Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Chuyên đề nghiên cứu: PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH LỮ HÀNH DU LỊCH - THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.95 KB, 17 trang )

ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KHOA HỌC LẬP PHÁP

Chuyên đề nghiên cứu:
PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH LỮ HÀNH DU LỊCH
- THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ
(Tài liệu phục vụ Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV)

Hà Nội, tháng 10 năm 2016
MỤC LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ........................................................................................................................3
NỘI DUNG............................................................................................................................4
I.Khái niệm kinh doanh lữ hành du lịch.................................................................................4
II.Các quy định của pháp luật về kinh doanh lữ hành du lịch................................................4
2.1. Luật Du lịch năm 2005.....................................................................................................4
2.2. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Du lịch năm 2005................................................5
2.3. Các cam kết quốc tế trong lĩnh vực lữ hành du lịch.........................................................6
III. Thực trạng kinh doanh lữ hành du lịch hiện nay..............................................................7
3.1. Những kết quả đạt được...................................................................................................7
3.2. Một số hạn chế, bất cập....................................................................................................9
IV. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về kinh doanh lữ hành du lịch trong Luật
Du lịch (sửa đổi)...................................................................................................................13
4.1. Cần có chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp kinh doanh du lịch nói chung và doanh
nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nói riêng.........................................................................13
4.2. Bảo đảm sự bình đẳng giữa khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế.................13
4.3. Sửa đổi quy định về điều kiện kinh doanh lữ hành du lịch............................................13
4.4. Mở rộng hình thức đầu tư đối với doanh nghiệp du lịch nước ngoài.............................14
KẾT LUẬN..........................................................................................................................16


TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................17

2


ĐẶT VẤN ĐỀ

Sự ra đời của Luật Du lịch năm 2005 là một dấu mốc quan trọng trong
quá trình quản lý hoạt động lữ hành du lịch của nước ta. Đây chính là công cụ
quản lý hoạt động lữ hành du lịch hữu hiệu của cơ quan quản lý Nhà nước về du
lịch. Luật Du lịch đã đề cập nhiều nội dung mới liên quan chặt chẽ đến hoạt
động lữ hành, thể hiện được tinh thần của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp,
cải cách mạnh về thủ tục hành chính, tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho
doanh nghiệp phát triển. Cùng với sự ra đời của Luật Du lịch và các văn bản
pháp luật hướng dẫn, các văn bản pháp luật liên quan khác đã giúp cho cơ quan
quản lý tăng cường hiệu lực quản lý hoạt động lữ hành. Tuy nhiên, sau 10 năm
Luật Du lịch đi vào cuộc sống, thực tiễn kinh doanh lữ hành du lịch đã phát sinh
những vấn đề mới mà Luật chưa quy định hoặc đã trở nên lỗi thời, không còn
tương thích với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Để phục vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, cơ quan hữu quan và các
đại biểu Quốc hội trong quá trình xem xét, thông qua dự án Luật Du lịch (sửa
đổi), Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội xin giới thiệu
chuyên đề “Pháp luật về kinh doanh lữ hành du lịch – Thực trạng và kiến
nghị”.

3


NỘI DUNG


I. Khái niệm kinh doanh lữ hành du lịch
Theo nghĩa rộng, kinh doanh lữ hành du lịch được hiểu là doanh nghiệp
đầu tư để thực hiện một, một số hoặc tất cả các công việc trong quá trình tạo ra
và chuyển giao sản phẩm từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng du lịch
với mục đích hưởng hoa hồng hoặc lợi nhuận. Kinh doanh lữ hành du lịchcó thể
là kinh doanh một, nhiều hoặc tất cả các dịch vụ và hàng hóa thỏa mãn hầu hết
các nhu cầu thiết yếu, đặc trưng và các nhu cầu khác của khách du lịch1.
Theo nghĩa hẹp, kinh doanh lữ hành du lịch chỉ bao gồm những hoạt động
tổ chức các chương trình du lịch. Theo Điều 4 Luật Du lịch 2005 giải thích khái
niệm lữ hành du lịch là “việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc
toàn bộ chương trình du lịch cho khách du lịch”.
Kinh doanh lữ hành du lịch bao gồm:
- Kinh doanh lữ hành du lịch nội địa là việc xây dựng, bán và tổ chức thực
hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch nội địa.
- Kinh doanh lữ hành du lịch quốc tế là việc xây dựng, bán và tổ chức
thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch quốc tế.
Điều 53 Luật Du lịch năm 2005 cũng quy định “Kinh doanh đại lý lữ hành
du lịch là việc tổ chức, cá nhân nhận bán chương trình du lịch của doanh nghiệp
kinh doanh lữ hành du lịch cho khách du lịch để hưởng hoa hồng, tổ chức, cá
nhân kinh doanh đại lý lữ hành du lịch không được tổ chức thực hiện các
chương trình du lịch”.
II. Các quy định của pháp luật về kinh doanh lữ hành du lịch
2.1. Luật Du lịch năm 2005
Luật Du lịch dành 1 mục gồm 15 điều (mục 2 từ Điều 43 đến Điều 56) để
1

