Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Tìm hiểu hiện trạng tài nguyên rừng và đề xuất giải pháp quản lý rừng bền vững tại địa bàn xã Quế Long, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 58 trang )



CHƯƠNG I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ lâu rừng đã gắn liền với đời sống con người và nó có vai trò
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ngoài ra rừng
còn có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn môi trường và cân bằng sinh
thái, tạo cảnh quan, điều tiết nguồn nước, hạn chế lũ lụt, hạn hán phục vụ
cho đời sống xã hội…
Đứng trước thực trạng hiện nay, rừng tự nhiên đang bị suy thoái
nghiêm trọng, diện tích cây rừng vốn rất quý đang bị thu hẹp và mất dần đi
tính năng tác dụng của rừng. Năm 1943 độ che phủ là 43%, đến năm 1990
độ che phủ là 21,3%. Tài nguyên rừng bị suy thoái do nhiều nguyên nhân:
Chiến tranh, khôi phục kinh tế sau chiến tranh, đốt rừng làm nương rẫy,
khai thác lâm sản trái phép, công tác tổ chức quản lý khai thác rừng chưa
hợp lý….
Tài nguyên rừng bị huỷ hoại đồng nghĩa với việc cuộc sống con người
bị đe doạ. Hậu quả của việc khai thác rừng không hợp lý gây ra lũ lụt, hạn
hán, xói mòn đất làm cho đời sống, sản xuất của con người bị đe doạ nghiêm
trọng. Hiện tượng thủng tầng Ozon là mối hiểm họa đối với sức khoẻ của
con người và toàn bộ sinh vật sống trên trái đất. Trước tình hình đó phải có
những biện pháp để ngăn chặn bền vững, chúng ta phải đẩy mạnh tốc độ
trồng rừng đạt hiệu quả cao. Trong đó công tác quản lý bảo vệ rừng là nhiệm
vụ hết sức quan trọng.
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã có những chủ trương nhằm
từng bước thực hiện việc Xã hội hoá nghề rừng với chủ trương “giao đất,
giao rừng” (Nghị định 02/NĐ-CP; Nghị định 163/NĐ-CP về việc giao đất,
cho thuê đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, sử dụng ổn định và lâu dài
vào mục đích Lâm nghiệp). Để thực hiện kế hoạch trồng rừng, khoanh nuôi
xúc tiến tái sinh rừng theo các chương trình 4301, chương trình 327, chương
trình trồng mới 5 triệu ha rừng (dự án 661), các dự án có sự đầu tư của các tổ
chức Quốc tế như JBIC, WB 3, KFW 6, đã từng bước làm cho độ che phủ


rừng của nước ta ngày càng tăng lên.

1


Quế Long một xã trung du nằm gần trung tâm của huyện Quế Sơn,
tỉnh Quảng Nam. Toàn xã có tổng diện tích là 1.957,00 ha, trong đó diện tích
đất lâm nghiệp là 860,00 ha, thành phần dân cư là dân tộc kinh. Cuộc sống
của người dân nơi đây chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp truyền thống.
Những năm gần đây với Nghị định 163/2003/NĐ-CP về việc giao đất lâm
nghiệp cho cá nhân, hộ gia đình đã tạo điều kiện cho người dân của xã an
tâm tin tưởng để tham gia, đầu tư vào hoạt động sản xuất lâm nghiệp như:
trồng rừng, thành lập các trang trại vừa và nhỏ…. Loại cây trồng chủ yếu là
Keo lá tràm (Acacia auriculiformis), Keo lai (Acacia hibrif), Bạch đàn (
Euculiplus)
Tình hình quản lý bảo vệ rừng: Trước đây mọi hoạt động về quản lý
bảo vệ rừng trên địa bàn huyện cũng như tại xã Quế Long đều do Hạt kiểm
lâm Quế Sơn đảm nhiệm, nhưng từ khi có Quyết định 245/1998/ QĐ- TTg
của Thủ tướng Chính phủ về trách nhiệm Quản lý Nhà nước của các cấp về
rừng và đất lâm nghiệp. Trên địa bàn xã Quế Long việc tổ chức thực hiện
công tác Quản lý bảo vệ rừng đã được UBND xã Quế Long quan tâm tổ
chức thực hiện. Tuy nhiên, do đặc điểm địa hình chủ yếu là đồi núi, diện tích
đất sản xuất nông nghiệp ít, dân số thì không ngừng tăng lên gây ra xu
hướng mở rộng diện tích đất để sản xuất nông nghiệp. Hơn nữa các chính
sách về lâm nghiệp chưa ban hành đồng bộ, người dân chỉ chú trọng giải
quyết nhu cầu cuộc sống hằng ngày nên thờ ơ với việc quản lý bảo vệ rừng.
Vì vậy, vấn đề quản lý bảo vệ rừng đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp
bách. Trước những yêu cầu thực tiễn như vậy, được sự giúp đỡ của Trường
Đại học Nông lâm Huế, Khoa Lâm nghiệp và sự hướng dẫn của cô giáo Th.S
Võ Thị Minh Phương, căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương trong công

tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tìm
hiểu hiện trạng tài nguyên rừng và đề xuất giải pháp quản lý rừng bền vững
tại địa bàn xã Quế Long, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam”.

2


CHƯƠNG II. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Khái quát chung về lâm nghiệp Việt Nam hiện nay.
Như chúng ta đã biết, rừng không những cung cấp những sản phẩm
lâm sản cần thiết cho con người mà còn có vai trò quan trọng trong bảo vệ
môi trường như phòng hộ đầu nguồn, giữ đất, giữ nước, điều hoà khí hậu…,
góp phần bảo vệ An ninh Quốc gia, đặc biệt đối với việc bảo vệ biên giới hải
đảo. Tuy nhiên phải nhìn nhận một thực tế là rừng Việt Nam đã và đang suy
giảm mạnh trong vài thập niên gần đây. Trong những năm qua Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm hạn chế tình hình
chặt phá rừng, đốt rừng làm nương rẫy, thu hút mọi tầng lớp nhân dân vào
công tác gây trồng, quản lý, bảo vệ và phát triển vốn rừng. Nhiều biện pháp
mạnh đã được áp dụng trong thời gian gần đây, đặc biệt là các chương trình
4304, 327 và dự án 661…cụ thể: giao đất giao rừng tới hộ gia đình, đầu tư
ngân sách và tín dụng ưu đãi.
Theo số liệu thống kê cho thấy trong vòng hơn 20 năm trở lại đây,
trên thế giới đã có hơn 200 triệu ha rừng tự nhiên bị tàn phá. Những diện
tích rừng còn lại phần lớn cũng bị huỷ hoại và thoái hoá nghiêm trọng về trữ
lượng, sản lượng, đa dạng sinh học và những chức năng sinh thái khác. Một
số nguồn gen quý hiếm của tài nguyên rừng bị biến mất trên Thế giới.
Tuy có nhiều biện pháp quản lý, bảo vệ rừng được đề ra và triển khai
thực hiện, nhưng cho đến nay tình trạng mất và suy thoái rừng, nhất là rừng
nhiệt đới hàng năm vẫn còn cao. Theo FAO, trong giai đoạn những năm
1980-1990, mỗi năm trên toàn Thế giới mất khoảng 15,5 triệu ha rừng tự

nhiên, còn giai đoạn 1990-2000 tuy con số này có giảm nhưng hàng năm
diện tích rừng tự nhiên bị mất đi vẫn còn cao, ở khoảng 13,7 triệu ha/năm.
Ở Việt Nam, mặc dù diện tích rừng toàn quốc tăng trong những năm
qua, nhưng diện tích rừng bị mất còn ở mức cao. Thống kê từ năm 2001 đến
tháng 10 năm 2008, tổng diện tích rừng bị mất là 399.118 ha, bình quân
57.019 ha/năm. Trong đó, diện tích được nhà nước cho phép chuyển đổi mục
đích sử dụng đất có rừng là 168.634 ha; khai thác trắng rừng(chủ yếu là rừng
trồng) theo kế hoạch hàng năm được duyệt là 135.175 ha; rừng bị chặt phá

