Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phân tích phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam (9 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.3 KB, 16 trang )

Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
NỘI DUNG CHÍNH
I. Khái quát chung về trọng tài thương mại
1. Khái niệm trọng tài thương mại
2. Các hình thức trọng tài thương mại
3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
II. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại
III. Ưu điểm và nhược điểm của trọng tài thương mại khi giải quyết các tranh
chấp thương mại
1. Ưu điểm
2. Nhược điểm
IV. Thực trạng áp dụng việc giải quyết các tranh chấp thương mại tại trọng
tài thương mại.
1.Thực trạng về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
2. Nguyên nhân
3. Đánh giá một số điểm mới của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 so với
Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003
V. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp
thương mại tại trọng tài thương mại
KẾT LUẬN
Page 1
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các giao dịch thương mại ngày càng
trở nên đa dạng hơn. Điều này tất yếu dẫn đến những tranh chấp phát sinh từ những
quan hệ này trở nên phức tạp. Tranh chấp thương mại là những tranh chấp phát
sinh trong lĩnh vực thương mại. Mặc dù tranh chấp không phải là điều mong muốn
của các thương nhân và họ đã rất cẩn trọng trong việc áp dụng các biện pháp nhằm
loại bỏ tranh chấp song các bên không thể khẳng định rằng sẽ không có bất kỳ


tranh chấp nào xảy ra trong các thương vụ mà họ tham gia.
Vì vậy, điều quan trọng mà các thương nhân cần nhìn nhận trước đó là giải
pháp nào cần thực hiện nếu có tranh chấp phát sinh. Hiện nay, trên thế giới cũng
như Việt Nam phổ biến các hình thức giải quyết tranh chấp như: thương lượng, hòa
giải, tòa án, trọng tài. Thực tiễn cho thấy trong những giải pháp nói trên và trừ
những vụ việc đặc biệt, giải pháp trọng tài thường được các bên lựa chọn bởi các
ưu điểm vượt trội của nó.
NỘI DUNG CHÍNH
I. Khái quát chung về trọng tài thương mại
1. Khái niệm trọng tài thương mại
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định về
trọng tài thương mại: Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp
do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này.
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại không
mang ý chí quyền lực nhà nước ( không nhân danh quyền lực nhà nước như phán
quyết của toà án ) mà chủ yếu được giải quyết dựa trên phán quyết của trọng tài
thương mại (được các bên lựa chọn) theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo.Ngoài ra,
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại này còn đảm bảo tối đa uy tín cũng
như bí mật của các bên tranh chấp , góp phần củng cố và duy trì mối quan hệ hợp
tác lâu dài giữa các bên.
2. Các hình thức trọng tài thương mại
2.1. Trọng tài vụ việc.
Page 2
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận
thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tụ chấm dứt tồn
tại khi giải quyết xong vụ việc.
Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau đây:
- Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt
động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.

- Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành (vì chỉ
được thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo sự thoả thuận của các bên) và
không có danh sách trọng tài viên riêng.
- Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.
2.2. Trọng tài thường trực :
Ở các nước trên thế giới, trọng tài thường trực thường được tổ chức dưới những
hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài hay các viện
trọng tài, nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng trung tâm trọng tài.
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các
trung tâm trọng tài.Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp
nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định.
Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
- Các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ
quan nhà nước.
- Các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân , tồn tại độc lập với nhau.
- Tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ.
- Mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố
tụng riêng.
- Hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên
của trung tâm.
3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
Page 3
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
 Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, nếu trước hoặc sau khi tranh
chấp các bên có thỏa thuận trọng tài (quy định tại khoản 1, điều 5 LTTTM năm
2010).
Khác với giải quyết tranh chấp tại tòa án, việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài đòi hỏi phải có sự thỏa thuận giữa các bên. Đây là cơ sở cho các bên tiến
hành giải quyết TCTM tại TTTM.
Thỏa thuận trọng tài (TTTT) không chỉ là hình thức pháp lý ghi nhận sự thỏa

