thỏa thuận lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết
vụ kiện, các trọng tài viên là người theo vụ kiện từ đầu đến cuối, họ có điều kiện
để nắm bắt và tìm hiểu thấu đáo các tình tiết của vụ việc. Chính điều này có lợi
ngay cả khi các bên luôn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua đàm
phán, trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận. Tức là trong suốt
quá trình giải quyết vụ việc thỏa thuận về sự hòa giải của hai bên luôn được lắng


nghe và được tạo điều kiện thuận lợi nhất để hòa giải để tìm được sự đồng
thuận. Điều mà ít khi xảy ra trong tố tụng kinh tế diễn ra tại các phiên tòa xét xử

tranh chấp. Nếu như các bên hòa giải thành công đã đồng ý thì ra biên bản hòa
giải và công nhận biên bản.
Hoạt động xét xử của trọng tài là liên tục cũng có thể làm tiết kiệm thời gian
và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp. Trong khi đó giải quyết
tranh chấp bằng Tòa án thường rất khó đạt được điều này bởi Tòa án phải giải
quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, do đó tình trạng án tồn đọng là điều không
thể tránh khỏi.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có khả năng giữ bí mật rất cao
bởi nguyên tắc của giải quyết tranh chấp trước trọng tài là không công khai.
Nội dung tranh chấp, danh tính và những bí mật liên quan đến kinh doanh của
các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại. Tính
bảo mật được thể hiện ở chỗ quá trình giải quyết tranh chấp sẽ được tổ chức
dưới hình thức họp kín và quyết định giải quyết tranh chấp chỉ được thông báo
công khai khi được sự đồng ý của các bên.
Còn đối với phương thức giải quyết bằng tòa án, việc tuân thủ nguyên tắc xét
xử công khai nên sẽ khó bảo đảm bí mật, uy tín kinh doanh của thương nhân.
Đối với các bên tham gia hợp đồng thương mại quốc tế, thì việc giữ bí mật
các vụ kiện là rất quan trọng bởi vì bí mật nghề nghiệp, uy tín trên thương
trường có ý nghĩa sống còn đối với họ. Đặc biệt là những bí mật liên quan đến bí
quyết công nghệ, chất lượng sản phẩm, bí quyết kinh doanh…Nếu những bí mật
này bị tiết lộ, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh trong tương
lai của họ, do đó các thương nhân không một ai muốn tiết lộ các bí mật đó ra
bên ngoài. Nhưng khi tranh chấp xảy ra, thì họ phải nhờ đến sự phân giải của
bên thứ ba, khi đó, mặc nhiên những bí mật đó có thể bị tiết lộ nhất là khi giải
quyết tại tòa án bởi một trong các nguyên tắc xét xử tại tòa án là công khai. Bởi
vậy, khác với nguyên tắc xét xử công khai tại tòa án, thì trọng tài lại hoạt động
theo nguyên tắc xét xử kín, các quyết định của trọng tài không được công khai,
nếu không được sự đồng ý của các bên. Quy định này làm cho các bên, nhất là



bên thua, không cảm thấy lo ngại vì kết quả giải quyết tranh chấp có thể có tác
động không tốt đến hoạt động kinh doanh của họ, điều đó có ý nghĩa lớn trong
điều kiện cạnh tranh.
Đồng thời, vì tố tụng tại trọng tài là tự nguyện nên việc thắng, thua trong tố
tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối hoà khí lâu dài giữa các bên tranh
chấp, đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các
đối tác. Trong trường hợp xét xử công khai tại Tòa án thường dễ làm cho các
bên rơi vào thế đối đầu nhau với kết cục là một bên được thừa nhận như một
người chiến thắng, còn bên kia thấy mình là một kẻ thua cuộc, hơn nữa trong
một vụ tranh chấp, dù là nguyên đơn hay bị đơn, một khi đã ra toà thì uy tín của
thương hiệu ít nhiều giảm sút nơi khách hàng. Xét xử bằng trọng tài sẽ làm giảm
mức độ xung đột căng thẳng của những bất đồng trên cơ sở những câu hỏi gợi
mở, sự hợp tác, thiện chí giữa các bên… Đó là những yếu tố tạo điều kiện để các
bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau và đặc biệt là sự
tự nguyện thi hành quyết định trọng tài cuả một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin
tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn trong tương lai.
Thứ tư, trọng tài viên có kiến thức chuyên môn cao.
Các trọng tài viên thường là người có nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong
một số lĩnh vực cụ thể, như bảo hiểm, tài chính, vận tải, xây dựng… Những
tranh chấp chuyên ngành này đòi hỏi người phân xử phải có kiến thức rộng và
am hiểu trong lĩnh vực đó. Do vậy, việc giải quyết sẽ được chính xác và khách
quan hơn.
Hơn nữa, vì các bên được quyền tự lựa chọn trọng tài viên cho mình, họ có
thể là các luật sư, hay các chuyên gia giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực như
thương mại, tài chính ngân hàng… nên các bên linh động hơn trong việc lựa
chọn trọng tài viên phù hợp, trọng tài viên được chọn phần lớn là những người
đã quen biết và có tín nhiệm cao với các bên. Họ có kinh nghiệm giải quyết
tranh chấp thuộc các lĩnh vực chuyên môn (thương mại, đầu tư, bảo hiểm…)
hơn hẳn các thẩm phán ở tòa án, do đó, thời gian xét xử sẽ ngắn, quyết định của
trọng tài sẽ sát thực, hợp lí và có độ tin cậy cao. Đồng thời, quyết định của trọng



