Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

các vấn đề tiêu cực trong môi giới kinh doanh chứng khoán hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.29 KB, 31 trang )

CÁC KHÍA CẠNH TIÊU CỰC TRONG NGHỀ MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN
HIỆN NAY
I. Các khía cạnh tiêu cực
Giống như bất kì một thị trường nào, có lợi cũng có hại, được lợi nhuận cũng đi liền với những rủi
ro. Thị trường chứng khoán là một thị trường khá phức tạp, có như những cá nhân tổ chức đã trở
thành triệu phú, tỉ phú chỉ sau một thời gian ngắn, nhưng bên cạnh đó lại có nhưng vụ việc đáng
tiếc xảy ra từ những cá nhân bị thua lỗ, mất trắng bạc tiền. Điều này đã cảnh báo cho những nhà
đầu tư chứng khoán cần phải “tỉnh táo” với hoạt động môi giới chứng khoán. Dưới đây là một số
tiêu cực khá phổ biến trong hoạt động môi giới chứng khoán tại Việt Nam.
1. Tư vấn vì lợi ích cá nhân của nhà môi giới:
Nhà môi giới chứng khoán, tất nhiên, hoạt động vì lợi ích của mình, nhưng phải phù hợp với lợi ích
của khách hàng. Tuy nhiên, đôi khi có những nhà đầu tư “bỏ quên’ khách hàng mà chỉ hướng tới lợi
ích cá nhân của mình. Vì thế, đã có những trường hợp, khách hàng “không được gì” mà nhà môi
giới cứ kiếm được “bạc tỉ”.
Khách hàng cần nhận thức rằng, mình muốn được hướng dẫn đầu tư phù hợp với bản thân mình
chứ không phải phù hợp với người môi giới. Mỗi khoản đầu tư được tư vấn đều cần có lời giải thích
cặn kẽ, gồm cả việc khuyến cáo các rủi ro.
2. Giao dịch thái quá:
Hành vi giao dịch thái quá có nghĩa là giao dịch thường xuyên và với số lượng lớn trên tài khoản
của khách hàng nhằm mục đích nhận hoa hồng mà không nhằm đạt được các mục tiêu khách hàng
đã đề ra. Đây là hành vi lạm dụng trách nhiệm uỷ quyền của khách hàng.
Một trong những biện pháp để ngăn chặn hành vi lạm dụng này là nhà đầu tư cần phải yêu cầu rất
cả tài khoản mà mình uỷ quyền cho nhà môi giới chứng khoán phải được giám sát viên của công ty
chứng khoán xem xét thường xuyên.
3. Xuyên tạc:
Các nhà môi giới chứng khoán không được phép xuyên tạc, nói không đúng về bản thân hay về các
dịch vụ của công ty mình đối với khách hàng tiềm năng. Không được phép xuyên tạc về:
-Trình độ, kinh nghiệm và học vấn.
- Loại hình dịch vụ phục vụ khách hàng.
-Các loại phí
Việc công bố không chính xác hay không công bố các sự kiện quan trọng liên quan đến những vấn


đề trên cũng bị coi là xuyên tạc. Khách hàng sẽ phải khó khăn khi so sánh chất lượng dịch vụ giữa
các công ty chứng khoán nói chung và các nhà môi giới nói riêng nếu khách hàng không được cung
cấp thông tin đầy đủ, chính xác liên quan đến vấn đề chuyên môn.
4. Lừa đảo
Đây không phải là hiện tượng phổ biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam nhưng rất đáng
cảnh báo các nhà đầu tư nghiệp dư, đặc biệt những người không có kiến thức về chứng khoán
và kinh tế lại có tham vọng làm giàu bằng kinh doanh chứng khoán.
Báo Vnexpress đăng tin, một số cá nhân đã lừa đảo bán cổ phiếu giả cho những nhà đầu tư nhẹ
dạ ở Hải Phòng để thu được gần 800 tỷ đồng. Tiếp đó là vụ lừa đảo hàng chục tỷ đồng, lợi dụng
lòng tin của những người chơi chứng khoán nhỏ lẻ để ôm tiền bỏ chạy.
Giữa tháng 5/2010, cộng đồng đầu tư chứng khoán xôn xao về một trò lừa đảo tinh vi của một
cá nhân nhằm kiếm tiền từ nhà đầu tư cả tin.
Nhiều ý kiến cho rằng cá nhân này đã xây dựng 1 quy trình khép kín để kiếm tiền NĐT đã cả tin
đi theo mình. Theo đó, quy trình này gồm các bước rất bài bản để câu khách về cho mình. Cá
nhân này ban đầu vào một diễn đàn chứng khoán có uy tín hàng đầu VN để tạo nick và post vài
bài về một vài mã cổ phiếu cũng như đưa ra những nhận định thị trường để lấy số má và kêu gọi
mọi người add nick chat của mình và add cả email để share thông tin cho họ.
Bằng cách làm đơn giản này, cá nhân đó đã gom số lượng lớn những “fan hâm mộ” để nhận tin
của mình. Trong nhiều trường hợp, cá nhân này đã xả hàng kiếm lãi sau khi tung tin tốt cho “fan
hâm mộ”.
Sau đó thấy chiêu thức trên khó soạn lại và mọi người cũng không tin nữa nên anh ta đã tạo
công ty riêng và lập website rồi nhận làm đại lý cho một CTCK để tạo thành một cỗ máy khép
kín nhằm tận dụng tiềm lực của các nhà đầu tư theo mình.
Với cỗ máy đó, cá nhân trên không quan tâm tới tiền % hoa hồng môi giới mà CTCK cắt cho.
Cá nhân này chỉ quan tâm tới việc huy động thêm sức người sức của từ những “fan hâm mộ” để
cùng làm giá cổ phiếu do sự lựa chọn từ trước của mình. Số khác thậm chí còn tin tưởng giao tài
khoản cho anh ta thực hiện hộ các giao dịch. Số khác nữa theo đuôi bằng cách nghe “lệnh” mua,
bán mà anh này gửi cho. Anh ta quản lý sát sao tài khoản của những người chung sức nên có thể
nhìn thấy lúc nào mình có thể tận dụng cái lợi từ sự đồng lòng của người khác. Ở chiều ngược
lại, bản thân anh ta có mua bán gì, số lượng bao nhiêu, gom giá nào và bán giá nào thì không ai

được biết.
5. Tung tin đồn thất thiệt
Theo tin năm 2009, khoảng 30% doanh nghiệp niêm yết từng hứng chịu tin đồn.
Những ngày cuối cùng của năm 2008, giới đầu tư xôn xao trước thông tin công ty chứng khoán
VnDirect đang đứng trước nguy cơ phá sản. Bắt nguồn từ lời cảnh báo nhà đầu tư nào gửi tiền
hoặc mở tài khoản tại VnDirect nên cẩn trọng được đăng tải trên diễn đàn thị trường chứng
khoán của mạng Trái tim Việt Nam Online. Tin đồn VnDirect sắp phá sản nhanh chóng được
lan rộng. Và tâm lý của các chủ sở hữu 15.000 tài khoản đang hoạt động tại công ty chứng
khoán này bị tác động cũng là điều dễ hiểu.
Ông Nguyễn Sơn, Trưởng ban Phát triển thị trường UBCK cho biết, gần đây, nhiều người gọi
điện hỏi ông về những “thông tin” mà chính ông cũng không biết từ đâu ra.
Một trong những thông tin thất thiệt mà ông Sơn nhận được là việc sắp tăng “room” cho nhà
đầu tư nước ngoài lên 40%. “Thông tin này hoàn toàn không chính xác, thậm chí tin đồn như
vậy có thể làm méo mó thị trường”, ông Sơn nói.
Ngoài ra, ông Sơn còn cho biết, có người hỏi ông về việc đã thay đổi thời gian thanh toán xuống
T+2. Nhưng thực tế, các văn bản liên quan đến vấn đề này hiện vẫn đang trong quá trình soạn
thảo.
Hồi đầu tháng này, một thông tin từng làm xôn xao giới đầu tư là khả năng chính sách tiền tệ
của Việt Nam sẽ tiếp tục thắt chặt để kiểm soát lạm phát thông qua giải pháp tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, sau đó, các quan chức Ngân hàng Nhà nước
đã khẳng định rõ rằng, không có khả năng đó.
Ngoài các tin đồn liên quan đến chính sách, tin đồn trên thị trường chứng khoán còn tập trung
xung quanh hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
6. Thông tin sai sự thật:
Là một hành vi thiếu đạo đức nhằm làm cho giá cổ phiếu của công ty khác sụt giảm hoặc giá cổ
phiếu công ty của mình tăng lên do việc phao tin đồn thất thiệt trên thị trường. Các công ty cũng có
thể công bố thông tin sai sự thật, không cập nhật thông tin, không đầy đủ thông tin cho nhà đầu tư.
Điều này gây không ít hoang mang cho nhà đầu tư, vì tin tưởng vào lợi ích trước mắt mà thường
không tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi đầu tư, nên có thể thiệt hại lớn, và người được lợi ở đây không ai
khác chính là những cá nhân đã tung tin thất thiệt đó. Không những vậy, những doanh nghiệp bị

tung tin xấu sẽ ảnh hưởng tới lợi ích và không được khách hàng tin tưởng.
Vì thông tin luôn xuất phát từ những nguồn khác nhau, thông tin có thể chính xác cũng có thể sai sự
thật, vậy nên các cá nhân, tổ chức, nhà đầu tư trong môi giới chứng khoán cần phải hết sức cảnh
giác và luôn tự mình kiểm chứng, tìm hiểu thật kỹ càng trước khi có bất cứu hành động nào trên thị
trường này.
Vd1: Thông tin về SJS "sập sàn" do báo Tiền phong điện tử đăng ngày 12/1/2007. Thực
chất là do SJS chia 3 cổ phiếu thưởng cho 1 cổ phiếu hiện tại nên giá cổ phiếu của công ty giảm
tương ứng từ 728.000đ/CP xuống còn 190.000đ/CP. Mặt khác, về nội dung thông tin do cơ quan
truyền thông cung cấp, chủ yếu vẫn là tin tức, diễn biến thị trường, chưa có nhiều các thông tin
nhận định phân tích mang tính định hướng cho nhà đầu tư và thị trường.
Vd2: Việc Công ty cổ phần chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HSC) đăng tải một bản
phân tích cổ phiếu của Tập đoàn Tân Tạo (ITA) với nhiều nội dung sai lệch khiến các cổ đông
hoang mang đã thu hút sự chú ý của dư luận. Ngày 3/11/2008, trên Bản tin Chứng khoán
(www.hsc.com.vn) của HSC có đăng đính chính: “Chúng tôi đã có sự nhầm lẫn khi viết: “ hai
nhà đầu tư lớn, Richland và VNI lần lượt đăng ký bán 5 triệu cổ phiếu và 375,000 cổ phiếu để
giảm lượng nắm giữ tại công ty này”. Thực tế lẽ ra phải viết là: “hai nhà đầu tư lớn, Richluck
International Limited và VNI đã đăng ký bán lần lượt là 711,480 và 375,000 cổ phiếu để giảm
lượng nắm giữ tại công ty này. Chúng tôi thành thực xin lỗi quý độc giả về sơ suất nói trên ”. Tuy
nhiên, thật khó hiểu là trong khi quy định đính chính phải đăng ở chính trang, mục đã đăng thì
HSC lại đăng tải ở phần Bản tin thị trường chứ không phải ở bản Báo cáo cập nhật đã đăng hôm
7-11-2008. Vì thế, bài phân tích chứng khoán có nội dung sai lệch trên trang web của HSC vẫn
không thay đổi, có thể tiếp tục khiến cổ đông hiểu nhầm…
7. Rò rỉ thông tin chứng khoán
Những người giữ trọng trách tại các công ty niêm yết, có thế tiết lộ cho những nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán về kế hoạch kinh doanh trong quí, tháng và cả những vấn đề nội bộ trong
doanh nghiệp chưa công bố đang được giới đầu tư mong đợi. Nhân viên của các công ty chứng
khoán nắm được thông tin trước các nhà đầu tư, họ có thể mua bán trước làm lợi cho cá nhân
hoặc báo cho người thân quen mua dưới nhiều hình thức (vì nhân viên công ty chứng khoán
không được phép mua bán ngắn hạn).
Rò rỉ thông tin được coi là một trong những vấn đề đạo đức nguy hại nhất trên thị trường chứng

