Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Thực trạng tập trung ruộng đất tại địa bàn xã nga thiện, huyện nga sơn, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.3 KB, 54 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

KHOA KINH TẾ & PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
------- ššš -------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

THỰC TRẠNG TẬP TRUNG RUỘNG ĐẤT TẠI ĐỊA BÀN XÃ
NGA THIỆN, HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

Lớp

K59-KTB

Chuyên ngành

Kinh Tế

Khoa

Kinh Tế và PTNT

Niên khóa

2014-2018

Giảng viên hướng dẫn

ThS.Ngô Văn Hoàng

Hà nội - 2018



1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong khóa luận là trung thực, khách quan và chưa từng
dùng bảo vệ để lấy bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận đã được
cám ơn, các thông tin trích dẫn trong khóa luận này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả khóa luận

2


LÒI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu, đến nay khóa luận tốt nghiệp “Thực trạng
tập trung ruộng đất tại địa bàn xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa”đã
được hoàn thành.
Để có thể thực hiện tốt cho khóa luận tốt nghiệp này trước tiên em phải gửi
lời cảm ơn tới giảng viên hướng dẫn của mình là ThS Ngô Văn Hoàng đã nhiệt
tình hướng dẫn và chỉ bảo giúp em xuyên suốt toàn bộ luận văn nên em mới có thể
hoàn thiện khóa luận tốt hơn và nhanh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn tới thầy cô trong trường và đặc biệt là thầy cô
trong khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn đã tạo điều kiện cho em được làm đề tài
mà mình thích, tạo điều kiện cho em học hỏi và làm tốt khóa luận tốt nghiệp của
mình.
Em xin gửi lời cảm ơn tới cô, chú, anh chị cán bộ tại ủy ban nhân dân xã
Nga Thiện, các phòng ban ngành có liên quan đã giúp đỡ em nhiều trong quá trình

thực tập, tạo điều kiện giúp em có được những tài liệu quan trọng cho việc thực
hiện khóa luận Em cũng xin chân thành cảm ơn tới toàn thể người dân trên địa bàn
đã nhiệt tình chia sẻ những thông tin hay, những thông tin quý giá để có thể làm tốt
được khóa luận của mình.
Cảm ơn những người bạn tốt đã nhiệt tình chỉ bảo, động viên và giúp đỡ em
mỗi khi khó khăn để có thể hoàn thành tốt khóa luận này.
Tác giả khóa luận

3


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.Tính cấp thiết
Đất đai là một tài nguyên thiên nhiên quý giá của mỗi quốc gia và nó cũng là
yếu tố mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật
khác trên trái đất. Đất đai là nền tảng để định cư và tổ chức các hoạt động kinh tế
xã hội, nó không chỉ là đối tượng lao động mà cón là tư liệu sản xuất không thể
thay thế được, đặc biệt là đối với sản xuất nông nghiệp. Đất là cơ sở của sản xuất
nông nghiệp, là yếu tố đầu vào có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất nông
nghiệp, đồng thời cũng là môi trường duy nhất sản xuất ra lương thực thực phẩm
nuôi sống con người. Việc sử dụng đất có hiệu quả và bền vững đang trở thành vấn
đề cấp thiết với mỗi quốc gia, nhằm duy trì sức sản xuất của đất đai cho hiện tại và
cho tương lai.
Xã hội phát triển, dân số tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày càng tăng về
lương thực thực phẩm, chỗ ở cũng như các nhu cầu về văn hóa, xã hội. Con người
đã tìm mọi cách để khai thác đất đai nhằm thỏa mãn những nhu cầu ngày càng tăng
đó. Như vậy đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp có hạn về diện tích nhưng lại có
nguy cơ bị suy thoái dưới tác động của thiên nhiên và sự thiếu ý thức của con
người trong quá trình sản xuất. Đó còn chưa kể đến sự suy giảm về diện tích đất
nông nghiệp do quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ, trong khi khả năng

khai hoang đất mới lại rất hạn chế. Ruộng đất là vấn đề căn bản của một nước nông
nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngành kinh tế, nông dân chiếm tỷ lệ
lớn trong kết cấu dân cư như Việt Nam. Tình trạng ruộng đất manh mún đang cản
trở quá trình áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đưa nông nghiệp đi lên sản
xuất lớn, đưa nông sản tham gia vào chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu, đặt trong sự
phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Do vậy, việc
đánh giá hiệu quả quá trình tập trung đất nông nghiệp từ đó đưa ra các xu hướng
tập trung có hiệu quả để sử dụng hợp lý theo quan điểm sinh thái và phát triển bền
vững đang trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu đang được các nhà khoa học
trên thế giới quan tâm. Đối với một nước có nền nông nghiệp chủ yếu như Việt
4


Nam, nghiên cứu, đánh giá hiệu quả tập trung đất nông nghiệp càng trở nên cần
thiết hơn bao giờ hết.
Nga Thiện là một xã của huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa với tổng diện tích
tự nhiên 11.13 km2, dân số 6213 người. Là một xã có nền kinh tế Nông nghiệp
lâu năm, người dân phát triển kinh tế hầu hết là từ sản xuất Nông nghiệp. Đất
nơi đây rất phù hợp để phát triển các loại cây lương thực, rau ăn các loại. Đối
với những vùng trũng và lầy, người dân thường sử dụng vào mục đích chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản. Lên trên những vùng đồi núi, người dân trồng các
loại cây cảnh, cây lấy củi đốt, cây ăn quả các loại. Từ đó, mang lại nguồn thu
nhập về kinh tế cho các hộ dân.
Tiềm năng phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của người dân nơi đây còn
rất lớn. Tuy nhiên ở đây bà con vẫn phát triển sản xuất theo những phương thức
manh mún, nhỏ lẻ và tự phát. Vì vậy, việc nghiên cứu và định hướng quá trình
tập trung ruộng đất một cách hợp lí, có hiệu quả là một trong những vấn đề hết
sức cần thiết để góp phần ổn định, cải thiện đời sống cho người dân địa
phương.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn nêu trên tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực

trạng tập trung ruộng đất tại địa bàn xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa” là cần thiết nhằm đề suất một số giải pháp về tâp trung ruộng đất
trên địa bàn xã.
1.2.Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng tập trung ruộng đất và các yếu tố ảnh hưởng đến tập
trung ruộng đất trên địa bàn xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa,
nhằm thực hiện tốt quá trình tập trung ruộng đất trên địa bàn xã trong thời
gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ cơ sở lý luận và thực tiễn về tập trung ruộng
đất nông nghiệp.
5


- Đánh giá thực trạng quá trình tập trung ruộng đất trên địa bàn xã Nga
Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tập trung ruộng đất trên địa
bàn xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tập trung ruộng đất trên địa bàn xã Nga
Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
1.3.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những lý luận và thực tiễn về quá trình
tập trung ruộng đất trên địa bàn nghiên cứu. Với chủ thể chính là các hộ nông dân,
cán bộ chính quyền địa phương có liên quan đến công tác quản lý, sử dụng đất
nông nghiệp của hộ nông dân ở xã Nga Thiện.
1.4.Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu những phát sinh trong quá
trình tập trung ruộng đất và những giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình tập
trung ruộng đất trên địa bàn nghiên cứu.

- Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn xã Nga Thiện, huyện
Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Phạm vi thời gian:
 Đề tài sử dụng số liệu sơ cấp thu thập trong 3 năm 2015-2017
 Số liệu sơ cấp thu thập từ các hộ nông dân sản xuất nông nghiệp.
 Đề tài được thực hiện từ ngày 27/02/2017 đến ngày 15/05/2018

6


PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TẬP TRUNG RUỘNG ĐẤT
2.1.CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1. Khái niệm về dất và tập trung ruộng đất
* Khái niệm về đất
Đất là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là sản phẩm tự nhiên mà
thiên nhiên ban tặng cho con người. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về đất và
hiểu đất ở nhiều khía cạnh khác nhau. Theo quan điểm của các nhà kinh tế, thổ
nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho rằng đất là phần trên mặt vỏ trái đất mà ở đó
cây cối có thể mọc được, ngoài ra đất còn được coi như là một diện tích cụ thể của
bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và
dưới bề mặt trái đất, bao gồm khí hậu, thời tiết thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt
nước (hồ, sông, đầm, suối...) các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và
khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn động thực vật, trạng thái định cư của con
người, những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại (Ngô Xuân Hoàng,
2002).
Như vậy, “ Đất đai” là một phần lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoanh đất,
mảnh đất, vạn đất, miếng đất...) có vị trí, hình thể, diện tích với những tính chất tự
nhiên hoặc mới tạo thành ( đặ tính thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, địa chất, thủy
văn, chế độ nước, nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hóa tính...),

tạo ra những điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đich khác nhau
(Vũ Thành Quynh, 2010).
* Khái niệm về tập trung ruộng đất
Tập trung (tập là tụ họp lại, trung là giữa) nghĩa là dồn tất cả vào một chỗ để
tăng cường sức mạnh. Tích tụ là dồn vào, tập trung nhiều vào một chỗ (Huỳnh
Tuấn Anh 2006).
7


Tập trung ruộng đất có thể được hiểu là “gom” nhiều mảnh đất hiện có thành
mảnh đất, khu đất, cánh đồng có quy mô lớn, liền vùng, liền thửa, phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp dịch vụ, bằng con đường thuê mướn hoặc liên kết
sản xuất, kinh doanh, góp vốn QSDĐ vào doanh nghiệp (Phạm Dũng, 2017).
Theo một cách hiểu khác, tập trung ruộng đất là một sự điều chỉnh và sắp xếp
lại các thửa ruộng, thường được áp dụng để hình thành những vùng đất rộng lớn và
hợp lý hơn. Tập trung ruộng đất bên cạnh tạo thuận lợi cho thay đổi phương thức
sản xuất nông nghiệp còn có thể được sử dụng để cải thiện kết cấu hạ tầng nông
thôn và thực hiện các chính sách bảo đảm tính bền vững của môi trường và nông
nghiệp (Phạm Dũng, 2017).
Từ các cách hiểu trên, có thể đưa ra nhận xét: 1- Tập trung ruộng đất là sự mở
rộng quy mô diện tích ruộng đất do hợp nhất nhiều thửa đất lại, chủ sở hữu không
thay đổi; 2- Tập trung ruộng đất cần có sự hỗ trợ của tín dụng; 3- Tập trung ruộng
đất không chỉ đơn giản là phân bổ lại các lô đất để loại bỏ những ảnh hưởng của sự
phân mảnh mà còn gắn liền với cải cách kinh tế và xã hội rộng lớn hơn
2.1.2.Đặc điểm về ruộng đất
Chỉ có loại đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp mới được coi là đất nông
nghiệp.
“Bản thân đất đai phát sinh như một tư liệu sản xuất”. Đối với sinh vật, đất là
nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng. Năng suất cây trồng vật nuôi phụ
thuộc vào chất lượng đất đai. Quá trình lao động và sản xuất ra sản phẩm có quan

hệ mật thiết với những đặc tính của đất, chất lượng đất quyết định (Dương Văn
Hiếu, 2010). Vì vậy, đất đai có một vị trí quan trọng trong các nghành sản xuất đặc
biệt là sản xuất Nông nghiệp. Đất là nguồn lực quan trọng để con người tiến hành
được các hoạt động sản xuất vật chất.
Đất vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của lao động
Đất đai vốn là sản phẩm của tự nhiên, chỉ từ khi con người tiến hành khai phá
đưa đất hoang hoá vào sử dụng để tạo ra sản phẩm cho con người, thì ruộng đất đã
kết tinh lao động con người và đồng thời trở thành sản phẩm của lao động (Phạm
8


Văn Phê, 2006). Đặc điểm này đặt ra trong quá trình sử dụng, con người phải
không ngừng cải tạo và bồi dưỡng ruộng đất, làm cho đất ngày càng màu mỡ hơn.
Đồng thời, khi xác định các chính sách kinh tế có liên quan đến đất nông nghiệp,
cũng cần lưu ý đến đặc điểm này.
Đất bị giới hạn về mặt không gian, nhưng sức sản xuất của đất là không có giới
hạn.
Số lượng diện tích đất đai đưa vào canh tác bị giới hạn bởi không gian nhất
định, bao gồm: giới hạn tuyệt đối và giới hạn tương đối. Diện tích đất đai của toàn
bộ hành tinh, của từng quốc gia, của từng địa phương là con số hữu hạn, đó là giới
hạn tuyệt đối của đất đai . Không phải tất cả diện tích đất tự nhiên đều đưa vào
canh tác được, tuỳ thuộc điều kiện đất đai, địa hình và trình độ phát triển kinh tế
của từng nước mà diện tích đất nông nghiệp đưa vào canh tác chỉ chiếm tỷ lệ phần
trăm thích hợp. Đó là giới hạn tương đối, giới hạn này nhỏ hơn nhiều so với tổng
quỹ đất tự nhiên. ở nước ta tỷ lệ nông nghiệp năm 2000 chiếm trên 28,38% tổng
diện tích tự nhiên, khả năng đối đa đưa lên 35%. Vì thế cần phải biết quý trọng và
sử dụng hợp lý ruộng đất, sử dụng một cách tiết kiệm, hạn chế việc chuyển dịch
ruộng đất sang sử dụng mục đích khác.
Mặc dù bị giới hạn về mặt không gian nhưng sức sản xuất của ruộng đất là
không giới hạn. Nghĩa là mỗi đơn vị diện tích đất đai, nhờ tăng cường đầu tư vốn,