tài dường như không bị chi phối bởi yếu tố chính trị - điều thường gặp trong các
phán quyết của tòa án. Vì thế, nó sẽ mang tính khách quan hơn các phán quyết
của tòa án
Ngoài ra, Luật của các nước cũng có quy định rõ tiêu chuẩn trọng tài viên. Ví
dụ như ở Việt Nam, Điều 20 Luật Trọng tài thương mại 2010 có quy định rõ cá
nhân có năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế
công tác từ năm năm trở lên có thể là trọng tài viên. Đặc biệt, Luật dành cho các
Trung tâm trọng tài quyền được đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối với các Trọng
tài viên trong danh sách của mình (khoản 3, Điều 20). Trong trường hợp đặc
biệt, các bên đương sự có thể lựa chọn dựa trên niềm tin của họ vào tính chuyên
nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín của cá nhân đó và trong trường hợp đó thì
nhà chuyên môn nào cũng có thể được các bên chọn làm Trọng tài cho vụ việc
của họ (khoản 1, điểm c, Điều 20). Luật Trọng tài thương mại 2010 cũng không
yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là người
nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên
tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu
thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời
việc quy định những trọng tài viên phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu và năng lực
chuyên môn sẽ đảm bảo cho việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng và đúng
đắn.
Thứ năm, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - một tổ
chức phi Chính phủ, nhưng được hỗ trợ, đảm bảo về pháp lý của toà án trên
nhiều mặt như: Xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài; giải quyết
khiếu nại về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; xét đơn yêu cầu huỷ quyết định
trọng tài; công nhận và thi hành quyết định trọng tài.
Nhằm giúp cho cơ chế tố tụng trọng tài vận hành có hiệu quả, Luật Trọng tài
các nước cũng cho phép Hội đồng Trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu tập
nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. Đối với Việt Nam, thì

cơ chế này đươc quy định tại Điều 47, 48, 49 và 50 Luật Trọng tài thương mại
2010. Quy định này là sự tiếp thu những quy định mẫu của UNCITRAL được


thông qua 2006. Điều này cũng thể hiện sự tiếp thu và từng bước điều chỉnh của
cơ quan lập pháp Việt Nam để các quy định trọng tài thương mại Việt Nam hội
nhập với các thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó, kết quả của việc giải quyết tranh chấp thương mại theo phương
thức trọng tài được đảm bảo bằng sự cưỡng chế từ phía cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Thể hiện củ thể Tại điều 66 của luật trọng tài thương mại 2010 quy
định về quyền yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài.
Với sự hỗ trợ từ phía cơ quan tư pháp, quyết định trọng tài được thi hành một
cách triệt để tạo điều kiện cho tranh chấp được giải quyết một cách dứt điểm,
tránh tình trạng một bên kéo dài thời gian thi hành án. Có thể nói, đây là ưu
điểm nổi trội so với hai phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thương
lượng và hòa giải.
Thứ sáu, phán quyết trọng tài là phán quyết chung thẩm không thể bị kháng
cáo, kháng nghị theo bất cứ thủ tục nào bởi vì tố tụng trọng tài là tố tụng một
cấp.
Quyết định trọng tài sẽ được thi hành nếu như quyết định đó là hợp pháp (khi
không có đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, hoặc hội đồng xét xử đã bác đơn
yêu cầu huỷ quyết định trọng tài) các bên phải nghiêm chỉnh chấp hành. Đây là
điểm khác biệt và cũng là ưu điểm hơn hẳn so với tòa án vì bản án, quyết định
của tòa án có thể bị kháng cáo lên cấp trên. Quyết định trọng tài được thực hiện
ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh những tổn thất về tiền, hàng trong kinh
doanh thương mại. Chính điều này tạo điều kiện cho tranh chấp được giải quyết
một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian cho doanh nghiệp.
Ưu điểm này xuất phát từ quyền định đoạt của các bên, từ việc tự do lựa chọn
phương thức trọng tài đến lựa chọn trọng tài viên cũng như thủ tục tố tụng. Do
vậy khi quyết định trọng tài đã được đưa ra thì các bên có nghĩa vụ thực hiện.

