Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Nguyễn thị hoanh K49KTCT s

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.05 KB, 79 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
----------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN Ở THÀNH PHỐ
HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

NGUYỄN THỊ HOANH

Khóa học: 2015 - 2019


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
----------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN Ở THÀNH PHỐ
HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

Sinh viên thực hiện:

Giáo viên hướng dẫn:

NGUYỄN THỊ HOANH


TS. PHẠM THỊ THƯƠNG

Lớp: K49 - KTCT
Khóa: 2015 – 2019

Huế, tháng 12 năm 2018


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp, ngoài sự nổ lực
của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
quý thầy cô, các cơ quan ban ngành, bạn bè và người
thân.
Đầu tiên, xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Thị
Thương đã tận tình trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt và giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình triển khai nghiên cứu và hoàn
thành đề tài “Phát triển nguồn nhân lực trong các Doanh
nghiệp tư nhân ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đến
quý thầy cô trong khoa Kinh tế Chính trị, Trường Đại học
Kinh tế - Đại học Huế đã tận tình truyền đạt kiến thức
trong những năm tôi học tập, đó là những ý kiến đóng
góp hết sức quý báu.
Xin gửi đến các cô, chú, anh, chị trong Phòng Việc làm
- An toàn lao động Huế lời cảm ơn chân thành vì đã cho
phép và tạo điều kiện thuận lợi để tôi thực tập tại cơ quan

cũng như trong quá trình thu thập số liệu.
Xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã
luôn bên tôi, động viên, khích lệ, ủng hộ tôi trong suốt
thời gian qua.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song không thể tránh
khỏi những sai sót nhất định,vì vậy tôi rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của quý thầy cô giáo và mọi người
để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, kính chúc quý thầy cô dồi dào sức khỏe và
thành công trong sự nghiệp cao quý. Đồng kính chúc cô,
chú, anh, chị Phòng Việc làm - An toàn lao động Huế dồi
dào sức khỏe, đạt được nhiều thành công tốt đẹp trong
công việc cũng như trong cuộc sống. Kính chúc gia đình,
người thân và bạn bè dồi dào sức khỏe.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 12 năm
2018
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hoanh
SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

3


Khóa luận tốt nghiệp

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

GVHD: TS. Phạm Thị Thương


4


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

MỤC LỤC

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

5


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CMNV

Chuyên môn nghiệp vụ

CN – XD

Công nghiệp – xây dựng

CNH,HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa


DNTN

Doanh nghiệp tư nhân

KTTN

Kinh tế tư nhân

KHCN

Khoa học công nghệ

NLĐ

Người lao động

NNL

Nguồn nhân lực

NSLĐ

Năng Suất lao động

PTNNL

Phát triển nguồn nhân lực

SXKD


Sản xuất kinh doanh

TM – DV

Thương mại – dịch vụ

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

6


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương
DANH MỤC CÁC BẢNG

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

7


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương
DANH MỤC HÌNH


SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

8


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là nền tảng thúc
đẩy quá trình kinh tế chuyển đổi mạnh mẽ từ mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào
tài nguyên, lao động chi phí thấp sang kinh tế tri thức; tạo ra những thay đổi lớn về
cung - cầu lao động. Các nhà nghiên cứu cảnh báo, trong cuộc cách mạng này, thị
trường lao động sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động cũng như
cơ cấu lao động. Bởi vậy, sự phát triển của cuộc cách mạng 4.0 đặt ra những đòi hỏi
cấp bách về nguồn nhân lực (NNL), đặc biệt là NNL chất lượng cao, đối với mỗi
quốc gia.
Đối với Việt Nam, trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế, nhu cầu về NNL ngày càng cao. So với nhiều
nước trên thế giới, nước ta có lợi thế dân số đông, tuy nhiên, chất lượng, cơ cấu
NNL nước ta còn nhiều bất cập, hạn chế, cụ thể: thiếu hụt NNL có chất lượng, đội
ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có tay nghề cao.
Do vậy, hơn bất cứ nguồn lực nào khác, phát triển NNL (PTNNL) chiếm một vị trí
trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Thành phố Huế là một trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị xã hội của tỉnh
Thừa Thiên Huế. Trong thời gian qua, thành phố đã tạo nhiều điều kiện để các
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) phát triển. Hiện nay, DNTN duy trì tốc độ tăng

trưởng khá, đến năm 2017, trên địa bàn thành phố có 959 doanh nghiệp, giải quyết
việc làm cho hơn 8008 lao động, mức đóng góp vào ngân sách nhà nước là 85.221
triệu đồng. Thực tế cho thấy, các DNTN đã ngày càng phát triển cả về quy mô
ngành nghề, số lượng và giá trị sản lượng, đã thu hút NNL của nền kinh tế, góp
phần quan trọng trong huy động nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh (SXKD), tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân
sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, DNTN trên địa bàn thành phố còn gặp rất
nhiều khó khăn, bất cập, vẫn chưa phát triển đúng tiềm năng, các DNTN có năng
lực cạnh tranh còn rất thấp so với các loại hình kinh tế khác trên địa bàn thành phố;
SXKD thiếu ổn định, mang nặng tính tự phát, quy mô nhỏ, hiệu quả kinh doanh
SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

