Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận cuối kỳ lịch sử tư tưởng quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.2 KB, 24 trang )

Lời mở đầu
Thế kỷ XX vừa đi qua, để lại cho chúng ta những biến động to lớn chưa từng có
trong lịch sử với thành công của Cách mạng tháng Mười, với hai cuộc chiến
tranh thế giới, với sự hình thành rồi sụp đổ của trật tự thế giới hai cực I-an-ta, sự
tan rã của Liên Bang Xô viết và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sau 80 năm
tồn tại, …kéo theo tất cả những điều đó là hàng loạt những thay đổi về kinh tếchính trị, xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới. Và chính dựa trên cơ sở
những thay đổi đó, lịch sử thế giới nói chung và lịch sử tư tưởng quản lý nói
riêng đã ghi nhận những bước phát triển vượt bậc về hệ thống các lý thuyết quản
lý từ cổ điển cho đến hiện đại, được sáng tạo để đáp ứng nhu cầu quản lý con
người đặt ra trong từng thời kỳ phát triển của lịch sử. Những tên tuổi tác giả nổi
tiếng với chúng ta như F.Taylor với tư tưởng quản lý theo khoa học, H. Fayol
với thuyết quản lý theo hành chính, M. Follet với thuyết hành vi trong quản lý,
hay tư tưởng quản lý theo thuyết Z của Nhật bản từng trở thành một cơn sốt đầu
những năm 70,….tất cả đều đóng góp những vai trò quan trọng khác nhau trong
lịch sử tư tưởng quản lý. Nhưng nổi bật lên trong tất cả những luồng tư tưởng và
học thuyết quản lý đó, Peter Drucker, người được mệnh danh là nhà quản lý vĩ
đại nhất mà thế giới đã từng sản sinh ra,với cuốn sách nổi tiếng’’ Những thách
thức của quản lý trong thế kỷ XXI’’ là đối tượng mà tôi đã chọn để nghiên cứu
và trình bày trong tiểu luận này của mình. Bằng những kinh nghiệm cá nhân
phong phú và sâu sắc của mình qua quá trình cố vấn cho nhiều công ty nổi tiếng
và các quốc gia, ông đã tổng kết những đặc điểm cơ bản định hình tư tưởng quản
lý trong thế kỷ XX và dự đoán những xu hướng phát triển của quản lý thậm chí
là cả thế giới trong thế kỷ XXI qua tác phẩm trên. Với hàng loạt những xu thế,
thách thức to lớn chưa có lời giải đáp mà các quốc gia đã, đang và sẽ đối mặt
trong thời kỳ hiện nay( quản lý lao động nhập cư, suy giảm tỉ lệ dân số trẻ, biến
đổi của xã hội trong cách mạng công nghiệp 4.0,…), tôi tin chắc rằng, bất cứ ai
đã được đọc tác phẩm trên sẽ hình thành cho mình một cái nhìn tổng quan hết

1



sức sâu sắc về những nền tảng cơ sở chi phối những thay đổi quan trọng sẽ ảnh
hưởng đến cá nhân bạn hôm nay và cả mai sau cũng như chuẩn bị cho mình một
tư tưởng sẵn sàng hành động để chấp nhận và làm chủ những thay đổi này. Vì
đây hoàn toàn không phải là một cuốn sách dự đoán mà là một cuốn sách kêu
gọi hành động, những ai không hành động thì chắc chắn sẽ thất bại trước biến
đổi của xã hội như chính tác giả đã đúc kết trong cuốn sách thành một câu nói
mà tôi rất tâm đắc như sau:’’ Không ai có thể điều khiển được sự thay đổi.
Người ta chỉ có thể đi trước sự thay đổi mà thôi’’.