3


trái phép là 68.662 ha; thiệt hại do cháy rừng là 25.339 ha; thiệt hại do sinh
vật hại rừng gây thiệt hại là 828 ha. Như vậy, diện tích mất do được phép
chuyển đổi mục đích sử dụng và khai thác theo kế hoạch chiếm 76%; diện
tích rừng bị thiệt hại do các hành vi vi phạm các quy định của nhà nước về
quản lý bảo vệ rừng tuy có giảm, nhưng vẫn ở mức cao làm mất 94.005 ha
rừng, chiếm 23,5% trong tổng diện tích rừng mất trong 7 năm qua, bình quân
thiệt hại 13.436 ha/năm.
Hiện nay, diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp do nhiều nguyên nhân
khác nhau, chủ yếu là do sản xuất kinh doanh rừng theo kiểu lâm nghiệp truyền
thống với mục đích tận dụng tối đa khả năng cung cấp động vật, thực vật rừng
và việc khai thác rừng của một số bộ phận người dân sống dựa vào rừng.
Nhiều năm qua các cơ quan ban ngành từ Trung ương đến địa phương
cũng có nhiều cố gắng nổ lực để khuyến khích áp dụng những biện pháp hữu
hiệu nhằm ngăn chặn tình trạng mất và thoái hoá rừng. Một trong những
biện pháp đó là quản lý rừng bền vững với sự tham gia của người dân, cộng
đồng địa phương, các tổ chức đoàn thể ở cơ sở trong hệ thống xã hội.
Ở nước ta, vấn đề quản lý rừng bền vững đã được chú ý nghiên cứu và
triển khai thông qua các giải pháp chính sách, tổ chức quản lý, xã hội hoá

nghề rừng. Chính Phủ đã ban hành nhiều văn bản, chính sách để bảo vệ và
phát triển rừng như: Chiến lược bảo tồn Quốc gia (năm 1984); quy chế quản
lý 3 loại rừng: rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất (Quyết định
của Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp và Quyết định 08 năm 2001 của Thủ tướng
Chính Phủ); thành lập hệ thống các khu rừng đặc dụng , vườn quốc gia, khu
bảo tồn thiên nhiên, bảo tồn văn hoá lịch sử (năm 1986); luật bảo vệ và phát
triển rừng (năm 1991 và 2004); kế hoạch quốc gia về môi trường và phát
triển bền vững (năm 1991); chương trình 327 (1992), 661 (1998 và 1999);
các hội thảo cấp quốc gia về quản lý rừng bền vững đã được tổ chức tại Hà
Nội, Huế và Thành Phố Hồ Chí Minh trong những năm qua.
Tất cả những nổ lực, những nghiên cứu đó là cơ sở và tiền đề cho việc
nghiên cứu triển khai các biện pháp quản lý, bảo vệ và sử dụng rừng hợp lý.

4


2.2. Cơ sở lý luận.
Rừng là cái nôi hình thành sự sống và gắn liền với lịch sử phát triển
loài người. Từ bao đời nay con người đã sống và phát triển cùng với rừng.
Như vậy, rừng không chỉ là nguồn cung cấp vật chất sống cho con người mà
còn là môi sinh, môi trường để con người có đủ điều kiện tồn tại và phát
triển. Con người đã tàn phá rừng vô ý thức và như vậy không chỉ làm cạn
kiệt nguồn vật chất nuôi sống con người mà còn huỷ hoại môi trường sống
nghiêm trọng.
Vậy chúng ta có thể khẳng định rằng: Lâm nghiệp là ngành bảo vệ
cho các ngành khác, bảo vệ môi trường, đảm bảo cho các ngành khác hoạt
động. Vì vậy đa phần các quốc gia trên Thế giới đã và đang đặt ra vấn đề
bảo vệ rừng như là một sách lược cho phát triển Kinh tế-Xã hội của đất
nước.
Để có một phương pháp đúng cho cho sự nhìn nhận về giá trị bảo vệ

môi trường, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất rừng và tạo điều kiện cho rừng
phát triển thì chúng ta quản lý rừng theo hướng phát triển bền vững. Quản lý
rừng, phát triển tài nguyên nói chung, tài nguyên rừng tại địa phương nói
riêng theo hướng phát triển bền vững để nhằm thoả mãn nhu cầu của thế hệ
hiện tại, nhưng không làm phường hại đến các thế hệ tương lai.
Theo quy luật phát triển tự nhiên của trái đất thì rừng là “lá phổi xanh”
của trái đất và là tấm màng xanh giữ gìn và làm sạch nguồn nước. Tục ngữ Ấn
Độ có câu “rừng là nguồn nước, nước là sự sống”. Vì vậy, số phận của rừng là
số phận của hành tinh chúng ta. Theo tính toán của các nhà khoa học: “Nếu
rừng nhiệt đới không còn sẽ có khoảng 1 tỷ người không có nguồn sống” và
rừng còn là nơi cung cấp một lượng sinh khối hữu cơ từ xác động thực vật. Nếu
rừng phát triển theo quy luật tự nhiên của nó và không chịu ảnh hưởng trực tiếp
của con người thì môi trường sống của chúng ta trong sạch, lượng lâm sản tích
luỹ được nhiều, các nguồn gen quý hiếm không bị mất đi, hạn hán lũ lụt cũng
sẽ giảm đi nhưng trên thực tế yếu tố con người chính là mấu chốt quyết định sự
phát triển bền vững hay suy thoái tài nguyên rừng.
Tổ chức WWF đóng tại Quảng Nam, đã và đang hướng dẫn cộng
đồng dân cư phát triển lâm nghiệp theo hướng bền vững, đây là giải pháp

5


đồng bộ các mối quan hệ, trong đó yếu tố thể chế chính sách, áp dụng khoa
học kỹ thuật và khai thác kiến thức bản địa là chìa khoá quan trọng quyết
định đến sự thành công hay thất bại của chương trình. Trên thực tế thì thể
chế chính sách đóng vai trò số một và quyết định đến hai yếu tố kia. Đảng và
Nhà nước ta có chính sách quản lý rừng phù hợp cho từng giai đoạn sẽ thúc
đẩy sự đóng góp hữu ích của khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm của nhân
dân địa phương và tất yếu tài nguyên rừng sẽ được bảo vệ và phát triển bền
vững trong tương lai.