thuận của các bên mà còn là một căn cứ pháp lý để dựa vào đó bên bị vi phạm có
quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ. Vì TTTT có vị trí, vai trò quan
trọng mang tính quyết định đối với việc áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài nên LTTTM 2010 đã dành hẳn chương II để quy định về vấn đề liên
quan đến TTTT. Theo các quy định trong LTTTM 2010 thì TTTT không chỉ được
khẳng định như một nguyên tắc “nền tảng” của việc giải quyết tranh chấp tại trọng
tài (Điều 5) mà còn làm sáng tỏ hơn các vấn đề có liên quan như: Hình thức TTTT (
Điều 16), TTTT vô hiệu (Điều 18), Tính độc lập của TTTT ( Điều 19)
Như vậy, nguyên tắc TTTT được phản ánh khá đậm nét trong LTTTM 2010,
trở thành 1 nguyên tắc nền tảng của tố tụng trọng tài. Trọng tài sẽ mất đi bản chất
vốn có nếu thiếu vắng nguyên tắc này – một nguyên tắc thể hiện sự tôn trọng ý chí,
nguyện vọng chung của các bên.
 Khi giải quyết tranh chấp, trọng tài viên (TTV) phải độc lập, khách quan,
vô tư và tuân thủ quy định của pháp luật (Khoản 2, Điều 4 LTTTM 2010)
Đây là nguyên tắc trung tâm của TTTM, đồng thời cũng là yêu cầu đặt ra đối
với các chủ thể giải quyết tranh chấp vì điều đó có thể làm ảnh hưởng đến tính
đúng đắn, chính xác, khách quan và khả năng thi hành phán quyết của TT.
Để đảm bảo nguyên tắc này, LTTTM 2010 đã quy định khá cụ thể về tiêu
chuẩn TTV (Điều 20), Quyền, nghĩa vụ của TTV (Điều 21). Những quy định này
giúp cho việc đảm bảo vụ tranh chấp được giải quyết một cách công bằng, chính
xác và hợp lý đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho các bên tranh chấp.
 Nguyên tắc tự định đoạt
Page 4
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
Trong TTTT các bên được đảm bảo quyền tự định đoạt tối đa. Trước tiên,
các bên có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ Trung tâm trọng tài nào hoặc tự thành lập
HĐTT để giải quyết các tranh chấp của mình, các bên có quyền chỉ định TTV, địa
điểm, thời gian, ngôn ngữ giải quyết tranh chấp.
 Giải quyết tranh chấp bằng TT được tiến hành công khai, trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác (khoản 4, Điiều 4 LTTTM 2010)

Nguyên tắc này xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động kinh doanh. Theo
nguyên tắc này, các buổi xét xử TT chỉ gồm TTV, các đương sự và các bên có liên
quan đến vụ tranh chấp. Những người không có trách nhiệm và không liên quan
đến vụ tranh chấp không được tham dự. Và quyết định của TT cũng như các căn cứ
để TT đưa ra phán quyết sẽ không được công bố công khai nếu các bên đương sự
không có yêu cầu.
 Phán quyết TT là chung thẩm (khoản 5, điều 4 LTTTM 2010)
Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của TTTT là nhân danh ý chí, quyền
tự định đoạt của đương sự. Để đảm bảo việc các bên phải có nghĩa vụ thi hành phán
quyết TT thì LTTTM 2010 có quy định phán quyết của TT được thi hành ngay
(trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ra phán quyết).
Tóm lại, tất cả những nguyên tắc giải quyết tranh chấp mà LTTTM 2010 đã
đặt ra đều nhằm mục đích giúp cho các bên giải quyết tranh chấp một cách hiệu quả
và đảm bảo tốt nhất nhu cầu về một cơ chế giải quyết tranh chấp tối ưu cho doanh
nghiệp.
II. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại
Về nguyên tắc, tranh chấp được giải quyết tại TT nếu trước hoặc sau khi xảy
ra tranh chấp các bên có TTTT. Tuy nhiên không phải mọi tranh chấp có TTTT đều
thuộc thẩm quyền giải quyết của TTTM. TTTM chỉ có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. Nghĩa là, một tranh chấp sẽ thuộc
thẩm quyền giải quyết của TTTM khi có đủ 2 điều kiện:
Thứ nhất, giữa các bên tranh chấp có TTTT và TTTT có hiệu lực
Page 5
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
Thứ hai, tranh chấp gửi đến TTTM phải là tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại.
III. Ưu điểm và nhược điểm của trọng tài thương mại so với giải quyết các
tranh chấp thương mại
1. Ưu điểm
Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp kết hợp được các ưu điểm của