khoán. Nó thường bắt nguồn từ những người có trách nhiệm trong các công ty niêm yết, công ty
chứng khoán và cả nhân viên làm việc trên sàn chứng khoán.
N, một nhà đầu tư chứng khoán cá nhân tại TP.HCM, tiết lộ rằng tháng 7/2005 có người chào
hàng với anh một thông tin hấp dẫn về Công ty cổ phần Nước giải khát Sài Gòn (Tribeco) với giá
cả tính bằng đơn vị triệu đồng. Q.N đã bỏ tiền ra mua thông tin về việc một quỹ đầu tư đã mua
vào một lượng lớn cổ phiếu của Tribeco, và đằng sau đó là một tổ chức khác. Sau khi đã mua
khoảng 2.000 cổ phiếu, N. chia sẻ thông tin cho vài người bạn và tất cả đã mua một lượng kha
khá cổ phiếu Tribeco. Thời điểm đó, giá cổ phiếu này khoảng 21.000 đồng/cổ phiếu và nay đã lên
30.900 đồng/cổ phiếu.
8. Xâm phạm tài sản của khách hàng.
Đó là việc các công ty chứng khoán (CTCK) đã tùy tiện sử dụng tài khoản của khách hàng để
mua bán chứng khoán làm thua lỗ dẫn đến tình trạng tranh chấp thưa kiện lẫn nhau. Những tranh
chấp này cho thấy tình trạng lỏng lẻo trong quy trình nghiệp vụ kinh doanh của một số CTCK.
Điển hình là vụ tranh chấp giữa ông Phan Đức Chiến và CTCK quốc tế Việt Nam Chi nhánh
TP.HCM (xin gọi tắt là Công ty VIS).
Ông Chiến cho biết ông ký hợp đồng giao dịch chứng khoán với Công ty VIS ngày 16-9-2009. 11
lần chuyển tiền vào tài khoản với số tiền 4,8 tỉ đồng và mỗi lần đều có phiếu nộp tiền mặt với chữ
ký nhận đầy đủ. Sau đó, ông phát hiện trong gần ba tháng, từ tháng 9-2009 đến tháng 12-2009,
Công ty VIS sử dụng tài khoản và tiền của ông để tự ý đặt lệnh mua bán chứng khoán, tự ý kinh
doanh và rút tiền trên tài khoản.
“Tôi đã nhiều lần có đơn gửi ban giám đốc Công ty VIS yêu cầu không được sử dụng tiền và tài
khoản của tôi một cách bất hợp pháp và yêu cầu giải quyết vụ việc nhưng đến ngày 22-12-2009,
VIS đã thông báo số dư tài khoản của tôi bằng không, làm mất hết số tiền 4,8 tỉ đồng” - ông
Chiến nói.
Trong biên bản đối chất tại tòa, đại diện phía Công ty VIS cho biết tất cả giao dịch mua bán trên
tài khoản ông Chiến đều do ông Chiến và người được ông ủy quyền thực hiện. Hằng ngày sau khi
khớp lệnh, công ty đều có tin nhắn qua tổng đài cho ông Chiến biết mọi phát sinh liên quan đến
tài khoản.
Tuy nhiên, những vấn đề nêu trên phía Công ty VIS không có những bằng chứng lưu lại theo quy
trình nghiệp vụ kinh doanh được quy định của Luật Chứng khoán. Theo đó, việc mua bán chứng

khoán diễn ra theo trình tự khách hàng ra lệnh mua bán tại sàn hoặc ra lệnh bằng điện thoại,
Internet, fax chuyển đến nhân viên môi giới nhập lệnh, sau đó trưởng phòng dịch vụ hoặc giám
đốc chi nhánh duyệt cho lệnh lên sàn. Sau khi khớp lệnh, ba ngày sau (T+3) thì chứng khoán
hoặc tiền về tài khoản khách hàng, chi nhánh yêu cầu khách hàng ký xác nhận lệnh mà trước đó
khách hàng đã ra lệnh, chi nhánh lưu phiếu lệnh có chữ ký này.
Về vấn đề này trong văn bản đề nghị không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan CSĐT Công an
TP.HCM gửi Viện Kiểm sát TP, phía cơ quan công an có nêu việc Chi nhánh VIS lưu 29 phiếu
lệnh của khách hàng nhưng cả 29 phiếu này đều không có chữ ký khách hàng. Đối với các lệnh
thực hiện qua điện thoại, phía VIS cũng không có file ghi âm và sau khi thực hiện lệnh không yêu
cầu khách hàng ký xác nhận lệnh.
Trao đổi với phóng viên ngày 18-4, ông Phạm Linh, Tổng Giám đốc VIS, cho biết có vụ việc như
nêu trên xảy ra ở Công ty VIS và tranh chấp này đang được tòa thụ lý. Trả lời báo chí, ông Linh
cũng nói rằng tất cả giao dịch tại tài khoản của ông Chiến đều do ông và người được ông ủy
quyền thực hiện. Nhân viên Công ty VIS có sai sót trong quy trình nghiệp vụ.
Vụ việc này tòa đang thụ lý chưa biết ai đúng ai sai nhưng qua những tình tiết tranh chấp ít nhiều
cho thấy quy trình nghiệp vụ kinh doanh hiện nay của nhiều CTCK có lỗ hổng.
Lỗ hổng đó là việc mua khống, bán khống chứng khoán, ứng trước tiền cho khách hàng, nói cách
khác là cho khách hàng vay rồi thu phí ứng trước. Bên cạnh đó, các nhân viên môi giới và ngay
cả trưởng các bộ phận liên quan ở các CTCK không tuân thủ quy trình (giao dịch chứng khoán
không có chữ ký của khách hàng trên phiếu lệnh, không có file ghi âm về nội dung đặt lệnh…).
Tổng giám đốc một CTCK có trụ sở ở TP.HCM cho biết vụ việc này đang được các CTCK theo
dõi gắt gao. Vì nếu Công ty VIS thua kiện thì sẽ có hàng loạt tranh chấp khác nổ ra. Do thực tế có
nhiều CTCK thực hiện giao dịch cho khách hàng rất thoáng. Vì nếu làm theo quy trình chặt chẽ
sẽ không hút được nhà đầu tư tham gia giao dịch.(Nguồn: PLTPHCM, 21/4)
II. Nguyên nhân
Những tiêu cực trong nghề môi giới chứng khoán chủ yếu xuất phát từ đạo đức của những người
trong nghề, vì lợi nhuận mà bất chấp tất cả, tuy nhiên bên cạnh đó cũng không thể không kể đến
những tác động của phía nhà đầu tư cũng như nhà nước, phần nào đã ảnh hưởng tới những mặt
trái của nghề làm môi giới chứng khoán.
1. Về phía nhà đầu tư

1. Nghe hơi nồi chõ
Thông tin rất quan trọng trên thị trường, nhưng phần đông vì thiếu hiểu biết, các nhà đầu tư có xu
hướng nghe ngóng. Trong khi thông tin thì rất nhiều, nhưng độ xác thực thì không ai kiểm định
được, và các nhà đầu tư cứ thế lượm nhặt mà không có sự chọn lọc hay đánh giá.Vì vậy, cái sự
nghe trở nên láng máng, truyền tai nhau hết sức nguy hiểm.
Thông thường, họ tìm một số nhân vật có khả năng “hót hay như khướu” hoặc tìm một vài cán bộ
môi giới – tư vấn của chính các công tychứng khoán. Cái này có mấy điểm hại sau:
- Không khách quan vì bản chất là xung đột lợi ích.
- Không đảm bảo chính xác vì có khi người nói cũng không biết mình đang nói gì.
- Không có bộ lọc vì thế không thể biết cái vừa nhận được là vàng hay thực tế là rác.
- Luôn luôn muộn, vì khi nghe được thì cũng rất nhiều người khác đã nghe được.
2. Không có kỳ vọng đầu tư riêng
Nói giản dị là không biết mình muốn gì, ngoài một nguyện vọng ngất trời cao là Lợi Nhuận.
Các nhà đầu tư nước ngoài thì khác họ biết rất chính xác điều họ muốn, và vì phần lớn là các quỹ
dạng Mutual Fund, nên các chính sách của họ tương đối nhất quán, ổn định. Họ không nhảy ra
nhảy vào thị trường liên hồi, gây ra các chi phí giao dịch lớn trong khi hiệu quả chưa đo đếm
được.
Việc không đặt kỳ vọng đầu tư cho mình cũng có nghĩa là để ước muốn trôi theo diễn biến thị
trường. Ví dụ, lãi 20% trong vòng 3 tháng đã là tốt, nhưng vì ước muốn 40% trong vòng 4 tháng
nên kết cục có khi chỉ là không bán được cả “hàng” và chết tắc với số tiền đầu tư.
Không có kỳ vọng còn liên quan tới một hiện tượng nữa là kỳ vọng bị bóp méo hoặc chèn ép.
3. Tâm lý bầy đàn
Đã có những số liệu và mô hình thống kê toán rằng hiệu ứng bầy đàn rất mạnh ở Việt Nam, và
theo số liệu là mạnh nhất thế giới. Hiệu ứng này đặc biệt mạnh khi giá thị trường tăng trong một
khoảng thời gian liên tiếp khá dài.
Hệ quả trực tiếp là người đầu tư từ bỏ cả kỳ vọng cá nhân, để theo đuổi mức kỳ vọng của đám
đông trên thị trường. Hệ quả thứ hai, cũng trực tiếp, là tính thanh khoản giảm dần. Mà tính thanh
khoản chính là giá trị lớn nhất, duy nhất của thị trường chứng khoán (chứ không phải theo quan
niệm sai lầm chung là tính năng huy động vốn đâu).
Khi tính thanh khoản trở nên “hàng hiếm” thì thị trường biến thành sòng bạc. Thực sự là sòng bạc