9


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

thấp, công nghệ lạc hậu. Song, khó khăn lớn nhất hiện nay vẫn là NNL, mà đặc biệt
là NNL chất lượng cao. Trong thời gian tới, để các DNTN trên địa bàn thành phố
tồn tại và phát triển vững chắc, PTNNL được xem là là một vấn đề cấp bách cần
được giải quyết.
Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết đó, tôi quyết định chọn đề tài: “Phát
triền nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp tư nhân ở thành phố Huế” làm
luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Một trong những nguồn lực quan trọng và quyết định nhất đến tăng trưởng và
phát triển kinh tế bền vững đối với mỗi quốc gia nói chung và mỗi địa phương nói

riêng đó là nguồn nhân lực. Cho đến nay, đã có nhiều công trình bài viết nghiên cứu
về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực ở nhiều góc độ, phạm vi, địa điểm
khác nhau; tiêu biểu như:
- Nguyễn Diệu Hồng, (2016), Phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch ở
thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Trường đại học kinh tế.
-Trần Văn Khải, (2013), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ lưu trú trên địa bàn thành phố Huế, Tỉnh Thừa Thiên
Huế, Luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế, Đại học kinh tế Huế.
- Võ Thị Phương (2013), Phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Đà Nẵng hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học
xã hội và nhân văn, Đại học Đà Nẵng.
- Triều Thị Hải (2016), Phát triển nguồn nhân lực trong các doang nghiệp nhỏ
và vừa tại thành phố Thanh Hóa, Luận văn Thạc sĩ, Trường đại học kinh tế Huế.
- Nguyễn Thùy Linh (2014), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các
khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh cho đến năm 2020, Luận văn Thạc sỹ kinh tế, Đại
học Thái Nguyên.
- Hà Thị Hằng, (2013), Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Thừa Thiên Huế hiện nay, Luận án tiến sỹ
kinh tế, Học viện chính trị - hành chính Quốc Gia Hồ Chí Minh.
SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

10


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

- Phạm Thị Thương, (2012), Phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực công

nghiệp trên địa bàn thành phố Huế, Tạp chí khoa học, Đại học Huế, tập 72B, số 3.
- Và một số công trình khoa học bài viết khác.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu và các bài viết trên đề cập đến vấn đề
nguồn nhân lực dưới các góc độ và phạm vi rộng hép khác nhau. Chưa có công
trình nào đi sâu nghiên cứu có hệ thống về phát triển nguồn nhân lực trong các
doanh nghiệp tư nhân ở thành phố Huế. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “ Nguồn nhân
lực trong các doanh nghiệp tư nhân ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế” làm đề
tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa một số lý luận về NNL, đề tài đánh giá thực trạng
PTNNL trong các DNTN ở thành phố Huế. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm thúc
đẩy sự phát triển NNL trong các DNTN ở thành phố Huế trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày một số lý luận về NNL và NNL trong các DNTN.
- Khảo sát thực tế, phân tích và đánh giá một cách khách quan về thực trạng
phát triển NNL trong các DNTN ở thành phố Huế, rút ra những thành tựu và hạn
chế, nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình PTNNL trong các DNTN ở
thành phố Huế trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2017.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm PTNNL trong các DNTN ở
thành phố Huế trong giai đoạn tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu NNL trong các DNTN ở thành phố Huế, tỉnh Thừa
Thiên Huế
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Địa bàn nghiên cứu: Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
+ Thời gian nghiên cứu: Thu thập thông tin, phân tích, đánh giá NNL tập trung
vào giai đoạn 2015 đến 2017.


SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

11


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

5. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận.
Đề tài sử dụng lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, và những quan điểm chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về NNL và PTNNL. Đồng thời kế thừa
những vấn đề lý luận về NNL, PTNNL,… của các công trình khoa học đã công bố.
- Phương pháp nghiên cứu.
Trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác – Lênin, luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: Để thực hiện đề tài này, tôi đã thu thập
các tài liệu liên quan đến NNL từ sách, báo, tạp chí,..từ các nguồn: thư viện, trung
tâm học liệu, các quầy báo, các cơ quan nhà nước,...sau đó tiến hành chọn lọc, phân
tích, tổng hợp lại các tài liệu để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
+ Phương pháp so sánh: So sánh, đối chiếu những thông tin, những tài liệu
do các bên liên quan cung cấp để đưa ra những nhận xét, kết luận cần thiết.
+ Phương pháp điều tra xã hội học trong quá trình khảo sát thực địa: Phát
phiếu điều tra cho ngẫu nhiên 60 lao động đang làm việc trong các DNTN ở thành
phố Huế. Các phiếu điều tra sau khi thu về được kiểm tra và chọn lọc, đánh giá phù
hợp cho việc nghiên cứu.
+ Phương pháp chuyên gia: Việc tham khảo ý kiến của lãnh đạo chính
quyền, các cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực NNL là những thông tin quý báu giúp
nhóm chúng tôi bổ sung trong quá trình nghiên cứu nhằm làm phong phú và sâu sắc

hơn các kết quả nghiên cứu
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham khảo tốt cho các cơ
quan nghiên cứu, hoạch định chủ trương chính sách PTNNL phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội nói chung và các ngành kinh tế nói riêng.
- Đề tài còn là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học
tập môn kinh tế chính trị và các chuyên đề kinh tế có liên quan tới đề tài.

