Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

V/v tham luận đánh giá tác động của Đối thoại về PCTN trong lĩnh giáo dục và đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.16 KB, 13 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Số

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

/BGDĐT-TTr

V/v tham luận đánh giá tác động của Đối
thoại về PCTN trong lĩnh giáo dục và đào tạo

Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 2011

Kính gửi: Thanh tra Chính phu
Ngành giáo dục xác định công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN) là
nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài trong quá trình triển khai các nhiệm
vụ chính trị của toàn ngành. Vì vậy, ngay sau khi tổ chức thành công Đối thoại về
PCTN trong lĩnh vực giáo dục với các nhà tài trợ quốc tế lần thứ 7 (ngày
28/5/2010) và thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ (Công văn số
3995/VPCP-KNTN ngày 11/6/2010 của Văn phòng Chính phủ) về kết quả tổ chức
Đối thoại về PCTN lần thứ 7 với các nhà tài trợ quốc tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo
(GD&ĐT) đã ban hành Chương trình hành động của Bộ GD&ĐT tăng cường công
tác PCTN sau Đối thoại quốc tế và triển khai thực hiện các khuyến nghị đã được
nêu tại Đối thoại, đồng thời thực hiện một loạt các giải pháp về tuyên truyền, giáo
dục; về đôn đốc thực hiện các quy định của pháp luật PCTN; về thanh tra, kiểm tra
và chấn chỉnh các sai phạm... Sau một thời gian ngắn tập trung thực hiện các nhiệm
vụ nêu trên, công tác PCTN đã có những chuyển biến đáng kể và đạt được kết quả
quan trọng bước đầu.
Trong khuôn khổ của Hội thảo này, Bộ Giáo dục và Đào tạo xin được trao
đổi khái quát nội dung: Đánh giá tác động của Đối thoại về PCTN tới công tác
quản lý nhà nước về Giáo dục và đào tạo; những giải pháp và kết quả PCTN từ


sau Đối thoại về PCTN lần thứ 7 tới nay.
1. Đặc điểm tình hình cua ngành
Hiện nay, hệ thống giáo dục quốc dân nước ta có gần 40.000 cơ sở giáo
dục (bao gồm: các trường mầm non, phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên,
các trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học) với hơn 1 triệu thầy cô
giáo và nhân viên, 23 triệu học sinh, sinh viên.
Bộ GD&ĐT được Chính phủ giao chức năng quản lý nhà nước về giáo dục và
đào tạo trong phạm vi cả nước, nhiệm vụ quản lý trực tiếp các cấp học được phân
cấp như sau: Các trường mầm non (MN), tiểu học (TH), trung học cơ sở (THCS)
thuộc quản lý của các phòng GD&ĐT trực thuộc Uỷ ban nhân dân (UBND) các
quận, huyện; các trường trung học phổ thông (THPT), bổ túc THPT, các Trung tâm
giáo dục thường xuyên thuộc quản lý của các sở GD&ĐT trực thuộc UBND các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các trường dạy nghề do Bộ Lao động -


Thương binh và Xã hội quản lý; hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp, Bộ GD&ĐT chỉ quản lý 1/3 số lượng các trường, còn lại do các bộ,
ngành khác và địa phương quản lý.
2. Kết quả tiếp thu những khuyến nghị sau Đối thoại về PCTN trong
lĩnh vực giáo dục lần thứ 7 đến nay
2.1. Những khuyến nghị, kinh nghiệm đã được tiếp thu từ kết quả Đối thoại
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về kết quả tổ chức Đối
thoại phòng, chống tham nhũng lần thứ 7 với các nhà tài trợ quốc tế “Giao Bộ
GD&ĐT nghiên cứu những kinh nghiệm, khuyến nghị để tiếp thu, vận dụng
những nội dung phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế của Việt Nam nhằm
tăng cường công tác quản lý giáo dục và nâng cao hiệu quả phòng, chống tham
nhũng trong lĩnh vực giáo dục”. Bộ GD&ĐT đã nghiêm túc tiếp thu kết quả của
Đối thoại trong chỉ đạo công tác PCTN. Đó là:
- Kết quả khảo sát của Thanh tra Chính phủ ở giáo dục tiểu học và trung
học cơ sở tại 03 thành phố lớn: Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh về các nội

