Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

ÔN THI KIỂM SÁT VIÊN HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.47 KB, 33 trang )

HÌNH SỰ
Câu 1. Một số giải pháp hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng?
Trả lời:
* Căn cứ pháp lý của việc trả hồ sơ điều tra bổ sung:
+ Điều 245 BLTTHS năm 2015 (Trường hợp VKS trả hồ sơ vụ án cho CQĐT để
điều tra bổ sung).
+ Điều 280 BLTTHS năm 2015 (Trường hợp Toà án trả hồ sơ vụ án cho VKS để
điều tra bổ sung).
+ Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP (ngày
22/12/2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một
số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung (viết tắt TLTT số 02/2017).
* Mục đích của việc trả hồ sơ điều tra bổ sung:
+ Là một hoạt động tố tụng nhằm hạn chế tình trạng án oan, án sai cũng như bỏ
lọt tội phạm.
+ Đảm bảo quá trình giải quyết vụ án tuân thủ đầy đủ, đúng theo trình tự, thủ tục
tố tụng do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.
+ Đảm bảo tính khách quan, giải quyết toàn diện đối với vụ án hình sự.
* Những giải pháp hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ sung:
- Giải pháp chung:
+ Phải chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật trong quá trình điều tra, truy
tố, xét xử các vụ án hình sự. Đặc biệt, là các quy định của BLTTHS; Thông tư liên tịch
số 02/2017 quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện
một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
+ Tăng cường công tác phối hợp giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng. Đảm bảo
trong quá trình giải quyết vụ án, có sự phối hợp chặt chẽ giữa Điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán. Trong đó, Kiểm sát viên cần tích cực, chủ động trao đổi với Điều tra
1


viên, Thẩm phán để giải quyết những vấn đề phát sinh cần tháo gỡ ở các giai đoạn điều


tra, truy tố, xét xử, tránh trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung không cần thiết.
+ KSV khi thực hiện nhiệm vụ phải tuân thủ đầy đủ các quy trình nghiệp vụ được
quy định trong Quy chế tạm thời công tác THQCT, kiểm sát khởi tố, điều tra, truy tố ban
hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng
VKSNDTC và Quy chế công tác THQCT, KSXX các vụ án hình sự ban hành kèm theo
Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSNDTC.
+ Lãnh đạo Viện phải tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và kiểm
tra, giám sát trong hoạt động THQCT, KSĐT, KSXX của KSV.
+ KSV phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ,
phải quán triệt sâu, nghiêm túc, đầy đủ về mục đích, ý nghĩa của hoạt động trả hồ sơ
điều tra bổ sung để thống nhất trong nhận thức và thực hiện.
+ Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, KSV phải nắm vững, chấp hành nghiêm
các Chỉ thị của Viện trưởng VKSNDTC và Hướng dẫn nghiệp vụ của ngành Kiểm sát.
Đặc biệt là chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 về “Tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tội phạm” và Chị thị số 04/CT-VKSTC ngày 10/7/2015 về
“Tăng cường các biện pháp phòng chống oan, sai và nâng cao trách nhiệm trong giải
quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự”.
- Một số giải pháp cụ thể:
 Kiểm sát chặt chẽ quá trình tiếp nhận, thụ lý và giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT (gọi tắt là tin báo) ngay từ đầu. KSV được
phân công phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, đề ra yêu cầu xác minh có trọng tâm, trọng điểm
đối với từng vụ việc cụ thể.
 Kiểm sát chặt chẽ quá trình khám nghiệm hiện trường, việc thu thập chứng
cứ của CQĐT đảm bảo khách quan, toàn diện và đầy đủ, bao gồm cả chứng cứ buộc tội
và gỡ tội.

2



 KSV phải chủ động phối hợp ĐTV để xác minh làm rõ nhưng vấn đề cần
phải chứng minh ngay trong giai đoạn tin báo. Làm rõ các mâu thuẫn về chứng cứ, phối
hợp cùng ĐTV để tiến hành ghi lời khai đối tượng để nắm bắt tình hình thực tế.
 Đề ra yêu cầu điều tra vụ án, xác định những nội dung cần chứng minh,
những tài liệu cần phải thu thập để đảm bảo giải quyết toàn diện vụ án. Tuỳ vào từng
loại tội phạm cụ thể mà yêu cầu điều tra phải có trọng tâm, trọng điểm. Yêu cầu điều tra
phải đảm bảo khách quan, yêu cầu thu thập đầy đủ cả chứng cứ buộc và gỡ tội.
 Yêu cầu ĐTV tuân thủ nghiêm theo quy định tại khoản 5 Điều 88 BLTTHS
về chuyển giao chứng cứ để kiểm sát kịp thời theo quy định.
 Kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng bắt, tạm giữ, tạm giam, không để xảy ra
việc bắt, tạm giữ, tạm giam thay cho biện pháp điều tra, không để xảy ra trường hợp
Điều tra viên mớm cung, dụ cung, bức cung, dùng nhục hình đối với bị can.
 Tăng cường các hoạt động trực tiếp điều tra như: tham gia hoạt động đối
chất, nhận dạng, hỏi cung, lấy lời khai ...để đảm bảo hoạt động điều tra khách quan,
toàn diện. Đồng thời nắm bắt tình hình thực tế tránh trường hợp chỉ kiểm sát thông qua
các tài liệu có trong hồ sơ vụ án dễ dẫn đến trường hợp chủ quan.
 Tôn trọng, xem xét đầy đủ, kịp thời những ý kiến có căn cứ, đúng pháp luật
của bị can, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác theo quy định, tránh
trường hợp kết luận chủ quan.
 Nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, tìm ra những điểm mâu thuẫn, chưa làm rõ để
phối hợp, yêu cầu ĐTV tiến hành điều tra làm rõ tránh trường hợp kết luận vội vàng
thiếu chính xác. Khi tham gia hỏi cung, ghi lời khai cần xây dựng đề cương, nội dung
cần xét hỏi trước khi thực hiện.
 Trước khi kết thúc điều tra phải hợp cùng Điều tra viên đánh giá những tài
liệu, chứng cứ đã thu thập, thủ tục tố tụng có thiếu sót, mâu thuẫn, thiếu chứng cứ hay
không để kịp thời yêu cầu bổ sung, khắc phục.

3



 Trong quá trình truy tố cần nghiên cứu lại toàn bộ hồ sơ vụ án, thẩm định
lại một lần nữa các chứng cứ đã thu thập. Tiến hành phúc cung bị can đúng theo tinh
thần Chỉ thị số 04/CT-VKSTC ngày 10/7/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao.
 Trực tiếp tiến hành thu thập, tài liệu, chứng cứ hoặc yêu cầu CQĐT bổ
sung trong trường hợp không cần thiết phải trả hồ sơ điều tra bổ sung.
 Trước khi tham gia phiên toà phải tuân thủ đầy đủ quy chế nghiệp vụ của
ngành, chuẩn bị đề cường xét hỏi, bản luận tội, dự kiến các trường hợp tranh luận tránh
trường hợp bị động, không nắm vững hồ sơ, không bảo vệ được quan điểm truy tố.
 Kiểm sát viên tiến hành trao đổi cùng thẩm phán để giải quyết một số vấn
đề liên quan trước khi mở phiên toà. Đối với những tài liệu, chứng cứ cần bổ sung
nhưng không cần phải trả hồ sơ điều tra bổ sung thì theo yêu cầu của Toà án, KSV tiếp
hành thu thập và bổ sung trong thời hạn quy định.