của hình thức thương lượng, hòa giải và tòa án, bởi vậy rất phù hợp để giải quyết
các tranh chấp phát sinh từ quan hệ thương mại. Bản thân các nhà kinh doanh cũng
rất ưa chuộng phương thức trọng tài. So với thương lượng, trung gian hòa giải và
tòa án thì thủ tục trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh có
nhiều ưu điểm.
Thứ nhất, quyết định của Trọng tài là chung thẩm và vì vậy nó có giá trị bắt
buộc đối với các bên, các bên không thể chống án hay kháng cáo. Việc xét xử tại
Trọng tài chỉ diễn ra ở một cấp xét xử, đó cũng chính là điều khác biệt cơ bản so
với xét xử tại Tòa án bởi thông thường xét xử tại Tòa án diễn ra ở hai cấp. Hội
đồng trọng tài sau khi tuyên phán quyết xong là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình
và chấm dứt sự tồn tại.
Thứ hai, hoạt động của Trọng tài diễn ra liên tục vì Hội đồng Trọng tài xét
xử vụ kiện là do các bên thỏa thuận lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết vụ
kiện, do đó các trọng tài viên là người theo vụ kiện từ đầu đến cuối, vì vậy họ có
điều kiện để nắm bắt và tìm hiểu thấu đáo các tình tiết của vụ việc. Chính điều này
có lợi ngay cả khi các bên luôn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua đàm
phán, trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận, điều mà ít khi xảy ra ở
Tòa án.
Thứ ba, trọng tài xét xứ bí mật bởi tiến trình giải quyết của Trọng tài có tính
riêng biệt. Hầu hết các quy định pháp luật về Trọng tài của các quốc gia đều thừa
nhận nguyên tắc Trọng tài xử kín nếu các bên không có thỏa thuận khác. Đây là
một ưu điểm quan trọng bởi các doanh nghiệp không muốn các chi tiết của vụ tranh
chấp bị đem ra công khai trước Tòa án, điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ
trong hoạt động kinh doanh của mình.
Page 6
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
Thứ tư, khi xét xử, trọng tài cho phép các bên được sử dụng kinh nghiệm của
các chuyên gia và điều này được thể hiện ở quyền chọn Trọng tài viên của các bên.
Các bên có thể chọn một Hội đồng Trọng tài dựa trên trình độ, năng lực, sự hiểu
biết vững vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên biệt