dung tuyển sinh đầu cấp; các khoản phí ở trường; dạy thêm, học thêm, chỉ ra
những tồn tại, bất cập trong giáo dục phổ thông đã làm phát sinh tham nhũng,
cần có biện pháp hạn chế và khắc phục;
- Tham luận của ông Matthieu Salomon, Tư vấn cao cấp Quốc tế của Tổ
chức Minh bạch Quốc tế (TI) “Một số sáng kiến của Tổ chức Minh bạch Quốc tế
nhằm tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình” đã nêu ra một số
khuyến nghị về việc phải đưa ra các tiêu chuẩn và luật lệ rõ ràng; giảm động
cơ tham nhũng; có cơ chế tố giác sai phạm và tham nhũng; có cơ chế quản lý
thích hợp (bao gồm kiểm toán và kiểm tra thường xuyên)...;
- Khuyến nghị của ông Cameron Hill, Bí Thư thứ nhất cơ quan phát triển
Ôtxtrâylia tại Việt Nam qua bài tham luận “Kinh nghiệm của Ôxtrâylia trong
phòng, chống tham nhũng đối với ngành giáo dục là: Cần có Quy định kèm theo
cơ chế thực tiễn cho phép giám sát quy trình: tuyển sinh, thi tuyển, chấm tuyển,
đề bạt lãnh đạo nhà trường, giáo viên và cán bộ; tăng cường chức năng kiểm
toán nội bộ trong ngành giáo dục; tăng cường công tác giám sát xây dựng, mua
sắm với các cơ chế phù hợp cho sự tham gia của cộng đồng; nâng cao năng lực
cán bộ về quản lý tài chính công và thực hiện kiểm toán...
Bộ GD&ĐT coi đây là những kinh nghiệm tốt cần được áp dụng trong
quản lý GD&ĐT ở Việt Nam; kết quả Đối thoại lần thứ 7 đã được Bộ GD&ĐT
tiếp thu, tuyên truyền, phổ biến đến các cơ sở giáo dục trong ngành bằng các
hình thức như thông qua các hội nghị giao ban, các lớp tập huấn đầu năm học
2010 - 2011, 2011-2012, Bộ GD&ĐT đã lồng ghép nội dung tuyên truyền phổ
2


biến giáo dục pháp luật, trong đó có Luật Phòng, chống tham nhũng và kết quả
Đối thoại.
2.2. Những tác động từ kết quả Đối thoại đến công tác quản lý của ngành
2.2.1. Những bài học kinh nghiệm từ Đối thoại đã góp phần nâng cao
nhận thức và trách nhiệm PCTN của cán bộ, giáo viên và học sinh, sinh viên

toàn ngành.
- Các thông tin từ Đối thoại đã giúp nhận diện rõ hơn những nguy cơ dẫn
đến tham nhũng ở một số lĩnh vực, như:
+ Tham nhũng trong các dự án công đầu tư vào giáo dục, trong các
chương trình mục tiêu quốc gia
+ Tham nhũng từ các dự án mua sắm công;
+ Tham nhũng trong in ấn và phát hành sách giáo khoa;
+ Tham nhũng chạy danh hiệu - thành tích nhà trường;
+ Tham nhũng tiền thù lao phụ cấp giảng dạy;
+ Tham nhũng trong đề bạt, thi tuyển giáo viên;
+ Tham nhũng trong việc chạy điểm, xin điểm và tiêu cực trong thi cử;
+ Tham nhũng trong chạy trường, chạy lớp;
+ Tham nhũng trong dạy thêm, học thêm;
+ Tham nhũng trong lạm thu phí;
+ Tham nhũng trong việc phân lớp chọn, đứng lớp.
- Khái niệm về các hành vi tham nhũng; về công khai, minh bạch; về liêm
chính; về trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục được cập nhật và nêu đầy đủ
hơn.
- Qua các phương tiện thông tin đại chúng kết quả Đối thoại quốc tế về PCTN
trong lĩnh vực giáo dục có sức lan tỏa rộng, thu hút sự quan tâm của nhiều cơ quan tổ
chức xã hội; của học sinh, sinh viên và các bậc cha mẹ học sinh ở tất cả các cấp học
đã tạo nên cơ chế giám sát rộng khắp trong toàn xã hội đối với giáo dục.
2.2.2. Nhận diện các hành vi tham nhũng dễ nảy sinh trong một số lĩnh
vực của ngành giáo dục đã được đề cập trong Đối thoại.
Có thể thấy rằng tham nhũng luôn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của
Nhà nước, không thể tách tệ tham nhũng ngoài nhà nước và bộ máy quản lý nhà
nước. Tham nhũng là căn bệnh đồng hành đặc trưng của mọi nhà nước, nó là
khuyết tật bẩm sinh của quyền lực, là căn bệnh không thể tránh khỏi của các chế
độ. Tham nhũng là vấn đề gây bức xúc của tất cả các chính thể trên thế giới, bất
3