Rừng không chỉ là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá và có thể tái tạo
được mà rừng còn nhiều chức năng sinh thái quan trọng không thể thay thế
được. Rừng có mối quan hệ mật thiết và trực tiếp đến sự sống còn và phát
triển của cả dân tộc cũng như tương lai cả cộng đồng, chỉ có bảo vệ và phát
triển để tăng vốn rừng hiện có mới đảm bảo được cân bằng sinh thái, bảo vệ
môi trường cho sự sống trong điều kiện công nghiệp ngày càng phát triển,
nguy cơ gây ô nhiễm không khí và nguồn nước ngày càng cao. Chỉ có như
vậy mới đáp ứng được nhu cầu lâm đặc sản cho xã hội.
Trên thực tế, vấn đề quản lý rừng có sự tham gia của người dân địa
phương còn dựa trên cơ sở của luật pháp và hàng loạt văn bản, chính sách
của Đảng, Nhà nước chứ chưa có sự tham gia tự giác của người dân. Hay nói
cách khác, ý thức quản lý bảo vệ rừng của người dân vẫn còn hạn chế.
Những văn bản pháp lý liên quan đến sự tham gia của người dân trong quản
lý bảo vệ rừng là:
Luật Bảo vệ môi trường năm 1993
Luật Đất đai năm 1993 và luật Đất đai sửa đổi năm 1998 và 2003
Luật bảo vệ và phát triển rừng đã được Quốc Hội thông qua ngày
19/8/1991 và luật bảo vệ phát triển rừng sửa đổi, đã được Quốc Hội thông
qua tháng 12/2004 (có hiệu lực 01/4/2005)
Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03 tháng 3 năm 2006 của Chính
phủ về thi hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng.
Nghị định 163/1999/QĐ-CP ngày 16.11.1999 về việc giao đất, cho
thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định, lâu
dài vào mục đích lâm nghiệp.

6


Nghị định 139/2004/ NĐ-CP ngày 25.6.2004 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.

Quyết định 245/1998/QĐ-TTg ngày 12.12.1998 về việc thực hiện
trách nhiệm quản lý Nhà Nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp.
Thông tư 56/1999/TT/BNN-KL ngày 30.3.1999 về việc hướng dẫn
xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn,
làng, buôn, bản, ấp.
Thông tư 70/2007/TT-BNN-KL ngày 01/08/2007 hướng dẫn xây dựng
quy ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng thôn, bản.
Quyết định 08/2001/QĐ-TTg ngày 11.1.2001 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng
sản xuất là rừng tự nhiên.
Quyết định 29/2001/QĐ-UB ngày 25.6.2001 của UBND tỉnh Quảng
Nam về việc quy định hạn mức giao đất, cho thuê đất chưa sử dụng và đất
lâm nghiệp cho tổ chức và hộ gia đình cá nhân trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Chỉ thị 01-CT/TV ngày 09.11.2000 của Thường vụ Huyện uỷ về việc
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý bảo vệ rừng và
đất lâm nghiệp.
Quyết định số 09/2002/QĐ-UB ngày 12.11.2002 của UBND huyện
Quế Sơn về việc ban hành Đề án quản lý bảo vệ rừng từ năm 2001-2005 và
từ 2005-2010.
Nghị quyết liên tịch số 01/NQ-LT ngày 06.2.2001 của hội Nông dân-
Đoàn TNCSHCM và Hạt Kiểm lâm huyện Quế Sơn về trách nhiệm thực
hiện luật bảo vệ và phát triển rừng.
2.3. Cơ sở thực tiễn.
Thách thức về dân số ở nước ta rất nghiêm trọng đối với các vấn đề
của xã hội, trong đó xâm phạm đến tài nguyên rừng và môi trường là nghiêm
trọng nhất. Sự tăng dân số dẫn đến tăng nhu cầu sinh hoạt và các nhu cầu
thực tế như làm nhà và đất canh tác. Trong khi đó diện tích đất rừng và tài
nguyên rừng có hạn, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông nghiệp. Xâm
lấn đất rừng, bóc lột rừng làm giàu phi pháp đã làm cho diện tích rừng ngày


7


càng bị thu hẹp, loại cây có giá trị tốt bị giảm mạnh, một số nguồn gen quý
hiếm bị biến mất.
Việt Nam là một trong những nước nghèo trên Thế giới, có khoảng
70% dân số sản xuất nông nghiệp, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn.
Theo thống kê năm 2001, tỷ lệ đói nghèo chiếm 17% dân số, số hộ này sống
chủ yếu ở nông thôn, vùng núi, biên giới, hải đảo và có khoảng 22 triệu
người sống gần rừng, đời sống của họ chủ yếu phụ thuộc vào rừng. Do người
dân sống vùng sâu, vùng xa nên chưa hiểu biết đầy đủ và sâu sắc về rừng,
nghề rừng nên họ quen sử dụng bừa bãi, lãng phí, bóc lột tài nguyên rừng
làm cho rừng ngày càng cạn kiệt. Từ đây cho thấy việc quản lý rừng ở nước
ta là một vấn đề sinh thái, kinh tế và xã hội quan trọng. Hằng năm diện tích
rừng ở nước ta mất đi khoảng 100.000 ha (tạp chí Lâm nghiệp 1,2 năm
2000). Một số lượng lớn hơn rất nhiều so với diện tích rừng trồng thêm hằng
năm của cả nước. Hiện nay diện tích đất trống đồi núi trọc ở nước ta khoảng
14,2 triệu ha chiếm 53% diện tích tự nhiên đã và đang suy thoái mạnh, đòi
hỏi có sự quan tâm thích đáng hơn nữa. Qua công trình nghiên cứu của
PGS.TS Nguyễn Xuân Quát đã chứng minh rằng “ Rừng tự nhiên bị chặt phá
và thu hẹp nhanh chóng ở nước ta hằng năm mất đi khoảng 150.000 ha rừng
tự nhiên, nhưng tốc độ tăng trưởng của rừng tự nhiên lại chậm và thấp. Mức
độ tăng trưởng hằng năm chỉ đạt 3-4m
3
/ha/năm, phổ biến 2-3m
3
/ha/năm. Rất
nhiều chủng loại khó đáp ứng được nhu cầu rừng công nghiệp. Dân số tăng
càng nhanh thì rừng mất đi càng nhiều, mức tăng trưởng của rừng chậm, nhu
cầu con người ngày càng cao gây nên thiếu gỗ và lâm sản nghiêm trọng cũng

như sự suy thoái nhanh chóng của môi trường, chính những suy thoái nhanh
chóng của môi trường là thách thức to lớn đang đặt ra cho con người”.
Đây là một vấn đề đáng quan tâm, vì nước ta là một nước nông
nghiệp, phần lớn người dân nông thôn, vùng núi còn nghèo đói. Vì vậy, cần
phải đưa diện tích đất trống vào sử dụng có hiệu quả nhằm thu hút nguồn lao
động dư thừa tại địa phương, trang bị cho họ những kiến thức, gắn quyền lợi
và nghĩa vụ của họ đối với rừng và tài nguyên rừng.
Trước thực trạng trên, tỉnh Quảng Nam đã có nhiều văn bản chỉ đạo
về công tác quản lý bảo vệ rừng trên địa bàn như Nghị quyết của Đại hội

8


tỉnh Đảng bộ mà cụ thể là Chỉ thị 05/CT-UB của UBND tỉnh về việc đóng
cửa rừng và tạm ngưng khai thác gỗ rừng tự nhiên. Riêng Hạt Kiểm lâm Quế
Sơn trong những năm qua đã tham mưu cho Huyện uỷ, UBND huyện ra
nhiều văn bản pháp lý nhằm thực thi pháp luật đối với rừng và tài nguyên
rừng như:
Chỉ thị 01-CT/TV ngày 09.11.2000 của Thường vụ Huyện uỷ về việc
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ rừng và
đất lâm nghiệp.
Nghị quyết liên tịch: 01/NQ-LT của UBND huyện và UBMTTQ Việt
Nam huyện về việc tăng cường thực hiện Luật Bảo vệ và phát triển rừng.
Nghị quyết 06-NQ/HU ngày 30.07.2002, Nghị quyết hội nghị lần thứ 9
BCH Đảng bộ huyện khoá XXI về tăng cường quản lý bảo vệ và phát triển rừng.
Xây dựng quy chế phối hợp trách nhiệm trong lĩnh vực quản lý, bảo
vệ vùng giáp ranh giữa các huyện Quế Sơn - Duy Xuyên, Quế Sơn - Hiệp
Đức, Quế Sơn - Nông Sơn, Quế Sơn - Thăng Bình.
Thực trạng công tác quản lý, bảo vệ rừng của Hạt Kiểm lâm Quế Sơn
nói chung và xã Quế Long nói riêng trong những năm qua đã có những bước