như licensing, leasing, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ, chứng
khoán
Thứ năm, hoạt động xét xử của Trọng tài liên tục do đó tiết kiệm thời gian,
chi phí và tiền bạc cho doanh nghiệp. Trong khi đó giải quyết tranh chấp bằng Tòa
án thường rất khó đạt được điều này bởi Tòa án phải giải quyết nhiều tranh chấp
cùng một lúc, do đó tình trạng án tồn đọng là điều không thể tránh khỏi.
Thứ sáu, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thể hiện tính năng động, linh
hoạt và mềm dẻo, do đó để thích ứng hơn so với giải quyết tranh chấp bằng Tòa án.
Tòa án khi xét xử phải tuân thủ một cách đầy đủ và nghiêm ngặt các quy định có
tính chất quy trình, thủ tục, trình tự được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự
2004 và các văn bản hướng dẫn liên quan.
Thực tiễn cho thấy giải quyết tranh chấp bằng Trung tâm trọng tài Quốc tế
Việt Nam (VIAC) thường kéo dài tối đa là 6 tháng, trong khi đó giải quyết tranh
chấp tại Tòa án có trường hợp kéo dài mấy năm.
Thứ bảy, việc xét xử tranh chấp bằng Trọng tài đảm bảo tính bí mật cao và vì
vậy sẽ tránh cho các bên nguy cơ làm tổn thương đến mối quan hệ hợp tác làm ăn
vốn có, trong khi đó việc xét xử công khai tại Tòa án thường dễ làm cho các bên rơi
vào thế đối đầu nhau với kết cục là một bên được thừa nhận như một người chiến
thắng, còn bên kia thấy mình là một kẻ thua cuộc.
Việc xét xử tranh chấp bằng Trọng tài trên thực tế đã làm giảm đáng kể mức
độ xung đột, căng thẳng của những bất đồng bởi nó diễn ra trong một không gian
kín, nhẹ nhàng, mang nặng tính trao đối đề tìm ra sự thật khách quan của vụ việc.
Đó chính là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác,
quan hệ thiện chí đối với nhau. Hơn nữa, sự tự nguyện thi hành quyết định của một
bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn có thể diễn ra
trong tương lai.
Page 7
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
Với những ưu điểm như vậy, việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đã
ngày càng trở thành một phương thức tố tụng kinh doanh - thương mại hữu hiệu và

được các bên lựa chọn bên ngoài tố tụng bằng Tòa án.
2. Nhược điểm
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế, phương thức giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài thương mại cũng có những khó khăn, trở ngại khó tránh
khỏi, đó là:
- Thứ nhất, sự thành công của quá trình giải quyết tranh chấp bằng con
đường TTTM chủ yếu phụ thuộc vào thái độ thiện chí và hợp tác của các bên tranh
chấp. Mà các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn chưa thực sự quan tâm nhiều
đến việc lường trước các tranh chấp sẽ phát sinh nên vẫn còn tình trạng mơ hồ về
hình thức trọng tài thương mại nói riêng, cũng như các phương thức giải quyết
tranh chấp khác nói chung.
- Thứ hai, việc thực thi các kết quả đã đạt được trong quá trình giải quyết
tranh chấp bằng con đường trọng tài phần lớn phụ thuộc vào sự tự nguyện thi hành
của bên có nghĩa vụ thi hành mà không hề có cơ chế pháp lý vững chắc để đảm bảo
thi hành và nếu có thì việc thực thi đó thường phức tạp và tốn kém.
IV. Thực trạng áp dụng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong
việc giải quyết các tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại.
1. Thực trạng về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp khá hiệu quả và khá thông
dụng trên thế giới, song tại Việt Nam thì TTTM lại rất mờ nhạt. Con đường tài
phán này hiện không nhận được sự quan tâm của doanh nghiệp. Điểm qua hoạt
động của các trung tâm trọng tài trong thời gian gần đây, ta có thể thấy được thực
trạng trong việc áp dụng hình thức trọng tài thương mại trong việc giải quyết tranh
chấp ở Việt Nam hiện nay, đó là:
- Thứ nhất, về phía các trung tâm trọng tài: Theo kết quả nghiên cứu về sự
cần thiết và việc sử dụng trọng tài trong giải quyết tranh chấp thương mại Việt
Nam do Bộ tư pháp ban hành mới đây cho thấy có đến 75% ý kiến cho rằng cần
thiết thành lập trung tâm trọng tài, tuy nhiên hiện nay trên cả nước mới có 6 trung
Page 8
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)