2


I.Giới thiệu về tác giả và tác phẩm.
1. Tác giả
Peter F. Drucker là chuyên gia kinh tế học, một nhà nghiên cứu về quản lý và
chính trị học nổi tiếng nhất thời hiện đại của nước Mỹ và cũng là nhân vật đại
diện của trường phái kinh nghiệm chủ nghĩa của phương Tây. Ông sinh năm
1909 ở thành phố Viên( Áo). Năm 1929, ông là cộng tác viên và cố vấn kinh tế
của một tờ báo do một ngân hàng Châu Âu ở Luân Đôn thành lập. Năm 1931,
ông đỗ tiến sĩ luật khoa ở trường đại học Frankfurt ( Đức). Năm 1937, ông di cư
sang Mỹ để tránh bọn phát xít. Ông bắt đầu xuất hiện trong giới kinh tế học Mỹ
với tư cách là học giả của một tập đoàn do một số ngân hàng và công ty bảo
hiểm Mỹ thành lập. Trong khoảng thời gian từ năm 1942-1949, ông là giáo sư
chính trị học và triết học tại học viện Bennington (Mỹ). Từ năm 1950-1972, ông
là giáo sư về Khoa học quản lý của Viện Nghiên cứu công thương nghiệpTrường Đại học New York. Năm 1972, ông được mời làm giáo sư cao cấp ở
trường đạo học New York. Từ năm 1971 trở đi, ông là giáo sư khoa xã hội học
tại Viện nghiên cứu Kramel. Ông đã làm cố vấn của chính phủ các nước như
Mỹ, Canada, Nhật,.. đồng thời là cố vấn cho các doanh nghiệp lớn như Công ty
thiết bị thương mại quốc tế, công ty Kla-Sar, công ty động cơ thông
dụng( General Motor Corporation). Năm 1963, ông vinh dự được nhận giải

thưởng quốc tế Krake về quản lý. Năm 1967, ông nhận giải thưởng chìa khóa
vàng của Taylor của Hội xúc tiến về quản lý. Peter F. Drucker đã có những cống
hiến quan trọng có ảnh hưởng về nhiều mặt trong lý luận kinh tế học. Đặc biệt,
về mặt lý luận quản lý, ông và một nhóm cộng sự, xuất phát từ thực tiễn quản lý
các doanh nghiệp, với đối tượng nghiên cứu chính là kinh nghiệm quản lý của
các doanh nghiệp lớn, đã khái quát và nâng lên thành lý luận quản lý của chủ
3


nghĩa kinh nghiệm mang màu sắc riêng, mới mẻ với sự sáng tạo nhiều mặt như
chức năng, mục tiêu, nhiệm vụ, cơ cấu, hoạt động quản lý và bình luận về’’
Phương pháp Taylor’’.
Những tác phẩm chủ yếu của ông là ‘’ Mục đích của con người kinh tế’’( 1939),
‘’ Tương lai của con người xã hội công nghiệp’’(1942), ‘’Khái niệm công ty’’
(1946), ‘’ Xã hội mới’’ ( 1950), ‘’ Thực tiễn quản lý’’ (1964), ‘’ Quản lý trong
thời biến động’’(1980),... và cuối cùng ‘’ Những thách thức của quản lý trong thế
kỷ XXI’’ chính là tác phẩm tôi sẽ tìm hiểu và trình bày tư tưởng chủ đạo ngay
sau đây.

2. Tác phẩm
-Hoàn cảnh ra đời:
Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, thế giới đang chứng kiến hàng loạt những thay
đổi không ngừng và khó có thể lường trước trên những lĩnh vực khác nhau của
đời sống con người. Các yếu tố trước kia trong thế kỷ XX, chúng ta từng coi nó
là những giả định hết sức chắc chắn và không thể bị loại bỏ giờ đây càng ngày
càng tỏ ra lỗi thời và không còn phù hợp với thời đại mới. Biểu hiện rõ nét nhất
minh chứng cho điều đó chính là những cuộc khủng hoảng liên miên về kinh tế
chính trị xã hội mà loài người đã và đang đối mặt trong những năm cuối cùng
của thế kỷ XX. Từ sự tan rã của Liên Bang Xô viết rồi cả hệ thống xã hội chủ
nghĩa vào những năm 80-90 đến cuộc khủng hoảng kinh tế ở Đông Nam Á năm