sức lao động, đưa khoa học và công nghệ mới vào sản xuất mà sản phẩm đem lại
trên một đơn vị diện tích ngày càng nhiều hơn. Đây là con đường kinh doanh chủ
yếu của nông nghiệp, nhằm đáp ứng yêu cầu tăng lên về nông sản phẩm cung cấp
cho xã hội loài người.
Đất có vị trí cố định và chất lượng không đồng đều, nó gắn liền với điều kiện của
mỗi vùng.
Các tư liệu sản xuất khác có thể di chuyển đến những nơi thiếu và cần thiết,
ngược lại ruộng đất – tư liệu sản xuất chủ yếu này có vị trí cố định gắn liền với
điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế và điều kiện xã hội của mỗi vùng. Để kết hợp
với ruộng đất, người lao động và các tư liệu sản xuất khác phải tìm đến với ruộng
đất như thế nào là hợp lý và có hiệu quả. Muốn thế, một mặt phải quy hoạch các
9


khu vực canh tác, bố trí các trung tâm dịch vụ và phân bố các điểm dân cư hợp lý
(Ngô Xuân Hoàng, 2002). Mặt khác phải cải thiện điều kiện tự nhiên, xây dựng cơ
sở vật chất – kỹ thuật và hệ thống cấu hạ tầng nhằm tạo điều kiện để sử dụng đất
có hiệu quả, nâng cao đời sống của nông dân và từng bước thay đổi bộ mặt nông
thôn. Ruộng đất có chất lượng không đồng đều giữa các khu vực và ngay trên từng
cánh đồng. Đó là kết quả, một mặt do quá trình hình thành đất, mặt khác quan
trọng hơn là do quá trình canh tác của con người. Vì thế trong quá trình sử dụng
cần thiết phải cải tạo và bồi dưỡng đất, không ngừng nâng dần độ đồng đều của
ruộng đất ở từng cánh đồng, từng khu vực để đạt năng suất cây trồng cao
Ruộng đất – tư liệu sản xuất chủ yếu không bị hao mòn và đào thải khỏi quá trình
sản xuất, nếu sử dụng hợp lý thì ruộng đất có chất lượng ngày càng tốt hơn.
Các tư liệu sản xuất khác sau một thời gian sử dụng đều bị hao mòn hữu hình
hoặc hao mòn vô hình. Cuối cùng sẽ bị đào thải khỏi quá trình sản xuất và thay thế
bằng tư liệu sản xuất mới,chất lượng cao hơn, giá rẻ hơn, còn ruộng đất – tư liệu
sản xuất chủ yếu không bị hao mòn, nếu sử dụng hợp lý, chất lượng ruộng đất ngày
càng tốt hơn, sức sản xuất của ruộng đất lớn hơn, cho nhiều sản phẩm hơn trên một

đơn vị diện tích canh tác. Dĩ nhiên việc sử dụng ruộng đất có đúng đắn hay không
là tuỳ thuộc vào chính sách ruộng đất của Nhà nước và các chính sách kinh tế vĩ
mô khác, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tiến bộ khoa
học – công nghệ của từng giai đoạn phát triển nhất định (Vũ Thành Quynh, 2010).
Đất đai có thể phân loại thành nhiều loại đất khác nhau.
 Đất trồng cây hàng năm gồm đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi,
đất trồng cây hàng năm khác
 Đất trồng cây lâu năm
 Đất rừng sản xuất
 Đất rừng phòng hộ
 Đất rừng đặc dụng
 Đất nuôi trồng thuỷ sản
 Đất làm muối
10


 Đất nông nghiệp khác theo quy định của chính phủ.
2.1.3. Xu hướng tập trung ruộng đất
Tập trung đất đai luôn được coi là một công cụ hoặc điểm xuất phát cho phát
triển nông thôn. Khái niệm ban đầu về phát triển nông thôn hầu như đồng nhất với
phát triển nông nghiệp do vai trò chủ đạo của nông nghiệp ở nông thôn vào thời kỳ
đầu phát triển. Thực tế cho thấy tập trung ruộng đất được phát triển với xu hướng
thể hiện như:
- Đổi ruộng đất từ những thửa nhỏ và gom lại thành thửa lớn hơn, tiện cho
phát triển sản xuất.
- Đi thuê đất, thuê lại đất để canh tác
- Đất được nhượng lại cho hộ có kinh tế khó khăn, thu nhập chính từ sản xuất
nông nghiệp và dư thừa lao động trong gia đình.
- Được thừa kế, đây là trường hợp xảy ra với nững mối quan hệ huyết thống
hay mật thiết với nhau. Trao cho nhau quyền thửa kế sử dụng đất tránh

trường hợp để trống ruộng đất không sử dụng đến.
- Đất được đưa ra đấu thầu với một giá trị nhất định bởi đó là những thửa đất
mang lại lợi nhuận kinh tế hơn các thửa khác cho các hộ nông dân.

Hình 2.1 Xu hướng tập trung đất đai trong nông nghiệp nông thôn
11


Nguồn:
Do vậy, xu hướng tập trung được biểu hiện như sau: đối với hộ có vốn đầu
tư cao, thu nhập ổn định muốn thu gom thêm ruộng đất để quy hoạch thành
trang trại và đầu tư vào những hoạt động sản xuất nhằm mang lại nguồn kinh tế
cho hộ, tạo ra những vùng chuyên môn hóa. Đối với những hộ mà nguồn kinh
tế bị thu hẹp, sản xuất không đảm bảo được đời sống an sinh, thì sẽ chuyển
nhượng, cho thuê lại ruộng đất nhằm thu về một phần lợi nhuận từ việc cho
thuê, đồng thời chuyển hướng lao động sang những lĩnh vực khác phù hợp với
lao động của hộ hơn. Điều giúp giảm thiểu những lao động không cần thiết,
chuyển giao từ kinh tế nông nghiệp sang các lĩnh vực kinh tế khác.
2.1.4.Nội dung nghiên cứu về tập trung ruộng đất
2.1.4.1. Nguồn gốc đất đai
Thực tế cho thấy, khi đất đai không được sử dụng đến, thường dẫn đến tình
trạng bỏ hoang hóa không sử dụng, điều này khiến cho việc thúc đẩy tập trung
ruộng đất là một vấn đề cần được chú ý đến (Huỳnh Tấn Anh, 2006). Điều này đòi
hỏi phải có sự dịch chuyển đất đai từ các hộ làm nghành nghề dịch vụ, hay đi làm
nghề khác không sử dụng đất đai vào sản xuất để tập trung vào những hộ thuần
nông, có hướng phát triển kinh tế từ nông nghiệp. Các nguồn đất được huy động
nhằm thúc đẩy tập trung ruộng đất ở các nhóm hộ dân bao gồm đất từ các nguồn
được cấp theo hộ khẩu, được ké thừa từ các đời cha chú trước đó.
Căn cứ vào Sổ hộ khẩu của mỗi gia đình… để xác định các chủ sử dụng đất
chính là người có tên trên sổ hộ khẩu, kể cả là người thành niên hay chưa thành