tâm trọng tài (3 trung tâm ở Hà Nội, 2 trung tâm ở TpHCM, 1 trung tâm tại Cần
Thơ). Thực ra trước đó cũng có một trung tâm trọng tài tại Bắc Giang, tuy nhiên
trung tâm này thành lập ra khó khăn vè trụ sở rồi cũng giải tán. Tuy nhiên, ngoài
Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (bên cạnh phòng Thương mại và công
nghiệp Việt Nam - VIAC) là còn có doanh nghiệp gõ cửa, các trung tâm trọng tài
khác hầu như “ngồi chơi xơi nước”.
- Thứ hai, về phía các doanh nghiệp: Theo tài liệu thống kê, có tói 84%
doanh nghiệp không biết đến việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Điều này
cũng dễ hiểu bởi còn nhiều doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh theo lối cũ, khi xảy
ra tranh chấp thì “nhờ” cơ quan chủ quản hoặc Bộ chủ quản giải quyết.
Bên cạnh đó, theo thống kê của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, những
năm gần đây, trong các vụ tranh chấp thương mại, có đến gần 60% vụ việc xảy ra
giữa các doanh nghiệp trong nước với các đối tác nước ngoài. Và doanh nghiệp
Việt Nam thường thua thiệt trước các doanh nghiệp nước ngoài do thiếu kinh
nghiệm thương trường và kém hiểu biết về trọng tài thương mại. Có thể xem ví dụ
sau như một điển hình cho việc thiếu hiểu biết về trọng tài thương mại:
Ví dụ 1: VIAC đã từng phải từ chối giải quyết tranh chấp mua bán hàng hóa
giữa một công ty Đài Loan và chi nhánh công ty A có trụ sở tại Bà Rịa – Vũng Tàu
với lý do điều khoản về cơ quan giải quyết tranh chấp trong hợp đồng ghi rất chung
chung là “nếu có tranh chấp sẽ nhờ trọng tại Việt Nam giải quyết”. Do mất nhiều
thời gian để nhờ trọng tài phân xử, cuối cùng vụ việc được đưa ra Tòa án nhân dân
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu giải quyết nhưng cũng bị đình chỉ vì đã quá thời hiệu khởi
kiện.
Ví dụ 2: Vừa qua, công ty Dâu tằm tơ Việt Nam đã bị trọng tài Geneva
(Thụy Sĩ) buộc phải thanh toán gần nửa triệu USD cho công ty Kyunggi Silk (Hàn
Quốc) trong một vụ tranh chấp kéo dài 3 năm, kèm theo đó Công ty Dâu tằm tơ
Việt Nam Việt Nam phải thanh toán gần 40.000 USD tiền phí trọng tài.
2. Nguyên nhân
Nhìn chung, các Trung tâm Trọng tài hoạt động chưa hiệu quả vì trọng tài
tuy không phải là một chế định quá mới mẻ, nhưng các doanh nghiệp của Việt Nam

Page 9
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
chưa có thói quen sử dụng dịch vụ trọng tài như là một trong những phương thức
cơ bản để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động. Đến nay,
số lượng giải quyết tranh chấp qua trọng tài kinh tế hết sức nhỏ. Tại thành phố Hà
Nội, tranh chấp kinh tế bằng hình thức trọng tài năm 2005, chỉ có 13 vụ, năm 2004,
khoảng 10 vụ. ở TP Hồ Chí Minh - nơi có nền kinh tế sôi động, số lượng doanh
nghiệp chiếm phần lớn so với cả nước, tuy nhiên, số vụ đưa ra giải quyết bằng
trọng tài chiếm một tỷ lệ nhỏ so với số lượng tranh chấp xảy ra trong đời sống
thương mại ở nước ta. Sở dĩ như vậy có thể kể ra một số nguyên nhân chủ yếu như
sau:
- Ý thức về pháp luật của các doanh nghiệp và việc kinh doanh trong điều kiện
cạnh tranh khốc liệt làm cho các chủ thể trong quan hệ đều vi phạm hợp đồng.
Trong một giao dịch, bên này vi phạm việc này, bên kia sai việc khác; hoặc hôm
nay, bên này sai, thì ngày mai, bên kia sai; người ta tìm cách thương thuyết “tay
đôi” để giải quyết ổn thoả, nhằm giữ quan hệ làm ăn lâu dài. Vì lẽ đó, việc đưa
nhau ra xử lý bằng trọng tài hoặc toà án các bên đều không muốn. Theo số liệu của
Phòng kinh tế thương mại Việt Nam, giải quyết tranh chấp kinh tế qua toà án và
trọng tài chỉ chiếm khoảng 49% số lượng các vụ tranh chấp trong thực tế.
- Nhiều doanh nghiệp, cá nhân không am hiểu những vấn đề liên quan đến tố
tụng thông qua con đường trọng tài thương mại. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp,
ở nước ta có trọng tài kinh tế nhà nước - cơ quan này quản lý hợp đồng kinh tế giữa
các chủ thể kinh tế nhà nước. Nhưng việc đó đã bãi bỏ lâu. Từ đó, các doanh
nghiệp và nhân dân chỉ quen tranh chấp bằng con đường tố tụng tại toà kinh tế.
Nghiên cứu cho thấy, hầu hết các hợp đồng kinh tế chỉ có quy định hai biện pháp
tranh chấp là tự thương lượng giải quyết, nếu không giải quyết được thì đưa ra giải
quyết tại toà án có thẩm quyền. Trong một ngàn hợp đồng, chỉ có một vài hợp đồng
chế định việc tranh chấp tại TTTM. Như vậy, phương pháp tự xử và xử lý tranh
chấp tại toà đã ăn sâu vào tiềm thức của các doanh nghiệp.
- TTTM là tổ chức phi Chính phủ. Chúng ta sống trong hệ thống chính trị mà