Trường Đại học kinh tế quốc dân, Khoa du lịch & Khách sạn, Giáo trình Quản trị kinh doanh lữ hành, Nxb Đại
học kinh tế quốc dân, năm 2009.

4



quy định các nội dung về kinh doanh lữ hành, gồm quy định về: doanh nghiệp
kinh doanh lữ hành; quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành;
điều kiện kinh doanh lữ hành du lịch nội địa; điều kiện kinh doanh lữ hành du
lịch quốc tế; giấy phép kinh doanh lữ hành du lịch quốc tế, hồ sơ thủ tục cấp
giấy phép kinh doanh lữ hành du lịch quốc tế; đổi giấy phép kinh doanh lữ hành
du lịch quốc tế; quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch
quốc tế; doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch có vốn đầu tư nước ngoài; hợp
đồng lữ hành; điều kiện kinh doanh đại lý lữ hành; hợp đồng đại lý lữ hành;
trách nhiệm của bên giao đại lý lữ hành; trách nhiệm của bên nhận đại lý lữ
hành. Những quy định này đưa ra trên cơ sở tình hình thực tế phát triển của
ngành nghề kinh doanh lữ hành, căn cứ xu hướng phát triển du lịch của các nước
phát triển trên thế giới nhằm quản lý hoạt động kinh doanh lữ hành du lịch và
bảo đảm chất lượng dịch vụ lữ hành du lịch hiện nay.
2.2. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Du lịch năm 2005
- Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 hướng dẫn quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch: nghị định này cụ thể hóa những nội
dung chưa được quy định rõ trong Luật Du lịch như bảo hiểm du lịch, điều kiện
cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch, xúc tiến du lịch, việc thành lập và hoạt động của
chi nhánh, văn phòng đại diện doanh nghiệp du lịch nước ngoài tại Việt Nam.
- Nghị định số 180/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật du lịch. Nghị định này đã sửa đổi, bổ sung
một số quy định mới liên quan đến kinh doanh lữ hành du lịch như: cụ thể hóa
ngành nghề kinh doanh lữ hành du lịch (gồm kinh doanh lữ hành du lịchnội địa
và kinh doanh lữ hành du lịchquốc tế); các trường hợp thu hồi giấy phép kinh
doanh lữ hành du lịch quốc tế và thủ tục thu hồi; điều chỉnh mức ký quỹ kinh
doanh lữ hành du lịch quốc tế (giữ nguyên mức ký quỹ 250 triệu đồng đối với
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch đón khách vào Việt Nam (inbound),