4


Câu 2. Trình bày giải pháp hạn chế tình trạng án oan, án sai trong tố tụng hình sự?
Trả lời:
* Căn cứ pháp lý trong hoạt động phòng chống án oan, án sai
- Điều 19, Điều 20 và Điều 31 Hiếp pháp năm 2013.
- Điều 8, Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Nghị quyết số 96/2015/QH13 ngày 26/6/2015 của Quốc hội về “Tăng cường
các biện pháp phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại
trong hoạt động tố tụng hình sự”.
* Mục đích của công tác phòng chống án oan, án sai trong tố tụng hình sự
- Đảm bảo quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp năm 2013 quy định.
- Đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng đầy đủ, đúng theo quy định.
- Đảm bảo quá trình điều tra, truy tố, xét xử tuân thủ đầy đủ các quy định của
pháp luật. Đặc biệt, là các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Đảm bảo quá trình điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, không làm oan,

sai người vô tội, chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
* Một số giải pháp hạn chế tình trạng án oan, án sai
- Giải pháp chung:
+ Phải chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật trong quá trình điều tra, truy
tố, xét xử các vụ án hình sự. Đặc biệt, là các quy định của BLTTHS;
+ Tổ chức nghiên cứu, tổ chức thực hiện đầy đủ các giải pháp về tăng cường các
biện pháp phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt
động tố tụng hình sự theo Nghị quyết số 96/2015/QH13 ngày 26/6/2015 của Quốc hội.
+ Tăng cường công tác phối hợp giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng. Đảm bảo
trong quá trình giải quyết vụ án, có sự phối hợp chặt chẽ giữa Điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán.
+ KSV khi thực hiện nhiệm vụ phải tuân thủ đầy đủ các quy trình nghiệp vụ được
quy định trong Quy chế tạm thời công tác THQCT, kiểm sát khởi tố, điều tra, truy tố ban
hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng
5


VKSNDTC và Quy chế công tác THQCT, KSXX các vụ án hình sự ban hành kèm theo
Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSNDTC.
+ Lãnh đạo Viện phải tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và kiểm
tra, giám sát trong hoạt động THQCT, KSĐT, KSXX của KSV.
+ KSV phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Phải thận trọng, khách quan, đánh giá đầy đủ, toàn diện chứng cứ đã thu thập, bao gồm
cả chứng cứ gỡ tội và buộc tội.
+ Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, KSV phải nắm vững, chấp hành nghiêm
các Chỉ thị của Viện trưởng VKSNDTC và Hướng dẫn nghiệp vụ của ngành Kiểm sát.
Đặc biệt là chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 về “Tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tội phạm” và Chị thị số 04/CT-VKSTC ngày 10/7/2015 về
“Tăng cường các biện pháp phòng chống oan, sai và nâng cao trách nhiệm trong giải

quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự”.
- Một số giải pháp cụ thể:
+ Kiểm sát chặt chẽ quá trình tiếp nhận, thụ lý và giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT (gọi tắt là tin báo) ngay từ đầu. KSV được phân
công phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, đề ra yêu cầu xác minh có trọng tâm, trọng điểm đối với
từng vụ việc cụ thể.
+ Kiểm sát chặt chẽ hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,
thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng, hoạt động thực nghiệm điều tra; các hoạt động
khám xét, thu giữ tài liệu, đồ vật liên quan; hoạt động giám định và kết luận giám định
về thương tích, về tài sản, về nguyên nhân chết, về xác định độ tuổi…đảm bảo khách
quan, toàn diện và đúng pháp luật.
+ KSV phải chủ động phối hợp ĐTV để xác minh làm rõ nhưng vấn đề cần phải
chứng minh ngay trong giai đoạn tin báo. Làm rõ các mâu thuẫn về chứng cứ, phối hợp
cùng ĐTV để tiến hành ghi lời khai đối tượng để nắm bắt tình hình thực tế.

6


+ Nghiên cứu kỹ các hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn các quyết định tố tụng của Cơ
quan điều tra. Kiên quyết không phê chuẩn hoặc yêu cầu hủy bỏ các quyết định của Cơ
quan điều tra nếu thấy không có căn cứ, trái pháp luật. Đối với các trường hợp chứng cứ
chưa vững chắc, trước khi phê chuẩn, Kiểm sát viên phải phối hợp cùng Điều tra viên
tiến hành lấy lời khai để củng cố chứng cứ, nếu chưa đủ căn cứ cũng kiên quyết không
phê chuẩn.
+ Đề ra yêu cầu điều tra vụ án, xác định những nội dung cần chứng minh, những
tài liệu cần phải thu thập để đảm bảo giải quyết toàn diện vụ án. Tuỳ vào từng loại tội
phạm cụ thể mà yêu cầu điều tra phải có trọng tâm, trọng điểm. Yêu cầu điều tra phải
đảm bảo khách quan, yêu cầu thu thập cả chứng cứ buộc và gỡ tội.
+ Kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng bắt, tạm giữ, tạm giam, không để xảy ra việc
bắt, tạm giữ, tạm giam thay cho biện pháp điều tra, không để xảy ra trường hợp Điều tra

viên mớm cung, dụ cung, bức cung, dùng nhục hình đối với bị can.
+ Kiểm sát chặt chẽ việc hỏi cung bị can, lời khai của bị hại, của người làm
chứng và những người tham gia tố tụng khác. Đặc biệt đối với những trường hợp kêu
oan, không nhận tội, phạm tội rất nghiêm trọng, phức tạp.
+ Tăng cường các hoạt động trực tiếp điều tra như: tham gia hoạt động đối chất,
nhận dạng, hỏi cung, lấy lời khai ...để đảm bảo hoạt động điều tra khách quan, toàn
diện. Đồng thời nắm bắt tình hình thực tế tránh trường hợp chỉ kiểm sát thông qua các
tài liệu có trong hồ sơ vụ án dễ dẫn đến trường hợp chủ quan.
+ Tôn trọng, xem xét đầy đủ, kịp thời những ý kiến có căn cứ, đúng pháp luật của
bị can, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác theo quy định, tránh
trường hợp kết luận chủ quan.
+ Nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, tìm ra những điểm mâu thuẫn, chưa làm rõ để kịp
thời phối hợp cùng ĐTV tiến hành điều tra làm rõ tránh trường hợp kết luận vội vàng
thiếu chính xác. Khi tham gia hỏi cung, ghi lời khai cần xây dựng đề cương, nội dung
cần xét hỏi trước khi thực hiện.

7


+ Trước khi kết thúc điều tra phải hợp cùng Điều tra viên đánh giá những tài liệu,
chứng cứ đã thu thập đã đầy đủ chưa, thủ tục tố tụng có thiếu sót, mâu thuẫn, thiếu
chứng cứ hay không để kịp thời yêu cầu bổ sung, khắc phục.
+ Trong quá trình truy tố cần nghiên cứu lại toàn bộ hồ sơ vụ án, thẩm định lại
một lần nữa các chứng cứ đã thu thập. Tiến hành phúc cung bị can đúng theo tinh thần
Chỉ thị số 04/CT-VKSTC ngày 10/7/2015 của Viện trưởng VKSND tối cao.
+ Trong hoạt động xét xử, Kiểm sát viên phải chủ động tranh luận tại phiên tòa
với người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác để làm rõ hành vi
phạm tội của bị cáo cũng như một lần nữa kiểm tra lại toàn bộ quá trình tố tụng trước đó
nhằm bảo vệ thành công Cáo trạng nhưng không chủ quan, làm oan, sai người vô tội.