vì mọi người cho rằng nó là cỗ máy kiếm tiền. Chúng ta, bằng sự nhìn nhận bình thường, sẽ hiểu
rằng điều này quá sai lầm và hoàn toàn tự huyễn hoặc.
4. Quan tâm tới lợi nhuận nhưng không quan tâm tới bổ sung kiến thức
Phần lớn nhà đầu tư chỉ quan tâm tới lợi nhuận, và thuộc một bài vỡ lòng rằng đào bới được
thông tin mật “rò rỉ” đâu đó chính là cáchlàm giàu kiến thức.
Điều này sai. Kiến thức khác thông tin. Kiến thức là một bộ lọc thông tin có phương hướng, có
chủ đích và có phương pháp. Việc chỉ chăm chắm đào bới các thông tin vốn nhiều như rác không
làm các nhà đầu tư khôn ngoan hơn, có khi là tình tiết tăng nặng của các vấn đề tồn tại ở trên.
Chính vì không bổ sung kiến thức, nên thị trường hỗn loạn trong các dòng chảy thông tin. Mệt
mỏi với thông tin càng khiến cho người ta dễ từ bỏ các kỳ vọng cá nhân, để hào hứng đi theo sự
vẫy gọi của “bầy đàn.”
5. Tin rằng “mình khôn ngoan nhất”
Họ cho rằng chỉ có họ mới là khôn ngoan nhất, đó là biểu hiện của thiếu kiến thức. Chính vì thiếu
kiến thức, nhà đầu tư cũng không mấy khi quan tâm thực sự tới các cách thức tính toán, quản trị
và phân tán rủi ro của rổ tài sản.
2. Về phía nhà nước
Trong những năm qua việc kiểm soát nguồn cung trên thị trường có những hạn chế sau:
- Hiện tượng phát hành cổ phiếu còn tràn lan tăng vòn vọt vội vã trong thời điểm thị trường
nhằm thu về các khoản thặng dư vốn lớn cho Doanh nghiệp
- Phát hành chưa đi kèm với kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả- chính vì sự lỏng lẻo trong quá
trình kiểm soát để tiến hành phát hành mà không kiểm tra năng lực của cơ sở phát hành
ảnh hưởng nghiêm trọng tới nhà đầu tư.
- Phần lớn hoạt động phát hành thêm đều có mục đích lấn sâu sang lĩnh vực kinh doanh
không truyền thống của doanh nghiệp là bất động sản. Trong khi đó việc kiểm soát của
nhà nước trong vấn đề này còn chưa được tốt.
- Các văn bản pháp luật mặc dù đã được ban hành khá hệ thống và đầy đủ nhưng vẫn còn
thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng, khung pháp lý chưa thực sự đủ mạnh
- Còn tồn tại những điểm chưa thống nhất giữa các văn bản pháo luật chuyên ngành và các
văn bản pháp luật chung tham gia điều chỉnh lĩnh vực CK& TTCK, gây mâu thuẫn và khó
khăn trong quá trình áp dụng, làm phức tạp hơn công tác quản lý và giám sát TTCK.

- Chưa tạo ra được vị thế độc lập và thẩm quyền đầy đủ cho UBCKNN làm giảm tính chủ
động, linh hoạt của UBCKNH trong việc ra các quyết định quản lý và giám sát TTCK,
hạn chế sự phối hợp UBCKNN với các Bộ, ngành liên quan khác.
- Cách giám sát thị trường còn thủ công, chưa dựa trên các tiêu chí và kết quả phân tích rủi
ro. Chưa nắm rõ được các giao dịch trên thị trường OTC do thiếu cơ chế giám sát giao
dịch chuyển nhượng cổ phần tại các Doanh Nghiệp CPH phát hành riêng lẻ, nhất là các
DNNN trong thời gian chuẩn bị niêm yết hoặc chào bán chứng khoán. Các công ty CK thì
chậm công bố thông tin, các nhân viên hành nghề kinh doanh chứng khoán thì không có
chứng chỉ hành nghề,…
Chính những hạn chế này đã “tiếp tay” những mầm mống tiêu cực trông nghề hoạt động
kinh doanh chứng khoán có cơ hội lợi dụng những kẽ hở pháp luật tư lợi cá nhân. Nếu
phát hiện thì mức phạt hành chính cũng rất thấp so với những gì mà họ thu được, chính vì
vậy những hành vi tiêu cực này càng được đà phát triển.
3. Về phía các công ty môi giới chứng khoán, nhà môi giới chứng khoán
- Nguyên nhân do tiền bạc và lợi ích cá nhân của nhà môi giới: Thông thường, mỗi nhà
môi giới chứng khoán thường làm môi giới, tư vấn cho cả chục nhà đầu tư. Ngoài khoản
lương cố định hơn 10 triệu đồng/tháng, họ còn có thêm thu nhập cả trăm triệu đồng từ
những phi vụ môi giới, tư vấn cho nhà đầu tư. Nhưng có một số nhà môi giới vì lợi ích
riêng của cá nhân mình bất chấp những thủ đoạn tung ra những thông tin sai lệch, tư vấn
cho nhà đầu tư không hiệu quả, gây thiệt hại cho nhà đầu tư, hỗn loạn sàn dịch, có những
luồng thông tin đa chiều nên khó xác định thông tin chính xác. Các nhà đầu tư khó xác
định phương hướng để tham gia đầu tư.
- Nguyên nhân trực tiếp từ nhà môi giới:Đội quân hành nghề không chuyên này có mặt ở
khắp các sàn giao dịch đến vỉa hè, nơi làm việc, kinh doanh. Tuy không ra mặt nhưng họ
cũng góp phần khuynh đảo thị trường chứng khoán bằng những thông tin nội gián hoặc có
chủ ý gây thất thiệt cho loại cổ phiếu nào đó. Điều này gây ảnh hưởng về mặt tâm lý cho
những nhà đầu tư có thể là hoang mang, lo sợ gây ra việc đầu tư sai hướng đi. Thiệt hại về
tài sản đối với nhà đầu tư.
- ảnh hưởng do quản lý không chặt chẽ việc tuyển chọn nhà môi giới:Dù hoạt động ở thị
trường nào thì những nhà chuyên nghiệp được chọn lọc này cũng phải đăng ký và được

cấp phép hành nghề.Tuy nhiên, do khan hiếm nguồn nhân lực, nhiều Công ty Chứng
Khoán đã bỏ qua nhiều yếu tố quan trọng của nhân viên môi giới. Đó là việc nhiều Cty
CK nhận cả những nhân viên môi giới chưa có chứng chỉ hành nghề, quy phạm đạo đức
nghề nghiệp. Tại các Cty CK, việc nhân viên môi giới thường xuyên bỏ lệnh của các nhà
đầu tư để nhập lệnh cho người thân, người quen và khách hàng ruột, “ưu tiên” đặt lệnh
trực tiếp vào hệ thống giao dịch của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP HCM cho một
số nhà đầu tư, kể cả tổ chức và cá nhân, không thực hiện việc ghi thứ tự, thời gian đặt lệnh
vào phiếu lệnh trước mặt khách hàng để khách hàng có thể kiểm soát; phiếu lệnh của nhà
đầu tư không được ghi thành hai liên theo qui định và họ cũng không mở sổ lệnh để theo
dõi thời gian đặt lệnh theo quy định. Gây hậu quả nghiêm trọng đối với các nhà đầu tư.
II. Thực trạng về các khía cạnh tiêu cực và vấn đề đạo đức trong hoạt động môi giới chứng
khoán
2.1. Thực trạng hoạt động môi giới trên TTCK Việt Nam những năm gần đây.
Sau 9 năm ra đời, thị trường chứng khoán VN đã có vài ngàn broker (môi giới chứng
khoán) Nhiều broker có thâm niên được khách hàng tin tưởng giao toàn bộ tiền của mình để
đầu tư. Vai trò của các broker ngày càng trở nên quan trọng và phía sau nghề MGCK này cũng có
nhiều bí ẩn.
Thu nhập rất cao nhưng rất nhiều “môi giới chứng khoán” không hề có bằng cấp chuyên
ngành hay kinh nghiệm.
Hiện nay, UBCKNN đã cấp Giấy phép hoạt động kinh doanh cho 9 CTCK đó là: Công ty cổ
phần CK Bảo Việt (VĐL- 43 tỷđồng); Ngân hàng Đầu tư và phát triển (VĐL- 55 tỷđồng); Công
ty cổphần CK Đệ Nhất (VĐL-43 tỷ đồng); Công ty TNHH CK ACB (VĐL- 43 tỷ đồng); Công ty
TNHH CK Ngân hàng Công thương (VĐL- 55 tỷđồng); Công ty TNHH CK Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn (VĐl- 60 tỷđồng); Công ty TNHH CK Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam (VĐL- 60 tỷđồng); Công ty TNHH CK Thăng Long (VĐL - 9 tỷ đồng); Công ty cổ
phần CK Sài Gòn(VĐL- 20 tỷ đồng). Trong thời gian tới sẽ có thêm ba CTCK nữa được thành
lập là công ty cổ phần CK thành phố Hải Phòng, công ty cổ phần CK Mê Kông, CTCK Ngân
hàng Đông Á đưa tổng số CTCK tại Việt Nam lên 12 công ty.
Điểm chung của tất cả các CTCK là đều có chức năng MGCK vì hoạt động này ít rủi ro, mức
vốn pháp định không cao và được coi là hiệu quả nhất trong thời gian đầu. Hơn nữa, theo thực tế

ở các nước có TTCK phát triển thì đây là hoạt động mang lại thu nhập rất tốt có thể nói là tốt nhất
trong các nghiệp vụ kinh doanh CK ngay cả khi thịtrường rơi vào tình trạng khủng hoảng. Mặc
dù cơ cấu tổ chức của các công ty có thể khác nhau nhưngviệc tổ chức thực hiện nghiệp vụ MG ở
các CTCK lại tương tự như nhau.
• Thị phần môi giới chứng khoán năm 2009
Tính chung cả năm 2009, TSC chiếm 8,45% thị phần. Riêng quý IV công ty chiếm 10,7%thị
phần. Năm 2009, CTCP Chứng khoán Thăng Long (TSC) đều dẫn đầu về thị phần môi giới cổ
phiếu tại cả HoSE (9,13%) và HNX (8,45%).
Tên CTCK
Thị phần HNX
(%)
Thị phần HoSE (%)
CTCK Thăng Long
TSC 1 8.45 1 9.13
CTCK Sài Gòn
SSI 2 4.52 2 8.26
CTCK NH Á Châu
ACBS 3 4.31 5 4.37
CTCK Sacombank
SBS 4 4.19 3 7.77
CTCK FPT
FPTS 5 4.13 6 3.84
CTCK Tp.HCM
HSC 6 3.76 4 5.63
CTCK Quốc Tế Hoàng Gia
IRS 7 3.27
CTCK VnDirect
VNDS 8 3.17
CTCK Vietcombank
VCBS 9 3.16 9 2.90