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

12


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

7. Kết cấu của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo... kết cấu đề tài
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp
tư nhân.
Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp tư nhân ở
thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong các
doanh nghiệp tư nhân ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

13



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương
CHƯƠNG 1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN.
1.1. Quan niệm và tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực
1.1.1 Quan niệm nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực và PTNNL là một trong những vấn đề cốt lõi của sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, đối với
các nước đang phát triển giải quyết vấn đề này đang là yêu cầu bức xúc, vừa mang
tính thời sự, vừa mang tính chiến lược lâu dài. Hiện nay, có rất nhiều quan niệm, ý
kiến khác nhau về NNL và PTNNL.
- Quan niệm nguồn nhân lực
Theo Liên hợp quốc quan niệm NNL là tất cả những kiến thức, các kỹ năng,
kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển
của đất nước. Đây là là yếu tố quan trọng nhất trong kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội
của một quốc gia.
Theo Nguyễn Cảnh Hồ: “Nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người
có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất tinh thần cho xã hội, biểu hiện dưới dạng số
lượng và chất lượng nhất định và tại một thời điểm nhất định” [4,67]. Theo khái
niệm này, NNL được xem xét với tư cách là một nguồn lực của quá trình phát triển.
Ngân hàng thế giới cho rằng nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao
gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp... của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây, NNL
con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn
tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Khi tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị, Nguyễn Tiệp cho rằng:

“Nguồn nhân lực là tổng hòa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao
động xã hội của một quốc gia, trong đó, kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao
động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải
vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước” [8,25].
Có thể thấy rằng, các tác giả nghiên cứu NNL xuất phát từ nhiều góc độ tiếp
cận khác nhau nên có nhiều cách hiểu khác nhau về NNL, nhưng nhìn chung, các
khái niệm đó đều thống nhất về nội dung cơ bản là: NNL là nguồn cung cấp sức lao

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

14


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

động cho xã hội, là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữ vai trò quyết định đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Theo ý kiến của bản thân, tôi
đồng nhất quan niệm với nội hàm này.
Như vậy, khi nói tới NNL, trước hết phải hiểu đó là toàn bộ những NLĐ đang
có khả năng làm việc và các thế hệ những NLĐ tiếp tục tham gia vào các quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. NNL nó còn bao gồm một tổng thể các yếu tố thể lực, trí
lực, kỹ năng lao động, thái độ và phong cách làm việc – đó chính là các yếu tố
thuộc về chất lượng NNL. Ngoài ra khi nói tới NNL phải nói tới cơ cấu của lao
động, bao gồm cả cơ cấu đào tạo và cơ cấu ngành nghề.
- Quan niệm phát triển nguồn nhân lực
Cũng như khái niệm NNL, khái niệm về PTNNL ngày càng được hoàn thiện
và được tiếp cận theo nhiều góc độ khác nhau.
Theo quan điểm của Tổ chức quốc tế về lao động, PTNNL có thể hiểu là: “ Phát

triển nguồn nhân lực bao hàm không chỉ sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề, mà bên cạnh
phát triển năng lực, là làm cho con người có nhu cầu sử dụng năng lực đó để tiến đến
có việc làm hiệu quả cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân”.
Đứng trên quan điểm xem “con người là nguồn vốn – vốn nhân lực”,
Yoshihara Kunio cho rằng phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động đầu tư nhằm
tạo ra nguồn nhân lực với số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển của mỗi các nhân. Theo quan
điểm này thì PTNNL phải phát triển cả trên hai mặt là số lượng và chất lượng. Sự
phát triển này phải đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển của xã hội.
Theo giáo trình Kinh tế lao động, quan niệm PTNNL được hiểu trên khía cạnh
khác: “Phát triển NNL là quá trình phát triển thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và
tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con người;
nền văn hóa, truyền thống lịch sử… Do đó, PTNNL đồng nghĩa với nâng cao năng
lực xã hội và tính năng động xã hội của nguồn nhân lực về mọi mặt; thể lực, trí lực,
nhân cách, đồng thời phân bố, sử dụng và phát huy có hiệu quả nhất năng lực đó để
phát triển đất nước” [6,12].