niên, trong trường hợp này thì Sổ hộ khẩu của gia đình được hiểu là Hộ gia đình..
Theo quy định của Luật cư trú năm 2006, Nghị định số 107/2007/NĐ-CP về hướng
dẫn Luật cư trú, Nghị định 108/2005/NĐ-CP, Nghị định 51/CP năm 1997 của
Chính phủ về Đăng ký và quản lý hộ khẩu thì: Sổ hộ khẩu được cấp cho hộ gia
đình hoặc cá nhân đã đăng ký thường trú và có giá trị xác định nơi thường trú của
công dân. Sổ hộ khẩu được cấp cho từng hộ gia đình. Mỗi hộ gia đình cử một
người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ làm chủ hộ để thực hiện và hướng dẫn
12


các thành viên trong hộ thực hiện quy định về đăng ký, quản lý cư trú. Trường hợp
không có người từ đủ mười tám tuổi trở lên hoặc có người từ đủ 18 tuổi trở lên
nhưng bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì được cử một người trong
hộ làm chủ hộ. Những người ở chung một chỗ ở hợp pháp và có quan hệ gia đình
là ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con và anh, chị, em ruột, cháu ruột thì có thể được
cấp chung một sổ hộ khẩu. Nhiều hộ gia đình ở chung một chỗ ở hợp pháp thì mỗi
hộ gia đình được cấp một sổ hộ khẩu (Ngô Thế Thêm, 2015).
Theo Điều 179 Luật đất đai cũng quy định: Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất
nông nghiệp được Nhà nước giao trong hạn mức; đất được Nhà nước giao có thu
tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê, được
Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất; đất nhận chuyển đổi, nhận chuyển
nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế thì có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất
của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật. Như vậy, mọi cá nhân, hộ gia đình đang
sử dụng đất nông nghiệp hợp pháp đều có quyền để lại thừa kế quyền sử dụng đất
nông nghiệp cho người khác. Quy định này hoàn toàn phù hợp với nội dung quyền
để lại thừa kế của cá nhân tại Điều 635 Bộ luật dân sự năm 2005.
Trước đây, tại Bộ luật Dân sự năm 1995 có quy định: Người thừa kế đất nông
nghiệp phải có điều kiện như: có nhu cầu sử dụng đất, có điều kiện trực tiếp sử
dụng đất đúng mục đích; chưa có đất hoặc đang sử dụng đất dưới hạn mức theo
quy định của pháp luật về đất đai. Hiện nay, Bộ Luật dân sự năm 2005 đã xóa bỏ

những quy định này và đất nông nghiệp cũng được coi là tài sản thừa kế như các
lọai tài sản khác. Như vậy, so với trước đây, quy định pháp luật hiện hành đã mở
rộng đối tượng được nhận thừa kế đất nông nghiệp tới tất cả các chủ thể đáp ứng
quy định pháp luật, kể cả cán bộ, công chức nhà nước. Khoản 3 Điều 191 Luật đất
đai năm 2013 chỉ quy định: “Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông
nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng
lúa”. Theo đó, cán bộ, công chức nhà nước có quyền nhận thừa kế đối với mọi loại
đất nông nghiệp và chỉ không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử
dụng đất nông nghiệp là đất trồng lúa.
2.1.4.2. Các hình thức tập trung ruộng đất
13


Các hình thức được diễn ra trong tập trung ruộng đất đó là: đổi đất, thuê đất,
mượn đất, được cho đất, đấu thầu đất, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, thế
chấp bằng ruộng đất, chuyển đổi quyền sử dụng đất, thừa kế quyền sử dụng đất...
Cũng như những tài sản, tư liệu sản xuất khác ruộng đất có những hình thức sở hữu
nhất định và được pháp luật quy định. Quyền sử dụng của chủ thể sử dụng đất đã
được Luật Đất đai (1993), Luật sửa đổi bổ sung của Luật Đất đai (2001) và Luật
Đất đai (2003) của Việt Nam quy định cụ thể như sau:
- Quyền chuyển đổi sử dụng đất được hiểu như là người sử dụng đất có quyền
chuyển đổi quyền sử dụng đất của mình cho người khác, nghĩa là chỉ đổi về
không gian bởi lẽ đất là sở hữu của toàn dân và chịu sự quản lí của nhà
nước, nó khác hẳn so với quyền thừa kế tài sản dân sự, người được thừa kế
sẽ có thê vị trí chứ không thay đổi về mục đích sử dụng của đất để đảm bảo
được giá trị của đất, trên cơ sở cả hai bên đều có lợi. Đất khi được chuyển
đổi sẽ gom góp và tích tụ từ những mảnh nhỏ lẻ, thành mảnh lớn cho thuận
tiện sản xuất.
- Quyền chuyển nhượng sử dụng là người được Nhà nước trao quyền sử dụng
đất sẽ chuyển nhượng lại quyền sử dụng ấy cho một người khác, tuân theo

quy định của pháp luật về đất đai. Từ đó người được chuyển nhượng sẽ có
thêm diện tích đất nông nghiệp, và sử dụng vào việc phát triển sản xuất nông
nghiệp.
- Quyền thừa kế sử dụng đất là thừa kế quyền sử dụng đất chứ không phải
quyền sở hữu đất, bm đất để phát triển sản xuất.
- Quyền thế chấp sử dụng đất không giống với thế chấp tài sản khác. Quyền
này thể hiện tính pháp lí của chủ sử dụng đất. Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất sẽ là công cụ thế chấp cho quyền sử dụng đất, tùy thuộc vào mức
độ sinh lời của mỗi khu vực đất, do bên có vốn cho vay chỉ giữ giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất để làm chứng chứ không lấy đất sử dụng để ràng
buộc.
- Quyền cho thuê đất nông nghiệp là người sử dụng đất hợp pháp vì một lí do
nào đó, mà không thể phát triển sản xuất trên mảnh đất mà họ đã được nhận,
14