8


Câu 3. Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tạm đình chỉ điều tra vụ
án hình sự?
Trả lời:
* Căn cứ pháp lý việc tạm đình chỉ điều tra
- Điều 229 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Ngoài ra, KSV khi thực hiện nhiệm vụ phải chấp hành các quy định trong:
+ Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 02/10/2017 về tằng cường trách nhiệm của
VKSND trong việc theo dõi, quản lý, giải quyết các vụ án hình sự tạm đình chỉ.
+ Điều 39 Quy chế tạm thời công tác THQCT, kiểm sát khởi tố, điều tra, truy tố
ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng
VKSND tối cao.
* Mục đích, ý nghĩa của việc tạm đình chỉ điều tra
- Tạm đình chỉ điều tra là một hoạt động tố tụng, dựa trên những căn cứ do Bộ
luật Tố tụng hình sự quy định, Cơ quan điều tra phải tạm dừng các hoạt động điều tra.
- Tạm đình chỉ điều tra một trong những biện pháp chống oan sai khi đã hết thời
hạn điều tra mà chưa đủ căn cứ kết luận đối với vụ án.
- Tạm đình chỉ điều tra là nhằm hạn chế khả năng kéo dài thời hạn điều tra không
cần thiết, giảm tình trạng vi phạm thời hạn điều tra.
- Giảm tình trạng tồn động án ở khâu điều tra khi có những yếu tố bất khả kháng,
để giảm bớt nhu cầu sử dụng nhân, vật lực trong hoạt động điều tra không cần thiết khi
chưa đủ điều kiện để kết luận đối với vụ án.
- Công tác THQCT và KS việc tạm đình chỉ điều tra nhằm đảm bảo việc tạm đình
chỉ điều tra của Cơ quan điều tra là có căn cứ, đúng pháp luật; chống bỏ lọt tội phạm;
đảm bảo vụ án được đưa ra giải quyết kịp thời theo quy định của pháp luật khi căn cứ
tạm đình chỉ không còn.
* Kỹ năng THQCT và kiểm sát việc tạm đình chỉ
- Khi nhận được QĐ tạm đình chỉ điều tra và hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra

chuyển sang, Kiểm sát viên được phân công THQCT và Kiểm sát điều tra phải vào sổ
9


thụ lý, tiến hành kiểm tra các tài liệu có trong hồ sơ theo bảng thống kê của Cơ quan
điều tra.
- Kiểm tra thể thức Quyết định tạm đình chỉ đã đảm bảo theo quy định tại Điều
132 Bộ luật Tố tụng hình sự hay không, Quyết định phải bao gồm: số, ngày, tháng, năm,
địa chỉ ban hành văn bản tố tụng; căn cứ ban hành văn bản tố tụng; nội dung văn bản tố
tụng; họ tên, chức vụ, chữ ks của người ban hành văn bản tố tụng và đóng dấu.
- Tiến hành kiểm sát căn cứ tạm đình chỉ có thuộc một trong các trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều 229 Bộ luật Tố tụng hình sự hay không. Quá trình kiểm sát nếu
hồ sơ chưa thể hiện đầy đủ căn cứ tạm đình chỉ thì yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung tài
liệu chứng minh cho căn cứ tạm đình chỉ theo quy định.
- Đối với trường hợp Quyết định tạm đình chỉ căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 229
“Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu” thì cần kiểm sát xem Cơ quan điều tra đã
ra Quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ hay chưa.
- Tiến hành kiểm sát về thẩm quyền ký ban hành Quyết định, chủ thể ban hành có
đúng theo quy định tại Điều 36 BLTTHS hay không.
- Kiểm sát về trình tự, thủ tục ban hành có đúng theo quy định hay không;
- Kiểm sát về thời gian gửi Quyết định tạm đình chỉ cho Viện kiểm sát có đúng với
quy định tại khoản 3 Điều 229 BLTTHS.
+ Trong quá trình kiểm sát nếu chưa đủ căn cứ để kết luận hoặc phát hiện thiếu sót
phải kịp thời yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành bổ sung, khắc phục để có đủ căn cứ kết
luận đối với Quyết định tạm đình chỉ điều tra.
+ Trường hợp xét thấy Quyết định tạm đình chỉ điều tra không có căn cứ và trái
pháp luật thì KSV báo cáo, đề xuất Lãnh đạo ra Quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình
chỉ và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra theo quy định tại Điều 235 BLTTHS.
+ Khi phát hiện bị can trốn hoặc không xác định được bị can ở đâu mà Cơ quan
điều tra chưa ra quyết định truy nã bị can, thì KSV báo cáo lãnh đạo Viện ra văn bản

yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can trước khi tạm đình chỉ điều tra
theo quy định tại Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự.
10


+ Quá trình kiểm sát nếu Quyết định tạm đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra là
có căn cứ, đúng pháp luật thì tiến hành báo cáo với Lãnh đạo Viện.
+ Sau khi được sự thống nhất của Lãnh đạo Viện, Kiểm sát viên được phân công
trách nhiệm lập, xây dựng hồ sơ án tạm đình chỉ theo đúng quy định về việc lập hồ sơ
kiểm sát của Ngành và bàn giao cho Bộ phận Văn phòng quản lý đúng theo tinh thần
Chỉ thị số 06/CT-VKSTC của Viện trưởng VKSNDTC.
+ Sau khi vụ án được tạm đình chỉ, Kiểm sát viên được phân công phải mở số
quản lý, theo dõi các vụ án tạm đình chỉ và phục hồi điều tra; kiểm sát việc ra quyết
định đình nã của Cơ quan điều tra sau khi bắt được bị can.
+ Đình kỳ (hằng tháng, 03 tháng, 06 tháng, 01 năm) phối hợp với Cơ quan điều tra
cùng cấp rà soát, đối chiếu, phân loại, thống nhất đề xuất xử lý các trường hợp tạm đình
chỉ điều tra để báo cáo Lãnh đạo Viện.
+ Khi thấy lý do tạm đình chỉ không còn thì Kiểm sát viên được phân công thụ lý
giải quyết vụ án phải báo cáo, đề xuất Lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều
tra phục hồi điều tra để tiến hành điều tra theo quy định tại Điều 235 Bộ luật Tố tụng
hình sự nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
+ Đối với những trường hợp tạm đình chỉ điều tra nhưng đã hết thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự, thì phải kịp thời yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ
điều tra theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 230 và khoản 5 Điều 157 Bộ luật Tố
tụng hình sự
+ Kiểm sát viên được phân công thụ lý giải quyết vụ án đang tạm đình chỉ điều tra
nếu không còn tiếp tục nhiệm vụ phải bàn giao đầy đủ các hồ sơ, sổ sách theo quy định
của Ngành cho Kiểm sát viên mới được phân công.