nếu có khó khăn trong việc thi hành thì có thể nhờ đến sự giúp đỡ của cơ quan
tư pháp.


Thứ bảy, phương thức giải quyết tranh chấp theo trọng tài thương mại được
sự thừa nhận của quốc tế.
Trọng tài thương mại không đại diện cho quyền lực Nhà nước nên rất phù hợp
để giải quyết các tranh chấp mà các bên có quốc tịch khác nhau (Toà án nói là
được độc lập nhưng cũng dễ bị chi phối bởi quyền lợi dân tộc, do đó các bên
tranh chấp có quốc tịch khác nhau thường không thích chọn toà án của nhau). Vì
vậy, họ thường thích chọn trọng tài, nhất là trọng tài của nước thứ ba để đảm bảo
tính khách quan trong việc giải quyết tranh chấp. Công ước New York 1958 về
công nhận và cho thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài đã quy định
rằng các nước thành viên của công ước này có nghĩa vụ công nhận và cho thi
hành phán quyết của trọng tài của nước bên kia cũng là thành viên.
b) Nhược điểm
Thứ nhất, phán quyết của trọng tài, tuy là chung thẩm, nhưng bên bị đơn có
thể yêu cầu toà án xem xét lại, Tòa án có thể tuyên hủy quyết định trọng tài đó.
Như vậy quyết định trọng tài chưa phải là quyết định cuối cùng, bên thắng lợi
trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng chưa chắc giành thắng lợi cuối
cùng. Như vậy, phán quyết của trọng tài nhiều lúc làm cho bên thắng kiện không
yên tâm, mà lo ngại về việc nếu như phán quyết của Hội đồng trọng tài bị hủy
thì sẽ dẫn tới việc tranh chấp giữa các bên dường như vẫn còn nguyên và việc
giải quyết tranh chấp này sẽ lại phải bắt đầu lại từ đầu nếu họ muốn bảo vệ
quyền lợi của mình. Điều này sẽ làm mất không ít thời gian, chi phí… ảnh
hưởng rất nhiều tới công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Cùng với đó việc
thực thi các quyết định của Trọng tài không phải lúc nào cũng được thuận lợi
như thực thi bản án, quyết định của Tòa án.
Thứ hai, trọng tài là một tổ chức xã hội nghề nghiệp, không phải cơ quan
quyền lực nhà nước nên khi xét xử giải quyết tranh chấp gặp khá nhiều khó

khăn.
Điểm này lại là thế mạnh của Phương thức tòa án bởi vì bản án, quyết định
của tòa án được bảo đảm thi hành bằng cưỡng chế của nhà nước. Mục đích hàng
đầu của nguyên đơn khi khởi kiện là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của