tăng mức ký quỹ từ 250 triệu lên 500 triệu đồng đối với doanh nghiệp kinh
5


doanh lữ hành du lịch đưa khách ra nước ngoài (outbound) hoặc doanh nghiệp
kinh doanh cả inbound và outbound).
- Thông tư số 88/2008/TT-BVHTTDL ngày 30 tháng 12 năm 2008 của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2007/NĐCP ngày 01 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Du lịch về lưu trú du lịch.
- Thông tư số 89/2008/TT-BVHTTDL ngày 30/12/2008 hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch về kinh doanh lữ hành, chi nhánh, văn
phòng đại diện của doanh nghiệp du lịch nước ngoài tại Việt Nam, hướng dẫn du
lịch và xúc tiến du lịch.
- Thông tư 07/2011/TT-BVHTTDL ngày 7/6/2011 sửa đổi, bổ sung, thay
thế hoặc bãi bỏ, huỷ bỏ các quy định có liên quan đến thủ tục hành chính thuộc
phạm vi chức năng quản lý của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
- Thông tư số 34/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 hướng dẫn về quản lý
tiền ký quỹ của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch quốc tế.
2.3. Các cam kết quốc tế trong lĩnh vực lữ hành du lịch
Trong lĩnh vực lữ hành, Việt Nam có cam kết trong ASEAN và WTO về
“đại lý lữ hành du lịch và điều hành tour”. Các nội dung chủ yếu của cam kết
gồm:
- Về hình thức cung cấp qua biên giới (Mode 1): Không hạn chế (tức là
doanh nghiệp lữ hành du lịch nước ngoài có thể sang Việt Nam cung cấp dịch vụ
lữ hành).
- Về hình thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ (Mode 2): Không hạn chế (tức là
người nước ngoài có thể sang Việt Nam sử dụng các dịch vụ du lịch tại Việt
Nam).
- Về hiện diện thương mại (Mode 3): Doanh nghiệp lữ hành du lịch nước

ngoài được phép kinh doanh lữ hành du lịch tại Việt Nam với hình thức thành
6


lập doanh nghiệp liên doanh với đối tác Việt Nam. Doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài chỉ được kinh doanh lữ hành du lịch đối với khách du lịch vào Việt
Nam và du lịch nội địa như là một phần của du lịch vào Việt Nam, không được
kinh doanh lữ hành du lịch đưa khách ra nước ngoài (outbound) và lữ hành du
lịch nội địa.
- Hạn chế về hiện diện thể nhân (Mode 4): không cam kết (tức là người
nước ngoài không được kinh doanh hoặc hành nghề hướng dẫn du lịch tại Việt
Nam).
Ngoài ra, bên cạnh các quy định mang tính quy phạm pháp luật của các
cơ quan nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh doanh lữ
hành du lịch, trong hoạt động kinh doanh lữ hành du lịch các cơ sở kinh doanh
lũ hành du lịch còn phải tuân thủ các quy định, quy chế, tiêu chuẩn... trong các
Quy chế, Quy định của các tổ chức, Hiệp hội liên quan đến lĩnh vực lữ hành du
lịch mà họ tham gia. Đó là: Điều lệ của Hiệp hội Du lịch Việt Nam; Điều lệ của
Hiệp hội Lữ hành du lịch Việt Nam; Quy chế bình xét, tôn vinh danh hiệu và
trao giải thưởng Du lịch Việt Nam; Quy chế hoạt động của Câu lạc bộ lữ hành
du lịch đón khách Trung Quốc; Quy chế hoạt động của Câu lạc bộ doanh nghiệp
lữ hành du lịch quốc tế miền Trung...
III. Thực trạng kinh doanh lữ hành du lịch hiện nay
3.1. Những kết quả đạt được
Luật Du lịch năm 2005 đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi, thông thoáng
hơn, điều kiện và thủ tục cấp phép rõ ràng đã thu hút nhiều doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế khác nhau tham gia kinh doanh lữ hành du lịch quốc tế.
Từ năm 2005 đến nay, số lượng các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch
quốc tế không ngừng tăng, có mặt ở nhiều loại hình, thành phần kinh tế. Nếu
như cuối năm 2005 cả nước mới chỉ có 428 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du

lịch quốc tế thì đến cuối năm 2015 (sau 10 năm), cả nước có 1.557 doanh nghiệp
kinh doanh lữ hành du lịch quốc tế được cấp giấy phép, tốc độ tăng trưởng đặt
7