CTCK CK An Bình
ABS 10 2.85
41.81
10 công ty chứng khoán dẫn đầu thị phần môi giới cổ phiếu năm 2009 tại HNX
• Thị phần môi giới chứng khoán HNX trong quý IV và cả năm 2010
Giống như năm 2009, Chứng khoán Thăng Long (TLS) đều là công ty dẫn đầu thị trường môi
giới cổ phiếu và chứng chỉ quỹ tại cả HNX và HoSE.
Tính chung cả năm 2010, TLS dẫn đầu với 11,9% thị phần. So với thị phần năm 2009 là
8,45%, thị phần của TLS đã tăng lên đáng kể trong năm qua. VNDirect đứng thứ 2 với 5,12%.
Tiếp đến là HSC (4,71%), FPT (4,59%), Sacombank - SBS (4,11%).
• Thị phần môi giới chứng khoán năm 2011
 Thị phần môi giới quý I/2011 trên HOSE ít có sự xáo trộn
Sở GDCK TPHCM (HOSE) đã công bố thị phần giá trị giao dịch môi giới quý I/2011 của các
công ty chứng khoán thành viên với 6 vị trí đầu không có sự thay đổi nào so với quý trước đó.
Theo đó, đối với thị phần giá trị giao dịch môi giới của cổ phiếu và chứng chỉ quỹ thì CTCK Sài
Gòn (SSI) đã tiếp tục dẫn đầu quý thứ 2 liên tiếp với 11,74%.Trong khi đó CTCK Thăng Long
(TLS) sau khi chỉ về thứ 3 trong quý IV/2010 thì đến quý I/2011 đã lấy lại vịtrí số2 từ tay CTCP
Chứng khoán TPHCM (HSC). TLS chiếm 8,58% còn HSC chiếm 6,38%. SBS vẫn giữ vững vị trí
thứ 4 với 4,98%. 2 vị trí tiếp theo cũng không có sự thay đổi nào so với quý trước đó, thứ 5 thuộc
về CTCK TNHH Ngân hàng Á Châu (ACBS) với 4,80%, thứ 6 là CTCK FPT (FPTS) với 3,51%.
4 vị trí cuối có sự xáo trộn, BVS từ thứ 9 leo lên thứ 7 với 3,02% đồng thời đẩy CTCK TNHH
Ngân hàng Việt NamThịnh Vượng (VPBS) xuống thứ 8 với 2,97%. . .
 Thị phần môi giới quý II/2011
TLS là công ty dẫn đầu về thị phần môi giới tại HNX trong quý II/2011, nhưng thị phần giảm
nhẹ so với quý I/201I (từ 8,908% xuống còn 7,997%) và á quân vẫn là VNDS với thị phần
6,78%.
10 CTCK Môi giới CP lớn nhất trên HNX trong Qúy II/2011
STT Tên CTCK Thị phần MGCP (%)
1 Công ty Cổ phần Chứng khoán Thăng Long 7,997%
2 Công ty Cổ phần Chứng khoán VNDrect 6,780%

3 Công ty Cổ phần Chứng khoán Hòa Bình 6,210%
4 Công ty Cổ phần Chứng khoán Hồ Chí Minh 5,673%
5 Công ty TNHH Chứng khoán ACB 4,205%
6 Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT 3,896%
7 Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn 3,614%
8 Công ty Cổ phần Chứng khoán Golden Bridge VN 3,193%
9 Công ty Cổ phần Chứng khoán Kim Eng VN 3,054%
10
Công ty Cổ phần Chứng khoán NH Nông Nghiệp và PTNT
VN
2,600%
Sở GDCK TPHCM (HOSE) vừa công bố thị phần giá trị môi giới cổ phiếu quý 2 và 6 tháng
đầu năm trong đó SSI đều dẫn đầu với tỷ lệ 13.2% và 12.35%.
 Thị phần môi giới quý III: Dấu ấn NĐT tổ chức(11-10-2011)
Nổi bật trong bảng xếp hạng thị phần môi giới quý III/2011 là ngôi vị số 1 của CTCK SàiGòn
(SSI). Đây là quý thứ 4 liên tiếp SSI ngự ở vị trí quán quân, nhưng lần này ở thế áp đảo toàn diện
so với các đối thủ khác. Thị phần của SSI gần gấp đôi của CTCK TP. HCMvà CTCK Sacombank
đứng lần lượt kế tiếp. Nhìn lại từ quý IV/2010 tới quý III/2011, SSI không chỉ duy trì được thứ
hạng cao nhất, mà còn nỗ lực tự vượt qua chính mình với thị phần mở rộng liên tục: 11,61%,
11,74%, 13,2% rồi 15,81% - thị phần lớn nhất của một CTCK đạt được khi bảng xếp hạng Top
10 bắt đầu được công bố.
2.2. Đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động môi giới chứng khoán
“Đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động KDCK là tập hợp các chuẩn mực hành vi, cách cư xử
và ứng xử được quy định cho nghề nghiệp KDCK nhằm bảo vệ và tăng cường vai trò, tính tin cậy
niềm tự hào của nghề nghiệp KDCK trong xã hội”. Đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động KDCK
được thể hiện thông qua một số tiêu chuẩn đánh giá như: mức độ chấp hành luật pháp, trình độ
năng lực chuyên môn, tiêu chuẩn và quy trình hoạt động, đạo đức và niềm tin vào nghề nghiệp…
Đặc biệt trong lĩnh vực môi giới chứng khoán thì vấn đề đạo đức nghề nghiệp được chú trọng
hơn cả, bởi các nhân viên môi giới chứng khoán là người làm việc trực tiếp với nhà đầu tư, phân
tích, đưa ra lời khuyên cho nhà đầu tư. Nếu họ không nhạy bén hoặc có mục đích vụ lợi thì sẽ

khiến nhà đầu tư thua lỗ rất nhiều đông thời còn làm thiệt hại tới các doanh nghiệp…
- Tuân thủ pháp luật, các quy trình, quy chế, quy định của công ty:
Phải tuân thủ các quy định hiện hành, quy tắc ứng xử của CTCK ban hành kèm theo Quyết
định số 20/QĐ – HHKDCKVN ngày 22/11/2006 của Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh Chứng
khoán Việt Nam và các quy định về kỹ thuật và quy định nghiệp vụ của công ty.
- Luôn đảm bảo tính trung thực, khách quan, công bằng và minh bạch trong hành nghề:
+ Phải công bằng, tôn trọng sự thật và không được thành kiến, thiên vị trong mọi hành
động của mình
+ Cán bộ nhân viên của SHS không được nhận quà hoặc tặng quà, dự chiêu đãi hoặc mời
chiêu đãi đến mức có thể làm ảnh hưởng đáng kể tới các đánh giá nghề nghiệp của họ hoặc tới
những người họ cùng làm việc
+ Không được làm những công việc mà có cam kết nhận hay trả những khoản lợi ngoài
những thu thập thông thường
+ không được sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán cho công ty hay cá nhân
và không dùng những thông tin nội bộ để hướng dẫn đầu tư cho khách hàng
+ Các thông tin cung cấp cho khách hàng phải đảm bảo công bằng cho mọi khách hàng
+ Không được phép đảm bảo lợi ích mà khách hàng sẽ thu được từ việc đầu tư ngoài việc
cung cấp những thông tin thực tế liên quan đến việc đầu tư
- Đảm bảo năng lực chuyên môn và tính cẩn trọng.
- Có trách nhiệm tổ chức xây dựng quy trình hoạt động theo tiêu chuẩn thống nhất, xây
dựng đội ngũ cán bộ có trình độ, tận tụy và tinh thần trách nhiệm trong công việc.
Hành động đúng mực, cẩn trọng phù hợp với các quy trình nghiệp vụ khi cung cấp dịch vụ
chuyên nghiệp
- Tuân thủ tính bảo mật.
Không được tiết lộ bất cứ một thông tin nào khi chưa được phép của người có thẩm quyền,
trừ khi có nghĩa vụ phải công khai theo yêu cầu của pháp luật hoặc trong phạm vi quyền hạn
nghề nghiệp của mình
- Đảm bảo tư cách nghề nghiệp.
Duy trì, cập nhật và nâng cao kiến thức trong hoạt động thực tiễn, trong môi trường pháp lý
và các tiến bộ kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu công việc; phải trau dồi và bảo vệ uy tín nghề nghiệp,

không được gây ra những hành vi làm giảm uy tín nghề nghiệp.
- Tuân thủ nguyên tắc nhập lệnh giao dịch: theo đúng thứ tự thời gian nhận lệnh.
- Không được tự ý sử dụng tiền, chứng khoán trên tài khoản của khách hàng và sử dụng tài
khoản để mua bán chứng khoán cho bản thân, người khác.
- Không dụ dỗ hoặc mời gọi khách hàng mua, bán chứng khoán liên tục để tạo cung, cầu
gỉa hoặc vì mục đích khác.
- Không được trực tiếp hoặc gián tiếp tạo giá cho chứng khoán của công ty hoặc cấu kết với
người khác tạo giá cho một loại chứng khoán nào khác.
- Không nhận ủy quyền thực hiện giao dịch của khách hàng trong hoạt động giao dịch
chứng khoán.
2.3. Nhận diện các hành vi tiêu cực trong hoạt động môi giới chứng khoán
Cẩn trọng luôn là đức tính cần thiết đối với bất cứ nhà đầu tư chứng khoán nào. Những nhà
đầu tư chứng khoán luôn biết trước và cảnh giác với những cạm bẫy thường trực trên TTCK.Có
vậy mới tránh được rủi ro lớn trong quá trình đầu tư.
Sau đây là một số hành vi tiêu cực xảy ra trên thị trường chứng khoán dựa trên kinh nghiệm
của một số chuyên gia đã tổng kết:
- Chưa chọn lọc.
Một trong những nguyên tắc căn bản vận hành thị trường chứng khoán là nguyên tắc trung
gian, thể hiện rõ nét nhất với vai trò và hoạt động của các nhà môi giới và kinh doanh chứng
khoán. TTCK hoạt động hiệu quả một phần là nhờ vào sự thủ vai tốt của các nhà môi giới và kinh
doanh chứng khoán. Dù hoạt động ở thị trường nào thì những nhà chuyên nghiệp được chọn lọc
này cũng phải đăng ký và được cấp phép hành nghề.
Tuy nhiên, do khan hiếm nguồn nhân lực, nhiều Công ty chứng khoán tại Việt Nam đã bỏ
qua nhiều yếu tố quan trọng của nhân viên môi giới. Đó là việc nhiều Công ty chứng khoán nhận
cả những nhân viên môi giới chưa có chứng chỉ hành nghề, quy phạm đạo đức nghề nghiệp. Tại
các Công ty chứng khoán, việc nhân viên môi giới thường xuyên bỏ lệnh của các nhà đầu tư để
nhập lệnh cho người thân, người quen và khách hàng ruột, “ưu tiên” đặt lệnh trực tiếp vào hệ
thống giao dịch của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP HCM cho một số nhà đầu tư, kể cả tổ
chức và cá nhân, không thực hiện việc ghi thứ tự, thời gian đặt lệnh vào phiếu lệnh trước mặt
khách hàng để khách hàng có thể kiểm soát; phiếu lệnh của nhà đầu tư không được ghi thành hai