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

15


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

Thông qua quá trình phân tích, đánh giá có thể thấy, các nhà khoa học đều
thống nhất trong việc đánh giá PTNNL trên hai mặt: chất lượng và số lượng. Về
phát triển chất lượng NNL phải được tiến hành trên cả ba mặt: phát triển nhân cách,
phát triển trí tuệ, thể lực, kỹ năng và tạo môi trường thuận lợi cho NNL phát triển;

Về phát triển số lượng NNL là gia tăng quy mô nguồn nhân lực, điều này tùy thuộc
vào nhiều nhân tố trong đó dân số là nhân tố cơ bản.
Như vậy, mặc dù có nhiều sự diễn đạt khác nhau về PTNNL nhưng đều có một
điểm chung nhất là PTNNL là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi
mặt để tham gia một cách hiệu quả vào quá trình phát triển quốc gia. Vì vậy,
PTNNL được xem là động lực thúc đẩy sự tiến bộ và tác động trực tiếp đến mọi mặt
của đời sống xã hội.
1.1.2 Tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực được xem xét và đánh giá theo hai tiêu chí là số lượng
và chất lượng.
• Số lượng nguồn nhân lực: Số lượng NNL được tính bằng tổng số người đang
có việc làm, số người thất nghiệp và số NLĐ dự phòng. Số lượng NNL được xác
định dựa trên quy mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính, sự phân bố theo khu vực và
vùng lãnh thổ của dân số.
Đối với doanh nghiệp, số lượng lao động tham gia hoạt động trong các doanh
nghiệp là số lượng người trong độ tuổi lao động đang làm việc trong doanh nghiệp
tại một thời điểm nhất định được đánh giá.
• Chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng NNL là toàn bộ năng lực của lực lượng lao động được biểu hiện
thông qua ba mặt: thể lực, trí lực, tinh thần. Ba mặt này có quan hệ chặt chẽ với
nhau cấu thành chất lượng NNL. Trong đó, trí lực là yếu tố quan trọng nhất quyết
định chất lượng NNL.
a. Thể lực
Thể lực là tình trạng sức khỏe của NNL, bao gồm những yếu tố thể hiện sự
phát triển về mặt thể chất lẫn tinh thần. Hiến chương của tổ chức Y tế thế giới
(WHO) đã nêu: Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh
thần và xã hội, chứ không phải là không có bệnh hoặc thương tật. Thể lực là sự phát
SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

16



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

triển hài hòa của con người cả về thể chất lẫn tinh thần (sức khỏe cơ thể và sức khỏe
tinh thần). Thể lực là năng lực lao động chân tay; sức khỏe tinh thần là sự dẻo dai
của hoạt động thần kinh, là khả năng vận động của trí tuệ, biến tư duy thành hành
động thực tiễn.
Người lao động có thể lực tốt thể hiện ở sự nhanh nhẹn, tháo vát, bền bỉ, dẻo
dai của sức khỏe trong công việc; thể lực là điều kiện quan trọng để phát triển trí
lực; giúp NLĐ vượt qua được sức ép của công việc cũng như tạo điều kiện để NLĐ
tìm tòi, sáng tạo ra những nghiên cứu, phát minh mới. Thể lực của NNL được hình
thành, duy trì và phát triển bởi chế độ dinh dưỡng, chế độ chăm sóc sức khỏe. Vì
vậy, thể lực của NNL phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội, phân phối thu
nhập cũng như chính sách xã hội của mỗi quốc gia.
Thể lực được phản ánh bằng một hệ thống các chỉ tiêu cơ bản như: chiều cao,
cân nặng, tuổi thọ, các chỉ tiêu về tình hình bệnh tật, các chỉ tiêu về cơ sở vật chất
và các điều kiện bảo vệ và chăm sóc sức khỏe.
b. Trí lực
Tri thức là yếu tố cơ bản của trí lực, là sự tổng hợp khái quát kinh nghiệm
cuộc sống, là nhận thức lý tính, trí lực được phân tích theo các góc độ sau:
Về trình độ văn hóa
Trình độ văn hóa là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những
kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì sự sống.
Trình độ văn hóa được cung cấp thông qua hệ thống giáo dục chính quy,
không chính quy; qua quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ (CMNV) là kiến thức và kỹ năng cần thiết để
thực hiện yêu cầu công việc của vị trí đang đảm nhận. Trình độ CMNV được phản

ánh ở: tỷ lệ lao động qua đào tạo nói chung và qua đào tạo nghề theo các cấp trình
độ nói riêng.
Trình độ chuyên môn của NLĐ trong doanh nghiệp là một chỉ tiêu rất quan
trọng để đánh giá chất lượng NNL. Trình độ học vấn cao tạo ra điều kiện và khả
năng để tiếp thu, vận dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật một cách nhanh chóng
vào thực tiễn sản xuất kinh doanh; sáng tạo ra những sản phẩm mới. Từ đó, góp
phần thúc đẩy sự phát triển của bản thân doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế - xã

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

17


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

hội nói chung. Thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp cho thấy, NLĐ có trình độ
chuyên môn cao là một trong những động lực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển
nhanh và bền vững. Tuy nhiên, có những doanh nghiệp mặc dù NLĐ có trình độ
chuyên môn cao, nhưng chưa sử dụng nguồn lực này một cách hiệu quả, vì vậy, tốc
độ phát triển cũng như năng suất lao động (NSLĐ) của doanh nghiệp chưa cao.
Nguyên nhân của thực trạng này là do cơ chế quản lý, khai thác và sử dụng NNL
của doanh nghiệp chưa được tốt.
c. Kinh nghiệm/kỹ năng mềm
Khi nói tới NNL, ngoài những tiêu chí đánh giá về mặt thể lực và trí lực của
NLĐ, cần quan tâm đánh giá những kỹ năng, kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết
thực tiễn của NLĐ, những kiến thức và kinh nghiệm được NLĐ rút ra trong quá
trình lao động, làm việc. Bởi vì, kinh nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm
nếm trải trực tiếp của NLĐ được chuyển hóa thành những kỹ năng mềm giúp NLĐ