nhảy vọt từ khi có các Quyết định như 245/1998/QĐ-TTg, 105/2000/QĐ-B
NN&PTNT, thông tư 56/1999/TT/BNN&PTNT
Mối quan hệ gắn bó giữa người dân miền núi với rừng luôn tồn tại từ
buổi sơ khai đến thời đại công nghiệp phát triển. Không thể tách rời họ ra
khỏi mối quan hệ này mà phải giúp họ bám đất, bám rừng, chuyển đổi những
người kai thác rừng trái phép, phá rừng trở thành lực lượng nòng cốt giữ
rừng ở cơ sở.
Từ những cơ sở thực tiễn ở trên, quản lý bảo vệ rừng được hiểu là hệ
thống các biện pháp quản lý và sử dụng các loại rừng nhằm giữ mối quan hệ
hợp lý giữa con người với rừng, bảo vệ và phục hồi tài nguyên rừng, hạn chế
những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của những hậu quả hoạt động xã hội
nghề rừng. Công tác quản lý bảo vệ rừng phải gắn liền với việc bảo vệ thiên
nhiên và môi trường, với pháp luật, chính sách chế độ và biện pháp của các
ngành liên quan.

9


CHƯƠNG III. MỤC TIÊU- ĐỐI TƯỢNG- NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu nghiên cứu.
Tìm hiểu hiện trạng tài nguyên rừng và công tác quản lý bảo vệ rừng
nhằm đề xuất giải pháp quản lý rừng bền vững tại địa bàn xã Quế Long,
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
3.2. Đối tượng nghiên cứu.
Rừng tự nhiên và rừng trồng ở xã Quế Long, huyện Quế Sơn, tỉnh
Quảng Nam.
3.3. Nội dung nghiên cứu.
- Tìm hiểu đặc điểm chung của khu vực nghiên cứu.
- Các hoạt động sản xuất chủ yếu của người dân.

- Đánh giá hiện trạng rừng và đất rừng.
- Công tác tổ chức quản lý, bảo vệ rừng tại xã Quế Long.
+ Hoạt động trồng rừng.
+ Công tác giao đất, giao rừng.
+ Các hoạt động nhận khoán bảo vệ rừng.
+ Công tác phòng chống cháy rừng.
+ Công tác tuyên truyền, vận động.
+ Mức độ hưởng lợi, khả năng đầu tư trồng rừng, bảo vệ rừng của
người dân.
+ Vai trò, trách nhiệm của các tổ chức xã hội trong công tác quản lý,
bảo vệ rừng trên địa bàn xã Quế Long.
+ Các hoạt động sinh kế ảnh hưởng đến tài nguyên.
- Những thuận lợi, khó khăn trong công tác quản lý bảo vệ rừng và giao
đất giao rừng
- Nhu cầu nguyện vọng của cộng đồng
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, bảo vệ
rừng trên địa bàn xã Quế Long.
3.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Thu thập số liệu thứ cấp thông qua các báo cáo tổng kết của cơ quan
chức năng, của Huỵên, của xã, của thôn.
- Sử dụng bộ công cụ PRA để thu thập số liệu sơ cấp hoặc dùng phương
pháp phỏng vấn hộ.
- Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê, mô tả

10


CHƯƠNG IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội trên địa bàn xã Quế Long.
Quế Long một xã trung du của huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, là

căn cứ cách mạng qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp - Mỹ, nơi đây có
dãy“Trường Sơn” ngăn cách giữa vùng địch chiếm đóng và vùng giải phóng,
nên rừng Quế Long đã bị bom đạn và chất độc hoá học huỷ diệt rất nhiều.
Tổng diện tích tự nhiên của toàn xã là 1.957,00 ha, trong đó đất lâm nghiệp
chiếm 860,00 ha.
4.1.1. Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu.
4.1.1.1. Vị trí địa lý.
Xã Quế Long nằm cách trung tâm huyện 3 km về phía Tây, có tuyến
đường DT 611A chạy ngang qua nên giao thông cũng được thuận lợi.
Phía Đông giáp thị trấn Đông Phú, huyện Quế Sơn
Phía Tây giáp với xã Quế Lộc, huyện Nông Sơn
Phía Nam giáp với xã Quế Phong, huyện Quế Sơn
Phía Bắc giáp xã Quế Hiệp, huyện Quế Sơn
* Toạ độ địa lý:
Từ 108
o
10

20
’’
đến 108
0
11

05
’’
kinh độ đông.
Từ 15
o
41


20
’’
đến 15
o
41

40
’’
vĩ độ bắc.
4.1.1.2. Địa hình, địa mạo.
Xã Quế Long bao gồm nhiều dãy núi bao quanh, có nhiều khe suối, gò
đồi cao dần về phía Tây Bắc và Đông Bắc. Nơi cao nhất là đỉnh Hòn Tàu có
độ cao 954 m so với mực nước biển, nơi thấp nhất là lòng hồ đập Hồ Giang
có độ cao 10m so với mực nước biển.
Độ dốc cao nhất là 35
o
- 40
o
, thấp nhất là 10
o
- 15
o
, độ dốc trung bình
20
o
-25
o
.
Quế Long có 03 dạng địa hình chính:

- Địa hình đồng bằng: Do kết quả bồi tụ của sông, suối trên địa bàn xã. Loại
địa hình này đang được sử dụng để trồng lúa nước, hoa màu và đất thổ cư.
- Địa hình đồi núi thấp: Là phần diện tích có độ dốc trung bình < 20
o
được
sử dụng trồng cây hàng năm và cây lâu năm khác.

11


- Địa hình đồi núi cao dốc: Nằm trên phần địa hình có độ dốc > 25
o
phân bố
chủ yếu ở phía Tây Bắc và Đông Bắc của xã.
4.1.1.3. Khí hậu-thuỷ văn
* Khí hậu:
Nằm trong khu vực Duyên Hải miền Trung nên khí hậu ở Quế Long
mang tính chất đặc trưng của khu vực Nam Hải Vân. Khí hậu nhiệt đới ẩm
gió mùa có hai mùa rõ rệt: mùa khô bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 8, mùa mưa
bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau.
+ Chế độ nhiệt:
Nhiệt độ bình quân/ năm là 25
o
C.
Nhiệt độ tối cao: 40,1
o
C.
Nhiệt độ tối thấp: 10,8
o
C.

Biên độ ngày đêm: 9,3
o
C.
Tổng số giờ nắng: 1771 giờ.
+ Chế độ mưa:
Lượng mưa bình quân/năm 2208 mm.
Tổng số ngày mưa trong năm là 152 ngày.
Lượng mưa lớn nhất vào khoảng 250 mm/ngày. Mưa tập trung chủ yếu
vào các tháng 10 và 11, tháng có lượng mưa ít nhất là tháng 3 và tháng 4.
+ Chế độ gió: Gió Đông bắc thường xuất hiện vào tháng 9 đến tháng 3 năm
sau. Gió Tây nam thường xuất hiện vào tháng 4 đến tháng 8 mang theo hơi
nóng và khô nên những tháng này thường xảy ra cháy rừng. Bão thường
xuyên xảy ra trong mùa mưa lũ, tốc độ gió mạnh thường xuất hiện vào tháng
9, 10 và 11.
* Thuỷ văn:
Xã Quế Long nằm cách trung tâm huyện Quế Sơn 3 km về phía Tây
và cách sông Thu Bồn 15km về phía Đông, được ngăn cách bởi dãy Đèo Le
nên vào mùa mưa trên địa bàn xã không bị ngập lụt nặng. Có suối nước mát
chảy từ đỉnh Hòn Tàu xuống Đèo Le, đây là điểm du lịch sinh thái lý tưởng
của huyện Quế Sơn. Ngoài ra trên địa bàn xã còn có đập Hồ Giang diện tích
tới 135 ha và nhiều ao hồ khe suối nhỏ khác.