liên theo qui định và họ cũng không mở sổ lệnh để theo dõi thời gian đặt lệnh theo quy định.
TTCK Việt Nam hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Điều này đồng nghĩa việc tìm kiếm lợi
nhuận trên đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư sẽ khó khăn hơn, nhiều nhà đầu tư ngắn hạn
không có chiến lược kinh doanh sẽ phải tạm biệt thị trường. Các Công ty chứng khoán cũng cần
phải tạo sức bật mạnh mẽ để giữ khách. Vấn đề đặt ra ở đây là chất lượng phục vụ khách hàng
của các Công ty chứng khoán cũng phải cần nâng cao và chỉ những nhân viên môi giới đủ phẩm
chất nghề nghiệp mới còn đất sống.
- Tư vấn vì lợi ích của một số nhà mô giới : do ý đồ cá nhân nên một số nhà môi giới sẽ
môi giới không phù hợp với nhu cầu, khả năng, tài chính và mục tiêu của khách hàng
- Vi phạm quy định giao dịch công bằng
Các hoạt động sau đây được xem là vi phạm các quy định giao dịch công bằng:
+ Đề nghị khách hành đầu tư chứng khoán mà không xem xét tài chính của khách hàng và
đảm bảo khách hàng không chịu rủi ro.
+ Mở tài khoản khống chế thực hiện việc kinh doanh chứng khoán trái phép.
+Thực hiện các giao dịch ngoài thẩm quyền được giao.
+ Đề nghị mua các chứng khoán không phù hợp với khả năng chi trả của khách hàng.
+ Hoạt động lừa đảo ( giả mạo hay cung cấp các số liệu không thực tế).
- Giao dịch thái quá : là hành vi giao dịch thường xuyên và có số lượng lớn trên tài khoản
của khách hàng nhằm mục đích ăn tiền hoa hồng mà không đạt được mục đích khách hành đề ra.
Đây là hành vi lạm dụng trách nhiệm ủy quyền của khách hàng.
- Vay và cho vay tiền chứng khoán: các nhà môi giới chứng khoán bị cấm vay tiền hay
chứng khoán của khách hàng trừ khi khách hàng là ngân hàng hay các tổ chức tài chính có chức
năng thực hiện cho vay tiền hay chứng khoán. Các nhà mô giới cũng bị cấm cho khách hàng vay
tiền hay chứng khoán.
- Xuyên tạc: các nhà MGCK được phép xuyên tạc, nói không đúng về bản chất hay các
dịch vụ của công ty mình đối với các khách hàng tiềm năng. Không được phép xuyên tạc về “
nghiệp vụ, học vấn, các loại hình dịch vụ phục vụ khách hàng và các loại phí ”. Việc công bố các
sự kiên quan trong liên quan tới các loại hình trên cũng bị coi là xuyên tạc.
- Sử dụng các báo cáo, công trình nghiên cứu của các công ty và cá nhân khác: nhà môi
giới hay CTCK không được sử dụng các nghiên cứu phân tích do đề nghị của cá nhân hay công

ty khác tiến hành mà không công bố rằng “các báo cáo này không phải do chính họ thực hiện”.
Nhà môi giới hay CTCK được sử dụng kết qua nghiên cứu trong các báo cáo hay phân tích của
người khác nhưng không được nhận rằng đấy là các nghiên cứu hay báo cáo của mình.
III. Phân tích các khía cạnh tiêu cực và vấn đề đạo đức trong hoạt động môi giới ở thị
trường chứng khoán Việt Nam.
3.1. Phân tích những khía cạnh tiêu cực trong hoạt đông môi giới ở TTCK Việt Nam.
* Những điều cấm kỵ trong TTCK:
- Các thủ thuật gian lận và giả tạo.
- Tư vấn cho khách hàng không phù hợp, thiếu cơ sở.
- Mua bán quá mức cần thiết.
- Bán cổ tức.
- Bán chứng khoán tại điểm phân biệt giá.
- Vay mượn tiền.
- Ngụy tạo bản chất.
- Sử dụng kết luận nghiên cứu của người khác.
- Xung đột quyền lợi.
- Đảm bảo lời lỗ hoặc chia chác với khách hàng.
- Lạm dụng thong tin nội bộ.
- Tiết lộ thông tin khách hàng.
- Lợi dụng chức năng để thu vốn cho mình.
(các giao dịch chứng khoán phi đạo đức)
- Giao dịch giả tạo.
- Gài thế.
- Mua bán đột biến.
- Dùng các phương tiện truyền thông để gây ảnh hưởng thị trường.
- Phao tin thất thiệt, gây lạc hướng.
- Chạy nước.
- Ép giá, trợ giá, chốt giá.
• Chưa chọn lọc
Một trong những nguyên tắc căn bản vận hành TTCK là nguyên tắc trung gian, thể

hiện rõ nét nhất với vai trò và hoạt động của các nhà môi giới và KDCK. TTCK hoạt động
hiệu quả một phần là nhờ vào sự thủ vai tốt của các nhà môi giới và KDCK. Dù hoạt động ở
thị trường nào thì những nhà chuyên nghiệp được chọn lọc này cũng phải đăng ký và được
cấp phép hành nghề.
Tuy nhiên, do khan hiếm nguồn nhân lực, nhiều CTCK tại Việt Nam đã bỏ qua
nhiều yếu tố quan trọng của nhân viên môi giới. Đó là việc nhiều Công ty chứng khoán
nhận cả những nhân viên môi giới chưa có chứng chỉ hành nghề, quy phạm đạo đức nghề
nghiệp. Tại các CTCK, việc nhân viên môi giới thường xuyên bỏ lệnh của các nhà đầu tư để
nhập lệnh cho người thân, người quen và khách hàng ruột, “ưu tiên” đặt lệnh trực tiếp vào
hệ thống giao dịch của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP HCM cho một số nhà đầu tư,
kể cả tổ chức và cá nhân, không thực hiện việc ghi thứ tự, thời gian đặt lệnh vào phiếu lệnh
trước mặt khách hàng để khách hàng có thể kiểm soát; phiếu lệnh của nhà đầu tư không
được ghi thành hai liên theo qui định và họ cũng không mở sổ lệnh để theo dõi thời gian đặt
lệnh theo quy định.
TTCK Việt Nam hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Điều này đồng nghĩa việc tìm
kiếm lợi nhuận trên đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư sẽ khó khăn hơn, nhiều nhà
đầu tư ngắn hạn không có chiến lược kinh doanh sẽ phải tạm biệt thị trường. Các CTCK
cũng cần phải tạo sức bật mạnh mẽ để giữ khách. Vấn đề đặt ra ở đây là chất lượng phục
vụ khách hàng của các CTCK cũng phải cần nâng cao và chỉ những nhân viên môi giới đủ
phẩm chất nghề nghiệp mới còn đất sống.
• Tư vấn vì lợi ích cá nhân của nhà môi giới:
TTCK tại Việt Nam hiện nay vẫn còn rất non trẻ và đang trong quá trình phát triển hoàn
thiện. Rất nhiều nhà đầu tư không có hiểu biết đầy đủ, hoặc còn đầu tư theo kiểu chộp giật không
có sự phân tích kỹ lưỡng vì vậy mà sự tư vấn của nhân viên môi giới chứng khoán là rất cần thiết.
Tuy nhiên có một thực trạng hiện nay là các nhân viên MGCK bắt tay với doanh nghiệp hoặc cá
nhân tung tin sai lệch, thiếu chính xác cho các nhà đầu tư để thu hút sự đầu tư của họ vào mã
chứng khoán của mình. Cũng có trường hợp nhân viên môi giới tư vấn cho nhà đầu tư đầu tư vào
cổ phiếu của một công ty mà họ không hề biết và quên thuộc, thậm chí không đúng lĩnh vực
chuyên môn của nhà đầu tư. Cuối cùng họ bị thua lỗ nặng do giá cổ phiếu của công ty đó giảm
nghiêm trọng. Điều này không chỉ vi phạm quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp mà còn vi phạm pháp

luật và gây tổn thất rất lơn cho nhà đầu tư. Vì khi bị thua lỗ thì nhà đầu tư phải chịu mọi tổn thất,
thiệt hại.
• Vi phạm quy định giao dịch công bằng:
Một số nhân viên môi giới vì mục địch nhận hoa hồng đã có hành vi giao dịch thái quá có
nghĩa là giao dịch thường xuyên và với số lượng lớn trên tài khoản của khách hàng nhằm mục
đích nhận hoa hồng mà không nhằm đạt được các mục tiêu khách hàng đã đề ra. Đây là hành vi
lạm dụng trách nhiệm uỷ quyền của khách hàng.
Không chỉ vậy còn có trường hợp nhân viên môi giới của công ty chứng giả mạo chữ ký để
rút tiền từ tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư mà trong giấy yêu cầu chuyển tiền có
chữ ký của người đại diện và có đóng dấu của CTCK, thì có dấu hiệu vi phạm hình sự, trong đó
có trách nhiệm liên đới của đại diện CTCK. Trong trường hợp này là có dấu hiệu cấu thành tội
lừa đảo, hoặc tội lợi dụng tín nhiệm để xâm phạm tài sản của tổ chức và công dân được quy định
trong Bộ luật Hình sự.
Ai cũng biết, các nhân viên môi giới chính là "cầu nối" giữa công ty chứng khoán với khách
hàng. Tuy nhiên, cũng chính vì mang vai trò như thế, nên các giao dịch mà nhân viên môi giới
thực hiện rất dễ nằm ngoài nhiệm vụ được giao, vượt khỏi phạm vi được nhà đầu tư ủy quyền. Từ
đó dẫn đến việc nhà đầu tư cho rằng nhân viên môi giới lạm dụng tài khoản của họ. Điển hình là
nhân viên môi giới của Công ty chứng khoán Thiên Việt lạm dụng tài khoản của ba nhà đầu tư
Lê Thị Bích Thuỷ (Đồng Tháp), Trần Thị Thiện (Cần Thơ) và Nguyễn Thị Kim Loan (Vĩnh Long).
Cụ thể là dù không được ba người trên ủy quyền vay tiền từ Công ty chứng khoán Thiên Việt để
mua chứng khoán và rút tiền khỏi tài khoản của nhà đầu tư nhưng người môi giới vẫn thực hiện
các giao dịch này, khiến nhà đầu tư bị thiệt hại nghiêm trọng.
• Xuyên tạc:
Hiện nay, nhiều nhà chứng khoán không đủ trình độ chuyên môn đã cố tình xuyên tạc, nói
không đúng về năng lực bản thân và bản chất công ty môi giới của mình để nhằm gây uy tín cho
khách hàng. Đánh vào tâm lí khách hàng để lôi kéo khách hàng đầu tư chứng khoán. Việc công
bố không chính xác hay không công bố các sự kiện quan trọng liên quan đến những vấn đề trên
cũng bị coi là xuyên tạc. Khách hàng sẽ phải khó khăn khi so sánh chất lượng dịch vụ giữa các
công ty chứng khoán nói chung và các nhà môi giới nói riêng nếu khách hàng không được cung
cấp thông tin đầy đủ, chính xác liên quan đến vấn đề chuyên môn.