kể trình độ phát triển, thể chế chính trị và truyền thống văn hoá, với những mức
độ khác nhau. Giáo dục và đào tạo là một ngành do nhà nước thống nhất quản lý
nên cũng không thể tránh khỏi căn bệnh bẩm sinh này, bên cạnh những kết quả
đạt được trong công tác PCTN, nhiều biểu hiện tiêu cực đã được hạn chế và
đang được đẩy lùi, nhất là trong thi cử, tuyển sinh, đào tạo. Những vụ vi phạm
liên quan đến tham nhũng được phát hiện đã bị xử lý. Kết quả thanh tra, phát
hiện và xử lý cho thấy một số lĩnh vực thuộc ngành giáo dục dễ nảy sinh các
hành vi tiêu cực, tham nhũng. Có thể khái quát như sau:
2.2.2.1. Trong dạy thêm học thêm (DTHT)
- Hình thức và quy mô: Tình trạng DTHT, chủ yếu xảy ra ở các thành phố
lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và một số thành phố, thị xã, thị trấn của các
tỉnh, thành khu vực đồng bằng. Việc dạy thêm, học thêm sẽ không sai nếu như
đáp ứng được nhu cầu của người học và tổ chức dạy thêm theo đúng quy định
của các cơ quan chức năng. Nhưng thực tế, nhiều trường hợp giáo viên lợi dụng
việc dạy thêm và buộc học sinh phải đi học thêm để thu tiền. Cá biệt, có nơi việc
tổ chức DTHT trở thành một phong trào, trường nào cũng tổ chức dạy thêm,
giáo viên nào cũng có thể tổ chức dạy thêm, bằng nhiều hình thức huy động sự
tham gia học và đóng góp của học sinh cho các buổi dạy thêm của thầy cô. Cá
biệt có một số giáo viên đã cắt giảm chương trình chính khóa theo quy định để
đưa vào dạy thêm, buộc học sinh phải học thêm nhằm vụ lợi.
- Về ảnh hưởng của dạy thêm, học thêm tràn lan: cắt giảm chương trình
chính khoá để dạy tại lớp học thêm; ra đề kiểm tra bài vào các phần mà thầy dạy
tại lớp học thêm; ưu tiên về điểm số đối với các học sinh tham gia học thêm và
phân biệt đối xử đối với các học sinh không tham gia học thêm.... Từ đó đã gây
nên sự bức xúc trong các bậc cha mẹ học sinh, trong dư luận xã hội; làm ảnh
hưởng tới uy tín của các nhà giáo chân chính, uy tín của ngành. Từ thực tế này,
Bộ GD&ĐT đã ban hành văn bản quy định việc dạy thêm, học thêm trong đó
quy định rõ nguyên tắc khi tổ chức dạy thêm, học thêm; quy định các trường

hợp không được dạy thêm; quy định trách nhiệm quản lý của UBND các cấp,
của các cơ quan quản lý giáo dục và trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở giáo
dục.
2.2.2.2. Trong lĩnh vực tuyển sinh đầu cấp
- Hình thức và quy mô: những hiện tượng tiêu cực trong lĩnh vực này có
thể xảy ra ở tất cả các cấp học và chủ yếu là tuyển sinh đầu vào ở giáo dục đại
học (ĐH) và trung cấp chuyên nghiệp (TCCN); tuyển sinh đầu cấp ở MN; TH;
THPT thuộc các thành phố, thị xã lớn. Các hành vi vi phạm xảy ra khi không đủ
điều kiện trúng tuyển vào các trường ĐH, CĐ và TCCN đã tìm mọi cách để
được trúng tuyển, dẫn tới gian lận về hồ sơ tuyển sinh hoặc tiêu cực trong coi
4


thi, chấm thi (thi thay, thi hộ, thi kèm, mua bán điểm); tiêu cực trong việc tuyển
sinh trái tuyến; chạy vào các trường điểm; gian lận về các điều kiện xét tuyển và
tuyển sinh ở hệ không chính quy...
- Về ảnh hưởng: những tiêu cực trên là rao cản của quá trình ổn định và
phát triển của sự nghiệp giáo dục, đào tạo cả nước nói chung và của mỗi nhà
trường, mỗi địa phương nói riêng; đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giáo dục,
đào tạo thực chất; làm tha hoá một bộ phận cán bộ, giáo viên, tạo ra mất công
bằng trong môi trường giáo dục, làm giảm sút niềm tin của xã hội với ngành
giáo dục.
2.2.2.3. Trong lĩnh vực thực hiện các khoản thu trong nhà trườn
Đây là lĩnh vực đã và đang gây nhiều bức xúc trong xã hội đối với một số
cơ sở giáo dục từ giáo dục mầm non đến đại học. Qua công tác thanh tra, kiểm
tra, qua một số vụ việc sai phạm đã được phát hiện và xử lý cho thấy các vi
phạm chủ yếu là: thu sai mức quy định của Nhà nước về học phí và lệ phí tuyển
sinh (thu cao hơn); tự đặt ra các khoản thu đầu năm, đầu cấp ngoài quy định;
mượn danh nghĩa Hội cha mẹ học sinh và gây quỹ các đoàn thể để các bậc cha
mẹ học sinh và học sinh phải đóng góp; việc quản lý và sử dụng các nguồn kinh