người dân nghĩ rằng chỉ có các quyết định của Đảng và Nhà nước mới có hiệu lực
và tính khả thi. Với chiều dài của lịch sử, với thực tiễn cuộc sống đã làm cho dân ta
nhận thức một cách không đầy đủ về xã hội dân sự. Đây là nhận thức về bề nổi,
nhưng lại ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động của tổ chức phi Chính phủ. Thực
Page 10
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
trạng này, phần lớn cũng do các yếu tố pháp lý gây nên. Pháp lệnh về trọng tài vẫn
còn có những hạn chế, làm giảm hiệu lực hoạt động của các trung tâm trọng tài.
Một phán quyết của trọng tài dù có chính xác đến đâu cũng cần phải có một quyết
định công nhận và cho thi hành của Toà án hoặc quyết định của cơ quan thi hành
án. Quy định này, làm tăng thêm tâm lý e ngại của các doanh nghiệp khi sử dụng
trọng tài để phân xử tranh chấp.
- Còn nhiều tồn tại trong bản thân của các trung tâm trọng tài. Thực tiễn là như
vậy, nhưng mạng lưới trọng tài của chúng ta lại quá thưa thớt. Đến thời điểm hiện
nay, chúng ta chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Hoạt động của các trung tâm trọng
tài chỉ dựa vào nguồn vốn tự có của các nhà sáng lập, nguồn thu từ các vụ tranh
chấp. Nhưng các vụ tranh chấp quá ít ỏi, nguồn thu quá hạn hẹp, hạn chế khả năng
phát triển công nghệ, mạng lưới, tuyên truyền, đào tạo…
3. Những điểm mới cơ bản của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 so với Pháp
lệnh Trọng tài thương mại năm 2003
1. Luật Trọng tài thương mại đã khắc phục những tồn tại của Pháp lệnh
Trọng tài thương mại năm 2003 (Pháp lệnh TTTM): khắc phục việc phân định
không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối với các tranh chấp thương
mại, trên cơ sở đó bảo đảm sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành
như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Thương mại, Luật Đầu tư và các
luật chuyên ngành khác với Luật Trọng tài thương mại (Luật TTTM). Luật TTTM
đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh TTTM về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
thương mại của Trọng tài thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng
tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên (Điều 2
Luật TTTM). Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật TTTM