1997, và cả xu hướng suy giảm nghiêm trọng tỉ lệ sinh của các nước phát triển
đến mức thấp kỷ lục những năm gần đây,…đó là những bước khởi đầu đánh dấu
cho sự kết thúc của một thế kỷ đầy biến động và xa hơn là sự kết thúc của những
hệ thống quản lý và lý thuyết kinh tế- xã hội đã không còn khả năng giải quyết
những vấn đề mới phát sinh mà thế kỷ XXI đang đặt ra cho xã hội loài người
chúng ta. Chính trong hoàn cảnh chuyển giao đó, bằng những kinh nghiệm quản
lý của cá nhân mình cũng như sự nhạy cảm trước thời cuộc, tác giả Peter
4


Drucker đã nhanh chóng nhận ra và dự báo trước thách thức của quản lý trong
thế kỷ XXI và đồng thời đưa ra một số nền tảng giả định mới, những giả định
mà theo tác giả chắc chắn sẽ là cơ sở để quản lý và đương đầu với những thách
thức to lớn như trên. Cuốn sách này được tập hợp dựa trên những tư tưởng hết
sức mới mẻ của ông và được xuất bản lần đầu vào năm 2003 tại Mỹ. Ngay sau
khi xuất bản, cuốn sách đã được các nhà lãnh đạo cũng như các chuyên gia trong
lĩnh vực quản lý đánh giá hết sức cao vì nó đã đề cập đến những xu hướng thay
đổi không thể tránh khỏi và quan trọng hơn là gợi ý cho những nhà quản lý trong
tương lai về những giải pháp cần tiến hành ngay bây giờ, ngay từ lúc này để đi
trước biến đổi, và đưa tỏ chức mà mình dẫn dắt có thể vượt qua các biến đổi
đóvà đạt được thành công, vì nếu không làm như vậy sẽ chỉ có một kết quả cuối
cùng và duy nhất cho những con người và tổ chức không kịp thời thay đổi, đó là
sự thất bại.
-Tư tưởng chủ đạo của tác phẩm:
Như tôi đã trình bày một cách sơ lược qua các phần trước, trong tác phẩm ‘’
Những thách thức của quản lý trong thế kỷ XXI’’ Tác giả đã lần lượt trình bày
nhận định của mình về những giả định đã lỗi thời trong giai đọan chuyển giao
giữa hai thế kỷ, sau đó đưa ra một loạt những giả định mới để thay thế và làm cơ
sở cho việc hình thành một hệ thống quản lý mới phù hợp hơn với xã hội này.
Dưới góc độ một nhà quản lý lâu năm đã có thời gian hoạt động trên nhiều

cương vị cố vấn quản lý cho những nhà lãnh đạo cao cấp, Peter Drucker đặt vấn
đề trọng tâm của tác phẩm của mình là nghiên cứu ảnh hưởng và những yếu tố
một nhà quản lý cần phải quan tâm để lãnh đạo tổ chức của mình vượt qua
những thách thức của quản lý trong thế kỷ XXI. Và để làm rõ ý kiến của mình,
tác giả đã thể hiện qua nội dung được gói gọn trong 6 chương sách bao gồm:
-Chương 1: Những mô hình mới về quản lý

5


Thực tế hơi trái ngược với tên gọi của mình, nội dung của cuốn sách trong
chương đầu tiên này là hệ thống một cách chi tiết 7 giả định mà các nhà quản lý
đã mặc nhiên thừa nhận và ứng dụng trong suốt thế kỷ XX. Nhưng bên cạnh
việc đưa ra những giả định đó, điều tạo nên điểm đặc biệt chính là ở chỗ tác giả
còn dẫn ra những luận cứ chi tiết và cụ thể để chứng minh sự lỗi thời của các giả
định mới và cuối cùng là đưa ra những kết luận mới dựa trên những giả định cũ
để điều chỉnh hệ thống giả định đó.
Những giả định đó cụ thể là:

 Quản lý có nghĩa là quản lý kinh doanh
 Mô hình tổ chức duy nhất đúng
 Cách duy nhất đúng để quản lý con người
 Các công nghệ và người sử dụng cuối cùng đã được xác định từ trước

 Phạm vi của quản lý được xác định theo pháp lý
 Phạm vi của quản lý được xác định theo địa lý chính trị
 Nội bộ tổ chức là lãnh địa của quản lý.