phí này đang tồn tại nhiều bất hợp lý.
2.2.2.4. Ngoài ra, còn một số hành vi tham nhũng xảy ra trong lĩnh vực
giáo dục tuy không phổ biến, thiệt hại nhiều về kinh tế song đã gây nên hậu quả
xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với một số cơ sở giáo
dục, ảnh hưởng đến uy tín, phẩm chất của một bộ phận nhà giáo, cán bộ quản lý
trong ngành, tạo nên những vật cản cho quá trình phát triển của giáo dục nước
nhà như: mua bằng, bán điểm trong giáo dục đại học và giáo dục nghề; mua bán
chứng chỉ; cho lên lớp không đủ điều kiện, đầu tư xây dựng, mua sắm thiết bị;
chuyển trường không đúng tiêu chuẩn; công tác in ấn, phát hành sách giáo
khoa...
3. Nguyên nhân cua các tồn tại, hạn chế
Một số vụ việc tiêu cực, tham nhũng đã xảy ra tập trung ở một số lĩnh vực
trong ngành vừa qua là do nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân thuộc về khách
quan, có nguyên nhân chủ quan. Có thể khái quát những nguyên nhân chủ yếu
sau:
Thứ nhất, việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về PCTN
và đề ra các giải pháp về PCTN ở một số cơ sở giáo dục còn chưa cụ thể, còn
mang tính hình thức, chưa tạo được ý thức chủ động, tự giác của các tập thể và
cá nhân trong phòng ngừa, đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng

5


Thứ hai, lương thực tế quá thấp khiến một bộ phận giáo viên không yên
tâm với nghề hoặc muốn giữ được nghề, duy trì cuộc sống bình thường giáo
viên phải dạy thêm, làm thêm việc khác để có thu nhập tăng thêm; và thực tế
cũng có một bộ phận nhà giáo, cán bộ trong ngành trình độ quản lý còn hạn chế,
ý thức tự học, tự bồi dưỡng và rèn luyện còn thấp, ảnh hưởng tác động của mặt
trái của cơ chế thị trường cộng với cuộc sống khó khăn nên đã chạy theo lợi ích
trước mắt dẫn đến những hành vi, việc làm vi phạm những quy định của ngành,

quy định của pháp luật về PCTN.
Thứ ba, ngân sách nhà nước đầu tư còn hạn hẹp, vì muốn có thêm nguồn
kính phí để động viên cán bộ, giáo viên nhà trường cũng như hỗ trợ cho các hoạt
động ngoài giờ lên lớp nên một số cơ sở giáo dục đã phối hợp với Hội cha mẹ
học sinh tổ chức thu thêm một số khoản thu ngoài quy định mang tính tự
nguyện. Tuy nhiên, quy trình thỏa thuận với cha mẹ học sinh còn thiếu sót nên
chưa tạo được sự đồng thuận cao.
Thứ tư, hệ thống chính sách, pháp luật về giáo dục chưa đầy đủ, chưa đồng
bộ, chưa đáp ứng được những đòi hỏi đang đặt ra đối với giáo dục, như: Việc phân
cấp quản lý giáo dục ở tầm vĩ mô còn chồng chéo, chưa rõ (đang tồn tại một số cơ sở
giáo dục, cơ sở dạy nghề do nhiều Bộ, ngành quản lý); phân cấp quản lý các trường
đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp chưa hợp lý, thiếu phối hợp, phân công
chặt chẽ giữa Bộ GD&ĐT với các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố, dẫn đến hiệu lực quản lý nhà nước bị hạn chế; mọi hoạt động của mỗi nhà
trường và sự hỗ trợ đời sống giáo viên vẫn chỉ dựa vào 2 nguồn thu là: ngân sách nhà
nước cấp và thu học phí nhưng mức học phí chậm được điều chỉnh từ năm 1998 đến
nay vẫn giữ 20.000đ/1HS/1tháng, trong khi mức lương tối thiểu tăng gấp 6 lần (từ
144.000 đồng lên 830.000đồng/1tháng, lạm phát tăng trung bình 10% năm kéo theo
mặt bằng giá cả khác tăng liên tục). Đời sống giáo viên và các hoạt động của nhà
trường cũng không nằm ngoài những tác động của việc leo thang giá cả, có tình
trạng thu tiền trường vượt mức quy định vẫn xảy ra là một thực tế.
4. Bộ GD&ĐT đã triển khai đồng bộ một số giải pháp nhằm đẩy
mạnh hơn nữa công tác PCTN trong toàn ngành từ sau Đối thoại
- Bộ GD&ĐT đã ban hành Chương trình hành động về đẩy mạnh công tác
phòng, chống tham nhũng sau Đối thoại với các nhà tài trợ quốc tế lần thứ 7
(kèm theo Quyết định số 3137/QĐ-BGDĐT ngày 30/7/2010 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT).
Chương trình hành động xác định rõ mục tiêu: Đến hết năm 2010, các cơ
sở giáo dục phải xây dựng xong Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia phòng,
chống tham nhũng đến năm 2020 của đơn vị theo kế hoạch chỉ đạo của Bộ