11



4. Hoạt động của kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ
thẩm.
* Hoạt động chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm hình sự của Kiểm sát viên.
a. Nghiên cứu hồ sơ vụ án.
Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án. Kiểm sát viên có thể vận dụng một số
phương pháp sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu toàn diện vụ án: Phương pháp này đòi hỏi Kiểm sát
viên không được chủ quan chỉ tập trung nghiên cứu những tài liệu mà mình cho đó là có
ý nghĩa làm nguồn chứng cứ còn tài liệu khác thì bỏ qua. Các tài liệu (muốn trở thành)
chứa đựng chứng cứ (buộc tội hoặc gỡ tội) đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Không
thể xem xét các tài liệu một cách biệt lập, tách rời.
- Phương pháp hệ thống, lôgic: Kiểm sát viên cần phân loại tài liệu theo tập
(nhóm) hợp lý phù hợp với chủ đề nghiên cứu theo một trật tự nhất định. Kiểm sát viên
cần hệ thống các tài liệu, chứng cứ chứng minh các sự kiện phạm tội, qua đó bằng hoạt
động tư duy có thể dựng lại được toàn bộ vụ án diễn ra trong thực tiễn. Thông thường
có thể phân thành các tập: Tập về thủ tục tố tụng; tập về kết quả khám nghiệm; tập về ý
kiến của những nhà chuyên môn, kỹ thuật; tập về biên bản ghi lời khai; các tài liệu kết
thúc điều tra; các tài liệu về nhân thân bị can; các tài liệu về thu giữ vật chứng, kê biên.
- Phương pháp so sánh, tổng hợp: Hồ sơ vụ án gồm nhiều tài liệu như các tài
liệu về lời khai của bị can, người bị hại, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi v.v. trong đó có tài liệu mâu thuẫn với nhau như các lời khai
của người làm chứng mâu thuẫn với các lời khai của bị can hoặc lời khai của bị can mâu
thuẫn với các tài liệu khác như biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi
v.v.. Khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên cần đối chiếu, so
sánh để loại trừ những nội dung không hợp lý, chắt lọc các nội dung hợp lý để phân
tích, đánh giá một cách tổng hợp về các tình tiết của vụ án. Phương pháp này đòi hỏi
Kiểm sát viên không những nghiên cứu một cách toàn diện, lôgíc mà còn biết so sánh,


12


tổng hợp để xác định các tình tiết có thực của vụ án, loại trừ những tình tiết không có
thực của vụ án.
- Phương pháp ghi chép hồ sơ, tài liệu: Yêu cầu của phương pháp này là đối với
những lời khai của bị can, bị hại, người làm chứng… phải lược ghi những nội dung
chính. Tài liệu ghi chép, cần phải sắp xếp khoa học theo từng tập, có viện dẫn bút lục
trong hồ sơ để dễ tìm khi cần thiết. Tránh tình trạng không ghi chép, chỉ sao chụp
(photocoppy) lại các bản lời khai, sẽ dẫn đến thiếu chủ động, lúng túng; nhất là khi gặp
trường hợp bị cáo hoặc luật sư đưa ra những lý lẽ trái ngược với lời buộc tội của Kiểm
sát viên. Đối với những chứng cứ quan trọng như Biên bản khám nghiệm hiện trường,
kết luận giám định v.v… cần phải sao chép, photocopy để sử dụng tại phiên toà, vì
những tài liệu này khi viện dẫn cần phải chính xác.
Nghiên cứu các thủ tục tố tụng của hồ sơ vụ án.
- Kiểm tra thủ tục giao nhận hồ sơ vụ án và vật chứng của vụ án.
+ Kiểm sát viên kiểm tra chặt chẽ thủ tục giao nhận hồ sơ và vật chứng vụ án
giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát bằng cách nghiên cứu biên bản bàn giao hồ sơ
và đối chiếu với từng bút lục của hồ sơ vụ án để xem có thiếu bút lục nào không.
+ Căn cứ Mục 20 Thông tư liên tịch số 05/2005 (đối chiếu quy định mới tại thông
tư liên tịch số 04/2018) thì hồ sơ vụ án được đánh số theo trật tự nhất định và để tránh
xảy ra mất mát, thất lạc thì từng trang tài liệu trong các hồ sơ này phải được đóng dấu
bút lục của Cơ quan điều tra và kèm theo bản kê đầy đủ tên tài liệu, số trang từng tài
liệu và lưu trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Kiểm sát viên phải kiểm tra từng trang, tập hồ sơ,
đối chiếu với bảng kê tài liệu có trong hồ sơ để quyết định nhận hay không nhận hồ sơ.
Nếu phát hiện hồ sơ thiếu bút lục thì phải trả hồ sơ để yêu cầu cơ quan điều tra khắc
phục. Nếu đủ và đúng thì nhận và vào sổ thụ lý và ghi ngày nhận hồ sơ vào bìa hồ sơ.
- Nghiên cứu các thủ tục tố tụng của hồ sơ vụ án: Thủ tục tố tụng trong giai đoạn này
là các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
+ Quyết định tố tụng trong giai đoạn điều tra là quyết định được ban hành theo

quy định của BLTTHS của Cơ quan điều tra do Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan
13


điều tra ban hành; của Viện kiểm sát do Viện trưởng, Phó Viện trưởng ban hành như:
Bắt bị can để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả
tang hoặc đang truy nã, tạm giữ, tạm giam, gia hạn tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi
cư trú, hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn, khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can,
ủy thác điều tra v.v.
+ Hành vi tố tụng trong giai đoạn điều tra là hành vi được thực hiện trong hoạt
động tố tụng của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng, Điều tra viên Cơ quan điều tra, Viện
trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát như: Hỏi cung bị can, lấy lời khai
người làm chứng, đối chất, nhận dạng, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,
thực nghiệm điều tra v.v.
Khi nghiên cứu các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan và người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên chú ý:
+ Kiểm tra tính hợp pháp các quyết định và hành vi tố tụng bằng cách nghiên
cứu, xem xét các quyết định, hành vi tố tụng ấy đó có được ban hành đúng trình tự, thủ
tục, thẩm quyền và thời hạn không? Người ra quyết định là ai, thời hạn đã đúng chưa?
Người phải thi hành quyết định đã nhận được quyết định đó và được giải thích quyền và
nghĩa vụ chưa? Thời hạn thực hiện các quyết định và hành vi tố tụng như thế nào, có
quyết định nào hết hạn chưa?
+ Kiểm tra tính có căn cứ của các quyết định và hành vi tố tụng bằng cách nghiên
cứu xem các quyết định và hành vi tố tụng đó đã đảm bảo đúng căn cứ ban hành chưa?
Việc viện dẫn điều luật để áp dụng khi ra quyết định, hành vi tố tụng đã phù hợp với
việc giải quyết vụ án hay chưa? Ví dụ: Khi Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ vụ
án thì Kiểm sát viên cần chú ý nghiên cứu, xem xét căn cứ để ra quyết định đình chỉ vụ
án đã đúng chưa? Nếu phát hiện việc vận dụng pháp luật sai thì Kiểm sát viên yêu cầu
Cơ quan điều tra khắc phục.
Nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ của hồ sơ vụ án.