minh được đáp đứng. Chính vì vậy, sự bảo đảm thi hành phán quyết của Tóa án
bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước được coi là ưu điểm, tạo ra sự khác biệt
trong cơ chế thi hành phán quyết của các loại tài phán.
Khi bị đơn không tự giác thi hành bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan thi
hành án có quyền tổ chức cưỡng chế buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ của
mình theo quyết định của Tòa án. Với đặc điểm này, hiệu lực thi hành phán
quyết của Tòa án sẽ cao hơn phán quyết của trọng tài.
Ví dụ như là những vụ tranh chấp phức tạp, trong biện pháp cần áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo chứng cứ, trọng tài không thể ra quyết
định mang tính chất bắt buộc về điều đó mà phải yêu cầu tòa án thi hành thực
hiện thay theo quy định của pháp luật. Điều này khiến việc áp dụng các biện
pháp khẩn cấp mất thêm thời gian, không kịp thời và có thể tạo cơ hội cho một
bên thực hiện một số hành vi gây ảnh hưởng bất lợi cho quá trình tố tụng và thi
hành phán quyết sau này.
Thứ ba, là trọng tài ad-hoc phải phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của các
bên.
Nếu một bên không có thiện chí, quá trình tố tụng sẽ luôn có nguy cơ bị trì
hoãn, và nhiều khi không thể thành lập được Hội đồng Trọng tài bởi vì không có
quy tắc tố tụng nào được áp dụng và không có tổ chức nào giám sát việc tiến
hành trọng tài và giám sát các Trọng tài viên. Vì vậy, kết quả phần lớn phụ thuộc
vào việc tiến hành tố tụng và khả năng kiểm soát quá trình tố tụng của các Trọng
tài viên. Cả Trọng tài viên và các bên sẽ không có cơ hội nhận được sự ủng hộ
và trợ giúp đặc biệt từ một tổ chức trọng tài thường trực trong trường hợp phát
sinh sự kiện không dự kiến trước và trong trường hợp các Trọng tài viên không

thể giải quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các bên có thể nhận được là
từ các Tòa án.
Thứ tư, phán quyết của trọng tài mang tính chung thẩm, theo đó việc thiếu
quyền phúc thẩm có thể là lợi thế theo mong muốn sớm kết thúc tranh chấp,
nhưng nếu trọng tài viên ra phán quyết rõ ràng là sai, theo pháp luật hay thay
thực tế thì việc thiếu quyền phúc thẩm sẽ là một điều thất vọng đối với một bên


tranh chấp. Điểm này lại là thế mạnh của phương thức Tòa án. Vì nếu thấy phán
quyết của Tòa án không thỏa đáng, đương sự có thể kháng cáo, yêu cầu xét xử
lại. Với cơ chế nhiều cấp xét xử, pháp luật cho phép đương sự được thực hiện
quyền kháng cáo đối với những bản án, quyết định chưa có hiệu lực của Tòa án
sơ thẩm. Ngay cả khi bản án, quyết đinh đã có hiệu lực pháp luật, thì đương sự
vẫn có quyền khiếu nại, người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết của tòa
án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. xét ở khía cạnh tích cực, trình tự
xét xử nhiều cấp cho phép xem xét lại phán quyết của Tòa án một cách chắc
chắn trước khi cho thi hành.
Thứ năm, là hình thức Trọng tài quy chế có nhược điểm là tốn kém nhiều chi
phí.
Các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ không trực thuộc nhà nước,
họ hoạt động trên cơ sở lấy thu bù chi. Nguồn thu chủ yếu của các trung tâm
trọng tài là từ lệ phí giải quyết tranh chấp thương mại, do vậy chi phí cho một vụ
việc tranh chấp được giải quyết theo thủ tục tố tụng trọng tài thường cao và tốn
kém hơn phí của tòa án.
Khi vụ việc được đưa ra giải quyết tranh chấp tại Trọng tài quy chế, ngoài
việc phải trả chi phí thù lao cho các Trọng tài viên, các bên còn phải trả thêm các
chi phí hành chính để nhận được sự hỗ trợ của các trung tâm trọng tài. Ngoài ra
trong một số trường hợp quá trình giải quyết tranh chấp bị kéo dài mà Hội đồng
Trọng tài các các bên bắt buộc phải tuân thủ vì phải tuân theo các thời hạn theo
quy định của Quy tắc tố tụng trọng tài làm giảm hiệu quả của việc giải quyết

tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
Ở đặc điểm này thì mức phí của Tòa án thấp hơn. Tuy nhiên nếu việc xét xử
kéo dài thì có thể làm tổng chi phí cao hơn nhiều so với phí trọng tài của các
Trung tâm trọng tài.
III. Thực tiễn giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế giữa các
thương nhân tại Việt Nam.
Trong những năm qua, Việt Nam đã có những bước mạnh mẽ trong phát triển
kinh tế. Để đạt được điều này, Việt Nam đã tích cực thu hút các nhà đầu tư nước