so với Pháp lệnh TTTM và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài của
các nước trên thế giới.
2. Khắc phục sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm
2003 về các tình huống có thể làm vô hiệu thoả thuận trọng tài. Điều 18 của Luật
TTTM giới hạn 6 tình huống theo đó thoả thuận trọng tài vô hiệu. Đặc biệt, còn có
quy định trường hợp thỏa thuận trọng tài không rõ ràng thì bên khởi kiện (nguyên
đơn) có quyền được tự do lựa chọn tổ chức trọng tài thích hợp để khởi kiện nhằm
Page 11
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Với quy định này sẽ ngăn chặn và
giảm bớt tình trạng thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc tình trạng không có cơ quan
nào giải quyết tranh chấp.
3. Luật TTTM có quy định tại Điều 17 nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong
việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp.
4. Kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Điều 20 Luật TTTM
có các quy định về tiêu chuẩn tối thiểu đối với Trọng tài viên nhằm hình thành ở
nước ta một đội ngũ trọng tài viên nòng cốt có năng lực, có tính chuyên nghiệp, có
chuyên môn và uy tín xã hội.
Khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003,
Luật Trọng tài thương mại không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt
Nam. Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài
viên ở Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy
định này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập
kinh tế quốc tế.
5. Về trọng tài quy chế, so với Pháp lệnh TTTM, Luật TTTM bổ sung một số
điểm mới sau đây:
Thứ nhất, Luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý về Trọng tài quy chế để thay
cho khái niệm “Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài” do Pháp
lệnh năm 2003 quy định. Theo đó, Trọng tài quy chế là hình thức trọng tài được
tiến hành tại Trung tâm trọng tài và theo quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài

(khoản 6 Điều 3 Luật TTTM).
Thứ hai, Luật cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố
tụng trọng tài phù hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung
tâm để tăng thêm tính hấp dẫn đối với các bên tranh chấp.
6. Cho phép các tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn
phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Chương XII với 07 Điều).
Page 12
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
7. Nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho phép Hội đồng Trọng
tài được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn
cấp tạm thời (Điều 47, 48, 49 và 50). Quy định của Luật đã tiếp thu quy định của
Luật mẫu UNCITRAL được thông qua năm 2006 nhằm giúp cho tố tụng trọng tài
vận hành có hiệu quả hơn.
8. Hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy bởi quy
định không phù hợp của Pháp lệnh TTTM như quy định về quyền của một bên
được gửi đơn lên Toà án yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nếu “không đồng ý với
quyết định trọng tài”, bởi vì các quy định này của Pháp lệnh đã làm cho tố tụng
trọng tài trở nên rất rủi ro và làm mất đi tính chung thẩm của phán quyết trọng tài
mà pháp luật của hầu hết các nước đều công nhận.
9. Luật TTTM là đã tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố tụng
là nguyên tắc rất quan trọng đã hình thành lâu đời trong pháp luật tố tụng của các
nước phát triển. Quy định mới của Luật (Điều 13) xác định, khi một bên nhận thấy
những quy định của Luật hoặc của thoả thuận trọng tài bị vi phạm mà vẫn tiếp tục
thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối vi phạm đó trong thời hạn luật định
thì mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Toà án. Quy định này nhằm ngăn chặn
một cách có hiệu quả các hành vi cơ hội trong tố tụng trọng tài.
10. Một trong những điểm quan trọng nhất của Luật TTTM là thể hiện rõ nét
mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh
chấp của các bên. Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối

quan hệ pháp lý quan trọng này: xác định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt
động trọng tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với
Trọng tài bao gồm: thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng
tài; tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài;
giải quyết và yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của người làm
chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay đổi trọng tài viên. Quy
định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm quyền này
của Toà án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh TTTM,
tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài cũng như các bên tranh chấp
tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ thể, góp phần tạo điều kiện thuận lợi
để trọng tài hoạt động có hiệu quả.
Page 13
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
11. Quy định phù hợp hơn về thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài
Khác với Pháp lệnh TTTM, thủ tục tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài theo Luật TTTM chỉ có một cấp và có giá trị chung thẩm. Luật quy định
một Hội đồng gồm 03 thẩm phán xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài và
quyết định của Hội đồng là chung thẩm có hiệu lực thi hành ngay là phù hợp (Điều
71).
12. Nhằm khuyến khích hoạt động của các tổ chức trọng tài, tạo điều kiện
cho các Trọng tài viên nâng cao trình độ nghiệp vụ trọng tài, bảo vệ các quyền và
thực hiện tốt nghĩa vụ, Luật TTTM có 01 điều quy định về việc thành lập Hiệp hội
trọng tài. Hiệp hội trọng tài là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Trọng tài viên và
các Trung tâm trọng tài. Việc thành lập và hoạt động của Hiệp hội trọng tài được
thực hiện theo quy định của pháp luật về hội nghề nghiệp (Điều 22 Luật TTTM).
V. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp
thương mại tại trọng tài thương mại
Thứ nhất, cần có cơ chế hỗ trợ pháp lý từ phía Nhà nước đối với các tổ chức
phi Chính phủ, trong đó có trọng tài thương mại. Đây là một giải pháp quan trọng.