12


Nhìn chung khí hậu xã Quế Long là nóng ẩm mưa nhiều, nhiệt độ bình
quân năm là 25
o
C và độ ẩm là 85 % nên thuận lợi cho việc sinh trưởng phát
triển của cây rừng và sản xuất nông-lâm nghiệp.

4.1.1.4. Đất đai- thổ nhưỡng- tài nguyên thiên nhiên của xã Quế Long
* Các loại đất chính:
- Đất phù sa bồi đắp: do trong mùa mưa lũ một lượng lớn phù sa đổ về
từ các con suối trong xã và bồi đắp chủ yếu cho các thôn Xuân Quê 1, Xuân
Quê 2 nên rất thích hợp cho cây nông nghiệp ngắn ngày phát triển.
- Đất Feralít vàng nhạt: phát triển trên đá Granit, được phân bố ở các
thôn Lộc Thượng 2 và thôn Lộc Sơn thích hợp cho các loài cây Sao đen,
Dầu rái phát triển.
- Đất Feralít vàng đỏ phát triển trên đá Granít, được phân bố ở các thôn
Lộc Sơn, Lộc Thượng 1 và Lộc Thượng 2 thích hợp cho các loài cây lâm
nghiệp phát triển như Keo, Bạch đàn, và các loài cây bản địa như Dó bầu,
Cẩm thị, Chò, Huỷnh
* Tài nguyên rừng ở xã Quế Long:
- Theo thống kê đất đai trên địa bàn xã Quế Long hiện nay diện tích
rừng còn 674,00 ha chiếm 34,44% diện tích tự nhiên. Hầu hết là rừng phòng
hộ đầu nguồn với 528,80 ha chiếm 27% diện tích tự nhiên, rừng sản xuất
chỉ chiếm một lượng nhỏ 145,20 ha. Xu thế phát triển rừng của xã Quế Long
trong những năm tới sẽ tăng mạnh.
- Quản lý và bảo vệ diện tích rừng trồng hiện có, các khu vực rừng có
tính chất trọng yếu cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Tận dụng triệt để khả năng
tái sinh và diễn thế rừng tự nhiên để phục hồi rừng bằng cách ngăn chặn lửa
rừng, sâu bệnh hại, sự phá hoại của gia súc và chặt phá của con người…
- Nuôi dưỡng diện tích rừng non phục hồi sau nương rẫy, diện tích
rừng trồng, tạo điều kiện cho cây sinh trưởng và phát triển.
- Tuy nhiên, tài nguyên rừng ở đây đang có nguy cơ cạn kiệt do hoạt
động chặt phá rừng trái phép, hoạt động khai thác lâm sản ngoài gỗ quá mức
mà không có hướng tái tạo.

13



Bảng 1: Diện tích rừng và đất lâm nghiệp xã Quế Long.
STT
Loại rừng và đất rừng
Diện tích
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Tổng diện tích tự nhiên 1.957,00 100,0
I Đất nông nghiệp 1.214,89 62.1
1 Đất sản xuất nông nghiệp 354,89 18,1
2 Đất lâm nghiệp 860,00 44
1.1 Đất có rừng 674,00 34,5
1.1.
1
Đất rừng phòng hộ 528,80 27
a Rừng tự nhiên 342,00 17,5
b Rừng trồng 186,00 9,5
1.1.
2
Đất rừng sản xuất 145,20 7,5
a Rừng tự nhiên 2,00 0,1
b Rừng trồng 143,20 7,4
1.2 Đất chưa có rừng 186,00 9,5
II Đất phi nông nghiệp 350,56 17,9
III Đất chưa sử dụng 391,55 20
1 Đất đồi núi chưa sử dụng 363,41 18,56
2 Đất bằng chưa sử dụng 25,4 1,30
3 Đất núi đá không có rừng cây 2,74 0,14
(Nguồn số liệu: Hạt Kiểm lâm Quế Sơn - tính đến ngày 31/12/2008)

* Tài nguyên nước:
Nguồn nước mặt khá dồi dào được dự trữ từ đập Hồ Giang, cộng với
hệ thống các khe suối nhỏ và một số hồ chứa nước nhỏ, đây là điều kiện rất
thuận lợi để sản xuất nông nghiệp phát triển.
Nước ngầm được phân bố ở độ sâu từ 10 – 25m.
4.1.1.5. Thực trạng môi trường.
- Môi trường đất: Diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thoái hoá
nặng, diện tích đất trống, đồi núi trọc thì đang ở mức độ thoái hoá nghiêm

14


trọng. Nguyên nhân chủ yếu là do tình trạng chặt phá rừng, đốt nương làm
rẫy, kỹ thuật canh tác theo lối tự do không tuân thủ các quy trình kỹ thuật.
- Môi trường nước vẫn còn ở mức độ ô nhiễm nhẹ, nhưng trong
những năm gần đây mức độ ô nhiễm có chiều hướng tăng lên. Nguyên nhân
chủ yếu do canh tác bất hợp lý trên đất dốc, thuộc lưu vực các con suối với
quy mô lớn.
4.1.2. Tình hình dân sinh sinh, kinh tế-xã hội ở xã Quế Long.
4.1.2.1. Tổ chức hành chính.
Xã Quế Long được chia làm 7 thôn. Bao gồm: Lãnh An, Lộc Sơn, Lộc
Thượng 1, Lộc Thượng 2, Xuân Quê 1, Xuân Quê 2, và Trung Thượng.
4.1.2.2. Dân số, lao động, việc làm và thu nhập.
- Dân số: Trong những năm qua công tác tuyên truyền và vận động có nhiều
chuyển biến tốt. Theo thống kê của Phòng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn huyện Quế Sơn, tính đến ngày 31/12/2008 toàn xã có diện tích tự nhiên
là 1.957,00 ha, với tổng nhân khẩu là 4.489 người, mật độ 249 người/km
2
.
Tổng số hộ là 1.305 hộ.

- Lao động: Tổng số lao động trên địa bàn xã là 2.273 lao động. Lao động
Nông – Lâm nghiệp có tỷ trọng lớn trong cơ cấu lao động. Tuy nhiên hiệu
suất lao động ở khu vực này còn thấp. Trình độ lao động còn hạn chế chưa
qua đào tạo hoặc tỷ lệ qua đào tạo còn rất thấp.
- Việc làm và thu nhập:
+ Quế Long là một xã thuần nông, số hộ làm nông nghiệp chiếm tỷ lệ
khá cao. Số lao động trên địa bàn đa phần là lao động nông nghiệp, đối
tượng hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ rất ít, chủ yếu là buôn
bán và sản xuất nhỏ.
+ Thu nhập của người lao động nông nghiệp hiện nay cũng còn rất
thấp khoảng 300.000 đồng/người/tháng. Vì vậy thời gian nông nhàn họ
thường vào rừng khai thác lâm sản, săn bắn thú rừng nhằm tăng thu nhập để
đảm bảo cuộc sống. Vì vậy, tài nguyên rừng ngày càng cạn kiệt và làm ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất nông nghiệp.