• Vay và cho vay tiền, chứng khoán:
+ Vay tiền và vay chứng khoán của khách hàng: Các nhà môi giới chứng khoán bị cấm vay
tiền hay chứng khoán từ khách hàng trừ phi khách hàng là ngân hàng hay các tổ chức tài chính có
chức năng thực hiện việc cho vay tiền và chứng khoán.
+ Cho khách hàng vay tiền và chứng khoán: Các nhà môi giới chứng khoán cũng bị cấm cho
khách hàng vay tiền hay chứng khoán. Quy định này không áp dụng cho nghiệp vụ vay bảo
chứng của các công ty chứng khoán hay việc các nhà môi giới chứng khoán cho vay theo nghiệp
vụ thông thường.
• Sử dụng các báo cáo, công trình nghiên cứu của công ty hoặc cá nhân khách:
Hiện nay có rất nhiều nhân viên môi giới và công ty chứng khoán sử dụng các nghiên cứu
phân tích hay đề nghị do cá nhân hay công ty khác tiến hành mà không công bố rằng, các báo cáo
này không phải do chính họ thực hiện, nhằm tạo ra uy tín với các nhà đầu tư nhằm thu hút các
nhà đầu tư tới CTCK của mình. Đây có thể coi là hành vi không trung thực với khách hàng, ngoài
ra còn vi phạm luật pháp
3.2. Phân tích những vấn đề đạo đức trong hoạt đông môi giới chứng khoán của thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Có lẽ chưa bao giờ ta nói nhiều đến chuyện rò rỉ thông tin,
chuyện cạnh tranh thiếu lành mạnh của một bộ phận tham gia TTCK như
hiện nay. Một quy chuẩn đạo đức tin cật cho TTCK Việt Nam đang được
giới đầu tư mong đợi hơn bao giờ hết. Nhiều trường hợp, nhân viên môi
giới lợi dụng sự quản lí lỏng lẻo của các CTCK qua các hợp đồng hợp
tác hoặc các hợp đồng đảm bảo tài sản thế chấp để chiếm dụng vốn.
Bên cạnh đó, không ít trường hợp người môi giới đã "lái" nhà đầu tư đi
theo hướng có lợi cho mình hoặc một nhóm người nào đó bằng những thông
tin không đầy đủ.
- Đạo đức kinh doanh và giao dịch nội gián.
Đạo đức kinh doanh đang là vấn đề bị bỏ ngỏ trên thị trường tài chính
Việt Nam vì thiếu các chế tài xử phạt hay do môi trường kinh doanh còn
quá non trẻ? Một trường hợp điển hình xảy ra vào năm 2008, CTCK H
đình đám một thời đã phải sa thải tòan bộ bộ phận KDCK chưa niêm yết

(OTC) với lý do đạo đức kinh doanh kém. "Nhóm "đầu não" của công ty H.
đã trục lợi cho bản thân, trong khi đẩy hết phần lỗ cho công ty. Họ
làm được như vậy và giá tham chiếu của cổ phiếu OTC không được chính
thức niêm yết mà chủ yếu báo giá theo đường miệng của nhân viên môi
giới. Khi nhân viên kinh doanh câu kết với nhân viên môi giới đẩy giá
lên, khoản chênh lệch giá đó sẽ được ăn chia giữa các cá nhân trong
khi công ty H phải gánh chịu các khoản lỗ. Trái ngược với H, CTCK M
lại thu về được một khoản lợi nhuận kếch xù khi đã hợp tác ngầm với bộ
phận đầu tư của quỹ I trong các thương vụ mua bán cổ phiếu của công
ty.
Hiện nay, các vụ khách hàng kiện CTCK ngày càng tăng và trở thành
điểm nóng trên TTCK. Lý do xảy ra đó chính là do nhân viên môi giới
trục lợi việc ủy quyền tài khoản của khách hàng để bán khống danh mục
chứng khoán và kiếm lời. Xuất phát từ thực tế các khách hàng không
giao dịch thường xuyên, cộng thêm thiếu đạo đức nghề nghiệp, nhân viên
môi giới đã không thỏa thuận với khách hàng về việc giao dịch mua bán
chứng khoán.
Tại TTCK Việt Nam, do áp lực từ công việc quá lớn, nhất
là áp lực về doanh số giao dịch được các CTCK đưa ra, nhân viên đã
không còn thời gian để trau dồi kiến thức, mà dồn hết thời gian để
thực hiện đàm phán giao dịch để mong muốn đạt được doanh số cần thiết.
Song, một số nhân viên bất chấp thủ đoạn, nhiều trường hợp họ cũng
chính là nhà đầu tư để đạt được mục tiêu của mình mà không còn quan
tâm đến khách hàng của mình. Khi đã là nhà đầu tư thì việc xung đột
lợi ích với khách hàng là rất dễ xảy ra.
Nhiều trường hợp, nhân viên MGCK lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của
các CTCK qua các hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc các hợp đồng đảm bảo
bằng tài sản thế chấp để chiếm dụng vốn như: sử dụng tài khoản chứng
khoán của khách hàng làm tài sản đảm bảo cho các khoản vay của chính
mình, khi khách hàng đi vay ngân hàng họ mới biết rõ được sự việc do

được ngân hàng thông báo là còn khoản nợ từ thế chấp cổ phiếu. Có
tường hợp. họ sử dụng nghiệp vụ để lấy tiền của công ty bằng cách tạm
ứng tiền thông qua tài khoản 2 lần và sửa các lệnh tạm ứng ngay trên
hệ thống.
- Thụ động trong môi giới chứng khoán.
Công việc chính của các nhà MGCK là tiếp khách và tư vấn, thu thập
thông tin, đưa ra các khyến cáo giúp nhà đầu tư đưa ra những quyết định
chính xác.
Ở Việt Nam, do nghề MGCK còn mới mẻ, mới hình thành trong vòng 9 năm trở lại đây nên
mức độ chuyên nghiệp chưa cao. Đa số mới chỉ hoàn
thành công việc "Tiếp khách" như nhận lệnh của nhà đầu tư, kiểm tra
tài khoản của khách xem có đủ diều kiện để giao dịch hay không, nhận
kết quả và thông tin cho khách hàng Còn mảng "Tư vấn" thì họ vẫn
thực hiện nhưng chất lượng và hiệu quả công việc chưa cao. Vào những
thời điểm TTCK biến động mạnh, đôi lúc họ đưa ra những lời tư vấn
chung chung, khiến nhà đầu tư vốn đã hoang mang lại càng bối rối hơn.
Điều này đã vi phạm những quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp.
- Trung thực trong môi giới chứng khoán.
Ngoài việc phải có kiến thức về tài chính thì quan trọng nhất của một
nhà MGCK là đạo đức nghề nghiệp hay nói cách khác là sự trung thực.
Ở Việt Nam, không ít trường hợp, vì quá cả tin, vì nghe răm rắp theo
nhà môi giới mà dẫn đến nợ nần chồng chất. Có trường hợp, một nhà đầu
tư sau một hồi nhất tâm nghe theo tư vấn của MGCK, đã phát hiện ra
rằng, người môi giới hoàn toàn ra lệnh ngược lại với những gì đã tư
vấn cho mình. Khi MGCK khuyên mua vào, mua liên tục thì chính họ lại
lẳng lặng thoát hàng ra. Cảm thấy bị lừa, khách hàng đó muốn làm rõ
mọi chuyện, muốn đòi lại khoản tiền đã mất của mình. Thực trạng này
đang ngày trở nên bức xúc. Trong 3 năm trở lại đây, khi TTCK đi xuống,
UBCK đã cho biết, họ đã nhận được rất nhiều những lá đơn tố cáo, kêu
cứu, đòi bồi thường của các nhà đầu tư. Và UBCK đã xử lý bằng cách

gọi các bên liên quan đến để làm việc, hỗ trợ hòa giải và tư vấn về
trách nhiệm tài chính giữa hai bên.
- Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật Nhà Nước, các chế tài trong hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh chứng khoán là nghề có nhiều rủi ro, nếu không có biện pháp
chủ động phòng vệ chính đáng, các nhà MGCK rất dễ đối mặt với việc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, cũng có thể bị ngồi tù "oan". Một ví dụ
điển hình, đó chính là vụ việc, cơ quan anh ninh điều tra đã tố Lê
Minh Truyền (27 tuổi, là nhân viên MGCK tại công ty CP CK Sài Gòn -
Thường Tín) về tội thao túng giá chứng khoán. Lê Minh Tuyền đã thực
hiện các giao dịch mua bán, chuyển tiền mua bán chứng khoán cho mười
tài khoản mở tại SBS do Lê Văn Dũng chỉ định, trong khi ông Dũng không
phải là chủ tài khoản, không được ủy quyền. Các giao dịch này chủ yếu
liên quan đến cổ phiếu DHT của công ty Dược Hà Tây với mục đích giao dịch ảo trên thị trường,
nhằm thao túng giá cổ phiếu DHT. Chính vì thế, để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động, các nhà
môi giới
cần loại bỏ thói quen rất nguy hiểm hiện nay là không sử dụng tối đa
các công cụ pháp lý để bảo vệ mình. Muốn vậy, họ cần nhận thức rõ rủi
ro đến từ đâu, ở khâu tác nghiệp nào. Khi nhận nhiệm vụ tại bất kỳ
CTCK nào, nhân viên môi giới cần đề nghị cty có văn bản phân công
nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng; trong đó, người môi giới được làm những gì, không được làm những
gì?
- Tính chuyên nghiệp trong môi giới chứng khoán.
Nhà MGCK là người đại diện, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng thông qua việc tư vấn, thực
hiện hợp đồng mau bán chứng khoán. Khi đó, bằng kinh
nghiệm và khả năng đánh giá tình hình tài chính trê thị trường, sẽ đưa
ra các khuyến cáo cho khách hàng trong việc ra quyết định đầu tư.
Không chỉ riêng Việt Nam, hầu hết các nước trên thế giới, giới trẻ đều
ham mê nghề này, một nghề năng động, có lợi nhuận cao nhất trong tất
cả các nghề. Tuy nhiên, nó cũng ẩn chứa rất nhiều rủi ro. Vì vậy, để
làm được một nhà MGCK, họ cần bắt buộc phải học, phải có kiến thức

chuyên môn. Ngoài ra, còn phải có thêm khả năng phân tích và óc phán
đoán cực nhạy. Chỉ cần bạn chậm vài giây, hay dừng lại để hiểu rõ vấn
đề, có thể cuộc chơi của bạn đã kết thúc với những con số thua lỗ đến
hàng tỷ đồng. Chính vì vậy, nghề này chỉ phù hợp với những người thích
mạo hiểm, chịu được áp lực cao trong công việc và đặc biệt là khả năng
đưa ra quyết định nhanh nhất.
Hiện nay, tại Việt Nam, để hành nghề MGCK, học viên có thể theo học
tại Học viện ngân hàng, Đại học Kinh tế TP.HCM, ĐH Kinh tế quốc dân Hà
Nội vv
2.3 Thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán cho khách hàng tại công ty cổ phần
chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh(HSC)
I. Qui định về kí quỹ giao dịch.
1. Ký quỹ tiền.
a. Nội dung: Khi mua chứng khoán, Quý khách phải ký quỹ 100% số tiền mua cộng với các
khoản phí phát sinh.
Số tiền ký quỹ = (Số chứng khoán đặt mua x Giá chứng khoán đặt mua) + Phí môi giới
b. Phương thức: Quý khách có thể lựa chọn các hình thức nộp tiền ký quỹ sau đây:
- Tiền mặt: Quý khách nộp tiền ở quầy của Ngân hàng HD Bank tại trụ sở Công ty
- Chuyển khoản
2. Ký quỹ bán chứng khoán
Khi bán chứng khoán, tài khoản lưu ký chứng khoán của khách hàng mở tại Công ty phải có đủ
số lượng chứng khoán muốn bán.
II. Quy định chung về giao dịch.
1. Quý khách hàng được thực hiện các giao dịch ngược chiều( mua, bán) cùng một loại chứng
khoán trong cùng một ngày giao dịch trên cùng một tài khoản giao dịch mở tại một công ty
chứng khoán.
Quý khách hàng có thể sử dụng tài khoản mở tại công ty chứng khoán A để thực hiện giao dịch
( mua và bán cùng loại chứng khoán ) trong ngày giao dịch và ngày hôm sau sử dụng tài khoản
mở tại công ty chứng khoán B để thực hiện lệnh mua bán trong ngày. Hoặc cùng một ngày giao
dịch có thể sử dụng nhiều tài khoản khác nhau mở tại các công ty chứng khoán khác nhau để