ngoài nhằm tranh thủ vốn và các công nghệ của các nước tiên tiến. Bên cạnh đó,
Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế - một xu thế phát triển tất yếu của
các nền kinh tế trên thế giới. Thương mại phát triển tất yếu không tránh khỏi
những tranh chấp thương mại quốc tế. Với điều kiện thực tế Việt Nam hiện nay,
hiện có rất nhiều phương thức giải quyết tranh chấp nhưng phương thức trọng
tài được xem trọng trên trường quốc tế vì những ưu điểm và thuận lợi mà nó
mang lại đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên việc giải
quyết bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cấp,
chưa tạo được niềm tin với các nhà kinh doanh, đặc biệt là các thương nhân
nước ngoài.
Trên thực tiễn những tổ chức trọng tài này chủ yếu giải quyết các tranh chấp về
hợp đồng thương mại quốc tế, còn với những tranh chấp về hợp đồng thương
mại trong nước thì rất hạn chế. Từ năm 2010 trở lại đây, xu hướng các vụ việc
giải quyết bằng trọng tài với số lượng lớn hơn, lớn từng năm, thay thế cho giải
quyết bằng tòa án. Tuy nhiên, do nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam còn hạn
chế, do thiếu thói quen sử dụng các dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp, thiếu người
hướng dẫn, tư vấn về luật pháp quốc tế, trọng tài quốc tế. Do vậy, trong rất nhiều
trường hợp khi doanh nghiệp Việt Nam đi kiện những vụ việc có tính quốc tế thì
thường bỏ lơ trọng tài quốc tế, đến khi có phán quyết xảy ra thì hậu quả rất
nghiêm trọng. Nhận thức của doanh nghiệp trong nước về trọng tài quốc tế vẫn

còn hạn chế hơn các doanh nghiệp nước ngoài, bởi vì cơ chế giải quyết bằng
trọng tài còn khá mới mẻ
Hiện nay, nước ta có 14 trung tâm trọng tài đang hoạt động với tổng số 349
trọng tài viên, trong đó, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) có số
trọng tài viên nhiều nhất, chiếm gần 43% tổng số trọng tài viên của cả nước.
Thời gian gần đây, các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là đội ngũ doanh
nghiệp đã nhìn nhận và đánh giá tích cực hơn về vai trò của phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài trong bối cảnh nước ta hội nhập kinh tế toàn cầu
ngày càng sâu rộng hơn. Số lượng vụ việc tranh chấp mà các Trung tâm trọng tài


thụ lý giải quyết đã tăng lên 30% so với trước đây. Theo số liệu thống kê, trong
4 năm (từ năm 2011 đến 31/12/2015) các trung tâm trọng tài đã ban hành 1.831
phán quyết trọng tài, riêng trong năm 2015, các trung tâm trọng tài đã giải quyết
được 1.255 vụ tăng 389 vụ việc so với năm 2014. Trong đó, VIAC đã thụ lý, giải
quyết 226 vụ, trung bình gần 60 vụ/năm; Trung tâm Trọng tài thương mại thành
phố Hồ Chí Minh (TRACENT) thụ lý, giải quyết 291 vụ, trung bình hơn 70
vụ/năm. Các trung tâm trọng tài khác chỉ giải quyết từ 5 đến 10 vụ/năm.
So với tổng số vụ án vể kinh doanh, thương mại mà Tòa án đã giải quyết trong
năm 2015 là 18.432 vụ thì ta có thể thấy việc giải quyết các tranh chấp thương
mại vẫn còn ở mức khiêm tốn. Theo thống kê, số vụ tranh chấp giải quyết bằng
trọng tài tại Việt Nam mới chỉ chiếm chưa đến 1% trên tổng số vụ tranh chấp
thương mại được tòa án thụ lý, xét xử hàng năm.
Dù là hai phương thức giải quyết chính khi có tranh chấp thương mại quốc tế,
nhưng các chuyên gia trên thế giới vẫn đánh giá chất lượng và hiệu quả giải
quyết của Tòa án và các trung tâm trọng tài thương mại ở Việt Nam còn hạn chế.
1. Các điểm còn hạn chế trong việc áp dụng phương thức giải quyết tranh
chấp bằng phương thức trọng tài thương mại tại Việt Nam
Trên thực tiễn những tổ chức trọng tài này chủ yếu giải quyết các tranh chấp
về hợp đồng thương mại quốc tế, còn với những tranh chấp về hợp đồng thương