làm việc đạt được hiệu quả nhờ vào kinh nghiệm tích lũy của mình.
Ngày nay, các doanh nghiệp khi thực hiện tuyển dụng đều tìm kiếm những
ứng viên mà ngoài trình độ CMNV (thường được thể hiện qua bằng cấp, khả năng
học vấn…) còn có những kỹ năng mềm khác hỗ trợ cho công việc. Kỹ năng mềm là
thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng như: kỹ năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc
theo nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, tin học, ngoại ngữ ... là những kỹ năng
thường không phải lúc nào cũng được học trong nhà trường, không liên quan đến
kiến thức chuyên môn. Nó bổ trợ và làm hoàn thiện hơn năng lực làm việc của
NLĐ. Chúng quyết định bạn là ai, làm việc thế nào, là thước đo hiệu quả cao trong
công việc.
Như vậy, có thể khẳng định: NLĐ có trình độ CMNV thôi chưa đủ, kỹ năng
mềm ngày càng có vai trò quan trọng trong công việc của NLĐ, nhất là trong thời
đại cách mạng công nghiệp 4.0, kỹ năng mềm được xem là thế mạnh của NLĐ mà
máy móc không thể thay thế được.
d. Ý thức của người lao động
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, nâng cao ý thức và hình thành tác
phong công nghiệp cho NNL được xem là một trong những yếu tố đánh giá về chất
lượng NNL, là những yếu tố rất quan trọng và đóng vai trò quyết định sự phát triển

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

18


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

bền vững của mỗi quốc gia nói chung và sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng.
Tuy nhiên, yếu tố ý thức của NLĐ không thể định lượng bằng những con số cụ thể

mà được đánh giá thông qua một số yếu tố mang tính chất định tính như sau: ý thức
tổ chức kỷ luật, tự giác trong lao động; biết tiết kiệm; có tinh thần trách nhiệm trong
việc nghiên cứu các sản phẩm; có tinh thần hợp tác; tác phong làm việc khẩn
trương, chính xác; có lương tâm nghề nghiệp.... Tất cả những phẩm chất đó nằm
trong phạm trù đạo đức của con người.
1.1.3 Vai trò của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
Các nhà kinh tế học cho rằng: một nền kinh tế muốn tăng trưởng ở mức bền
vững phải dựa trên 3 trục cơ bản là áp dụng khoa học công nghệ (KHCN) mới, phát
triển cơ sở hạ tầng và PTNNL. Trong đó, PTNNL là then chốt nhất.
Xuất phát từ nhận thức khách quan, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - LêNin: Dù
ở thời đại nào, hay hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người cũng luôn giữ vai trò
quyết định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội, Đảng ta từ khi
ra đời tới nay luôn chăm lo PTNNL. Trong các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng,
cũng đã khẳng định trong các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội thì NNL đóng vai trò
hàng đầu quyết định đến sự thành công trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Nhận thức về vai trò của NNL đối với sự tăng trưởng và phát triển không giống
nhau. Bởi vì mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì có những điều kiện, hoàn
cảnh, tiền đề khác nhau. Bước đầu của cuộc cách mạng công nghiệp người ta cho rằng:
Điều kiện tự nhiên thuận lợi chính là yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển, lúc này,
yếu tố con người bị che lấp bởi những lợi thế tuyệt đối về tự nhiên.
Sang giai đoạn những năm 60, sau khi khoa học kỹ thuật đạt được những thành
tựu đáng kể, đem lại cho NSLĐ, thì lúc này, máy móc, trang thiết bị được đặt lên hàng
đầu và phân bố con người phụ thuộc vào công nghệ kỹ thuật. Nhưng cùng với sự tiến
bố của lịch sử con người đã nhận thức rằng: tài nguyên thiên nhiên cho dù có đa dạng,
phong phú đến đâu với nhu cầu ngày càng cao của xã hội thì nó cũng dần cạn kiệt; máy
móc có hiện đại mà không có người sử dụng thì cũng không mang lại hiệu quả và chỉ
có khai thác ở con người mới vô tận. Bởi vì chính con người sáng tạo ra lịch sử.
Có thể thấy rằng, các nguồn lực như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nó
chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng mà không có sức mạnh tự thân và phát huy hiệu quả


SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

19


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

nếu không có hoạt động ý thức con người. Hơn nữa, chúng là những nguồn lực hữu
hạn, sẽ bị cạn kiệt trong quá trình khai thác và sử dụng. Một nguồn lực có thể sáng tạo
ra các máy móc, thiết bị có thể sử dụng và điều khiển nó, mang tính trí tuệ, nguồn lực
vô hạn đó chính là NNL. Nó ngày càng khẳng định vị trí của mình bởi sự chinh phục
và cải tạo tự nhiên; khám phá những tài nguyên vốn không có sẵn trong tự nhiên.
Bước sang giai đoạn mới vào những năm 90 đến nay, khi cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ đạt được những thành tựu ngoài sức tưởng tượng của con
người, thì vai trò quyết định của con người là không gì có thể phủ nhận được.
Trong lý thuyết Mác khi nói về Chủ nghĩa tư bản (CNTN) cũng khẳng định
rằng, CNTB dù có những máy móc, trang thiết bị hiện đại nếu không có nhân tố con
người sử dụng thì chúng cũng là những vật vô tri vô giác, là vật chết đó mà thôi.
Luận điểm này của Mác đã bác bỏ quan niệm cho rằng: Máy móc tạo ra tất cả của
cải chứ không phải lao động. Để một công ty hoạt động phát triển và thành công,
cần phải có điều hành năng động trong cơ cấu tổ chức và ở tất cả các khâu, các cấp
quản lý, cùng với đội ngũ công nhân có tay nghề và ý thức lao động tốt.
Đối với Việt Nam, Đảng và nhà nước ta đã xác định, trong các nguồn lực phát
triển kinh tế - xã hội như lao động, tài nguyên thiên nhiên, vị trị địa lý, công nghệ
và nguồn từ bên ngoài thì NNL và con người là lợi thế về nguồn lực quan trọng
nhất. Đây chính là khâu đột phá để đẩy nhanh và vững chắc trong quá trình đổi mới
và phát triển đất nước. [19]
Như vậy ta có khái quát rằng, NNL có vai trò rất quan trọng đối với sự phát

triển kinh tế - xã hội, cụ thể như sau:
Trước hết NNL là nhân tố đầu vào không thể thiếu được của bất kì quá trình
kinh tế, xã hội nào. Dù trình độ KHCN thấp hay cao NNL vẫn là yếu tố hết sức
quan trọng. Ở trình độ thủ công lạc hậu, sức cơ bắp của con người thay thế cho sức
máy móc, do đó việc huy động số lượng lớn các nguồn lực lao động có ý nghĩa cơ
bản cho quá trình phát triển. Khi khoa học và công nghệ phát triển, sức cơ bắp của
con người được thay dần bằng máy móc, thì vai trò hay tầm quan trọng của nguồn
lao động không vì thế mà giảm đi, ma lại đòi hỏi cao hơn về chất lượng, đặc biệt là
về trình độ kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp, tính năng động sáng tạo
của NLĐ.

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

20


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

Thứ hai, NNL so với các yếu tố đầu vào khác không phải là yếu tố thụ động
mà còn là nhân tố quyết định việc tổ chức và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
khác, chính vì vậy mà nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định đối với quá trình phát
triển của doanh nghiệp. Nếu không chú trọng đến việc PTNNL về thể chất, trình độ
văn hóa, tri thức và kĩ năng nghề nghiệp, kinh nghiệm quản lý và lòng nhiệt
tình....thì việc sử dụng NNL sẽ trở nên kém hiệu quả, lãng phí đồng thời có thể làm
lãng phí, cạn kiệt, hủy hoại các nguồn lực khác.
1.2

Nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp tư nhân


1.2.1 Doanh nghiệp tư nhân và đặc điểm của Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp được hình thành và phát triển
dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và các nguồn lực sản xuất, là một trong
các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN. Theo Luật doanh nghiệp năm
2014 quy định rõ: "DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp."
Cùng với quá trình phát triển cả nền kinh tế, DNTN nói riêng và thành phần
kinh tế tư nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trong bất cứ giai đoạn nào, DNTN
luôn biểu hiện một số đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, tồn tại và hoạt động trong nền kinh tế thị trường các DNTN, các
DNTN luôn chịu sự tác động và điều tiết của cơ chế thị trường. Các DNTN cần phải
năng động và nhạy bén trước những thay đổi, biến động của thị trường, chỉ có
những doanh nghiệp thích ứng mới có thể tồn tại và phát triển.
Thứ hai, các DNTN luôn hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận. DNTN nói
riêng và thành phần KTTN nói chung hoạt động "bằng tiền túi và vì tiền túi" của
chủ doanh nghiệp, hình thành và hoạt động theo nguyên tắc 4 tự: tự bỏ vốn, tự tổ
chức, tự chủ trong kinh doanh và tự bù lỗ, nên các DNTN đều giải quyết bài toán sử
dụng tối ưu các nguồn lực, giảm thiểu những hao phí về lao động, về vốn một cách
tối đa để mang lại nguồn lợi nhuận cao nhất có thể.
Thứ ba, các DNTN luôn thể hiện sự đa dạng về việc lựa chọn hình thức sản
xuất kinh doanh và quy mô sản xuất của doanh nghiệp khá linh hoạt. DNTN hình
thành và phát triển ở hầu hết các ngành, lĩnh vực và đáp ứng một cách linh hoạt
những nhu cầu đa dạng, phong phú của người tiêu dùng.