khoảng 15%/năm, trong đó có 7 doanh nghiệp nhà nước, 483 công ty cổ phần,
1.042 công ty trách nhiệm hữu hạn, 10 doanh nghiệp tư nhân và 15 doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Không chỉ tăng về số lượng và quy mô, chất lượng doanh nghiệp lữ hành
du lịch cũng ngày càng được nâng cao. Nhiều công ty, tập đoàn lớn đã hình
thành, xây dựng thương hiệu ngang tầm khu vực và quốc tế như: Saigontourist,
Hanoitourist, Vietnamtourism – Ha Noi, Vitours, HG Travel, Focus Travel,
Benthanhtourist, Fiditourist, Peacetour, Vidotour, Buffalo Tours, Vietrantour,
Redtours… Nhiều hãng lữ hành du lịch quốc tế lớn đã đến Việt Nam đầu tư,
thành lập các liên doanh đưa khách quốc tế đến Việt Nam như: Exotissimo –
Cesais, APEX, H.I.S Sông Hàn, TNT – JTB,…
Bên cạnh sự phát triển của các doanh nghiệp lữ hành du lịch quốc tế, để
đáp ứng nhu cầu của khách du lịch trong nước và do điều kiện thành lập doanh
nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa dễ dàng (doanh nghiệp không phải ký
quỹ, không phải xin giấy phép, chỉ phải gửi thông báo hoạt động khi kinh doanh
lữ hành, có người điều hành có 3 năm kinh nghiệm), số lượng doanh nghiệp lữ
hành du lịch nội địa cũng tăng lên nhanh chóng. Từ 3.000 doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành du lịchnội địa năm 2004 đến nay đã có trên 13.000 doanh nghiệp
kinh doanh lữ hành du lịch nội địa được thành lập và đi vào hoạt động.2
Những năm gần đây, mặc dù kinh tế thế giới và trong nước có nhiều khó
khăn nhưng hoạt động kinh doanh lữ hành du lịch nói riêng và ngành du lịch nói
chung vẫn có những bước phát triển tích cực, trở thành điểm sáng của kinh tế Việt
Nam. Nếu năm 2005 du lịch nước ta chỉ đón 3,34 triệu lượt khách quốc tế, phục
vụ 16,1 triệu lượt khách du lịch nội địa, tổng thu từ khách du lịch đạt 30 nghìn tỷ
đồng thì đến năm 2014, chúng ta đã đón 7,8 triệu lượt khách du lịch quốc tế, phục

vụ 38,5 triệu lượt khách du lịch nội địa, tổng thu từ du lịch đã vượt 230 nghìn tỷ
đồng. Việc gia tăng số lượng doanh nghiệp tỷ lệ thuận với việc gia tăng lượng
khách du lịch quốc tế, khách du lịch nội địa và tổng thu từ khách du lịch hàng
2

Báo cáo tổng kết của ngành du lịch năm 2015
8


năm chứng tỏ sự phát triển đồng đều về quy mô và năng lực doanh nghiệp.
3.2. Một số hạn chế, bất cập
Sau khi Luật Du lịch năm 2005 có hiệu lực thi hành, doanh nghiệp lữ
hành du lịch quốc tế và lữ hành du lịchnội địa được thành lập nhiều nhưng chủ
yếu là các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, có xu hướng vừa thực hiện bán lẻ
vừa tổ chức chương trình du lịch. Tính chuyên nghiệp trong kinh doanh chưa
cao, thiếu sự liên kết, cơ sở vật chất và đội ngũ nhân lực còn yếu kém, năng lực
tài chính hạn chế, chưa đủ khả năng thực hiện được những chương trình du lịch
sự kiện có quy mô lớn để thu hút khách du lịch. Nhiều doanh nghiệp quan tâm
đến lợi nhuận trước mắt, ít đầu tư chiều sâu. Theo thống kê sơ bộ, trong số trên
1.500 doanh nghiệp lữ hành du lịch quốc tế, thì chỉ khoảng 1/3 là doanh nghiệp
kinh doanh đưa khách du lịch quốc tế vào Việt Nam, còn 2/3 là doanh nghiệp
kinh doanh đưa người Việt Nam ra nước ngoài du lịch. Hoạt động nghiên cứu
phát triển sản phẩm mới và phát triển thị trường chưa được tổ chức thường
xuyên và khoa học. Chương trình du lịch còn đơn điệu, sao chép lẫn nhau,
không tạo được sự phong phú, mới lạ, hấp dẫn khách du lịch.
Các quy định của Luật Du lịch về kinh doanh lữ hành du lịch đã bộc lộ
một số hạn chế, bất cập sau đây:
Một là, điều kiện đối với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa
còn dễ dàng, chưa bám sát thực tiễn kinh doanh.
Thời gian qua, tăng trưởng của phân khúc thị trường kinh doanh du lịch