-Chương 2: Chiến lược- Những thực tại mới:
Trong phần 2 này, tập hợp những kinh nghiệm quản lý lâu năm của bản thân và

trên cơ sở những hiện tượng chính trị- xã hội nổi bật trong giai đọan chuyển giao
giữa hai thế kỷ, tác giả đã khái quát lên cho người đọc nhận thấy 5 yếu tố mới, 5
giả định được coi là chắc chắn, là nền tảng để xây dựng một chiến lược quản lý
trong thời kỳ mới của loài người, đó là:
1. Sự sụt giảm của tỷ lệ sinh sản tại các nước phát triển.
2. Sự thay đổi trong phân phối thu nhập ròng
6


3. Đánh giá thành tích.
4. Tính cạnh tranh toàn cầu
5. Khoảng cách ngày càng lớn giữa toàn cầu hóa kinh tế và sự manh mún về
chính trị
Chương 3: Người dẫn đầu sự thay đổi
Đây có thể coi là một trong những chương trọng tâm của cuốn sách mà tôi sẽ
phân tích cụ thể và kỹ càng hơn trong phần sau của bài tiểu luận vì tính cấp thiết
mà nó mang lại cho bản thân tôi, một sinh viên đang theo học chuyên ngành
khoa học quản lý cũng như cả những nhà quản lý của hiện tại và tương lai. Bởi
vì nếu bạn đã được đọc chương sách này, bạn sẽ nhận thấy quy trình hết sức cụ
thể và những bước bạn sẽ cần phải thực hiện trong quá trình hướng tổ chức mà
mình dẫn dắt thay đổi theo những xu hướng của thời đại mới.
Chương 4: Những thách thức của thông tin:
Một trong những điểm đặc biệt của Peter Drucker so với những nhà tư tưởng lớn
cùng thời kỳ chính là ở việc, trong khi các nhà tư tưởng phần lớn chỉ nhận ra
được những lợi ích to lớn của cuộc cách mạng thông tin mà sự ra đời của máy
tính, các thiết bị di động và mạng internet là những sản phẩm điển hình thì Peter
Drucker lại đi sâu vào tìm hiểu các khía cạnh về giá trị gia tăng của thông tin
cũng như những tác động thực sự của thông tin đến hoạt động của tổ chức. Một
trong những nhận định hết sức thú vị mà ông đã lập luận và chứng minh thành
công trong chương sách này, đó là: ‘’Cuộc cách mạng mới về thông tin trong thế

kỷ XXI sẽ không phải do các nhân viên IT dẫn dắt mà sẽ do các nhân viên kế
toán và các nhà xuất bản’’
Chương 5: Năng suất lao động của tri thức:
Đây là một trong những cơ sở của quản lý trong thế kỷ XXI và cũng là một vấn
đề tư tưởng chủ đạo xuất hiện nhiều lần trong các tác phẩm của Peter Drucker.
7


Nếu như trong thế kỷ XX, đa số các nhà quản lý lớn như Taylor và Fayol chỉ tập
trung tìm cách làm sao để nâng cao năng suất lao động chân tay của công nhân
thì đến thời kỳ của mình Peter Drucker đã nhận ra một thực tế rằng, với sự phát
triển không ngừng của thế giới trong những thập kỷ gần đây, dần dần, lao động
tri thức sẽ trở thành một động lực phát triển chính cho các nền kinh tế, thay thế
dần lao động chận tay và câu hỏi được tác giả đặt ra đó là làm như thế nào để
nâng cao và phát huy tối đa hiệu quả của loại hình lao động này dưới góc độ
quản lý.
Chương 6:Tự quản lý bản thân
Kết thúc tác phẩm, chương sách này như một giải pháp ngắn và cụ thể mà tác
giả muốn vạch ra cho bản thân mỗi người nhằm chuẩn bị đối phó và đươg đầu
với những biến đổi và thách thức hết sức to lớn đã được đề cập trong những
phần trên của cuốn sách.