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

21



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của các DNTN ở Việt Nam cho thấy một hạn
chế: trong các doanh nghiệp quy mô sản xuất kinh doanh, quy mô vốn và lao động
hiện nay vẫn còn nhỏ. Các DNTN ở nước ta đại bộ phận thuộc doanh nghiệp vừa và
nhỏ, thậm chí siêu nhỏ. Đặc điểm này làm cho các DNTN gặp rất nhiều khó khăn
trong quá trình hoạt động, mở rộng kinh doanh cũng như đào tạo PTNNL.
Thứ tư, năng lực chấp hành pháp luật của các DNTN còn yếu và kém.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền XHCN, trong quá trình quản lý của Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên
cơ sở hiến pháp và pháp luật, hệ thống pháp luật là tối thượng. Mọi hoạt động đều
phải tuân thủ theo pháp luật, tuy nhiên vì mục tiêu đối đa hóa lợi nhuận, các DNTN
thường xuyên "né", "tránh" và không tuân thủ theo những chủ trương, chính sách
của Nhà nước. Đây là hạn chế của các DNTN.
Thứ năm, trình độ vận dụng và ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ
(KHCN) vào sản xuất còn thấp. Công nghệ sản xuất của các DNTN nói chung đa
phần lạc hậu, năng suất thấp. Máy móc thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu làm các
DNTN có khả năng cạnh tranh kém, có năng suất lao động thấp, sản phẩm chất
lượng thấp. Đồng thời, đây còn là nguyên nhân chính dẫn đến ô nhiễm môi trường
lao động, làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe NLĐ và tỷ lệ tai nạn lao động tăng
nhanh. Điều này làm các DNTN không thu hút được lao động giỏi, và cũng khó
khăn trong đào tạo PTNNL.
Chính những đặc điểm này của DNTN đã tác động đến sự phát triển cũng như
hiệu quả và khả năng cạnh tranh của DNTN nước ta trước thách thức của hội nhập
với khu vực và thế giới .
1.2.2 Đặc điểm nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp tư nhân
* Quan niệm về nguồn nhân lực trong các DNTN
Thông qua quá trình phân tích ở trên, quan niệm NNL được hiểu là “toàn bộ

các khả năng về thể lực và trí lực của con người được vận dụng ra trong quá trình
lao động sản xuất, với ý nghĩa đó, quan niệm NNL trong các DNTN có thể tiếp cận
trên góc độ: NNL cũng được xem là sức lao động của con người - một nguồn lực
quý giá nhất trong các yếu tố của sản xuất của các doanh nghiệp. NNL của doanh
nghiệp bao gồm tất cả những NLĐ làm việc trong doanh nghiệp”[10,3]. Việc khai

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

22


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

thác và sử dụng nguồn lực này có tính chất quyết định đến sự thành bại của doanh
nghiệp.
* Đặc điểm của nguồn nhân lực trong các DNTN
Nguồn nhân lực trong các DNTN thể hiện một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, Trình độ, năng lực của chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý trong các
DNTN còn thấp.
Nhiều doanh nghiệp hoạt động với hình thức quản lý điều hành còn mang
nặng tình gia đình, tập trung quyền lực nên chưa phát huy được tính tự chủ, sáng tạo
của đội ngũ quản lý doanh nghiệp. Nhiều chủ doanh nghiệp quản lý chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm bản thân, nên thiếu tầm nhìn chiến lược, lúng túng trong đinh
hướng dài hạn. Ngoài ra, đa số chủ doanh nghiệp đều ít hoặc chưa qua đào tạo nghề,
chủ yếu đi lên từ sản xuất nhỏ, với lao động thủ công, vì vậy, kỹ năng kinh doanh và
kỹ năng lao động còn thấp, khả năng nắm bắt thông tin thị trường, tiếp cận công
nghệ hiện đại thiếu nhạy bén, không theo kịp yêu cầu thị trường. Kinh nghiệm, kỹ
năng kinh doanh còn nhiều hạn chế và đa số đều chưa có chiến lược kinh doanh.

Việc trình độ của các chủ doanh nghiệp này thấp cũng sẽ ảnh hưởng đến sự
PTNNL trong các DNTN vì họ không hiểu biết về lĩnh vực này, không nhận thấy
được tầm quan trọng của các hoạt động này nên không quan tâm đến PTNNL trong
doanh nghiệp mình.
Thứ hai, Quy mô nguồn nhân lực nhỏ: Số lượng NNL trong các DNTN thấp.
Điều này là do quy mô của các DNTN thường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoặc
siêu nhỏ, số lượng lao động ít, vì vậy việc đào tạo PTNNL sẽ ít được chú trọng cũng
như sẽ khó khăn vì không có người chuyên trách chịu trách nhiệm thực hiện công
tác này và nhu cầu đào tạo thường nhỏ. Tuy nhiên, với quy mô lao động nhỏ, các
doanh nghiệp này cũng có lợi thế là gọn nhẹ và dễ dàng thay đổi đáp ứng nhu cầu
của thị trường. Quy mô lao động nhỏ cũng góp phần làm cho các thành viên trong
doanh nghiệp hiểu nhau hơn, gần gũi với nhau, dễ dàng động viên chia sẻ với nhau
và điều này tạo điều kiện thuận lợi trong các hoạt động đào tạo trong công việc.
Thứ ba, chất lương thấp: nhìn chung, thực trạng hiện nay của nước ta là đang
thiếu lực lao động có tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Chính vì vậy, lực lượng

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

23


Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

lao động trong các DNTN cũng hầu hết là nguồn lực có trình độ chuyên môn, tay
nghề thấp. Đối với các DNTN hiện nay, hầu hết là xuất phát từ mô hình hộ gia đình,
kinh doanh theo phương pháp truyền thống, ít áp dụng công nghệ - kỹ thuật cao
trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên chủ yếu sử dụng lao động phổ thông, chưa
qua đào tạo là chính.