thì sẽ cho một hay những đối tượng khác thuê lại đất để sử dụng. Người bên
thuê có nghĩa vụ phải đóng đủ số tiền mà người cho thuê đề ra, sử dụng
đúng thời hạn và trả đúng diện tích đất mà bên cho thuê đã giao lại nhưu
trong hợp đồng co thuê.
Việc quy định quyền của Nhà nước về sử dụng đất đai đối với các chủ thể sử
dụng đã tạo nên các mối quan hệ trong sở hữu đất đai, phù hợp với điều kiện nước
ta hiện nay. Nhà nước bảo đảm cho người sử dụng đất được hưởng những quyền
lợi hợp pháp trên đất được giao, đồng thời tạo cơ sở pháp lí cần thiết cho quan hệ
vận động đất đai. Đây là một biện pháp quan trọng giải quyết những vấn đề trong
quan hệ đất đai, thúc đẩy quá trình tập trung ruộng đất.
2.1.4.3. Kết quả tập trung ruộng đất
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau liên quan đến tích tụ và tập trung
ruộng đất nông nghiệp, nhưng tất cả đều cóp những điểm chung, đó chính là: tích
tụ và tạp trung ruộng đất sẽ khắc phục được tình trạng manh mún đất đai khi làm

giảm số mảnh và tăng quy mô diện tích đất canh tác của hộ gia đình; Hoạt động
tích tụ không thể tách rời vói thị trường đất đai mà bao gồm thị trường chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và thị trường thuê đất; Tích tụ và tập trung ruộng đất
cùng với dồn điền đổi thửa đều nhằm mục đích giảm manh mún, nhưng tích tụ và
tập trung đất gắn trực tiếp đến sự phân từng trong diện tích đất và mức sống ở khu
vực nông thôn. Đó chính là mô hình phát triển mà các quốc gia hướng tới sản xuất
hàng hóa quy mô lớn, và manh mún đát đai chỉ là hiện tượng tạm thời trong quá
trình phát triển của nông nghiệp và đó là một quy luật tất yếu (Kim Văn Chinh,
2012).
Tập trung ruộng đất để tăng hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, bước đầu
thực hiện thành công việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp. Bên cạnh
việc nâng cao mức sống, thu nhập cho người nông dân thì tích tụ ruộng đất còn
góp phần sử dụng đất đai có hiệu quả cao, tránh được tình trạng lãng phí đất đai.
“Dồn điển – đổi thửa” không làm thay đổi quyền sử dụng ruộng đất của người
nông dân cũng như diện tích đất hiện có mà chỉ giảm đi số thửa/ hộ gia đình nông
dân. Kết quả lớn nhất đạt được từ dồn điền đổi thửa là người nông dân đã tự
15


nguyện hiến một phần đất để chỉnh trang đồng ruộng (nâng cấp bờ vùng, bờ thửa,
kênh mương…) thuận lợi cho việc ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản
xuất và cũng đã làm giảm số thửa đất sản xuất nông nghiệp trung bình của một hộ
gia đình từ 4 thửa xuống còn 2 thửa.

Một số điều rút ra được trong quá trình đẩy nhanh tích tụ đất và hướng tới
một nền sản xuất có quy mô lớn, cụ thể như sau (Trần Kim Chung, 2017):
- Chính sách hạn điền là một trong những rào cản lớn nhất cho tập trung
ruộng đất và được phần lớn các nước bãi bỏ.
- Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho giá đất ngày một tang cao,
người nông dân không muốn bán đất hay chuyển nhượng đất. Ở nhieu nước,

tâm lý giữ đất vẫn phổ biến bất chấp nguồn thu nhập phi nông nghiệp được
đảm bảo. Chính vì vậy, vai trò của thị trường thuê đất cần được chú ý để
đảm bảo người dân tiếp cận được với đất trong quá trình mở rộng sản xuất
nông nghiệp. Hỗ trợ tài chính cần được đảm bảo.
- Dồn điền đổi thửa mà một số nước áp dụng chỉ có thể giảm được tình trạng
manh mún đất nhưng không có khả năng tăng quy mô sản xuất của hộ. Dồn
điền đổi thửa rất khó thực hiện một cách tự nguyện, nó đòi hỏi sự tham gia
tích cực của các cấp chính quyền trong việc dàn xếp thực hiện các hoạt động
liên quan đến dồn điền đổi thửa.
- Hình thức các hợp tác xã nông nghiệp trên cơ sở tự nguyện cơ chế rõ rang
cho các xã viên. Cac hợp tác xã đóng vai trò như cổ đông trong doan nghiệp,
khi đó áp dụng được phương pháp sản xuất quy mô lớn để tăng năng suất.
2.1.4.4. Tác động của tập trung ruộng đất đến các hộ
Đất nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng là yếu tố hàng đầu của ngành sản
xuất nông nghiệp. “Bản thân đất đai phát sinh như một tư liệu sản xuất”. Đối với
sinh vật, đất là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng. Năng suất cây trồng
vật nuôi phụ thuộc vào chất lượng đất đai. Quá trình lao động và sản xuất ra sản
16


phẩm có quan hệ mật thiết với những đặc tính của đất, chất lượng đất quyết định.
Vì vậy, đất đai có một vị trí quan trọng trong các nghành sản xuất đặc biệt là sản
xuất Nông nghiệp. Đất là nguồn lực quan trọng để con người tiến hành được các
hoạt động sản xuất vật chất. Từ đó, khi thực hiện quá trình tập trung ruộng đất sẽ
tạo ra hai chiều hướng tiêu cực và tích cực một cách rõ rệt (Chu Văn Cấp, 2010).
 Những tác động tích cực
- Tập trung ruộng đất là một trong những yếu tố tạo điều kiện hình thành nền
nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn trên cơ sở phát huy lợi thế về quy mô do khắc
phục tình trạng manh mún ruộng đất, mở rộng diện tích canh tác, tránh lãng phí
đất; có khả năng ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là cơ giới hóa..., qua đó

nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp.
- Trên phạm vi toàn xã hội, tập trung ruộng đất sẽ góp phần làm giảm chi phí
xã hội, thuận lợi hơn trong việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở nông
thôn (giao thông, hệ thống thủy lợi,...).
- Tập trung ruộng đất sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng phân công lại lao động trong nông nghiệp và hình thành các vùng chuyên
canh sản xuất hàng hóa tập trung, góp phần cải thiện chất lượng và giảm tình trạng
suy thoái đất đai do chế độ canh tác hợp lý và do thâm canh, cải tạo đất.
- Tập trung ruộng đất làm tăng năng suất và hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Thực tế chứng minh rằng, khi quy mô ruộng đất lớn hơn thì năng suất cao hơn.
Tuy nhiên, diện tích lớn năng suất cao không đồng nghĩa với diện tích nhỏ, năng
suất thấp. Bởi năng suất trong nông nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan
và chủ quan, như thời tiết, độ màu mỡ của đất đai, giống cây trồng và vật nuôi mới,
phân bón kỹ thuật gieo cấy, thu hoạch và sự chăm sóc của nhà nông... Tập trung
ruộng đất làm giảm chi phí, tăng sản lượng, lợi nhuận và những lợi ích vật chất
khác cho người sản xuất. Tập trung ruộng đất cũng là yếu tố giúp hộ gia đình tăng
thu nhập, thông qua đầu tư mua máy móc nông nghiệp phục vụ cho sản xuất của
17


gia đình mình, ngoài ra còn cho thuê máy móc hoặc làm dịch vụ nông nghiệp cho
các hộ khác... để có thêm thu nhập.
 Những tác động tiêu cực
- Tập trung ruộng đất là một trong các yếu tố dẫn đến phân hóa giàu nghèo ở
nông thôn. Nhìn nhận một cách khách quan, khi đời sống của người nông dân chủ
yếu vẫn phụ thuộc vào ruộng, thì nhiều đất, ít đất hay không có đất sẽ trực tiếp ảnh
hưởng đến kinh tế hộ nông dân. Vì thế, tích tụ ruộng đất là một trong những yếu tố
dẫn đến phân hóa giàu nghèo; thiếu đất, không có đất là một trong những nguyên
nhân của nghèo đói, những hộ nghèo đa phần là những hộ không có đất.
- Tập trung ruộng đất làm mất sinh kế của một bộ phận người dân. Tập trung

ruộng đất có thể được coi là quá trình mà đất đai tập trung vào tay người này thì ra
khỏi tay người khác. Dù với bất kỳ lý do nào (tự nguyện hay ép buộc, hợp lý hay
bất hợp lý, chính đáng hay không chính đáng) thì tập trung ruộng đất vẫn là
nguyên nhân gây mất đất của một bộ phận người dân, điều này đồng nghĩa với việc
mất đi sinh kế truyền thống. Sinh kế bao gồm các khả năng, tài sản và các hoạt
động cần thiết để kiếm sống: Quyền sử dụng đất đai là tài sản rất quan trọng đối
với sinh kế của người dân nông thôn, đặc biệt đối với người dân chỉ kiếm sống nhờ
sử dụng đất đai. Việc mất đi sinh kế dựa vào đất đai ảnh hưởng không chỉ đến thu
nhập mà còn đến tâm lý, tinh thần của người dân và có thể gây ra những vấn đề xã
hội khác...
- Tập trung ruộng đất làm gia tăng sự bất bình đẳng ở nông thôn cả về thu
nhập và đất đai, dẫn đến sự phân hóa trong nông thôn. Điều này có thể xảy ra tâm
lý tiêu cực, tự ti trong một bộ phận người dân nông thôn, từ đó dẫn đến hậu quả về
mặt xã hội.
- Khi quy mô đất đai lớn hơn thì một bộ phận lao động sẽ phải rút khỏi khu
18


vực nông nghiệp. Vấn đề đặt ra trên thực tế là: Họ sẽ đi đâu, làm gì? Và các vấn đề
xã hội nảy sinh ra sao? Đó là vấn đề đang cần giải quyết song song với việc tích tụ
đất đai cho sản xuất lớn. Những tác động tiêu cực của quá trình này cho thấy: tích
tụ, tập trung ruộng đất có thể trở thành vấn đề chính trị - xã hội và việc giải quyết
hài hòa mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả đang là thách thức lớn.
Những tác động tiêu cực này cho thấy, tích tụ, tập trung ruộng đất có thể trở
thành vấn đề chính trị - xã hội và giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa công bằng
và hiệu quả đang là thách thức lớn. Các nhân tố quan trọng tạo nên sự thành công
của tích tụ, tập trung ruộng đất là: Sự phát triển và hoạt động lành mạnh của thị
trường quyền sử dụng đất; phát triển các hoạt động phi nông nghiệp (công nghiệp
và dịch vụ trong nông nghiệp) và pháp luật, môi trường thể chế, chính sách nông
nghiệp.

2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng đất nông nghiệp
2.1.4.1. Yếu tố về điều kiện tự nhiên
- Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ rất cao, phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên, thời tiết nên đòi hỏi quy mô sản xuất phù hợp, bảo đảm phải theo sát
quá trình sản xuất diễn ra trong từng thời điểm, tùng khu vực, thậm chí đến từng
loại cây trồng, vật nuôi, để có thể tác động đúng lúc, đúng cách theo quá trình sinh
trưởng, phát triển thì mới đạt năng suất và hiệu quả cao nhất. Điều đó lý giải vì sao
trang trại gia đình là hình thức tổ chức kinh doanh phổ biến, làm ra phần lớn nông
sản hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. Đó là sự hạn chế lợi thế kinh tế theo quy
mô trong nông nghiệp so với công nghiệp và cũng là sự khác biệt giữa tổ chức kinh
doanh nông nghiệp và tổ chức kinh doanh công nghiệp, dịch vụ
- Sản xuất hàng hóa quy mô lớn, tập trung cần đầu tư khoa học - công nghệ
(giống cây con; phân bón; bảo vệ thực vật, thú y; kỹ thuật canh tác, chăn nuôi; máy
móc thiết bị, chế biến, bảo quản nông sản; tiêu thụ hàng hóa). Sản xuất riêng lẻ của
hộ gia đình cá nhân không đáp ứng được yêu cầu này nên tất yếu có nhu cầu hợp
tác sản xuất, kinh doanh dưới các hình thức thích hợp, như hợp tác sản xuất, kinh
doanh (từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm); góp vốn với các doanh nghiệp
nông nghiệp (Phạm Dũng,2017).
19