15


4.1.2.3. Sản xuất nông-lâm-côngnghiệp ở xã Quế Long
* Tăng trưởng kinh tế.
Trong những năm qua được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
uỷ, HĐND và sự quyết tâm phấn đấu của tập thể UBND phối hợp với các
ban ngành chức năng triển khai thực hiện tốt các chỉ tiêu kế hoạch hàng
năm. Để đảm bảo thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch năm 2008 được
UBND huyện giao và nghị quyết của Đảng Uỷ, HĐND xã đề ra. Ngay từ
đầu năm UBND xã đã xây dựng kế hoạch, chương trình công tác năm, phối
hợp với mặt trận đoàn thể từ xã đến thôn tổ chức tuyên truyền vận động
nhân dân, đồng thời tập trung chỉ đạo các cơ quan chuyên môn, ban nhân
dân các thôn phát huy những thuận lợi cơ bản và khắc phục những mặt khó
khăn. Do đó kinh tế trên địa bàn cũng từng bước được nâng cao, đời sống

nhân dân cũng dần dần được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế dịch vụ
kinh doanh ở các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
cũng có sự tăng trưởng đáng kể, sản xuất nông nghiệp đang dần dần ổn định.
- Tổng giá trị sản xuất năm 2008 đạt 21.957,640 triệu đồng đạt
105,6% KH năm, tăng 14,6% so với năm 2007.
Trong đó:
+ Giá trị nông-lâm nghiệp đạt 11.237,140 triệu đồng đạt 107,4% KH
năm, tăng 15,9% so với năm 2007. Bao gồm:
Giá trị trồng trọt: 9.122,140 triệu đồng.
Giá trị chăn nuôi: 2.115,00 triệu đồng.
+ Giá trị tiểu thủ công nghiệp: 780,500,00 triệu đồng đạt 108,7% KH
năm, tăng 16,3% so với năm 2007.
+ Giá trị thương mại dịch vụ: 1.440,00 triệu đồng đạt 103,4% KH
năm, tăng 11,6% so với năm 2007.
- Tổng thu ngân sách: 1.201.002.358 đồng, đạt 118% KH năm.
- Tổng sản lượng lương thực: 1.593,2 tấn, đạt 76,9% KH năm , giảm
374,6 tấn so với năm 2007.
Trong đó: sản lượng thóc là 1.579,2 tấn.
- Lương thực bình quân đầu người: 345,07 kg đạt 82,65% KH năm,
giảm 54,98 kg so với năm 2007.

16


- Thu nhập bình quân đầu người trên năm: 4,756 triệu đồng, đạt
109,3% KH năm tăng 22,1% so với năm 2007.
Giá trị thu nhập khác: 8.500,00 triệu đồng đạt 102,9% KH năm, tăng
13,2% so với năm 2007.
* Khu vực kinh tế nông nghiệp:
Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp năm 2008 được tiến hành trong

điều kiện thời tiết không thuận lợi nhưng vẫn đạt được những kết quả nhất
định như sau:
- Ngành trồng trọt:
Tình hình gieo trồng vụ mùa năm 2008:
Cây lương thực có hạt.
+ Cây lúa: Tổng diện tích gieo trồng cả năm: 485,5 ha đạt 100% kế hoạch .
Năng suất bình quân/năm: 32,5 tạ/ha, sản lượng 1597,2 tấn đạt 76,7% KH
năm. Trong đó:
Vụ Đông xuân:DT: 255,5 ha/ 255,5 ha = 100% kế hoạch.
NS: 19,5 tạ/ha/ 40tạ/ha = 48,7% kế hoạch.
SL: 498,2 tấn/ 1022 tấn.
Vụ hè thu:DT: 230 ha/ 230 ha = 100% kế hoạch.
NS: 47 tạ/ha/ 42 tạ/ha = 111,5% kế hoạch(vượt 11,9% KH).
SL: 1081 tấn/ 966 tấn.
+ Cây ngô: DT cả năm 4 ha.
NS: 35 tạ/ha = 100% KH đề ra.
SL: 14 tấn.
Tổng sản lượng cây có hạt: 1.593,2 tấn/ 2071 tấn, đạt 77% KH.
Trong đó: Thóc: 1.579 tấn - Ngô: 14 tấn.
Cây màu:
+ Cây sắn: DT 120 ha, NS: 200 tạ, SL: 2400 tấn.
+ Cây khoai lang: DT 12 ha/10 ha, NS: 45 tạ, SL: 45 tấn.
+ Các loại cây trồng khác:
Cây mía: DT: 5 ha/ 3 ha, đạt 166% KH, NS: 500 tạ, SL: 250 tấn.
Cây mè: DT: 5 ha/5 ha, đạt 100% KH, NS: 15 tạ, SL: 7,5 tấn.
Cây lạc: DT 10 ha/ 10 ha, đạt 100% KH, NS: 13 tạ, SL: 13 tấn.

17



Cây cỏ phục vụ chăn nuôi: DT 2 ha
Rau đậu các loại: DT: 2 ha/ 1,3 ha, đạt 154% KH năm.
Nhìn chung các loại cây trồng vẫn giữ mức phát triển bình thường
năng suất và sản lượng không tăng cao. Diện tích giảm hơn so với các năm
do nhân dân chuyển đổi mục đích sử dụng đất, từ cây nông nghiệp sang cây
lâm nghiệp.
- Ngành chăn nuôi:
+ Do sự biến động của thị trường, tình hình dịch bệnh ở đàn gia súc,
gia cầm chịu ảnh hưởng chung trên địa bàn tỉnh. Công tác thú y được duy trì
thường xuyên, việc kiểm tra giám sát dịch bệnh gia súc, gia cầm tại các thôn
luôn được đảm bảo. Đến năm 2008, tổng đàn gia súc gia cầm của xã là:
25.430 con, tăng 1.543 con so với năm 2007. Trong đó:
Đàn trâu: 341 con.
Đàn bò: 747 con.
Đàn lợn: 1.461 con.
Đàn dê: 49 con.
Đàn gia cầm các loại: 19.711 con. Trong đó: vịt 3.121 con.
+ Trên địa bàn xã đã thực hiện công tác khử trùng tiêu độc vệ sinh môi
trường thường xuyên cho các thôn trong xã. Công tác tiêm phòng gia súc, gia
cầm được triển khai thực hiện rộng rãi, đều khắp trên địa bàn toàn xã.
* Khu vực kinh tế công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp-thương mại-dịch vụ.
- Công nghiệp:
Hiện tại trên địa bàn xã không có khu công nghiệp nào, các sản phẩm
nông nghiệp mang tính chất tự phát quy mô hộ gia đình. Chỉ có một số
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp như: Sản xuất gạch ngói, sửa chữa cơ khí,
xay xát và một số hộ kinh tế buôn bán nhỏ lẻ.
- Tiểu thủ công nghiệp:
+ Tổng giá trị tiểu thủ công nghiệp năm 2008 đạt: 780,500 triệu đồng,
đạt 108,7% KH năm, các sản phẩm chủ yếu: cưa xẻ gỗ, công cụ cầm tay,
rèn, mộc, hàn,

+ Các ngành nghề nông thôn có bước phát triển đã giải quyết được
một số lao động và tạo ra nguồn thu nhập cho nhân dân, phối hợp với các tổ