mại trong nước thì rất hạn chế. Từ năm 2010 trở lại đây, xu hướng các vụ việc
giải quyết bằng trọng tài với số lượng lớn hơn, lớn từng năm, thay thế cho giải
quyết bằng tòa án. Tuy nhiên, do nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam còn hạn
chế, do thiếu thói quen sử dụng các dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp, thiếu người
hướng dẫn, tư vấn về luật pháp quốc tế, trọng tài quốc tế. Do vậy, trong rất nhiều
trường hợp khi doanh nghiệp Việt Nam đi kiện những vụ việc có tính quốc tế thì
thường bỏ lơ trọng tài quốc tế, đến khi có phán quyết xảy ra thì hậu quả rất
nghiêm trọng. Nhận thức của doanh nghiệp trong nước về trọng tài quốc tế vẫn
còn hạn chế hơn các doanh nghiệp nước ngoài, bởi vì cơ chế giải quyết bằng
trọng tài còn khá mới mẻ.


Đồng thời các quy định về việc giải quyết tranh chấp trước trọng tài vẫn còn
nhiều bất cập, cụ thể:
Thứ nhất, phần lớn các tranh chấp được giải quyết bằng phương pháp trọng
tài ở Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại chủ yếu có yếu tố nước ngoài. Các
nhà đầu tư nước ngoài phải bỏ ra chi phí khá lớn để thuê luật sư, chuyên gia am
hiểu về lĩnh vực tranh chấp và pháp luật Việt Nam. Hơn nữa, kết quả giải quyết
tranh chấp căn cứ pháp luật Việt Nam cũng khó để các bên công nhận, dẫn đến
hệ quả họ có thể kiện các cơ quan tài phán quốc tế, điều này sẽ ảnh hưởng đến
điều kiện phát triển kinh tế của Việt Nam và quan hệ giao thương của các doanh
nhân nước ta nói riêng.
Thứ hai, trọng tài là tổ chức phi chính phủ nên phán quyết của trọng tài không
nhân danh Nhà nước, điều này có lẽ lỗ hổng về sự vô tư của Trọng tài viên khi
ra phán quyết. Các nhà kinh doanh chưa thật sự tin tưởng khi lựa chọn trọng tài,
bởi họ chưa tin tưởng vào tính độc lập, vô tư, khách quan của Trọng tài viên. Vì
lý do nào đó mà Trọng tài viên đưa ra phán quyết sai, không khách quan thì họ
không biết phải dựa vào cơ chế nào để bảo vệ quyền lợi của chính mình ngoài
việc không thi hành phán quyết đó và khởi kiện tại Tòa kinh tế thuộc Tòa án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Thứ ba, theo quy định của pháp luật Việt Nam, với phán quyết của trọng tài
trong nước được thi hành ngay nhưng phán quyết của trọng tài nước ngoài phải
thông qua thủ tục công nhận tại Tòa án thì cơ quan thi hành án mới tổ chức thi
hành. Như vậy, theo quy định này thì giữa phán quyết trọng tài trong nước với
phán quyết trọng tài nước ngoài chưa thật sự bình đẳng. Mặc dù, Việt Nam đã
gia nhập Công ước New York năm 1958, nhưng thực tế cho thấy các cấp Tòa án
vẫn chưa xem xét theo hướng thuận lợi việc công nhận và cho thi hành phán
quyết của trọng tài nước ngoài, có trường hợp bị đơn phải trả tiền bồi thường
thiệt hại cho nguyên đơn ở nước ngoài, nhưng Tòa án Việt Nam dựa vào quy
định này của Luật để từ chối việc công nhận phán quyết của trọng tài nước
ngoài, nhằm bảo vệ quyền lợi của bị đơn trong nướ. Điều này khiến các nhà đầu
tư nước ngoài không thiện chí hợp tác với doanh nghiệp của Việt Nam, bởi họ lo


sợ nếu xảy ra tranh chấp, dù phán quyết của trọng tài nước ngoài được tuyên
nhưng vẫn khó thực thi tại Việt Nam do vấp phải quy định này. Mặt khác, vấn đề
công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài được quy định
trong Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Thi hành án dân sự, nhưng
Luật Trọng tài thương mại lại không có quy định nào về vấn đề này, nên đây có
lẽ là bất cập, trở ngại cho việc các doanh nhân nước ngoài khi nghiên cứu, tiếp
cận Luật Trọng tài thương mại, nhưng lại thiếu quy định về công nhận và cho thi
hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, trong khi đó, tham khảo
pháp luật của nhiều nước trên thế giới, như Pháp, Đức,… đều quy định việc
công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài ngay trong Luật
Trọng tài.
Thứ tư, do không phải là cơ quan nhà nước nên hoạt động của trọng tài
thương mại không mang tính quyền lực, điều này gây không ít khó khăn cho
Trọng tài viên khi giải quyết tranh chấp cũng như khó khăn cho các thương nhân
khi yêu cầu việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài. Hơn nữa,
số lượng Trọng tài viên còn quá khiêm tốn, cơ sở vật chất trang bị đầu tư chưa