nội địa tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Thu nhập từ khách du lịch ngày
càng cao, không kém thu nhập từ khách du lịch quốc tế, thậm chí còn cao hơn
thu nhập từ khách du lịch quốc tế từ một số thị trường. Tuy nhiên, những quy
định về điều kiện kinh doanh đối với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch
nội địa còn dễ dàng, chưa bám sát thực tiễn, chưa có các quy định nhằm bảo vệ
quyền lợi của khách du lịch. Cụ thể: các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du
lịch nội địa không phải ký quỹ kinh doanh lữ hành du lịch và không cần có
hướng dẫn viên du lịch. Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa chỉ
9


phải gửi thông báo thời điểm hoạt động kèm theo phương án kinh doanh và
chương trình du lịch nội địa tới Sở Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Song theo thống kê mới nhất của các
Sở Du lịch hoặc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cả nước có chỉ có 1.528 trong
tổng số trên 13.000 doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa gửi thông
báo hoạt động kinh doanh lữ hành du lịch và duy trì các điều kiện kinh doanh và
hoạt động kinh doanh lữ hành du lịchnội địa. Việc phần lớn các doanh nghiệp
kinh doanh lữ hành du lịch nội địa thiếu nghiêm túc trong việc chấp hành các
quy định của pháp luật vẫn thường xuyên xảy ra. Số lượng doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành du lịch nội địa phát triển mạnh mặc dù nhiều doanh nghiệp trong
số đó không đủ năng lực kinh doanh. Hiện nay, các cơ quan quản lý về du lịch ở
địa phương chưa quản lý, kiểm soát được hoạt động của các doanh nghiệp du
lịch nội địa.
Hai là, chưa bảo đảm tính bình đẳng trong bảo vệ quyền lợi giữa khách
du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa.
Kinh doanh lữ hành du lịch là hoạt động mà đối tượng phục vụ là con
người, trong đó, yếu tố bảo đảm an toàn về sức khỏe, tính mạng của khách du
lịch được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, quy định về việc mua bảo hiểm bắt buộc
chỉ áp dụng đối với khách du lịch quốc tế, chưa áp dụng đối với khách du lịch

nội địa. Nhiều trường hợp sự cố, tai nạn xảy ra đã để lại hậu quả đáng tiếc trong
khi năng lực giải quyết của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa
còn hạn chế, không có các quy định bắt buộc (như ký quỹ kinh doanh lữ hành du
lịch nội địa...) để ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành
du lịch nội địa. Việc không bắt buộc doanh nghiệp phải mua bảo hiểm cho khách
du lịch nội địa càng làm cho việc xử lý các vấn đề rủi ro với khách du lịch nội
địa trở nên khó khăn, không bảo đảm được quyền lợi của khách du lịch.
Ba là, các điều kiện kinh doanh lữ hành du lịch chưa chặt chẽ, còn mang
tính hình thức.
- Luật Du lịch hiện hành quy định doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du
10


lịch phải có người điều hành có kinh nghiệm trong lĩnh vực lữ hành; việc xác
định điều kiện kinh doanh lữ hành du lịch thông qua bản xác nhận của doanh
nghiệp lữ hành du lịch hoặc quyết định thôi việc hoặc giấy tờ đóng bảo hiểm.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có hình thức kiểm tra tính xác thực của các giấy tờ
này. Nhiều trường hợp các giấy tờ xác nhận trên không đúng sự thật, khi kiểm
tra doanh nghiệp mới phát hiện được và thực tế đã phải thu hồi giấy phép kinh
doanh lữ hành du lịch của công ty làm giả hồ sơ. Đồng thời, trong Luật cũng
chưa có quy định xử phạt khi công ty lữ hành du lịch xác nhận không đúng sự
thật để tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân đủ hồ sơ để được cấp giấy phép kinh
doanh lữ hành.
- Điều kiện doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch phải có phương án
kinh doanh lữ hành cũng mang tính hình thức vì Luật Du lịch không yêu cầu
doanh nghiệp bắt buộc phải thực hiện theo đúng phương án đã đề ra. Phương án
kinh doanh chỉ là dự kiến ban đầu của doanh nghiệp. Khi trực tiếp triển khai
hoạt động kinh doanh, có thể doanh nghiệp sẽ không thực hiện theo phương án
đã đề ra do thay đổi đối tác hoặc chiến lược trong kinh doanh. Vì vậy, điều kiện
doanh nghiệp phải nộp bản phương án kinh doanh khi nộp hồ sơ đề nghị cấp