GD&ĐT; đồng thời tạo cơ chế giám sát, ngăn ngừa việc lợi dụng chức vụ, quyền
6


hạn và trách nhiệm được phân công để vụ lợi trên cơ sở xây dựng nền tảng phẩm
chất đạo đức mẫu mực và tấm gương trong sáng của nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục. Chương trình hành động đã nêu ra 5 nội dung công việc và 8 giải pháp
để thực hiện trong thời gian tới. Cụ thể:
- Bộ GD&ĐT đã trình Chính phủ ban hành các Nghị định:
+ Nghị định số 115/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 về quy định trách
nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục. Nghị định đã phân cấp về trách nhiệm
quản lý nhà nước về giáo dục cho các bộ, ngành và địa phương;
+ Nghị định số 40/2011/NĐ-CP ngày 08/6/2011 về sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 49/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục. Nghị định quy định
rõ các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo dục và tăng mức xử phạt.
- Bộ GD&ĐT đã tham gia đầy đủ, nghiêm túc Hội thảo “Chính sách và
thực hành chống tham nhũng trong ngành giáo dục: con đường hướng tới kết
quả và giám sát tiến trình” do các đối tác U4 tại Hà Nội tổ chức từ ngày 1113/10/2010. Thông tin tại Hội thảo là những kinh nghiệm; những nguồn tư liệu
cần thiết giúp cho việc hoàn thiện thể chế và xây dựng được các giải pháp hữu
hiệu phục vụ công tác PCTN của ngành.
- Về công tác tuyên truyền: Trong các đợt tập huấn triển khai nhiệm vụ
đầu năm học của các cấp học vừa qua, Bộ GD&ĐT đều triển khai công tác
PCTN gắn với các nhiệm vụ trọng tâm của năm học đối với các cơ sở thuộc hệ
thống giáo dục quốc dân và yêu cầu xây dựng bổ sung lộ trình triển khai Kế
hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 07/4/2010
cho các đối tượng gồm: Lãnh đạo các Sở GD&ĐT, thanh tra viên, giáo viên dạy
giáo dục công dân và cán bộ cốt cán của 63 tỉnh thành trong cả nước.
-Bộ GD&ĐT đã triển khai nghiêm túc Quyết định số 137/2009/QĐ-TTg

của Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án “Đưa nội dung phòng, chống tham
nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng” (gọi tắt là Đề án 137)
theo đúng lộ trình quy định của Ban Chỉ đạo Trung ương Đề án 137.
- Phối hợp cùng với Học viện quản lý giáo dục đã mở 03 lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ công tác thanh tra cho đối tượng là các cán bộ thanh tra trong các cơ
sở giáo dục đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và sở GD&ĐT của 03
miền, trong đó có nội dung về công tác PCTN.
- Đã dự thảo Thông tư ban hành tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường phổ
thông, hiện đang tổ chức Hội thảo để lấy ý kiến góp ý của các ngành và địa phương.

7


- Đã ban hành các văn bản: Công văn số 6890/BGDĐT-KHTC ngày
18/10/2010 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về hướng dẫn quản lý, sử dụng các
khoản đóng góp tự nguyện cho các cơ sở giáo dục và đào tạo; Công văn số
5584/BGDĐT-KHTC ngày 23/8/2011 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về chấn chỉnh
tình trạng lạm thu trong các cơ sở giáo dục làm cơ sở pháp lý để ngăn chặn việc
tùy tiện đặt ra các khoản thu và mức thu không đúng quy định trong các cơ sở
giáo dục.
- Toàn ngành đã thực hiện nghiêm túc các quy định về công khai, minh
bạch trong hoạt động của cơ quan, đơn vị. Từ năm học 2009 - 2010, Bộ GD&ĐT
đã tập trung chỉ đạo các cơ sở giáo dục và đào tạo thực hiện Thông tư số
09/2009/TT-BGDĐT ngày 07/5/2009 của Bộ trưởng về Quy chế thực hiện công
khai đối với cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân đó là: (1) Công khai
cam kết chất lượng giáo dục và chất lượng thực tế (2) Công khai điều kiện đảm
bảo chất lượng của các cơ sở giáo dục (3) Công khai thu, chi tài chính. Đồng
thời, các cơ sở giáo dục tổ chức thực hiện 4 kiểm tra (kiểm tra mức chi cho giáo
dục từ ngân sách địa phương; kiểm tra việc thu và sử dụng học phí; kiểm tra sử
dụng ngân sách cho giáo dục; kiểm tra việc thực hiện kiên cố hóa trường, lớp và