tương xứng, kỹ năng giải quyết các tranh chấp chưa mang tính chuyên nghiệp….
Mặt khác, đa số các doanh nhân nước ta chưa thật sự thông hiểu đầy đủ về pháp
luật trọng tài, chưa thấy hết tính ưu việt của phương thức giải quyết này. Bên
cạnh đó còn tồn tại những nguyên nhân khác từ phía các cơ quan tiến hành tố
tụng, thay vì nhận thức trọng tài là phương thức hỗ trợ đắc lực giúp giảm tải việc
giải quyết các tranh chấp thương mại tại Tòa án, thì ngược lại cho rằng đường
nào cũng nhờ Tòa án giải quyết nên không ít Tòa án lại động viên việc khởi kiện
và ôm luôn việc xét xử. Điều này được chứng minh qua con số thống kê có tới
95% các tranh chấp hợp đồng thương mại trong nước được Tòa án thù lý và giải
quyết. Và vì lý do phải giải quyết quá nhiều vụ án, nên lại càng gây khó khăn
cho Tòa án, ảnh hưởng đến sự khách quan, và vô tư trong nhưng phán quyết của
Tòa án và thời gian thụ lý kéo dài.
2. Nguyên nhân ảnh hưởng tới sự phát triển của phương thức trọng tài ở
Việt Nam.


Trên thực tế thì vẫn còn nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của trọng
tài Việt Nam, cụ thể như sau:
- Những quy định của pháp luật hiện hành còn thiếu sót, chồng chéo, chưa rõ
ràng cụ thể các vấn đề cần quy định, có những vấn đề còn chưa thực sự đi vào
cuộc sống, gây ra rất nhiều khó khăn cho quá trình áp dụng thực tiễn của pháp
luật vào cuộc sống.
- Tập quán, thói quen thương mại, ở đây, điều đầu tiên phải nói tới chính là do
thói quen của các thương nhân Việt Nam. Họ tin tưởng vào tòa án hơn là trọng
tài. Họ cho rằng chỉ có tòa án mới có thể giúp họ đòi được sự công bằng. Thêm
vào đó, thương nhân Việt Nam chưa có những hiểu biết đầy đủ về vấn đề chọn
cơ quan giải quyết tranh chấp trong hợp đồng thương mại quốc tế bằng trọng tài.
Do vậy mà thương nhân Việt Nam rất e dè mỗi khi lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
- Trình độ trọng tài viên, các trọng tài viên hiện nay đều là những người kiêm

nhiệm trong các lĩnh vực thương mại. Vì vậy, một số trọng tài viên còn chưa
chuyên nghiệp, ví dụ như yêu cầu về quy tắc tố tụng. Điều này một số trọng tài
viên chưa nắm được. Cùng với đó, các tranh chấp ngày càng sâu và phức tạp,
nhất là những tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Hiện nay cũng tồn tại thực trạng
có một số ít trọng tài viên chưa nắm chắc kiến thức pháp luật quốc tế bao gồm
luật các nước và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã là thành viên hoặc sắp là
thành viên. Nếu các trọng tài viên không nắm chắc các điều ước quốc tế đa
phương, song phương hoặc những điều ước được ký kết khi Việt Nam gia nhập
WTO sẽ ảnh hưởng đến chất lượng xét xử.
3. Các kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại của hoạt động giải quyết
tranh chấp thương mại quốc tế ở Việt Nam.
Thứ nhất, các doanh nghiệp cần phải trang bị cho mình những kiến thức cơ
bản về trọng tài thương mại. Khi ký kết hợp đồng cần lưu ý phải ghi rõ trung
tâm trọng tài nào sẽ xử lý khi tranh chấp xảy ra. Các thỏa thuận càng chi tiết
càng tốt.