giấy phép là không cần thiết.
- Điều kiện doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch phải có chương trình
du lịch phù hợp với phạm vi kinh doanh cũng mang tính hình thức vì Luật Du
lịch không có yêu cầu bắt buộc doanh nghiệp phải thực hiện theo đúng chương
trình du lịch đã gửi kèm theo hồ sơ đề nghị cấp giấy phép. Chương trình du lịch
được xây dựng trên sở thích và yêu cầu đa dạng của khách du lịch. Với mỗi một
đối tượng khách sẽ yêu cầu chương trình khác nhau, ngay cả với một đối tượng
khách ở các thời điểm khác nhau cũng yêu cầu các chương trình khác nhau. Vì
vậy, việc yêu cầu doanh nghiệp phải nộp chương trình du lịch khi nộp hồ sơ đề
nghị cấp giấy phép là không cần thiết.
Bốn là, thiếu sự thống nhất về thuật ngữ giữa các văn bản pháp luật.
Bản dịch của bản cam kết WTO: “Travel Agents” là “Đại lý lữ hành” đã
11


gây nhầm lẫn cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi lập hồ sơ xin phép
đăng ký kinh doanh lữ hành. Ngành nghề “Tour Operator and Travel Agents”
trên thế giới là “doanh nghiệp lữ hành du lịchbán sỉ và bán lẻ”, đều là các doanh
nghiệp có thể xây dựng chương trình tour và bản chương trình, dịch đúng nghĩa
là cam kết về doanh nghiệp kinh doanh lữ hành. Tuy nhiên, các bản dịch của
cam kết WTO và các cam kết khác dịch “Travel Agent” theo đúng nghĩa đen là
“đại lý lữ hành” đã làm nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiểu là
được phép kinh doanh đại lý lữ hành du lịch như quy định của Luật Du lịch. Tuy
nhiên, đại lý lữ hành du lịch trong Luật Du lịch không phải là doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành, không được xây dựng chương trình du lịch, đại lý chỉ bán
chương trình du lịch của các công ty lữ hành du lịch và được hưởng hoa hồng.
Vì vậy, cần điều chỉnh lại các thuật ngữ thống nhất trong các văn bản để tránh
gây hiểu lầm cho doanh nghiệp.
Năm là, chưa khuyến khích doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.

Sau gần 10 năm gia nhập ASEAN và WTO, đến nay nước ta mới có 15
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch có vốn đầu tư nước ngoài. Luật Du lịch
được ban hành năm 2005 đã đón đầu các cam kết quốc tế, quy định mở cho
doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư trong lĩnh vực lữ hành du lịch với hình thức
thành lập doanh nghiệp liên doanh với đối tác Việt Nam mà không bị hạn chế về
vốn và được kinh doanh lữ hành du lịch đón khách vào Việt Nam (inbound). Tuy
nhiên, theo quy định của Luật Đầu tư, hiện nay không còn hình thức doanh
nghiệp liên doanh, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam kinh doanh được
lựa chọn nhiều hình thức đầu tư từ đầu tư trực tiếp đến đầu tư gián tiếp, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo quy định của Luật Doanh
nghiệp (thành lập công ty TNHH hoặc công ty cổ phần). Việc hạn chế về hình
thức đầu tư đã làm giảm sự tự do kinh doanh của doanh nghiệp.