Nếu có sự hỗ trợ thích đáng thì trọng tài thương mại có thể phát huy mạnh được
chức năng và vai trò của mình.
Thứ hai, bên cạnh việc hỗ trợ về mặt pháp lý, nhà nước cũng cần hỗ trợ cho
các tổ chức Trọng tài thương mại về mặt vật chất. Đó có thể là ban hành cơ chế cho
thuê trụ sở hay cơ chế để các tổ chức được tự khai thác và quản lý nguồn tài chính
viện trợ của các tổ chức Chính phủ, phi chính phủ và quốc tê.
Thứ ba, cần tổ chức nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Trọng tài viên.
Hiện nay, một trong những hạn chế của tổ chức trọng tài là vấn đề con người, đặc
biệt là những thành phố không thuộc trung ương. Đội ngũ TTV hiện đa phần trình
độ chuyên môn chưa cao, nhất là trong lĩnh vực thương mại quốc tế nên đã ảnh
hưởng rất nhiều đến xét xử. Do đó, để phát triển phương thức trọng tài nhà nước
cần có chính sách hỗ trợ đào tạo TTV thông qua các chương trình đào tạo trong
nước, nước ngoài với sự hướng dẫn của những trọng tài viên, chuyên gia có uy tín.
Page 14
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
Thứ tư, cần tuyên truyền pháp luật về trọng tài. Đây là một giải pháp rất
quan trọng để pháp luật trọng tài nhanh đi vào thực tiễn và việc giải quyết các tranh
chấp thương mại tại trọng tài có hiệu quả.
Thứ năm, trong 82 điều khoản trong luật trọng tài thương mại không có một
quy định nào về trách nhiệm của trọng tài về phán quyết của mình. Tất nhiên
chúng ta để hiểu trọng tài phải chịu trách nhiệm toàn bộ về phán quyết của mình
nhưng trách nhiệm này cụ thể như thế nào, hình thức xử phạt hoặc kỉ luật ra sao đối
với các trường hợp vi phạm thì chưa rõ. Nên chăng, luật trọng tài thương mại cần
quy định thêm về vấn đề này nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, đồng thời tăng
độ tin cậy, uy tín của trọng tài, tránh các trường hợp sai phạm do mong muốn chủ
quan của một bên tranh chấp hoặc của trọng tài.
KẾT LUẬN
Thực tiễn đã chứng minh việc áp dụng giải quyết tranh chấp tại TTTM ngày
càng phổ biến và mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp trong việc giải quyết
tranh chấp được nhanh gọn, công bằng, bình đẳng và thiết lập được mối quan hệ

cuả các doanh nghiệp. Ngoài ra việc giải quyết tranh chấp thương mại tại TTTM
còn rút ngắn tiến tình hội nhấp kinh tế quốc tế của nước ta. Với những tiện ích rõ
rệt của mình và với xu hướng được ưa thích, việc giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài sẽ hứa hẹn một bước phát triển trong những năm tới.
Page 15
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật Thương mại (module 2)
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật thương mại (tập II) – Trường ĐH Luật Hà Nội, Nxb
CAND, Hà Nội, 2006.
2. Giáo trình Luật thương mại, tập II, TS. Bùi Ngọc Cường (chủ biên), Nxb.
Giáo dục, 2008.
3. Luật thương mại năm 2005.
4. Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003.
5. Luật trọng tài thương mại năm 2010.
6. Một số trang web : vnecon.com; vietbao.vn ….
Page 16

×