xây nhà công vụ) góp phần tạo điều kiện cho đổi mới quá trình phát triển giáo
dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông và mầm non. Đến nay, 100% các cơ sở giáo
dục đã thực hiện công khai theo quy định, trong đó có 377 trường đại học, cao
đẳng đã thực hiện 3 công khai trên mạng thông tin của đơn vị và của Bộ. Đây là
những thông tin rất thiết thực cung cấp cho học sinh và các bậc cha mẹ học sinh
biết, đồng thời cũng là kênh quan trọng để các cơ sở giáo dục chịu sự giám sát
của xã hội.
Ngoài ra, Bộ GD&ĐT đã triển khai thực hiện nghiêm túc việc kê khai tài
sản, thu nhập cá nhân tại cơ quan Bộ và chỉ đạo toàn ngành thực hiện đối với các
đối tượng theo quy định của Nghị định 37/2007/NĐ-CP ngày 09/3/2007 của
Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập và bước đầu triển khai Nghị định số
68/2011/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định
37/2007/NĐ-CP ngày 09/3/2007 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập
và bước đầu triển khai Nghị định số 68/2011/NĐ-CP của Chính phủ.
- Về công tác cán bộ: Bộ GD&ĐT đã sắp xếp tổ chức bộ máy của Bộ,
hoàn thiện quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Bộ và các đơn
vị thuộc Bộ, quan tâm và làm tốt công tác quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển cán
bộ; công tác tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; thực hiện chế độ,
chính sách cán bộ trong đó có quy định cụ thể việc cử cán bộ đi học tập, công
tác ở nước ngoài. Ngành đã triển khai Nghị định số 158/2007/NĐ-CP của Chính
phủ về chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức với việc ban
hành Thông tư số 35/2010/TT-BGDĐT ngày 14/12/2010, của Bộ trưởng Bộ
8


GD&ĐT quy định danh mục các vị trí công tác phải thực hiện định kỳ chuyển
đổi đối với công chức, viên chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong
ngành giáo dục. Tất cả những công tác trên đều đảm bảo công khai, minh bạch
và dân chủ, hạn chế tới mức thấp nhất nguy cơ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng.
- Ngành đã gắn công tác phòng, chống tham nhũng với việc đẩy mạnh cải

cách hành chính, đặc biệt là cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan chức năng thuộc Bộ và các cơ sở
giáo dục, đồng thời chống gây phiền hà, sách nhiễu cho người dân. Tiếp tục thực
hiện nghiêm túc Quyết định số 2368/QĐ-BGDĐT ngày 09/5/2007của Bộ trưởng
về việc triển khai áp dụng thí điểm cơ chế “một cửa” tại cơ quan Bộ GD&ĐT,
gồm 9 nhóm công việc. Hàng tháng, kết quả thực hiện quy trình “một cửa” được
đưa vào chương trình giao ban lãnh đạo Bộ. Đến nay, Bộ GD&ĐT đã ban hành
Bộ thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo bao gồm 145 thủ tục
(số thủ tục hành chính do Bộ trực tiếp giải quyết là 67; do UBND cấp tỉnh giải
quyết là 45; do UBND cấp huyện giải quyết là 29 và do UBND cấp xã, phường
giải quyết là 04). Toàn bộ các nội dung của 145 thủ tục hành chính đã được hoàn
tất, in thành sách và phát hành dưới dạng đĩa CDROM, đồng thời được đăng tải
tại chuyên mục Cải cách hành chính trên Website của Bộ GD&ĐT.
- Tăng cường đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra: thanh tra là chức năng
thiết yếu của quản lý, một trong những mục đích chính của công tác thanh tra là
phòng ngừa các sai phạm. Do đó, để công tác PCTN có hiệu quả cần phải tăng
cường công tác thanh tra. Hàng năm, Thanh tra Bộ xây dựng kế hoạch thanh tra,
kiểm tra công tác PCTN trên cơ sở hướng dẫn của Thanh tra Chính phủ và lồng
ghép một số nội dung khác như: thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí; Luật Khiếu nại, tố cáo, thực hiện “Quy chế thực hiện công khai đối với cơ
sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân”. Từ sau Đối thoại đến nay, ngoài
việc tiến hành các cuộc thanh tra chuyên ngành, Thanh tra Bộ đã tiến hành thanh
tra hành chính, PCTN được gần 20 đơn vị, đã chỉ đạo và hướng dẫn Thanh tra
các sở GD&ĐT triển khai thanh tra hành chính và PCTN tại các cơ sở giáo dục
do địa phương quản lý. Đặc biệt, vào đầu năm học 2011-2012 một số địa
phương như: Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng
đã thành lập nhiều đoàn kiểm tra, thanh tra các khoản thu đầu năm tại các cơ sở
giáo dục do địa phương quản lý và đã kịp thời chấn chỉnh các sai phạm. Nhìn
chung các cuộc thanh tra đã góp phần giúp các cơ sở giáo dục thấy rõ được
những ưu điểm và những hạn chế, thiếu sót trong quá trình tổ chức giáo dục, đào

tạo tại đơn vị. Trên cơ sở đó chấn chỉnh các hoạt động ở tất cả các khâu, kịp thời
khắc phục những sai sót và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật. Công tác
PCTN đã được thực hiện có hiệu quả ngay từ cơ sở trong ngành.