- Nghiên cứu bản kết luận điều tra: Bản kết luận điều tra là văn bản xác nhận kết
quả của quá trình hoạt động điều tra, trong đó nêu rõ diễn biến của hành vi phạm tội,
14


các chứng cứ chứng minh tội phạm, nhân thân bị can và quan điểm đề xuất xử lý vụ án
của Cơ quan điều tra. Khi nghiên cứu Bản kết luận điều tra kiểm sát viên cần chú ý:
+ Nắm chắc nội dung bản kết luận điều tra như: Vụ án diễn biến như thế nào, thời
gian, địa điểm xảy ra vụ án, hành vi phạm tội cụ thể của bị can, hậu quả, động cơ, mục
đích phạm tội…; họ tên, tuổi, nhân thân, địa chỉ của bị can, quan điểm xử lý vụ án của
Cơ quan điều tra như thế nào, việc đình chỉ điều tra có đúng không, thời hạn điều tra có
đảm bảo không? Việc tách ra như vậy có đúng các tình tiết của vụ án không như thế
nào, việc đình chỉ điều tra như vậy đã đúng chưa?. Việc nắm được nội dung cơ bản vụ
án và các tình tiết của hành vi phạm tội thể hiện trong bản kết luận điều tra giúp cho
Kiểm sát viên có những cơ sở đánh giá bước đầu về tính có căn cứ, tính hợp pháp khi
nghiên cứu các tài liệu tiếp theo.
+ Nghiên cứu kỹ các nội dung về đề nghị truy tố, xem bản kết luận điều tra đã
nêu rõ các chứng cứ đề chứng minh tội phạm chưa? Đã nêu rõ lý do và căn cứ đề nghị
truy tố chưa? thế nào?. Căn cứ khoản 1 Điều 163 BLTTHS (đối chiếu Điều 233
BLTTHS năm 2015) thì bản kết luận có nêu những ý kiến đề xuất giải quyết vụ án của
Cơ quan điều tra làm sở cho việc truy tố của Viện kiểm sát. Tuy nhiên có trường hợp,
căn cứ bản kết luận điều tra, nhận thức giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không
thống nhất về tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội. Bởi lẽ, quy định của pháp
luật không bắt buộc cơ quan điều tra phải nêu rõ tội danh và điều, khoản được áp dụng.
- Nghiên cứu biên bản hỏi cung bị can: Biên bản hỏi cung bị can là văn bản
không những xác định kết quả cụ thể của hoạt động điều tra mà còn là tài liệu, chứng cứ
nhằm làm rõ sự thật về hành vi phạm tội của bị can và đồng phạm. Căn cứ Điều 131 Bộ
luật TTHS (đối chiếu quy định BLTTHS 2015) thì việc hỏi cung bị can do Điều tra viên
hoặc Kiểm sát viên tiến hành. Khi nghiên cứu lời khai của bị can, Kiểm sát viên cần chú
ý các vấn đề sau đây:

+ Nghiên cứu tính hợp pháp của biên bản hỏi cung bị can. Kiểm sát viên căn cứ
các điều 131, 132 BLTTHS (đối chiếu quy định BLTTHS năm 2015) để kểm tra tính
hợp pháp của hoạt động hỏi cung bị can. Để đảm bảo tính hợp pháp của biên bản hỏi
15


cung bị can, Kiểm sát viên cần đối chiếu để xem xét, đánh giá biên bản hỏi cung ấy có
phù hợp với các quy định của pháp luật hay không? Kiểm sát viên phải xem ai là người
hỏi cung, đơn vị, chức vụ; khi hỏi cung đã giải thích quyền và nghĩa vụ của bị can theo
quy định tại Điều 49 Bộ luật TTHS chưa; thời gian bắt đầu và kết thúc việc hỏi cung,
nếu hỏi vào ban đêm thì người hỏi cung có ghi rõ lý do không; nếu biên bản có nhiều
trang thì mỗi trang đã có chữ ký của bị can chưa, nếu hỏi nhiều lần thì mỗi lần hỏi có
ghi rõ lần thứ mấy không; các câu hỏi và trả lời đã được ghi đầy đủ chưa. Nếu cuộc hỏi
cung có người bào chữa, phiên dịch hoặc người đại diện hợp pháp tham dự thì người hỏi
cung đã giải thích quyền, nghĩa vụ cho họ như thế nào, cuối bản cung người hỏi cung, bị
can và những người tham gia hỏi cung đã ký vào biên bản như thế nào. Trong trường
hợp người bào chữa hỏi bị can thì Kiểm sát viên cần kiểm tra xem biên bản hỏi cung bị
can đã ghi đầy đủ chưa? Trong trường hợp bị can tự viết lời khai thì cán bộ hỏi và bị can
ký xác nhận ra sao? Trường hợp có băng ghi âm cuộc hỏi cung thì người hỏi cung có
thông báo cho bị can biết không; những chỗ viết thêm, gạch xoá đã được người hỏi
cung và bị can ký xác nhận như thế nào. Nếu Kiểm sát viên hỏi cung thì biên bản hỏi
cung cũng được kiểm tra kỹ như trên.
+ Nghiên cứu về tính có căn cứ của biên bản hỏi cung bị can. Để làm rõ tính có
căn cứ của biên bản hỏi cung bị can, Kiểm sát viên cần nắm được tình hình bị can khai
báo như thế nào? (bị can nhận tội, bị can không nhận tội, bị can nhận tội sau đó phản
cung...); tổng hợp xem trong hồ sơ vụ án có bao nhiêu bản cung của bị can, trong đó có
bao nhiêu bản cung bị can nhận tội, bao nhiêu bản cung không nhận tội, thời gian nhận
tội và không nhận tội diễn ra như thế nào. Đây là những tài liệu quan trọng để đối chiếu
với các lời khai của các bị can, người làm chứng khác, qua đó có đánh giá, xem xét quá
trình điều tra vụ án diễn ra khách quan như thế nào. Ví dụ, trước khi bắt giam thì bị can

không nhận tội, sau khi vào trại giam thì nhận tội, đến khi Kiểm sát viên hỏi cung bị can
lại không nhận tội và khai rằng trong nhà tạm giam bị can bị bức cung. Từ những thông
tin này Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ các bản cung để xem xét tính chính xác của

16


bản cung và dự kiến sắp tới Kiểm sát viên cần hỏi thêm nội dung gì để kết luận về tính
có căn cứ của các biên bản hỏi cung bị can.
Khi nghiên cứu biên bản hỏi cung bị can kiểm sát viên cần lưu ý một số trường
hợp sau:
+ Đối với trường hợp bị can nhận tội thì cần kiểm tra xem việc nhận tội đó có nội
dung như thế nào? Các tình tiết đó đã được xác minh ra sao? Kết quả xác minh có phù
hợp với các chứng cứ khác không? Nếu các tình tiết của lời khai nhận tội đó đã được
xác minh và phù hợp với các chứng cứ khác thì lời khai đó có cơ sở tin cậy. Đây là tài
liệu, chứng cứ quan trọng của hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên cần nghiên cứu, xem xét một
cách toàn diện trong mối quan hệ với các chứng cứ khác.
+ Đối với trường hợp bị can khai nhận tội cho người khác thì Kiểm sát viên phải
nghiên cứu kỹ tài liệu trong hồ sơ vụ án, kết hợp với các chứng cứ khác để xem xét vị
trí, vai trò của bị can trong vụ án như thế nào. Quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm
sát viên phải tự đặt các câu hỏi: Tại sao bị can lại khai nhận trách nhiệm về mình? Lời
khai nhận đó đã được xác minh chưa?
+ Đối với trường hợp bị can không nhận tội thì Kiểm sát viên cần đọc kỹ các tình
tiết không nhận tội như thế nào, các tình tiết đó đã được xác minh chưa? Kết quả xác
minh lời khai không nhận tội đó đã bị các chứng cứ khác bác bỏ như thế nào? Nếu có
căn cứ bác bỏ lời khai không chính xác đó thì biên bản hỏi cung bị can cũng cần được
xác định.
Tóm lại: Khi nghiên cứu lời khai của bị can thì dù lời khai đó có nhận tội hay
không nhận tội, Kiểm sát viên phải chú ý xem lời khai đó có căn cứ hay không. Chỉ
được coi là chứng cứ khi lời khai đó phù hợp với các chứng cứ khác. Đặc biệt đối với

các lời khai của những bị can không biết chữ, hoặc lời khai của những người bị hạn chế
về thể chất, tinh thần mà nhờ người khác viết thì Kiểm sát viên phải nghiên cứu thật kỹ
lưỡng các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án để xem việc nhận tội đó có phù hợp với
sự thật khách quan của vụ án không.