giao dịch từng loại chứng khoán.
2. Quý khách hàng không được phép thực hiện giao dịch mà không dẫn đến thay đổi quyền sở
hữu chứng khoán.
III. QUI ĐỊNH GIAO DỊCH TẠI CÁC SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN:
A. Chứng Khoán Niêm Yết tại Sở Giao Dịch Chứng Khoán TP.HCM (HSX)
1. Thời gian giao dịch:
Phương thức giao dịch Giờ giao dịch
Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư
Khớp lệnh định kỳ mở cửa 9h00’ đến 9h15’
Khớp lệnh liên tục I 9h15’ đến 11h30’
Giao dịch thỏa thuận 9h00’ đến 11h30’
Nghỉ giữa phiên 11h30’ đến 13h00’
Khớp lệnh liên tục II 13h00’ đến 13h45’
Khớp lệnh định kỳ đóng cửa 13h45’ đến 14h00’
Giao dịch thỏa thuận 13h00’ đến 14h15’
Trái phiếu
Giao dịch thỏa thuận 9h00’ đến 11h30’
Nghỉ giữa phiên 11h30’ đến 13h00’
Giao dịch thỏa thuận 13h00’ đến 14h15’
Lệnh có giá trị trong suốt thời gian giao dịch, không hết hạn trong thời gian nghỉ giữa phiên.
2. Phương thức khớp lệnh:
Khớp lệnh định kỳ: Là phương thức giao dịch được thực hiện trên cơ sở so khớp các lệnh mua và
lệnh bán chứng khoán tại một thời điểm xác định. Nguyên tắc xác định giá thực hiện như sau:
+ Là mức giá thực hiện đạt khối lượng giao dịch lớn nhất.
+ Nếu có nhiều mức giá thỏa mãn điều kiện ở trên thì mức giá trùng hoặc gần nhất với giá thực
hiện của lần khớp lệnh gần nhất sẽ được chọn
Khớp lệnh liên tục: Là phương thức giao dịch được thực hiện trên cơ sở so khớp các lệnh mua và
lệnh bán chứng khoán ngay khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch.
3. Nguyên tắc khớp lệnh:
a. Ưu tiên về giá:

• Lệnh mua với mức giá cao hơn được ưu tiên thực hiện trước.
• Lệnh bán với mức giá thấp hơn được ưu tiên thực hiện trước.
b. Ưu tiên về thời gian:
- Trường hợp các lệnh mua hoặc lệnh bán có cùng mức giá thì lệnh nhập vào hệ thống giao dịch
trước được ưu tiên thực hiện trước.
4. Đơn vị giao dịch và đơn vị yết giá:
a. Đơn vị giao dịch:
• Đơn vị giao dịch khớp lệnh lô chẵn: 10 cố phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư.
• Khối lượng giao dịch thỏa thuận: từ 20.000 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ trở lên.
• Không quy định đơn vị giao dịch đối với giao dịch thỏa thuận.
• Giao dịch cổ phiếu có khối lượng từ 01 đến 09 cổ phiếu (lô lẻ) được thực hiện trực tiếp
giữa người đầu tư với công ty chứng khoán, giá thực hiện được xác định bằng 90% giá
tham chiếu của ngày ký kết Hợp đồng.
b. Đơn vị yết giá:
- Đối với phương thức khớp lệnh:
Mức giá Đơn vị Yết giá
<= 49.900 đồng 100 đồng
50.000 – 99.500 đồng 500 đồng
>= 100.000 đồng 1.000 đồng
- Không qui định đơn vị yết giá đối với giao dịch thỏa thuận trái phiếu.
5. Biên độ dao động giá:
- Biên độ dao động giá quy định trong ngày đối với giao dịch cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư là
± 5%
- Không áp dụng biên độ giao động giá đối với giao dịch trái phiếu.
- Giá:
• Giá trần = Giá tham chiếu x (100% + Biên độ dao động)
• Giá sàn = Giá tham chiếu x (100% - Biên độ dao động)
Đối với cổ phiếu, chứng chỉ quỹ có mức giá trần-sàn sau khi điều chỉnh biên độ dao động ± 5%
nhưng giá trần/ sàn vẫn bằng mức giá tham chiếu sẽ điều chỉnh như sau:
• Giá trần điều chỉnh = Giá tham chiếu + một đơn vị yết giá

• Giá sàn điều chỉnh = Giá tham chiếu - một đơn vị yết giá
Trường hợp giá trần và sàn của cổ phiếu, chứng chỉ quỹ sau khi điều chỉnh theo cách trên bằng
không (0), giá trần và sàn sẽ được điều chỉnh như sau:
• Giá trần điều chỉnh = Giá tham chiếu + một đơn vị yết giá
• Giá sàn điều chỉnh = Giá tham chiếu
- Đối với cổ phiếu, chứng chỉ quỹ mới niêm yết, trong ngày giao dịch đầu tiên, giá giao dịch được
biến động trong +/-20% giá giao dịch dự kiến. Tổ chức niêm yết và công ty chứng khoán làm tư
vấn niêm yết (nếu có) phải đưa ra mức giá giao dịch dự kiến để tính giá tham chiếu cho cổ phiếu,
chứng chỉ quỹ trong ngày giao dịch đầu tiên. Nếu trong 03 ngày giao dịch đầu tiên, cổ phiếu,
chứng chỉ quỹ mới niêm yết vẫn chưa có giá đóng cửa, tổ chức niêm yết phải được xác định giá
giao dịch dự kiến.
- Đối với cổ phiếu, chứng chỉ quỹ được giao dịch trở lại sau khi tạm dừng giao dịch trên 90 ngày,
biên độ dao động giá trong ngày giao dịch đầu tiên sẽ được HSX xác đinh sau khi có sự chấp
thuận của SSC.
- Giá đóng cửa trong ngày giao dịch đầu tiên sau khi được giao dịch trở lại sẽ là giá tham chiếu
cho ngày giao dịch kế tiếp. Biên độ dao động giá 5% được áp dung cho ngày giao dịch kế tiếp.
- Nếu trong 03 ngày đầu tiên sau khi giao dịch trở lại, cổ phiếu, chứng chỉ quỹ được giao dịch trở
lại vẫn chưa có giá đóng cửa, HSX sẽ xem xét điều chỉnh biên độ dao động giá của cổ phiếu,
chứng chỉ quỹ sau khi có sự chấp thuận của SSC.
6. Lệnh giao dịch:
a. Lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh xác định giá mở cửa (Viết tắt ATO):
• Là lệnh đặt mua hoặc đặt bán chứng khoán tại mức giá mở cửa.
• Lệnh ATO được ưu tiên trước lệnh giới hạn trong khi so khớp lệnh.
• Lệnh ATO được nhập vào hệ thống giao dịch trong thời gian khớp lệnh định kỳ để xác
định giá mở cửa và sẽ tự động tự hủy bỏ sau thời điểm xác định giá mở cửa nếu lệnh
không được thực hiện hoặc không được thực hiện hết.
b. Lệnh giới hạn
Là lệnh mua hoặc bán chứng khoán tại một mức giá xác định hoặc giá tốt hơn. Lệnh có hiệu lực
kể từ khi được nhập vào hệ thống giao dịch cho đến hết ngày giao dịch hoặc cho đến khi lệnh bị
hủy bỏ.

c. Lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh xác định giá đóng cửa (Viết tắt là ATC):
Tương tự như lệnh ATO nhưng được áp dụng trong thời gian khớp lệnh định kỳ xác định giá
đóng cửa.
d. Lệnh thị trường (Viết tắt là MP) (áp dụng từ 02/07/2012)
- Là lệnh mua/bán chứng khoán tại mức giá bán thấp nhất/ giá mua cao nhất hiện có trên thị
trường.
- Khi được nhập vào hệ thống giao dịch, lệnh mua MP sẽ được thực hiện ngay tại mức giá bán
thấp nhất và lệnh bán MP sẽ thực hiện ngay tại mức giá mua cao nhất hiện có trên thị trường.
Nếu khối lượng đặt lệnh của lệnh MP vẫn chưa được thực hiện hết, lệnh MP sẽ được xem là lệnh
mua tại mức giá bán cao hơn hoặc lệnh bán tại mức giá mua thấp hơn tiếp theo hiện có trên thị
trường và tiếp tục so khớp.
- Nếu khối lượng đặt của lệnh MP vẫn còn sau khi giao dịch theo nguyên tắc trên và không thể
tiếp tục khớp được nữa thì lệnh MP sẽ được chuyển thành lệnh giới hạn mua tại mức giá cao hơn
một bước giá so với giá giao dịch cuối cùng trước đó hoặc lệnh giới hạn bán tại mức giá thấp hơn
một bước giá so với giá giao dịch cuối cùng trước đó.
- Trường hợp giá thực hiện cuối cùng là giá trần đối với lệnh mua hoặc giá sàn đối với lệnh bán
MP thì lệnh thị trường sẽ được chuyển thành lệnh giới hạn mua tại giá trần hoặc lệnh giới hạn
bán tại giá sàn.
- Lệnh MP có hiệu lực trong phiên khớp lệnh liên tục
- Lệnh MP sẽ tự động hủy nếu không có lệnh giới hạn đối ứng tại thời điểm nhập lệnh vào hệ
thống giao dịch.
- Lệnh mua MP của nhà đầu tư nước ngoài sau khi khớp một phần, phần còn lại sẽ tự động hủy
nếu chứng khoán hết room.