9


Đến nay, hầu hết các địa phương và các cơ sở giáo dục trong ngành đã
triển khai đầy đủ các nhiệm vụ theo yêu cầu của Chương trình hành động về đẩy
mạnh công tác phòng, chống tham nhũng sau Đối thoại với các nhà tài trợ quốc
tế lần thứ 7 và đã triển khai xây dựng Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia
về PCTN đến năm 2020, xây dựng chương trình đẩy mạnh PCTN và bổ sung nội
dung thực hiện Kế hoạch triển khai Công ước quốc tế về chống tham nhũng của
Chính phủ.
5. Đánh giá chung về tác động cua Đối thoại đối với ngành giáo dục
Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp trong công tác PCTN sau Đối
thoại nêu trên, ngành giáo dục đã thu được một số kết quả tích cực trên cả hai
phương diện phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng. Cụ thể:
- Công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về PCTN
cũng như những kinh nghiệm, khuyến nghị của Đối thoại đã được tổ chức triển
khai ở tất cả các cơ sở giáo dục;
- Công tác phòng ngừa luôn được chú trọng nên các hành vi tham nhũng
xảy ra trong lĩnh vực giáo dục không nhiều và quy mô không lớn. Đặc biệt,
trong các lĩnh vực đầu tư xây dựng, mua sắm thiết bị giáo dục, các chương trình
mục tiêu quốc gia được nhà nước đầu tư ngân sách rất lớn nhưng qua công tác
kiểm toán hằng năm cho thấy chưa phát hiện có những sai phạm lớn;
- Nhận thức về trách nhiệm công dân trong việc phòng, chống tham nhũng
của cán bộ giáo viên và học sinh, sinh viên trong toàn ngành đã được nâng lên rõ rệt;
- Những vấn đề khó khăn vướng mắc của ngành giáo dục và đào tạo đã
được công khai, minh bạch trao đổi trong Đối thoại, từ đó đã nhận được nhiều

sự chia sẻ của cộng đồng quốc tế đối với giáo dục Việt Nam.
6. Một số kiến nghị
- Cần tổ chức điều tra xã hội học đối với các nội dung Đối thoại ở phạm vi
rộng hơn và có tính đại diện cho các vùng miền khác nhau về địa lý, về điều
kiện cuộc sống;
- Thành phần tham gia Đối thoại cần mở rộng, có nhiều hơn đại diện từ
các đơn vị cơ sở;
- Những kinh nghiệm, những khuyến nghị của Đối thoại cần được tổng
hợp và phổ biến rộng ra cộng đồng.
Trân trọng cảm ơn.

Nơi nhận:

KT. BỘ TRƯỞNG
10


- Như trên;

THỨ TRƯỞNG

- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Lưu: VP, TTr.

Bùi Văn Ga

Phụ lục
Các hành vi tham nhũng đã được phát hiện và
xử lý trong lĩnh vực giáo dục từ 2006 đến nay
I. Các cơ sở giáo dục thuộc quản lý cua Bộ GD&ĐT

.
1. Tại Trường ĐHSPKT Hưng Yên: 01 giáo viên nhận tiền của sinh
viên để photo bài giải thi hết môn (với số tiền: 24.200.000đ), hình thức buộc thôi
việc (hành vi mua bán điểm).
2. Tại Trường ĐH Quy Nhơn: 01 vụ lam thu chi qũy xe đạp, xe
máy. Cơ quan điều tra khởi tố 01 hiệu trưởng và 03 cán bộ nhân viên.
3. Tại Trường ĐHSP Nghệ thuật TW: 01 giáo viên yêu cầu sinh
viên nộp tiền để chạy điểm, đã xử lý kỷ luật cảnh cáo (hành vi mua bán điểm).
4. Tại Trường ĐH KTQD: 01 giáo viên yêu cầu sinh viên nộp tiền
trong khi đang thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn sinh viên làm đề án môn học, đã
bị xử lý kỷ luật cảnh cáo và chuyển làm công tác khác 01 năm.

11


5. Tại Trường Đại học SP thuộc Đại học Đà Nẵng: Đã xử lý kỷ luật
cảnh cáo 01 cán bộ văn thư qua tố cáo của sinh viên lợi dụng nhiệm vụ được
giao có sai phạm trong công tác để vụ lợi.
6. Tại Trung tâm tin học Kinh tế thuộc Trường Đại học Kinh tế
HCM: Một nhóm người có hành vi vi phạm trong việc quản lý tài chính sai quy
định để vụ lợi. Đã xử lý kỷ luật và chuyển công tác khác 04 người gồm: Cảnh
cáo giám đốc Trung tâm; Khiển trách 01 phó Giám đốc và 02 nhân viên.
7. Tại Trường ĐH Nông Lâm TP HCM: Năm 2009, đã xử lý kỷ luật
01 trưởng khoa vì có sai phạm trong việc quản lý kinh phí các lớp đào tạo liên
kết tại đơn vị.
8. Tại cơ quan Bộ: Đã kỷ luật cảnh cáo 01 cán bộ công chức vì
hành vi lợi dụng trách nhiệm được phân công có vi phạm trong việc quản lý
chứng chỉ.
II. Các cơ sở thuộc quản lý cua Bộ, ngành khác
1. Tại Trường Đại học khoa học và Nhân văn thuộc ĐHQG TP.