2.1.4.2. Yếu tố về chính sách đất đai
Trong quá trình đổi mới chuyển từ cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách đất đai đã
từng bước được đổi mới với chủ trương giao đất sản xuất ổn định lâu dài cho hộ
gia đình, cá nhân và cấp giấy chứng nhận. Trên cơ sở củng cố chế độ sở hữu toàn
dân về đất đai do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, từng bước mở rộng QSDĐ cho
người sử dụng đất; xác định QSDĐ là hàng hóa được lưu thông trên thị trường bất
động sản; khuyến khích tích tụ ruộng đất (dồn điền, đổi thửa, phát triển kinh tế
trang trại, xây dựng cánh đồng lớn), xây dựng nông thôn mới đã được triển khai

thực hiện với các bước đi thận trọng, thích hợp và đã phát huy tác dụng (Nguyễn
Đình Bồng, 2011).
Người sử dụng đất nông nghiệp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
sẽ có đủ các quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế,
tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất. Như vậy, về quyền lợi và nghĩa vụ
của người sử dụng đất ở nước ta không khác so với quyền lợi và nghĩa vụ của chủ
sở hữu đất đai ở một số nước. Nhà nước quyết định mục đích sử dụng đất thông
qua việc quyết định quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất; quy định về hạn
mức giao đất và thời hạn sử dụng đất; quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi
đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; định giá đất; thu tiền sử dụng đất, tiền
thuê đất; thu thuế sử dụng đất, thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; điều tiết
phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại;
trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng thông qua hình thức giao đất, cho thuê
đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định; quy
định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Như vậy, gần như người dân có đủ
quyền sở hữu đất đai mà Nhà nước khó can thiệp khi cần thiết
2.1.4.3. Yếu tố về quan hệ thị trường
Thị trường QSDĐ trong nông nghiệp, nông thôn là một thị trường tiềm năng,
tuy nhiên, thị trường này chưa phát triển: thị trường QSDĐ sơ cấp (Nhà nước giao
đất cho hộ gia đình, cá nhân) đã hoạt động hiệu quả, nhưng thị trường QSDĐ thứ
20


cấp (chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh
và góp vốn bằng QSDĐ) còn “đóng băng”. Trong các quyền được pháp luật cho
phép, người sử dụng đất mới thực hiện một số quyền, như chuyển đổi, thừa kế, thế
chấp; các quyền khác, như quyền chuyển nhượng, quyền cho thuê, cho thuê lại và
góp vốn bằng QSDĐ còn ít được sử dụng. Điều này, một mặt, là do các quy định
về quyền chuyển nhượng, quyền cho thuê, cho thuê lại còn chặt chẽ; các quy định
và hướng dẫn về góp vốn bằng QSDĐ chưa đủ rõ ràng để người dân an tâm góp

vốn bằng QSDĐ với DN thuộc các thành phần kinh tế; mặt khác, tâm lý của người
nông dân muốn giữ ruộng đất sản xuất, không muốn chuyển nhượng mặc dù không
có nhu cầu sử dụng đất (thanh niên thì đi xuất khẩu lao động hoặc tìm công việc
trong các khu kinh tế, khu công nghiệp; người lớn tuổi thì ra thành phố làm các
công việc dịch vụ lao động)
2.1.4.4. Yếu tố về tâm lí người sản xuất
- Tâm lý chung của người nông dân là muốn giữ đất nông nghiệp như một tài
sản và công cụ “bảo hiểm” cho cuộc sống, không muốn chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, mặc dù có thể có nguồn thu nhập bảo đảm từ các hoạt động sản xuất phi
nông nghiệp. Trên thực tế, lao động nông thôn thoát ra khỏi nông nghiệp chủ yếu
đi vào thị trường lao động phi chính thức, tiềm ẩn đầy rủi ro nên càng có lý do giữ
đất nông nghiệp.
- Tâm lý lo ngại về phân hóa xã hội gắn liền với tích tụ ruộng đất. Và điều này
đã xẩy ra trên thực tế.
- Nhiều người cho rằng, ruộng đất phân tán có thể giúp giảm thiểu rủi ro (an
ninh lương thực trong khủng hoảng), đa dạng hóa sản xuất, sử dụng nguồn lực hiệu
quả, tăng tính thanh khoản của đất.

21


2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.2.1. Kinh nghiệm tập trung đất nông nghiệp của một số nước trên thế giới
a. Trung Quốc
Kể từ sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm
1949 (đến cuối thế kỷ XX), Trung Quốc đã tiến hành 3 cuộc cải cách ruộng đất
lớn.
Cải cách ruộng đất lần thứ nhất là một cuộc cách mạng triệt để diễn ra vào đầu
thập kỷ 50 của thế kỷ trước. Với việc tịch thu đất đai của địa chủ để sung công và
sau đó chia cho những người nông dân không có đất, giấc mơ ngàn năm của nhiều

nông dân Trung Quốc đã thành hiện thực.
Cũng như những nước xã hội chủ nghĩa khác, Trung Quốc đã áp dụng chính
sách đất nông nghiệp theo mô hình của Liên Xô rất phổ biến vào thời kỳ đó, với 2
đặc trưng là sở hữu tập thể và hành động tập thể thống nhất. Để đạt được mục tiêu
này, Trung Quốc đã tiến hành cải cách ruộng đất lần thứ 2 vào giữa thập kỷ 50.
Trong quá trình này, những hộ nông dân cá thể bị buộc phải gia nhập vào các hợp
22


tác xã. Cuối cùng, tiến trình tập thể hóa này đã tạo ra một tổ chức, với tên gọi công
xã. Với quyền sở hữu tài sản được kiểm soát tập trung và nguyên tắc phân chia
theo kiểu bình quân chủ nghĩa, sự ra đời của các công xã đã thủ tiêu quyền tự do
canh tác của nông dân và động lực sản xuất của họ.
Vào những năm cuối của thập kỷ 70, Trung Quốc đã tiến hành cải cách kinh tế
mà khởi đầu là cuộc cải cách ruộng đất lần thứ 3. Trung Quốc đã từ bỏ mô hình
của Liên Xô cũ và xây dựng một hệ thống hợp đồng trên cơ sở các hộ gia đình, còn
gọi là hệ thống trách nhiệm hộ gia đình, theo đó các hộ gia đình được thuê đất đai,
với một định mức sản lượng nhất định. Kết quả là nền nông nghiệp của Trung
Quốc đã phục hồi một cách mạnh mẽ. Sau hơn 30 năm đình đốn, tốc độ tăng
trưởng sản xuất nông nghiệp trong nửa đầu của thập kỷ 80 đã cao gấp vài lần so
với mức trung bình trước đó. Chẳng hạn riêng sản lượng gạo - sản phẩm nông
nghiệp quan trọng nhất của một quốc gia - của Trung Quốc đã tăng lên mức 407
triệu tấn vào năm 1984, tăng hơn 100 triệu tấn so với năm 1978. Điều này đã góp
phần giải quyết vấn đề cơ bản của quốc gia đông dân nhất thế giới này đó là cung
cấp đủ lương thực cho người dân.
Tuy nhiên, năm 1985, sản lượng lương thực của Trung Quốc đã giảm 6% so
với năm 1984. Cho đến trước thập kỷ 90, sản xuất nông nghiệp của Trung Quốc
tiếp tục bị đình đốn. Điều đó cho thấy dường như hệ thống trách nhiệm gia đình đã
không còn hiệu quả và bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém. Quy tắc phân phối đất đai
dựa trên sở hữu tập thể. Tất cả các thành viên của một làng đều được sở hữu đất