17


- Nghiên cứu lời khai của người bị hại, nguyên đơn dân sự bị đơn dân sự, người
có quyển lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Căn cứ Điều 137 BLTTHS (đối chiếu quy
định BLTTHS năm 2015) thì việc lấy lời khai của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên
tiến hành và phải được lập biên bản theo đúng quy định của pháp luật. Khi nghiên cứu
lời khai của những người này Kiểm sát viên cần chú ý các nội dung sau:
+ Nghiên cứu tính hợp pháp của biên bản ghi lời khai: Xem người lấy lời khai đã
giải thích quyền và nghĩa vụ của họ chưa, mối quan hệ giữa họ với bị can ra sao, liên
quan với các tình tiết của vụ án như thế nào. Trong trường hợp lời khai của người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa đến 16
tuổi thì cơ quan điều tra đã mời cha, mẹ, người đại diện hợp pháp hoặc thầy giáo, cô
giáo tham gia buổi hỏi cung theo đúng quy định tại khoản 5 Điều 110 BLTTHS (đối
chiếu quy định BLTTHS năm 2015) chưa? Các lời khai của những người này đã được
người lấy lời khai đọc và cùng ký tên trong các biên bản ghi lời khai như thế nào?.
+ Nghiên cứu tính có căn cứ của lời khai: Nghiên cứu, xem xét việc những người
này khai về diễn biến của hành vi phạm tội như thế nào, nhất là về hành vi phạm tội của
bị can ra sao; đối chiếu với lời khai của bị can và những người làm chứng khác để xem
có tình tiết nào phù hợp, tình tiết nào mâu thuẫn, những mâu thuẫn đó đã được xác minh
và đối chất chưa. Những tình tiết của vụ án phù hợp hoặc không phù hợp giữa các lời
khai thì cần được ghi chép kỹ vào bản nghiên cứu để tổng hợp đánh giá đồng thời kiểm
tra kỹ những quan điểm của họ về giải quyết bồi thường thiệt hại ra sao để xem xét việc
bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị

đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Nghiên cứu lời khai của người làm chứng: Căn cứ Điều 55 Bộ luật TTHS (đối
chiếu quy định BLTTHS năm 2015) thì người làm chứng là người biết được những tình
tiết liên quan đến vụ án (có thể trực tiếp hay gián tiếp). Căn cứ Điều 135 BLTTHS (đối
chiếu quy định BLTTHS năm 2015) thì Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên tiến hành lấy lời

18


khai của người làm chứng và phải lập biên bản theo quy định của pháp luật. Khi nghiên
cứu lời khai của người làm chứng Kiểm sát viên cần chú ý đến các nội dung sau đây:
+ Kiểm tra tính hợp pháp của các biên bản ghi lời khai người làm chứng. Kiểm sát
viên cần kiểm tra xem thời gian, địa điểm ghi lời khai, mỗi người làm chứng có bao nhiêu
lời khai, khi lấy lời khai Điều tra viên đã giải thích quyền và nghĩa vụ của người làm chứng
chưa, nhất là trách nhiệm của họ về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo
gian dối. Biên bản ghi lời khai đã phản ảnh đầy đủ các thông tin về mối quan hệ giữa người
làm chứng với bị can, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan chưa? Nếu người làm chứng chưa đủ 16 tuổi thì kiểm tra xem khi hỏi
cung đã có sự mặt tham dự của cha, mẹ, thầy, cô giáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ
chưa? Những người này đã ký vào biên bản cùng với người làm chứng và người ghi lời
khai như thế nào? Nếu có những điểm nào mà người làm chứng hoặc người tham gia yêu
cầu sửa chữa thì người ghi lời khai đã ghi bổ sung chưa?
+ Về nội dung chứng cứ lời khai của người làm chứng: Kiểm sát viên cần kiểm
tra xem người hỏi đặt câu hỏi như thế nào và người làm chứng đã trình bày ra sao? Nội
dung trình bày của người làm chứng là do họ biết được các tình tiết của vụ án hay là họ
nghe người khác kể lại. Ngoài ra, Kiểm sát viên phải đối chiếu với các chứng cứ khác
xem có phù hợp hoặc mâu thuẫn với chính lời khai của mình và với các tài liệu đã có
như: lời khai của bị can, người bị hại, người làm chứng, bị đơn dân sự, nguyên đơn dân
sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.v.v. Những nội dung nào phù hợp hoặc mâu
thuẫn trong lời khai của người làm chứng so với các tình tiết khác của vụ án thì Kiểm

sát viên cần ghi cụ thể, rõ ràng để phân tích đánh giá một cách tổng hợp, khách quan.
- Nghiên cứu biên bản đối chất: Sau khi nghiên cứu biên bản hỏi cung bị can,
biên bản ghi lời khai người bị hại, bị đơn dân sự, nguyên đơn dân sự, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan, biên bản ghi lời khai người làm chứng, Kiểm sát viên cần nghiên
cứu biên bản đối chất. Tuy nhiên, không phải trong bất kỳ vụ án nào hoạt động đối chất
cũng đều được tiến hành, căn cứ Điều 138 BLTTHS (đối chiếu quy định BLTTHS năm
2015) thì khi có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người thì Điều tra viên
19


hoặc Kiểm sát viên tiến hành đối chất, khi tiến hành đối chất phải được lập biên bản.
Khi nghiên cứu biên bản đối chất Kiểm sát viên cần chú ý các nội dung sau đây:
+ Kiểm tra tính hợp pháp của việc đối chất: Kiểm sát viên phải kiểm tra những
người được đối chất đó là ai (bị can, người bị hại, người làm chứng...), trước khi tiến
hành đối chất Điều tra viên đã giải thích cho họ biết về trách nhiệm từ chối, trốn tránh
khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối chưa? Điều tra viên đã hỏi họ về mối quan hệ
giữa những người tham gia đối chất với nhau chưa? Điều tra viên đã đọc lại biên bản
đối chất cho những người có mặt nghe chưa? Việc ký vào biên bản như thế nào, có ai
sửa chữa, ghi thêm nội dung nào vào biên bản không?
+ Về nội dung tính có căn cứ của biên bản đối chất: Kiểm sát viên cần kiểm tra
các câu hỏi và trả lời của biên bản đối chất xem nội dung đã giải quyết các mâu thuẫn
chưa? Những người tham gia đối chất đã trả lời về những tình tiết cần làm sáng tỏ như
thế nào, họ đã trình bày và giải thích về những mâu thuẫn giữa lời khai của họ với lời
khai của những người khác, giữa lời khai hiện nay và trước đây như thế nào? Qua trả lời
của những người tham gia đối chất thì đã giải quyết được mâu thuẫn chưa, nội dung nào
chưa được giải quyết? Những nội dung nào đã được giải quyết hoặc chưa được giải
quyết, Kiểm sát viên cần ghi chép đầy đủ để tiến hành các hoạt động tiếp theo vào bản
nghiên cứu của mình để giải quyết tiếp.
- Nghiên cứu biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi: Khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi là hoạt động điều tra được tiến hành khi vụ án

có hiện trường và có tử thi nhằm nghiên cứu, ghi nhận, mô tả hiện trường, phát hiện, thu
lượm, đánh giá các dấu vết, tin tức, đồ vật, tài liệu có liên quan tại hiện trường để phục
vụ cho công tác điều tra, phát hiện tội phạm. Căn cứ Điều 150 và Điều 151 BLTTHS
(đối chiếu quy định BLTTHS năm 2015) thì mọi trường hợp khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi đều có Kiểm sát viên tham gia. Vì vậy, Kiểm sát viên đã tham gia
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi cần nghiên cứu kỹ một lần nữa các biên
bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi để tiếp tục xem xét, đánh giá các