18


chức trong tỉnh đào tạo 3 lớp nghề mây tre đan cho chị em phụ nữ, số lượng
trên 100 chị.
- Thương mại-dịch vụ:
+ Hoạt động thương mại dich vụ cũng có bước phát triển rõ nét, một
số hộ gia đình mở mang buôn bán đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân
dân trong xã. Số hộ kinh doanh buôn bán tăng, đến nay toàn xã có trên 90 hộ
kinh doanh cá thể. Tổng giá trị TM-DV: 1.440,00 triệu đồng. UBND xã đã
khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân bỏ vốn kinh doanh sản
xuất thương mại dịch vụ hoà nhập thị trường.
+ Nhiều loại hình kinh doanh buôn bán khác cũng đang từng bước
phát triển, quỹ tín dụng nhân dân xã đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân
vay vốn với lãi xuất thấp từ các nguồn vốn vay của nhà nước để phát triển
sản xuất.
4.1.2.4. Văn hoá – giáo dục – y tế.
- Về văn hoá:
+ Đến năm 2008 tất cả các thôn trong xã đều được công nhận là thôn
Văn hoá và 4 thôn có diện tích rừng nhiều cũng đã xây dựng xong quy ước
quản lý bảo vệ rừng và đã được UBND huyện quyết định công nhận.
+ Công tác tuyên truyền vận động được triển khai thường xuyên, liên
tục, dưới nhiều hình thức khác nhau như: băng, cờ ở các cổng chào và cơ
quan nhân các ngày lễ lớn, phong trào văn nghệ, thể dục thể thao được duy
trì thường xuyên liên tục.
+ Trải qua quá trình phát triển xoá bao cấp, tổ chức xã hội truyền
thống của người dân địa phương có nhiều thay đổi. Hiện nay về cơ bản, tổ

chức cộng đồng có bí thư chi bộ (thôn) trưởng thôn và phó trưởng thôn. Tính
chất cộng đồng quan điểm sở hữu tập thể về rừng vẫn tồn tại song song với
các tổ chức chính quyền, đoàn thể theo hệ thống hành chính nhà nước.
- Giáo dục:
Năm học 2008-2009 các cấp học đã duy trì đảm bảo số lượng, nâng
cao chất lượng dạy và học. Do đó học sinh lên lớp ở các cấp đạt cao, chất
lượng giáo dục trong nhà trường ngày càng tốt hơn, đa số học sinh đã xác
định đúng đắn động cơ học tập, số lượng học sinh đạt giải tại huyện, tỉnh cao

19


hơn các năm trước. Luôn quan tâm đến xây dựng cơ sở vật chất để trường
đạt chuẩn Quốc gia.
- Y tế:
Xã có một trạm y tế được xây dựng vào những năm trước giải phóng
và đến nay thì đã xây mới lại hoàn toàn (năm 2003) với tổng diện tích là
1.590 m
2
, diện tích phòng sử dụng là 900 m
2
. Trạm y tế nằm ngay cạnh trung
tâm xã và sát đường DT 611A nên rất thuận lợi cho người dân đến khám và
chữa bệnh. Hiện nay trạm có 7 nhân viên: 2 bác sỹ, 3 y tá, 1 nữ hộ sinh và
một người làm vệ sinh.
Cơ sở hạ tầng: trong năm 2008 nhân dân đã ra quân đắp đường, tu bổ giao
thông trong thôn xóm với tổng hơn 2.500 ngày công, đa số đường giao thông thôn
xóm đã được bê tông hoá. Cầu cống đa số đã được xây dựng kiên cố.
Nhìn chung Quế Long có một địa thế thuận lợi bởi có con đường DT
611A chạy ngang qua trung tâm xã, có nguồn nước đồi dào từ ngàn xưa đến

nay, hầu hết các thôn đều có rừng, UBND xã được đóng tại trung tâm, rừng
được bao quanh và nguồn nước từ rừng đổ về các hồ chứa nước của xã nên
nông nghiệp rất phát triển, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao.
Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước với các
chương trình phát triển rừng , đặc biệt tại địa phương có dự án phát triển khu
du lịch suối nước mát cùng với sự lãnh đạo sâu sát của Đảng Uỷ-HĐND-
UBND kết hợp với sự nổ lực phấn đấu của cán bộ, nhân dân địa phương tình
hình kinh tế, hoạt động xã hội ở địa phương phát triển ổn định nhiều mặt,
đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, hộ nghèo đói giảm nhanh, tình
hình an ninh - chính trị được ổn định.
4.2. Các hoạt động sinh kế của người dân ảnh hưởng đến quản lý, bảo
vệ rừng.
4.2.1. Canh tác nương rẫy.
Canh tác nương rẫy là một hoạt động truyền thống của người dân địa
phương, nhưng năng suất thấp hơn và tốn nhiều công lao động hơn so với
canh tác lúa nước, tuy nhiên người dân vẫn duy trì hình thức này. Nguyên
nhân của tình trạng trên có rất nhiều, theo cán bộ và bà con địa phương và
theo quan sát thực tế của bản thân thì có những nguyên nhân chính sau:

20


- Sau mùa vụ nông nghiệp thời gian nhàn rỗi nên phải canh tác nương
rẫy nhằm tăng thu nhập cho hộ gia đình.
- Canh tác nương rẫy phù hợp với văn hóa, hoàn cảnh sống và nhận
thức của người dân.
Trên lý thuyết, đây là một trong những nguyên nhân làm cho rừng tự
nhiên ngày càng bị thu hẹp và diện tích đất trống đồi núi trọc tăng lên.
Nhưng thực tế địa phương nếu tổ chức canh tác nương rẫy tốt, hợp lý và có
quy hoạch thì đây là vành đai cản lửa tốt nhất trong mùa khô hạn (đã có

phương án quy hoạch nương rẫy của huyện).
4.2.2. Vườn đồi.
Theo điều tra của bản thân thì phần lớn các hộ trong xã đều có vườn
đồi. Nguyên nhân hình thành các vườn đồi là do truyền thống của người dân
địa phương và do chính sách của nhà nước ta là đưa dân lên vùng kinh tế
mới nên người dân phải phá rừng để làm nương rẫy và làm vườn nhà. Đây là
nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến mất rừng, UBND huyện quyết định xóa tất
cả các khu kinh tế mới và đưa dân về tập trung ở nông thôn nên tình trạng
phá rừng ở khu này được hạn chế rất nhiều.
4.2.3. Hoạt động khai thác gỗ, củi.
- Khai thác gỗ cho nhu cầu sử dụng: Do nhu cầu thiết yếu cuộc sống
ngày càng tăng, đời sống kinh tế ngày một khá hơn vì thế nhu cầu về gỗ làm
nhà và xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở ngày một nhiều hơn, nên người
dân phải vào rừng tự khai thác gỗ và củi về sử dụng trong gia đình và công
trình tại địa phương.
- Khai thác cho mục đích thương mại của người dân trong và ngoài
xã: Vào những thời gian nông nhàn, người dân vào rừng khai thác gỗ để bán
nhằm cải thiện đời sống kinh tế của gia đình. Lợi dụng cơ hội này một số
người dân ngoài địa phương vào xã, đầu tư vốn và phương tiện, dụng cụ cho
người dân vào rừng khai thác lấy lâm sản ra bán lại cho họ nên đã làm phá
rừng tại địa phương rất lớn. Từ khi có Quyết định 245/1998/QĐ-TTg và
105/2000/QĐ-Bộ NN&PTNT ra đời, chính quyền địa phương và Kiểm lâm
địa bàn đã hạn chế được rất nhiều tình trạng khai thác gỗ trên địa bàn vào
mục đích thương mại.