Thứ hai, để cơ chế trọng tài trở thành một thành tố không thể thiếu trong hoạt
động thương mại thời gian tới, các trung tâm trọng tài nói chung và VIAC nói
riêng vẫn cần phải liên tục khẳng định năng lực xét xử của mình. Các trung tâm
trong tài cần tiến tới không chỉ là chỗ dựa tin cậy của doanh nghiệp Việt Nam
mà có thể còn là sự lựa chọn của các doanh nghiệp nước ngoài trong các giao
thương quốc tế.
Thứ ba, nhà nước cũng cần chú trọng tới việc tổ chức đào tạo đội ngũ trọng
tài viên về cả số lượng và chất lượng. Thực tế cho thấy, ở những tỉnh, thành phố
không thuộc trung ương thì nhân lực còn ít. Còn trong lĩnh vực thương mại quốc
tế thì trình độ chuyên môn của các trọng tài chưa cao nên ảnh hưởng rất nhiều
đến chất lượng xét xử. Do đó để phát triển phương thức trọng tài, nhà nước cần
có chính sách hỗ trợ, đào tạo trọng tài viên thông qua các chương trình đào tạo
dài hạn trong nước, nước ngoài kết hợp với các chương trình tập huấn ngắn hạn

với sự hướng dẫn của các trọng tài viên, các chuyên gia có uy tín trên thế giới.
Bên cạnh đó bản thân các trung tâm trọng tài cần tự trau dồi và cố gắng hết mình
để hoàn thiện bản thân. Để các thương nhân tin tưởng và chọn giải quyết bằng
trọng tài thương mại, qua đó đỡ gánh nặng cho Tòa án. Từ đó có thể nâng cao
chất lượng phục vụ, cũng như chất lượng giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, Nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong việc tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về Trọng tài; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trọng tài; hướng dẫn việc
đào tạo, bồi dưỡng Trọng tài viên; tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý vi
phạm pháp luật về Trọng tài.
Thứ năm, cần hoàn thiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp
Các văn bản hướng thi hành Luật TTTM hiện hành nên giải thích theo hướng
mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài, tôn trọng tự do ý chí thỏa thuận giữa
các bên tranh chấp. Cụ thể, nên quy định thẩm quyền của trọng tài theo phương
pháp loại trừ, mở rộng thẩm quyền của trọng tài ra cả một số tranh chấp liên
quan đến quyền nhân thân, quan hệ hôn nhân và gia đình, thừa kế theo quy định
của luật dân sự, điều này là hoàn toàn phù hợp trong điều kiện nước ta ngày
càng hội nhập với thế giới thì không có lý do vì pháp luật của nước ta lại không


phù hợp với luật chung của thế giới. Ví dụ, như Luật Trọng tài của Singapo,
trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về dân sự trừ lĩnh vực hình sự
và tranh chấp liên quan đến hôn nhân và gia đình.
Thứ sáu, hoàn thiện quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với pháp
luật trọng tài theo hướng việc ra quyết định áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ
biện pháp khẩn cấp tạm thời tương tự như các biện pháp thuộc thẩm quyền của
Tòa án.


III. Kết luận
Qua những phân tích trên, chúng ta có thể thấy giải quyết tranh chấp thương

mại quốc tế trước trọng tài hay Tại Tòa án đều có những thế mạnh và nhược
điểm riêng. Do đó cần phải tìm hiểu kĩ và vận dụng tốt các ưu điểm của mỗi
phương thức để có thể chọn ra một phương thức giải quyết tranh chấp đạt hiệu
quả cao nhất. Và để đẩy mạnh hơn nữa ưu thế của phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế ở Việt Nam, đòi hỏi phải có sự quan tâm cũng như nỗ
lực của toàn Đảng, nhà nước và nghành có liên quan, trang bị kiến thức cơ bản
cho doanh nghiệp Việt Nam về trọng tài. Có như vậy, hoạt động trọng tài của ta
mới phát triển một cách phù hợp với pháp luật trong nước cũng như quốc tế, từ
đó tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho các doanh nghiệp trong quá trình hội
nhập sâu rộng thế giới.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật thương mại quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội
2. Bộ luật Tố tụng dân sự 2005, 2015
3. Luật Trọng tài thương mại 2010
4. Luật tổ chức Tòa án nhân năm 2014
3. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài ở Việt Nam
thời gian qua – Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
5. moj.gov.vn – Bộ Tư Pháp - Một số bất cập quy định của Luật Trọng tài
thương mại năm 2010, kiến nghị hoàn thiện.
6. moj.gov.vn – Bộ Tư Pháp – Thực tiễn hiệu quả giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế của Tòa án nhân dân



×