20


tình tiết của vụ án một cách khách quan và thận trọng. Khi nghiên cứu biên bản khám
nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên cần chú ý:
+ Kiểm tra về tính hợp pháp của biên bản khám nghiệm. Kiểm sát viên nghiên
cứu biên bản để kiểm tra khi cơ quan điều tra tiến hành việc khám nghiệm đã thành lập
hội đồng khám nghiệm chưa? Ngoài 3 thành phần bắt buộc là Điều tra viên, Kiểm sát
viên và người chứng kiến thì còn ai trong số những người sau đây tham gia nữa như các
nhà chuyên môn về khoa học kỹ thuật, bác sỹ pháp y, chuyên gia về súng đạn, chất nổ,
chất cháy, có thể cho bị can, người bị hại, gia đình nạn nhân, người làm chứng được
tham dự. Kết thúc việc khám nghiệm Hội đồng đã thông qua biên bản như thế nào?
Những người tham gia ký vào biên bản ra sao? Nếu qua nghiên cứu phát hiện biên bản
khám nghiệm có vi phạm pháp luật thì Kiểm sát viên phải yêu cầu khắc phục ngay.
+ Kiểm tra về tính có căn cứ của biên bản khám nghiệm. Hoạt động khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi có bốn công việc quan trọng là: Chụp ảnh, vẽ sơ đồ
hiện trường, mô tả hiện trường vào biên bản và cuối cùng là thu lượm, bảo quản vật
chứng, tài liệu thu được tại hiện trường. Kiểm sát viên phải nghiên cứu thật kỹ về tính
có căn cứ của các tài liệu này.
Về bản ảnh, Kiểm sát viên phải kiểm tra kỹ xem có bao nhiêu ảnh, gồm những
thể loại nào? có đủ ảnh chụp toàn cảnh, ảnh trung tâm, ảnh từng phần và ảnh chi tiết
không? Kỹ thuật và phương pháp chụp đã đúng chưa? So sánh ảnh chụp hiện trường với

sơ đồ hiện trường có gì phù hợp hoặc mâu thuẫn.
Về sơ đồ hiện trường, Kiểm sát viên cần kiểm tra bản vẽ sơ đồ hiện trường để xem
đã có đủ sơ đồ chung, sơ đồ từng phần và sơ đồ chi tiết chưa? Kiểm sát viên cần chú ý
nghiên cứu kỹ sơ đồ hiện trường có phù hợp với bản ảnh và biên bản mô tả hiện trường
không? Các số đo, mô hình hiện trường đã được thể hiện đầy đủ trên sơ đồ chưa?.
Về việc thu lượm, bảo quản dấu vết, tài liệu, đồ vật. Đây là những dấu vết vật
chất cần thiết cho việc nghiên cứu sử dụng trong quá trình điều tra, phát hiện tội phạm.
Do vậy khi nghiên cứu, Kiểm sát viên phải kiểm tra việc khám nghiệm hiện trường đã

21


được thu lượm đầy đủ các dấu vết, tài liệu, đồ vật như thế nào, đặc điểm các dấu vết đó
ra sao, kích thước, màu sắc, số lượng, trọng lượng.
Biên bản mô tả hiện trường. Sau khi nghiên cứu bản ảnh, sơ đồ hiện trường, các
dấu vết, tài liệu đã thu lượm, Kiểm sát viên cần chú ý kiểm tra biên bản khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi được ghi chép, mô tả hiện trường như thế nào, đã ghi
đầy đủ kết quả đo đạc, dựng mô hình, vẽ sơ đồ, đủ các dấu vết, đồ đạc, tài liệu của hiện
trường, tử thi chưa? Những dấu vết, tài liệu thu lượm được tại hiện trường, tử thi có
được mô tả đầy đủ trong biên bản không và có phù hợp với đặc điểm riêng của dấu vết,
tài liệu đã được thu lượm không? Các dấu vết đó được thu giữ, niêm phong, đóng gói,
ký xác nhận và bảo quản như thế nào. Những ý kiến của người tham dự, chứng kiến
được ghi trong biên bản ra sao? Sau khi nghiên cứu biên bản khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên đối chiếu với các tài liệu điều tra khác để xem giá trị
chứng minh của các tài liệu, vật chứng đã thu lượm được như thế nào. Đồng thời, qua
nghiên cứu cần kiểm tra, so sánh các dấu vết, vật chứng với các chứng cứ khác để xem
giữa chúng có sự phù hợp hay mâu thuẫn. Những thông tin từ hiện trường đã được Điều
tra viên sử dụng trong việc điều tra phát hiện tội phạm như thế nào?
- Nghiên cứu biên bản nhận dạng: Nhận dạng là hoạt động điều tra nhằm mục
đích khắc phục sự nhầm lẫn, sai lầm trong nhận thức của người làm chứng, người bị hại,

bị can bằng cách cho những người này xác nhận lại đối tượng mà mình đã khai trước
đây. Khi nghiên cứu biên bản nhận dạng Kiểm sát viên cần lưu ý các nội dung sau đây:
+ Kiểm tra tính hợp pháp của biên bản nhận dạng. Căn cứ Điều 139 Bộ luật
TTHS (đối chiếu quy định BLTTHS năm 2015) , Kiểm sát viên cần kiểm tra xem Điều
tra viên đã giải thích cho những người nhận dạng biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn
tránh nhận dạng hoặc cố tình nhận dạng gian dối chưa? Đối với người nhận dạng dưới
16 tuổi thì Điều tra viên có mời cha, mẹ, người đại diện hợp pháp tham dự không?
Người chứng kiến việc nhận dạng đã có mặt đầy đủ chưa? Đối tượng nhận dạng là
người, ảnh, vật có đủ tối thiểu số lượng là ba hay không? Nếu là vật thì có bề ngoài
giống nhau về kích thước, màu sắc, chủng loại, hình dáng, nhãn hiệu không; nếu là
22


người thì có gần nhau về tuổi, tầm thước, hình dáng, khuôn mặt, tóc, mắt, kiểu ăn mặc
quần áo không? Biên bản nhận dạng đã lập theo quy định của pháp luật chưa, những
người tham gia nhận dạng đã ký vào biên bản và có ghi thêm về nội dung nào nữa
không? Đây là các thủ tục bắt buộc, nếu có vi phạm thì Kiểm sát viên kiến nghị ghi
chép đầy đủ để yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục.
+ Kiểm tra tính có căn cứ của biên bản nhận dạng. Kiểm sát viên phải kiểm tra
xem Điều tra viên đã đưa ra các câu hỏi về những tình tiết, đặc điểm, vết tích với người
nhận dạng và nhờ đó họ có thể nhận dạng được như thế nào, nếu câu hỏi có tính chất
gợi ý là vi phạm cần được ghi chép đầy đủ để yêu cầu khắc phục. Khi người nhận dạng
đã nhận dạng được một vật, người, ảnh thì họ đã giải thích như thế nào về căn cứ, đặc
điểm gì mà họ nhận dạng được Những nội dung này đã được ghi đầy đủ trong biên bản
nhận dạng chưa?
- Nghiên cứu biên bản khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật thư tín, điện tín, bưu kiện,
bưu phẩm: Khi nghiên cứu biên bản này, Kiểm sát viên cần chú ý các nội dung sau đây:
+ Kiểm tra tính hợp pháp của biên bản. Kiểm sát viên chú ý kiểm tra biên bản đó đã
được lập theo đúng quy định của pháp luật chưa? Ai ra lệnh, ai là người thi hành? Điều tra
viên đã giải thích quyền, nghĩa vụ cho những người có mặt biết chưa? Khi khám xét chỗ ở,