7. Hủy lệnh giao dịch:
a. Trong thời gian khớp lệnh định kỳ:
Khách hàng không được hủy lệnh giao dịch đã đặt trong đợt khớp lệnh định kỳ.
b. Trong thời gian khớp lệnh liên tục:
Khách hàng có thể yêu cầu nhân viên môi giới hủy lệnh nếu lệnh hoặc phần còn lại của lệnh chưa
được thực hiện, kể cả các lệnh hoặc phần còn lại của lệnh chưa được thực hiện ở lần khớp lệnh

định kỳ hoặc liên tục trước đó.
8. Thời gian thanh toán
Loại giao dịch Thời gian thanh toán
Cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư
Khớp lệnh T + 3
Thỏa thuận T + 3
Trái phiếu T + 1
9. Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài:
a. Trong thời gian giao dịch khớp lệnh:
- Khối lượng cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư mua của nhà đầu tư nước ngoài được trừ vào khối
lượng được phép mua ngay sau khi lệnh mua được thực hiện; khối lượng cổ phiếu, chứng chỉ quỹ
đầu tư bán của nhà đầu tư nước ngoài được cộng vào khối lượng cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư
được phép mua ngay sau khi kết thúc việc thanh toán giao dịch (T+3).
- Lệnh mua hoặc một phần lệnh mua của nhà đầu tư nước ngoài chưa được thực hiện sẽ tự động
bị hủy nếu khối lượng cổ phiếu, chứng chỉ quỹ được phép mua đã hết hoặc không được thực hiện
ngay khi nhập vào hệ thống giao dịch.
b. Trong thời gian giao dịch thỏa thuận:
- Khối lượng chứng khoán được phép mua của nhà đầu tư nước ngoài sẽ không thay đổi nếu giao
dịch thỏa thuận được thực hiện giữa hai nhà đầu tư nước ngoài với nhau.
B. Chứng Khoán Niêm Yết tại Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hà Nội (HNX)
1. Thời gian giao dịch:
Phương thức giao dịch Giờ giao dịch
Khớp lệnh liên tục và thỏa thuận 9h00’ đến 11h30’
Nghỉ giữa phiên 11h30’ đến 13h00’
Khớp lệnh liên tục và thỏa thuận 13h00’ đến 14h15’
Lệnh có giá trị trong suốt thời gian giao dịch, không hết hạn trong thời gian nghỉ giữa phiên.
2. Phương thức khớp lệnh
a. Các loại lệnh giao dịch:
Lệnh giao dịch báo giá là lệnh giới hạn (LO) được nhập vào hệ thống giao dịch của Sở giao dịch
Chứng khoán Hà Nội có hiệu lực cho đến hết phiên giao dịch hoặc sẽ hết hiệu lực khi khách hàng

có yêu cầu hủy lệnh.
b. Phương thức giao dịch: Khớp lệnh liên tục và giao dịch thỏa thuận
Khớp lệnh liên tục: Là phương thức giao dịch được thực hiện trên cơ sở so khớp các lệnh mua
và lệnh bán chứng khoán ngay khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch.
3. Nguyên tắc khớp lệnh
- Ưu tiên về giá: Các lệnh có mức giá tốt nhất được ưu tiên thực hiện trước
- Ưu tiên về thời gian:
• Lệnh mua hoặc bán có cùng mức giá thì lệnh giao dịch được nhập trước vào hệ thống
được ưu tiên thực hiện trước.
• Nếu lệnh mua và bán thỏa mãn về giá (Giá mua ≥ Giá bán) thì mức giá khớp là mức giá
của lệnh nhập vào hệ thống trước.
4. Đơn vị giao dịch và yết giá
a. Đơn vị giao dịch:
Đối với cổ phiếu
Đơn vị giao dịch (lô chẵn) đối với giao dịch khớp lệnh là 100 cổ phiếu.
Không quy định đơn vị giao dịch đối với giao dịch thoả thuận cổ phiếu. Áp dụng khối lượng giao
dịch tối thiểu đối với giao dịch thỏa thuận là 5,000 cổ phiếu.
Giao dịch cổ phiếu có khối lượng từ 01 đến 99 cổ phiếu (lô lẻ) được thực hiện qua hình thức thỏa
thuận.
Đối với trái phiếu
Đơn vị giao dịch (lô chẵn) đối với giao dịch khớp lệnh trái phiếu là 100 trái phiếu.
Không quy định đơn vị giao dịch đối với giao dịch thoả thuận trái phiếu. Khối lượng giao dịch tối
thiểu đối với giao dịch thoả thuận trái phiếu là 100,000,000 đồng tính theo mệnh giá.
b. Đơn vị yết giá giao dịch:
Hình thức giao dịch Cổ phiếu Trái phiếu
Giao dịch báo giá 100 đồng Không quy định
Giao dịch thỏa thuận Không quy định Không qui định
5. Giá tham chiếu và biên độ dao động giá:
a. Giá tham chiếu:
• Giá tham chiếu được tính theo phương thức bình quân gia quyền trong 15 phút cuối cùng

của thời gian giao dịch ngày giao dịch liền kề trước đó.
• Việc xác định giá tham chiếu của cổ phiếu mới đăng ký giao dịch trong ngày giao dịch
đầu tiên do tổ chức niêm yết hoặc tổ chức tư vấn niêm yết (nếu có) đề xuất và được
SGDCKHN phê duyệt. Nếu trong 3 ngày giao dịch liên tục kể từ ngày giao dịch đầu tiên
chưa xác định được mức giá bình quân gia quyền để sử dụng làm giá tham chiếu cho ngày
giao dịch kế tiếp, tổ chức niêm yết và tổ chức tư vấn niêm yết (nếu có) sẽ phải xác định
lại giá tham chiếu.
• Giá tham chiếu sẽ được giữ nguyên trong các trường hợp doanh nghiệp phát hành trái
phiếu chuyển đổi hoặc doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu với giá phát hành cao hơn
giá bình quân của ngày giao dịch liền trước ngày không hưởng quyền.
• Trường hợp chứng khoán bị tạm ngừng giao dịch trên 25 phiên, khi được giao dịch trở lại,
giá tham chiếu do Sở GDCK Hà Nội quyết định sau khi được UBCKNN chấp thuận.
b. Biên độ dao động giá:
• Biên độ dao động: Là tỷ lệ % dao động giá mua và bán chứng khoán trong ngày giao dịch
do UBCKNN quy định. Biên độ dao động giá của cổ phiếu là ± 7%.
• Áp dụng giá tham chiếu và biên độ dao động giá là ± 30% so với giá tham chiếu cho cổ
phiếu ngày giao dịch đầu tiên hoặc cổ phiếu không có giao dịch trên 25 phiên giao dịch
liên tiếp, trong ngày đầu tiên giao dịch trở lại sẽ là ± 30% so với giá tham chiếu.
• Không quy định giới hạn biên độ dao động giá đối với giao dịch trái phiếu.
6. Loại lệnh giao dịch: lệnh giới hạn
7. Hủy, sửa lệnh giao dịch:
a. Sửa lệnh giao dịch:
- Khách hàng được quyền sửa giá (không được quyền sửa khối lượng) đối với lệnh mua/bán
chứng khoán chưa khớp hay hay phần chưa được khớp của lệnh
b. Hủy lệnh giao dịch:
- Khách hàng có thể yêu cầu nhân viên môi giới hủy lệnh nếu lệnh hoặc phần còn lại của lệnh
chưa được thực hiện.
C. Chứng khoán Đăng Ký Giao Dịch tại Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hà Nội (UPCOM)
1. Thời gian Giao dịch:
Phương thức giao dịch Giờ giao dịch

Khớp lệnh liên tục và thỏa thuận 9h00’ đến 11h30’
Nghỉ giữa phiên 11h30’ đến 13h00’
Khớp lệnh liên tục và thỏa thuận 13h00’ đến 14h15’
Lưu ý: Lệnh có giá trị trong suốt thời gian giao dịch, không hết hạn trong thời gian nghỉ giữa
phiên
2. Phương thức giao dịch: gồm phương thức khớp lện liên tục và phương thức thỏa thuận
3. Nguyên tắc khớp lệnh
• Ưu tiên về giá
• Ưu tiên về thời gian
4. Đơn vị giao dịch và đơn vị yết giá
• Đơn vị giao dịch khớp lệnh liên tục: 100 cổ phiếu/trái phiếu. Không quy định đơn vị giao
dịch đối với giao dịch thỏa thuận.
• Khối lượng giao dịch tối thiểu: 100 cổ phiếu/ trái phiếu . Đối với giao dịch thỏa thuận,
khối lượng giao dịch tối thiểu là 10 cổ phiếu/trái phiếu.
• Khối lượng giao dịch tối đa: không quy định
Đơn vị yết giá:
- 100 đồng/cổ phiếu, không quy định đối với trái phiếu.
5. Biên độ dao động và Giá tham chiếu
• Đối với cổ phiếu: ± 10%
• Đối với cổ phiếu ngày đầu tiên giao dịch, cổ phiếu bị tạm ngưng giao dịch trên 25 phiên
giao dịch trong ngày giao dịch trở lại: ± 40%
• Đối với trái phiếu: không quy định
Giá tham chiếu
• Giá tham chiếu của cổ phiếu mới đăng ký giao dịch trog ngày giao dịch đầu tiên do tổ
chức đăng ký giao dịch đề xuất và được SGDCKHN phê duyệt.
• Trong ngày giao dịch đầu tiên của cổ phiếu mới đăng ký giao dịch hoặc ngày đầu tiên
giao dịch trở lại của cổ phiếu không có giao dịch trên 25 phiên liên tiếp, các lệnh mua/bán
chứng khoán theo phương thức giao dịch thỏa thuận không được thực hiện cho đến khi có
giá tham chiếu được xác lập từ kết quả của phương thức khớp lệnh liên tục.
6. Lệnh giao dịch: là lệnh giới hạn. Lệnh giới hạn có hiệu lực kể từ khi được nhập vào hệ thống

đăng ký giao dịch cho đến khi bị huỷ bỏ hoặc đến khi kết thúc thời gian giao dịch.
7. Sửa, hủy lệnh trong phiên giao dịch
• Việc sửa và huỷ lệnh chỉ có hiệu lực đối với lệnh gốc chưa được thực hiện hoặc phần còn
lại của lệnh gốc chưa được thực hiện.
• Nhà đầu tư được phép sửa giá, hủy lệnh trong thời gian giao dịch. Thứ tự ưu tiên của lệnh
sau khi sửa được tính kể từ khi lệnh sửa được nhập vào hệ thống đăng ký giao dịch.
• Giao dịch thoả thuận đã thực hiện trên hệ thống không được phép huỷ bỏ.
D. Trái phiếu Chính phủ tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội
1. Phương thức giao dịch:
• Tất cả các giao dịch đều áp dụng phương thức thỏa thuận.
• Phương thức giao dịch thoả thuận bao gồm giao dịch thoả thuận điện tử và giao dịch thoả
thuận thông thường.
2. Các loại lệnh giao dịch:
2.1. Giao dịch thông thường
• Hình thức thỏa thuận điện tử: các lệnh chào mua, chào báo với cam kết chắc chắn được
chào công khai trên hệ thống.
• Hình thức thỏa thuận thông thường:
Lệnh quảng cáo: lệnh mua, bán trái phiếu và khách hàng có thể thỏa thuận thêm về các
điều kiện giao dịch của lệnh (giá, khối lượng). Lệnh quảng cáo có thể gửi đến một, một
nhóm thành viên hoặc toàn thị trường.
Lệnh báo cáo giao dịch: Lệnh báo cáo được sử dụng để nhập giao dịch vào hệ thống
trong trường hợp giao dịch đã được các bên thỏa thuận xong về các điều kiện trong giao
dịch.
2.2. Giao dịch mua bán lại:
- Hình thức thỏa thuận điện tử:
Lệnh yêu cầu chào giá: có tính chất quảng cáo, được sử dụng khi khách hàng chưa xác định
được đối tác trong giao dịch. Lệnh có thể được gửi đến một, một nhóm thành viên hoặc toàn thị
trường.
Lệnh chào mua, chào bán với cam kết chắc chắn: được sử dụng để chào đối ứng với yêu cầu
chào giá. Lệnh chào với cam kết chắc chắn chỉ được gửi đích danh cho thành viên gửi Lệnh yêu

cầu chào giá.
3. Giao dịch mua bán một loại trái phiếu trong cùng một phiên giao dịch:
Việc đồng thời vừa mua vừa bán một loại trái phiếu trong cùng một phiên giao dịch chỉ được
thực hiện khi có phát sinh chuyển giao quyền sở hữu đối với trái phiếu giao dịch.
4. Thời gian giao dịch:
Từ 8h30 đến 11h các ngày thứ 2 đến thứ 6
5. Đơn vị giao dịch: 01 (một) trái phiếu.
6. Khối lượng giao dịch tối thiểu:

×