Thứ tư, tác phong công nghiệp chưa cao:
Tác phong công nghiệp được hiểu là phong cách, lối làm việc và sinh hoạt phù
hợp với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, còn gọi là tác phong
chuyên nghiệp. Hiện nay, đa số lao động của Việt Nam nói chung và trong các
DNTN nói riêng, phần lớn là xuất phát từ nông nghiệp, do vậy chưa có sự chuyển
đổi tác phong lao động nông nghiệp sang công nghiệp, chưa được trang bị kiến thức
và kỹ năng làm việc theo nhóm, trách nhiệm trong công việc. Đồng thời, người lao
động xuất thân từ nông thôn thường có tâm lý làng xã, bị ràng buộc nhiều bởi lệ
làng, phong tục tập quán nên ảnh hưởng không nhỏ đến kỷ luật, tác phong lao động.
Thứ năm, có tính chất bấp bênh, không ổn định, thường xuyên nhảy việc.
Lao động trong các DNTN thường là lao động trẻ tuổi, đây là nhóm lao động
thường có mong muốn trải nghiệm, thách thức bản thân trong nhiều môi trường làm
việc khác nhau, nên họ thường không gắn bó lâu dài với một doanh nghiệp nhất
định. Bên cạnh đó, với tính chất của DNTN là hầu hết các doanh nghiệp có quy mô
nhỏ, lợi ích kinh tế của họ sẽ không được đảm bảo. Chính những điều này, đã khiến
cho những lao động trẻ trong các DNTN luôn có tâm lý chung là bất ổn, không
được yên tâm với công việc của mình nên họ thường có xu hướng muốn nhảy việc.
1.2.3Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực trong các
doanh nghiệp tư nhân.
1.2.3.1 Các yếu tố bên ngoài:
Chính sách của nhà nước.
Tại Đại hội XI, Đảng và nhà nước ta đã xác định, trong điều kiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, PTNNL được coi là một trong ba khâu đột
phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đồng thời PTNNL lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh
tranh quốc gia.
SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

24



Khóa luận tốt nghiệp

GVHD: TS. Phạm Thị Thương

Những chính sách, quy hoạch về định hướng ngành nghề, thị trường lao động
sẽ tác động trực tiếp đến NNL trong các DNTN.
Sự phát triển của khoa học công nghệ: KHCN càng tiến bộ thì khoảng
cách từ KHCN đến sản xuất càng rút ngắn, sản xuất kinh doanh liên tục thay
đổi. Sự phát triển không ngừng và những tiến bộ khoa học kĩ thuật đã cho ra đời
những công nghệ hiện đại mà nó đòi hỏi NNL có chất lượng cao mới đáp ứng
được. Việc áp dụng công nghệ mới cho phép doanh nghiệp lựa chọn chính sách
sử dụng nhiều hay ít lao động và đòi hỏi những điều kiện nhất định về lao động.
Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quy mô mà còn ảnh hưởng đến chất lượng
NNL trong doanh nghiệp.
Sự phát triển của giáo dục – đào tạo: mức độ phát triển của giáo dục - đào tạo
có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng NNL trong doanh nghiệp, quyết định trình
độ văn hóa, chuyên môn, kĩ thuật, tay nghề của người lao động. Mức độ phát triển
của giáo dục – đào tạo càng cao thì quy mô NNL chất lượng cao càng mở rộng,
năng suất lao động càng cao.
Sự phát triển của thị trường lao động: mở của kinh tế, toàn cầu hóa và hội
nhập đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, cơ cấu việc làm cũng
thay đổi từ lĩnh vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, song cũng gặp rất
nhiều khó khăn do nhu cầu về một NNL chất lượng cao. Trong bối cảnh đó, sự phát
triển của thị trường lao động như một yếu tố khách quan tác động đến việc nâng
cao chất lượng NNL trong doanh nghiệp bởi thông tin lao động việc làm là toàn
diện, sự cạnh tranh việc làm trở nên gay gắt nhằm thu hút lao động có chất lượng và
số lượng phù hợp với yêu cầu của sản xuất.
Môi trường xã hội, dân cư, tự nhiên bao gồm: truyền thống, tập quán, thói
quen, lễ nghi, nghệ thuật ứng xử, các quy phạm tư tưởng và đạo đức, các hiện tượng

và quy luật khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng,… của mỗi địa phương, mỗi dân tộc, tầng
lớp dân cư và quốc gia. Các yếu tố này tác động đến việc hình thành tác phong, nếp
sống, ý thức của NLĐ.
Ngoài các yếu tố trên, thì còn có những yếu tố khác tác động đến sự phát triển
của NNL trong các DNTN như: Sự phát triển của y tế, Các yếu tố kinh tế, Môi

SVTH: Nguyễn Thị Hoanh

25


×