HCM:
Đã kỷ luật khiển trách 01 tập thể và cảnh cáo 03 cá nhân vì có sai
phạm về tài chính trong việc tuyển sinh và tổ chức đào tạo.
2. Tại Trung tâm hỗ trợ phát triển ứng dụng công nghệ tin học
ngoại ngữ thuộc Hội khuyến học Việt Nam: Đã tổ chức nhiều lớp đào tạo không
đúng quy định; Đã tổ chức thi cấp chứng chỉ ngoại ngữ, tin học không đúng quy
định dể thu lời bất chính (310 chứng chỉ). Hình thức xử lý: đã thu hồi giấy phép
hoạt động và đề nghị Hội khuyến học ra Quyết định giải tán Trung tâm.
III. Các cơ sở thuộc quản lý cua địa phương.
1. Tại Sở GD&ĐT Bến Tre: Trường Tiểu học Bình Thạnh, Thạnh
Phú: Hiệu trưởng, kế toán, Thủ quỹ đã có hành vi tham ô tiền của Nhà nước, đã
xử lý: cách chức đối với Hiệu trưởng, hạ ngạch viên chức đối với kế toán và Thủ
quỹ đồng đồng thời thu hồi về ngân sách số tiền đã tham ô.
2. Tại Sở GD&ĐT An Giang: Xử lý kỷ luật 04 Hiệu trưởng, 3 kế
toán, 4 thủ quỹ vi đã vi phạm trong quản lý tài chính để vụ lợi; Đề nghị khởi tố
01 vụ tham ô trên 700 triệu đồng tại trường THPT Xuân Tô, An Giang.
3. Tại Sở GD&ĐT Kon Tum: Đã xử lý kỷ luật cách chức Hiệu
trưởng trường THPT Bán công Duy Tân vì đã chỉ đạo thu tiền của học sinh
không đúng quy định.

12


4. Tại Sở GD&ĐT Nam Định: Đã xử lý kỷ luật và thu hồi 3,8 triệu
đồng của nhóm giáo viên dạy lớp 10A2, trường THPT Nghĩa Hưng B vì đã tổ
chức thu tiền và dạy thêm học sinh không đúng quy định.
5. Tại Sở GD&ĐT Cà Mau: Vi pham trong quản lý tài chính, đã xử
lý kỷ luật cách chức hiệu trưởng và cảnh cáo phó hiệu trưởng, thu hồi toàn bộ số
tiền chi sai (hơn 110 triệu đồng) tại trường THPT Cái Nước, Cà Mau.
6. Tại Sở GD&ĐT Yên Bái: Vi phạm trong quản lý tài chính, đã

cách chức Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng và hạ ngạch viên chức kế toán, thu hồi
hơn 27 triệu đồng đã chi sai tại trường cấp II,III Cẩm Nhân, Yên Bái.
7. Tại Sở GD&ĐT Hải Phòng: Đã xử lý kỷ luật cách chức 02 Hiệu
trưởng và 01 phó hiệu trưởng (THPT Lý Thường Kiệt; THPT Nguyễn Đức
Cảnh; THPT Tô Hiệu) vì có hành vi tiêu cực trong công tác quản lý.
8. Tại Sở GD&ĐT Đăk Lắk: Đã xử lý kỷ luật khiển trách 02 Hiệu
trưởng, 01 Giám đốc trung tâm vì có biểu hiện tiêu cực trong công tác quản lý.
9.Tại Sở GD&ĐT Quảng Trị: Xử lý kỷ luật 01 cán bộ quản lý vì có
hành vi tham nhũng và thu hồi hơn 37 triệu đồng vào ngân sách nhà nước.
10. Tại Sở GD&ĐT Thái Bình: Năm 2006 cơ quan điều tra truy tố
Giám đốc sở GD&ĐT vì hành vi tham nhũng.
11. Tại Sở GDĐT Tiền Giang: Kỷ luật cảnh cáo 01 Hiệu trưởng vì
hành vi tham nhũng và thu hồi hơn 36 triệu đồng vào ngân sách Nhà nước.
12. Tại Sở GD&ĐT Hà Nội: Đã xử lý kỷ luật Hiệu trưởng và một
số cán bộ giáo viên tại trường Tiểu học Nguyễn Khả Trạc vì có hành vi gian
lận, bớt xén chế độ của học sinh bán trú để vụ lợi.
13. Tại Sở GD&ĐT Bạc Liêu: Năm 2006, cơ quan điều tra đã truy tố
Giám đốc, 01 Phó giám đốc và một số cán bộ công chức tại cơ quan Sở vì có hành
vi tổ chức mua bán điểm thi tốt nghiệp THPT.
14. Tại Sở GD&ĐT TP Hồ Chí Minh: Năm học 2006-2007, đã kỷ luật
buộc thôi việc 01 Hiệu trưởng và cảnh cáo một số cán bộ nhân viên của Trường
THPT Lê Quý Đôn vì có hành vi vụ lợi trong việc cho học sinh chuyển trường.
___________________________

13



×