địa điểm, chỗ làm việc thì ngoài các thành viên trong gia đình còn có đại diện chính quyền
địa phương không? Nếu thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm thì có người phụ
trách cơ quan bưu điện chứng kiến không? Nếu thu giữ đồ vật thì đã niêm phong chưa, có
chữ ký của người chủ đồ vật không? Ai là người được giao bảo quản? v.v.
+ Kiểm tra nội dung biên bản: Kiểm sát viên cần kiểm tra xem nội dung biên bản
đã phản ánh đầy đủ diễn biến của việc khám xét chưa? Các loại vật chứng, tài liệu, đồ
vật, liên quan đến vụ án đã được thu giữ như thế nào, số lượng, chủng loại ra sao, cách
ghi chép, thống kê các đồ vật bị thu giữ như thế nào? Thái độ của người bị khám xét ra
sao? Kiểm sát viên phải nghiên cứu, nắm chắc các vật chứng, đồ vật, tài liệu thể hiện
trong biên bản như thế nào, trên cơ sở đó kiểm tra xem Cơ quan điều tra đã xác minh
làm rõ chưa? Các đồ vật, thư tín, tài liệu, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm đã được xác
23


minh như thế nào và so sánh với các chứng cứ khác xem nó phù hợp hay mâu thuẫn để
xác định giá trị chứng minh của nguồn chứng cứ này? Đối chiếu với các lời khai của bị
can và những người khác có liên quan như người bị hại, nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khai về các đồ vật đã thu giữ như thế nào? Những nội
dung nào chưa được xác minh thì ghi chép để yêu cầu làm rõ. Tiến hành kiểm tra các đồ
vật đã được thu giữ có bị mất, hư hỏng gì không?
- Nghiên cứu biên bản thực nghiệm điều tra: Căn cứ Điều 153 Bộ luật TTHS (đối
chiếu quy định BLTTHS năm 2015) thì để kiểm tra, xác minh những tài liệu, tình tiết có
ý nghĩa đối với vụ án, Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát sẽ tiến hành thực nghiệm
điều tra và phải lập biên bản theo đúng quy định của pháp luật. Khi nghiên cứu biên bản
thực nghiệm điều tra, Kiểm sát viên cần chú ý các nội dung sau đây:
+ Kiểm tra tính hợp pháp của biên bản thực nghiệm điều tra. Thực nghiệm điều
tra do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiến hành, tuy nhiên trong trường hợp cần thiết
người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng cũng có thể tham dự. Do vậy,
Kiểm sát viên cần kiểm tra buổi thực nghiệm hôm đó gồm có những người nào tham dự,
những người đó đã ký vào biên bản chưa? Kiểm tra việc mô tả hiện trường thực nghiệm

như thế nào, có đúng(hoặc gần đúng) với hiện trường thực không? Điều luật không quy
định hiện trường thực nghiệm như thế nào nhưng thực tiễn cho thấy hiện trường thực
nghiệm phải là hiện trường gần giống như hiện trường thật. Ví dụ, hiện trường vụ án
xảy ra ban đêm thì hiện trường thực nghiệm cũng phải vào ban đêm.
+ Kiểm tra tính có căn cứ của biên bản thực nghiệm điều tra. Kiểm sát viên cần
kiểm tra xem những người thực nghiệm đã diễn lại các hành vi, tình huống hoặc các
hoạt động khác như thế nào. Hành vi diễn lại đó có phù hợp với lời khai của họ và phù
hợp với hiện trường không? Cơ quan điều tra đã đo đạc, chụp ảnh, vẽ sơ đồ hiện trường
thực nghiệm như thế nào? Trong trường hợp bị can diễn lại hành vi giết người, người bị
hại có thể mô tả trên hiện trường nơi mình có mặt về những gì mà mình đã biết thì có
phù hợp với nhau hay không?.

24


- Nghiên cứu kết luận giám định: Căn cứ Điều 155 Bộ luật TTHS (đối chiếu quy
định BLTTHS năm 2015) thì khi thấy cần thiết để kết luận những vấn đề liên quan đến
vụ án thì cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Cơ quan giám định sẽ kết luận
theo nội dung trưng cầu của cơ quan yêu cầu. Khi nghiên cứu kết luận giám định, Kiểm
sát viên cần lưu ý các nội dung sau đây:
+ Kiểm tra tính hợp pháp của kết luận giám định. Kiểm sát viên cần kiểm tra xem
thành phần hội đồng giám định gồm những ai, có đủ trình độ để giám định không?
Kiểm tra trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn của người giám định. Đặc biệt, Kiểm
sát viên cần kiểm tra xem những người giám định có phải từ chối tham gia tố tụng hoặc
bị thay đổi trong những trường hợp theo quy định của pháp luật hay không;
+ Kiểm tra tính có căn cứ của nội dung kết luận. Kiểm sát viên cần kiểm tra xem
cơ quan yêu cầu giám định những nội dung gì, các đồ vật, tài liệu cần giám định như thế
nào, các mẫu vật tài liệu để so sánh ra sao? Cơ quan giám định đã áp dụng các phương
pháp, phương tiện giám định như thế nào, có kết luận từng vấn đề ra sao, việc trả lời đã rõ
ràng, chính xác từng câu hỏi của cơ quan trưng cầu giám định chưa? Có nội dung trả lời

nào mà Kiểm sát viên còn băn khoăn, chưa hiểu? Nếu cơ quan trưng cầu hỏi thêm thì cơ
quan giám định đã trả lời như thế nào. Nếu kết luận giám định chưa đáp ứng được yêu
cầu thì có thể trưng cầu giám định lại. Căn cứ khoản 3 Điều 155 Bộ luật TTHS (đối chiếu
quy định BLTTHS năm 2015) thì có 5 trường hợp bắt buộc phải giám định: Nguyên nhân
chết, tính chất thương tật, tổn hại sức khoẻ; tình trạng tâm thần của bị can; tình trạng tâm
thần của người làm chứng, người bị hại; tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại nếu việc đó
có ý nghĩa đối với vụ án; chất độc, ma tuý phóng xạ, tiền giả. Vì vậy, Kiểm sát viên cần
kiểm tra kỹ, nếu những trường hợp trên đây chưa được giám định, hoặc kết luận giám
định chưa rõ ràng thì phải yêu cầu giám định lại hoặc giám định bổ sung lại.
- Nghiên cứu các quyết định xử lý vụ án của Cơ quan điều tra: Căn cứ quy định
từ Điều 160 đến Điều 165 Bộ luật TTHS thì sau khi kết.thúc điều tra, Cơ quan điều tra
sẽ có các quyết định tạm đình chỉ điều tra; truy nã bị can; kết thúc điều tra, đề nghị truy

25


×