nông nghiệp của làng đó cơ bản của quốc gia đông dân nhất thế giới này đó là cung
cấp đủ lương thực cho người dân (Thanh Tùng, 2008).
Vì vậy, diện tích đất mà mỗi gia đình sở hữu không những không lớn mà còn
manh mún và phân tán trong một làng. Nhiều diện tích đất nông nghiệp đã bị lãng
phí do các con đường và bờ bao phân ranh giữa các mảnh ruộng của các gia đình.
Một cuộc điều tra do Bộ Nông nghiệp Trung Quốc tiến hành cho thấy năm 1986,
trong số 7.983 làng ở 29 tỉnh được điều tra, diện tích canh tác bình quân trên 1 hộ
là 0,466ha, được chia thành 5,85 mảnh khác nhau, mỗi mảnh có diện tích bình
quân chỉ khoảng 0,08ha. Cơ cấu canh tác manh mún và phân tán theo quy mô gia
23


đình đã làm hạn chế việc sử dụng các thiết bị canh tác tiên tiến và xây dựng cơ sở
hạ tầng nông nghiệp.
Ngoài ra trong hệ thống trách nhiệm hộ gia đình, chủ nghĩa bình quân là
nguyên tắc hàng đầu trong việc phân phối đất đai. Điều này khiến cho một vài hộ
gia đình có đông người nhưng lực lượng lao động thực tế hạn chế lại có rất nhiều
đất canh tác, trong khi có nhiều hộ gia đình có quy mô dân số nhỏ hơn, nhất là
những hộ chỉ chuyên làm nông nghiệp, lại không có đủ đất để làm ruộng. Vấn đề
này trở nên nghiêm trọng hơn ở những khu vực đang tiến hành công nghiệp hóa và
đô thị hóa.
c. Nhật Bản
Ngay sau Thế chiến II, Nhật Bản đã quyết liệt tiến hành cải cách ruộng đất.
Người ta coi đây là một trong những cuộc cải cách thành công nhất trên thế giới.
Tướng MacArthur, người ra lệnh cải cách với tư cách là Tư lệnh tối cao của Quân
đội đồng minh, tự ca tụng thành công của mình trong một bức thư gửi Thủ tướng
Nhật Yoshida, là“...chương trình cải cách ruộng đất là thành công nhất trong lịch
sử”. MacArthur còn nhận định sắc sảo rằng cải cách ruộng đất là thành tích lớn
nhất trong sựng hiệp làm chính sách của ông .
Trên thực tế, cuộc cải cách này được tiến hành quyết liệt và triệt để. Sau

cải cách, địa chủ không còn nữa, mặc dù trước chiến tranh họ đã từng chiếm ưu
thếtrong xã hội nông thôn Nhật Bản. Kinh nghiệm của Nhật là một ngoại lệ hiếm
hoi, trong khi đa số những cố gắng cải cách ruộng đất cưỡng bách ở các nước thế
giới thứ ba đều không đạt kết quảnhư kỳ vọng.
Cải cách ruộng đất phân bổ tài sản công bằng hơn tới mọi người ở nông thôn.
Vì thế phân bổ thu nhập trong xã hội nông thôn cũng đồng đều hơn nhiều. Hệ số
Gini trong phân bổ thu nhập của dân cư ở các thị trấn địa phương trước chiến tranh
là khoảng 0,5, và sau cải cách chỉ số này hạ xuống còn 0,35. Cải cách đã phá hủy
cấu trúc giai cấp trên cơ sở chiếm hữu đất đai. Địa chủ mất đi uy thế chính trị và
kinh tế, và xã hội nông thôn được cơ cấu lại. Những thay đổi chính trị và xã hội
này đã góp phần vào quá trình dân chủ hóa xã hội nông thôn. Các vụ tranh chấp
trong thuê đất thường xảy ra trong thời trước chiến tranh, thì sau chiến tranh đã
24


chấm dứt,và nông dân trở thành những người ủng hộ trung thành đảng bảo thủ cầm
quyền. Theo Dore (1959),cuộc cải cách đã đoạn tuyệt với những phong tục và
truyền thống cũ. Trong bối cảnh này, cải cách ruộng đất ở Nhật Bản đã rất thành
công, có ảnh hưởng lớn đến sựổn định xã hội và chính trị của Nhật Bản thời hậu
chiến. Hầu hết người cày có ruộng, quyền sở hữu ruộng đất đã là động lực kích
thích mạnh mẽ nông nghiệp phát triển, người nông dân có ruộng cày và các tư liệu
sản xuất khác, thực hiện tốt quá trình công tác.
2.2.2. Kinh nghiệm tâp trung đất nông nghiệp ở Việt Nam
a. Tình hình chung cả nước
Đất nông nghiệp có vai trò rất quan trọng, đóng vai trò vừa là tư liệu sản xuất
đặc biệt, vừa là tư liệu lao động. Xuyên suốt qua các giai đoạn lịch sử, cho thấy
được sự tồn tại bền vững của đất đối với nền nông nghiệp. Nông nghiệp sản xuất ra
nguồn nông sản thiết yếu nhằm duy trì cuộc sống đại bộ phận dân cư, kèm đó là
cung cấp nguyên liệu cho nghành công nghiệp và hàng hóa để xuất khẩu. Phát triển
nông nghiệp và kinh tế không chỉ tạo ra nguồn thu nhập cho đại bộ phận dân cư mà

còn thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Việt Nam có tổng diện tích đất tự nhiên là 33.123.077, trong đó 31.000.035 ha
đất đã được sử dụng vào các mục đích nông nghiệp và phi nông nghiệp, chiếm
93,59% tổng diện tích tự nhiên; còn 2.123.042 ha đất chưa được sử dụng vào các
mục đích, chiếm 6,41% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó, nhóm đất nông nghiệp
có diện tích là 27.302.206 ha, chiếm 82,43% tổng diện tích tự nhiên và chiếm
87,07% tổng diện tích đất đã sử dụng; nhóm đất phi nông nghiệp có diện tích là
3.697.829 ha, chiếm 11,16% tổng diện tích tự nhiên và chiếm 11,93% tổng diện
tích đất đã sử dụng; nhóm đất chưa sử dụng có diện tích là 2.123.042 ha, chiếm
6,41 % tổng diện tích tự nhiên cả nước.

25


×