12


IV. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về kinh doanh lữ
hành du lịch trong Luật Du lịch (sửa đổi)
4.1. Cần có chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp kinh doanh du lịch
nói chung và doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nói riêng
Để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn theo đúng mục tiêu trong
Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 thì pháp
luật về du lịch cần có quy định chính sách ưu tiên mạnh mẽ hơn và cụ thể hơn
nhằm phát triển du lịch, đặc biệt phải có chính sách ưu đãi đầu tư để Nhà nước
có thể thu hút được các nhà đầu tư lớn, nhà đầu tư chiến lược làm thay đổi bộ
mặt du lịch của địa phương và của đất nước. Đối với các doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành du lịch, cần có chính sách ưu đãi nhập khẩu các phương tiện vận
chuyển khách du lịch, chính sách ưu đãi nhập các thiết bị trong khu du lịch,
điểm du lịch phục vụ khách du lịch, chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp du
lịch cộng đồng, doanh nghiệp thực hiện các dự án giúp phát triển du lịch cộng

đồng...
4.2. Bảo đảm sự bình đẳng giữa khách du lịch nội địa và khách du lịch
quốc tế
Để bảo vệ quyền lợi của khách du lịch, cần quy định các điều kiện kinh
doanh như nhau đối với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa và
doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch quốc tế, cụ thể phải bổ sung điều kiện
kinh doanh đối với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịch nội địa là phải có
giấy phép, có ít nhất 3 hướng dẫn viên và phải ký quỹ kinh doanh lữ hành.
Việc mua bảo hiểm cho khách du lịch nội địa là bảo đảm quyền lợi cho
khách du lịch nội địa. Vì vậy, cần bổ sung quy định doanh nghiệp kinh doanh lữ
hành du lịch nội địa phải mua bảo hiểm cho khách du lịch.
4.3. Sửa đổi quy định về điều kiện kinh doanh lữ hành du lịch
- Sửa đổi quy định về điều kiện đối với người điều hành hoạt động kinh
doanh lữ hành
13


Cần có quy định cụ thể và sát với thực tế về năng lực của người điều hành
hoạt động kinh doanh lữ hành du lịch của doanh nghiệp (Điều hành tour du
lịch). Cần bỏ những quy định về xác nhận mang tính hình thức như quy định của
Luật hiện nay. Cần có quy định bảo đảm người điều hành là người có năng lực
và am hiểu về nghề điều hành tour du lịch.
Hiện nay, Tổng cục Du lịch (trung tâm VTOS) đã xây dựng thành công bộ
tiêu chuẩn nghề điều hành tour du lịch. Bộ tiêu chuẩn này đã được công bố rộng
rãi, được phổ biến tới các trường đào tạo về du lịch và được các trường đánh giá
cao, các doanh nghiệp cũng đánh giá bộ tiêu chuẩn này là sát với thực tế. Tổng
cục Du lịch đang phối hợp với Tổng cục dạy nghề để công bố bộ tiêu chuẩn này
là tiêu chuẩn nghề quốc gia.
Luật Du lịch (sửa đổi) cần nắm bắt những quy định cập nhật về các tiêu
chuẩn nghề quốc gia (nghề điều hành tour, nghề hướng dẫn viên) để có quy định

phù hợp với quy định hiện hành. Cần quy định người điều hành có chứng chỉ
nghề điều hành tour do cơ quan có thẩm quyền cấp.
- Cân nhắc bỏ quy định điều kiện về phương án kinh doanh và chương
trình du lịch
Đề nghị nghiên cứu, cân nhắc để bỏ quy định điều kiện về phương án kinh
doanh và chương trình du lịch do các điều kiện này mang tính hình thức, không
chứng minh được doanh nghiệp có đủ năng lực kinh doanh lữ hành du lịch hay
không.
4.4. Mở rộng hình thức đầu tư đối với doanh nghiệp du lịch nước ngoài
Để khuyến khích doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
đầu tư kinh doanh lữ hành du lịch, chia sẻ kinh nghiệm kinh doanh và công nghệ
kinh doanh với đối tác Việt Nam, cần mở rộng hình thức đầu tư cho các doanh
nghiệp nước ngoài. Cụ thể, cân nhắc mở thêm hình thức đầu tư trực tiếp và gián
tiếp như sau:
- Cho phép doanh nghiệp lữ hành du lịch nước ngoài được mua cổ phần,
14