21


4.2.4. Hoạt động săn/ bẫy, bắt động vật.
- Hoạt động săn/bẫy, bắt động vật của người dân địa phương thường

tập trung ở quanh vùng canh tác nông nghiệp, những khu rừng gần thôn,
làng. Các loại động vật như; Heo rừng, Hoẵng, Nhím, Chuột là những loài
động vật mà cộng đồng dân cư cho là mối đe dọa đối với sản xuất và đời
sống nên chúng thường bị người dân địa phương săn/bẫy, bắt nhằm bảo vệ
mùa màng của họ. Tuy nhiên tại địa phương có một số người săn/bẫy, bắt
động vật rừng nhằm mục đích thương mại, nhưng những năm qua địa
phương đã cho họ ký cam kết và giao nộp dụng cụ đặt bẫy, nên tình trạng
săn/bẫy, bắt động vật rừng hầu như ít diễn ra.
- Những người từ nơi khác đến họ thường dùng các biện pháp bẫy, bắt
có tính huỷ diệt, bởi vì họ không xem nguồn tài nguyên là của mình, họ
không quan tâm đến việc bảo vệ các nguồn tài nguyên đó cho thế hệ mai
sau. Vì vậy họ săn/bẫy, bắt những loài có giá trị thương mại như: Gấu, Trút,
Rùa Do đó họ thường đi vào rừng sâu hơn so với người dân địa phương và
những nơi này thường là địa bàn của những tay săn, bẫy bắt chuyên nghiệp,
sống nhờ hoạt động săn, bắn động vật rừng trái phép mà chủ yếu là vì mục
đích buôn bán, thương mại.
Nhằm cứu vãn sự tồn tại của các loài động vật qúy hiếm, trong thời
gian qua được sự tài trợ của tổ chức WWF-Đông Dương và Chi cục Kiểm
lâm Quảng Nam, hạt Kiểm lâm Quế Sơn và chính quyền địa phương xã đã
có nhiều biện pháp tổ chức giúp người dân địa phương về nhận thức của
công tác bảo tồn động vật rừng. Có thể nói các hoạt động săn/bẫy, bắt và
buôn bán động vật rừng được hạn chế rất nhiều, không còn tình trạng săn bắt
bừa bãi như trước đây nữa.
4.3. Kết quả tìm hiểu hiện trạng tài nguyên rừng và đất rừng tại xã Quế Long.
4.3.1. Hiện trạng sử dụng đất và phân cấp 3 loại rừng.
Trên cơ sở bản đồ lý thuyết và kết hợp với việc kiểm tra, chỉnh lý, bổ
sung ngoài thực địa về ranh giới lâm phận phòng hộ và hiện trạng sử dụng
đất của các xã, phường, đồng thời tham khảo kế thừa có chọn lọc một số tài
liệu có liên quan như: Kết quả kiểm kê đất đai năm 2008, tài liệu theo dõi


22


diễn biến tài nguyên rừng của Kiểm lâm, các số liệu về sử dụng đất đai của
các chủ sử dụng đất trên địa bàn và các nguồn tài liệu khác có liên quan. Kết
quả về hiện trạng sử dụng đất và phân cấp 3 loại rừng huyện Quế Sơn được
thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2: Hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp huyện Quế Sơn.
( Tính đến ngày 31/12/2008)
Loại đất Diện tích(ha) Tỷ lệ
Tổng diện tích tự nhiên 25.117,15 100
1. Đất nông nghiệp 17.748,62 70,7
1.1.Đất sản xuất nông nghiệp 7.451,21 29,7
1.2.Đất lâm nghiệp có rừng 10.297,41 41
- Rừng sản xuất 6.184,81 24,6
+ Rừng tự nhiên
+ Rừng trồng 6.073,31 24,2
+ Chưa có rừng 111,50 0,4
- Rừng phòng hộ 4.112,60 16,4
+ Rừng tự nhiên 1.578,50 6,3
+ Rừng trồng 1.498,30 5,96
+ Chưa có rừng 1.035,80 4,1
2. Đất phi nông nghiệp 4.329,95 17,2
3. Đất chưa sử dụng 3.038,58 12,1
(Nguồn số liệu: Hạt Kiểm lâm Quế Sơn)
Qua số liệu cho thấy tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là 25.117,15
ha, gồm đất nông nghiệp là 17.748,62 ha, chiếm 70,7% diện tích tự nhiên,
đất phi nông nghiệp 4.329,95 ha chiếm 17,2% diện tích tự nhiên và đất chưa
sử dụng 3.038,58 ha chiếm 12,1% diện tích tự nhiên. Trong diện tích đất
nông nghiệp 17.748,62 ha, thì diện tích đất lâm nghiệp là 10.297,41 ha,

chiếm 41% diện tích đất nông nghiệp. Trong đó, diện tích rừng sản xuất là

23


6.184,81 ha chiếm 24,6% diện tích tự nhiên, rừng phòng hộ là 4.112,60 ha
chiếm 16,4% diện tích tự nhiên.
Đất chưa sử dụng 3.038,58 ha, trong đó chủ yếu là diện tích đồi núi
chưa sử dụng, chiếm 12,1% diện tích tự nhiên.
Xã Quế Long có diện tích tự nhiên là 1.957,00 ha, là xã có diện tích
đứng thứ 4 trong các xã của huyện Quế Sơn.
Bảng 3: Hiện trạng các loại rừng và đất lâm nghiệp theo chủ quản lý, sử
dụng ở xã Quế Long.
(Đơn vị: ha)
Loại rừng/đất đai Tổng số Hộ gia đình Chưa giao
Tổng cộng 1.957,00 360,50 1.596,50
1. Đất có rừng 674,00 360,50 313,50
- Rừng tự nhiên 344,00 344,00
- Rừng trồng 330,00 360,50 -30,50
2. Đất không có rừng 186,00 186,00
(Nguồn số liệu: Hạt Kiểm lâm Quế Sơn-tính đến ngày 31/12/2008)
Hiện tại trên địa bàn xã Quế Long chỉ mới giao đất cho các hộ gia
đình trồng rừng với diện tích là 360,50 ha, trong đó có 30,50 ha khi UBND
xã chưa giao mà người dân đã tự ý trồng. Rừng tự nhiên chỉ mới giao khoán
cho các hộ gia đình chăm sóc bảo vệ chứ chưa giao hẳn cho họ.
* Hiện trạng sử dụng đất của xã trước và sau khi quy hoạch được thể hiện
qua bảng sau:

24



Bảng 4: Hiện trạng sử dụng đất lâm nghiệp của xã trước và sau khi quy
hoạch.
(Đơn vị: ha)
Hạng mục
Trước quy hoạch
(Theo QĐ 47 ngày
27/9/2006 của UBND
tỉnh Quảng Nam)
Sau quy hoạch
( sau khi rà soát
tháng 8/2008)
Chênh
lệch
Tổng diện tích đất
lâm nghiệp
860,00 838,2 -21,8
1.Đất rừng phòng hộ 850,0 687,5 -162,5
1.1. Đất có rừng 664,0 555,7 -108,3
1.1.1. Rừng trồng 322,0 213,7 -108,3
1.1.2. Rừng tự nhiên 342,0 342,0 0
1.2. Đất chưa có rừng 186,00 186,0 0
2. Đất rừng sản xuất 10,0 150,7 +140,7
2.1. Đất có rừng 10,0 102,7 +92,7
2.1.1. Rừng trồng 8,0 102,7 +94,7
2.1.2. Rừng tự nhiên 2,0 0,0 -2
2.2. Đất chưa có rừng 0,0 0,0 0
(Nguồn số liệu: UBND xã Quế Lộc)
Nhận xét: Diện tích đất lâm nghiệp của xã sau khi quy hoạch và rà soát
lại vào tháng 8/2008 đã giảm xuống -21,8 ha, 108,3 ha rừng trồng phòng

hộ và 2 ha rừng tự nhiên là rừng sản xuất đã được chuyển thành rừng
trồng sản xuất.
4.3.2. Kết quả thực hiện dự án giao đất, giao rừng gắn hưởng lợi trực tiếp
sản phẩm từ rừng cho các hộ gia đình xã Quế Long năm 2008.

25

×