cổ phiếu, mua phần vốn góp trong công ty TNHH, công ty cổ phần kinh doanh
du lịch;
- Liên doanh với đối tác Việt Nam thành lập công ty TNHH, công ty cổ
phần kinh doanh du lịch.
Tuy nhiên, chỉ nên dừng lại ở việc mở thêm hình thức đầu tư cho doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, không nên mở thêm phạm vi kinh doanh cho
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào kinh doanh lữ hành du lịch đưa
khách ra nước ngoài (outbound) vì việc mở outbound có những hạn chế như sau:
- Khi xảy ra tranh chấp, người dân Việt Nam gặp khó khăn trong việc bảo
vệ quyền lợi do rào cản về ngôn ngữ và tập quán. Về phía cơ quan nhà nước
cũng gặp khó khăn nếu chủ doanh nghiệp nước ngoài chạy trốn để tránh trách
nhiệm và về nước.

- Mở rộng cho doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh lữ hành du lịch đưa
khách ra nước ngoài (Outbound) là khuyến khích chảy máu ngoại tệ vì lợi nhuận
từ kinh doanh outbound được chuyển về nước ngoài; và người Việt Nam đi du
lịch cũng tiêu dùng ở nước ngoài. Vì vậy, không nên khuyến khích mở outbound
cho doanh nghiệp nước ngoài do chảy máu ngoại tệ.
- Doanh nghiệp Việt Nam chắc chắn sẽ thất thế ngay trên sân nhà do
doanh nghiệp nước ngoài tận dụng được nguồn khách trong nước, vừa am hiểu
về thị trường nước ngoài, họ rất đoàn kết, trường vốn, vì vậy dễ thâu tóm thị
trường.
Vì vậy, chưa nên mở outbound đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài để doanh nghiệp Việt Nam được học tập kinh nghiệm và công nghệ quản
lý lữ hành du lịch của doanh nghiệp nước ngoài, đồng thời nâng cao khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.
Ngoài ra, cần sử dụng các thuật ngữ thống nhất tại Luật Du lịch và các
văn bản hướng dẫn cũng như các văn bản có liên quan để tạo điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp tìm hiểu, đăng ký ngành nghề kinh doanh.
15


KẾT LUẬN
Lữ hành du lịch là một trong những hoạt động nằm trong phạm vi quản lý
Nhà nước về du lịch. Đây là lĩnh vực quan trọng liên quan đến hầu hết các lĩnh
vực khác của hoạt động du lịch. Việc ban hành các văn bản pháp luật về du lịch
nói chung và lữ hành du lịch nói riêng có vai trò quan trọng trong quản lý chất
lượng dịch vụ lữ hành, quản lý và bảo đảm sự bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh
giữa các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, bảo vệ quyền lợi khách hàng. Vì vậy,
việc sửa đổi, điều chỉnh kịp thời những vướng mắc, tồn tại trong các quy định về
kinh doanh lữ hành du lịch của Luật Du lịch hiện hành sẽ góp phần đáp ứng yêu
cầu của sự phát triển lữ hành du lịch trong giai đoạn hiện nay, để du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn theo đúng mục tiêu trong Chiến lược phát triển du

lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật Du lịch năm 2005.
2. Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Du lịch về lưu trú du lịch.
3. Nghị định số 180/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/6/2007.
4. Thông tư 07/2011/TT-BVHTTDL ngày 7/6/2011 sửa đổi, thay thế hoặc
bãi bỏ, quy định liên quan đến thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức
năng quản lý của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
5. Thông tư số 34/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 hướng dẫn về quản
lý tiền ký quỹ của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành du lịchquốc tế
do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành.
6. Thông tư số 88/2008/TT-BVHTTDL ngày 30 tháng 12 năm 2008 của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn thực hiện Nghị định
số 92/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch về lưu trú du lịch.
7. Thông tư số 89/2008/TT-BVHTTDL ngày 30 tháng 12 năm 2008 của
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hướng dẫn thực hiện Nghị định
số 92/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Du lịch về kinh doanh lữ hành,
chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp du lịch nước ngoài tại
Việt Nam, hướng dẫn du lịch và xúc tiến du lịch.
8. Báo cáo tổng kết của ngành du lịch năm 2015.


17



×