III. Phân tích cụ thể nội dung chính
Trong những vấn đề to lớn đã được tác giả nghiên cứu và trình bày qua cuốn
sách trên, do dung lượng có hạn của một bài tiểu luận và với góc nhìn cá nhân
của mình, tôi xin được tập trung làm rõ hai chương mà tôi nhận thấy là quan
trọng của cuốn sách này, đó là chương 2 và chương 3, với nội dung chủ đạo là
những giả định mới của quản lý trong thế kỷ XXI và những bước đi mà một nhà
quản lý cần tập trung để thực hiện nhằm dẫn dắt tổ chức đón đầu sự thay đổi.
Qua hai chương sách này, người đọc cảm nhận và hình dung một cách sâu sắc về

bức tranh toàn cảnh của thế giới đã, đang và sẽ hình thành với những đặc điểm
nổi bật như thế nào để chuẩn bị tâm lý đón nhận nó.
Mở đầu chương sách thứ hai, Peter Drucker đã đưa ra lý do mà cần phải xác
định những giả định mới, những thứ chắc chắn trong một thời kỳ chuyển giao
đầy biến động và bất trắc bởi chính những giả định đó sẽ trở thành cơ sở vững
chắc cho việc xây dựng một chiến lược thực tại hoàn toàn mới mà bất cứ một tổ
8


chức nào cũng cần làm nhằm nắm bắt được thời cơ và cơ hội phát triển. Và
trong số những giả định đó thì giả định đầu tiên, thật bất ngờ, lại xuất phát từ
một hiện tượng xã hội có thể gọi là khá bất thường đối với xã hội loài người
chúng ta, đó là hiện tượng suy giảm tỷ lệ sinh sản. Rõ ràng trước thế kỷ XXI
chúng ta chưa bao giờ nghĩ rằng dân số và tỉ lệ sinh sản suy giảm lại có thể trở
thành một xu hướng, thậm chí lại còn là một xu hướng đang ngày càng phổ biến
ở các nước phát trển như Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, những nước mà đáng lẽ ra
với điều kiện y tế, xã hội hết sức hiện đại, đáp ứng đầy đủ những điều kiện phù
hợp thuận lợi nhất cho sự ra đời và phát triển của trẻ em. Thế nhưng những con
số thực tế lại chỉ ra những điều hoàn toàn ngược lại với suy đoán thông thường
của chúng ta: Tại Tây Âu, Trung Âu và Nhật Bản, tỷ lệ sinh sản đã giảm xuống
dưới mức cần thiết để duy trì dân số. Tức là dưới mức 2,1 đứa trẻ cho một phụ
nữ ở tuổi sinh sản. Ở một số vùng giàu có nhất của Italia, chẳng hạn Bologna, tỷ
lệ sinh sản năm 1999 giảm xuống còn 0.8, ở Nhật là 1.3. Trong thực tế, Nhật và
tất cả các nước Nam Âu như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, miền nam nước Pháp,
Italia, Hy Lạp đang trượt dài đến kết cục diệt vong vào cuối thể kỷ 21. Tới lúc
đó, dân số Italia từ 60 triệu bây giờ sẽ giảm xuống còn 20 hoặc 22 triệu người;
Nhật từ 125 triệu xuống còn 50 hoặc 55 tiệu. Nhưng ngay ở các nước Tây và
Bắc Âu tỷ lệ sinh sản cũng đã giảm xuống còn 1.4 và còn tiếp tục giảm. Ở một
quốc gia có nền kinh tế phát triển cao khác là Mỹ, tình hình cũng không có gì
khác biệt với tỷ lệ sinh sản trung bình dưới 2 và ngày càng có xu hướng thấp

hơn, mặc dù dân số Mỹ vẫn còn được đóng góp tỷ lệ sinh sản nhờ vào lượng
người nhập cư bắt nguồn từ các nước Trung và Nam Mỹ, tiêu biểu là Mexico.
Nhưng quan trọng hơn của vấn đề này, đó là với tình hình như hiện tại trong
khoảng 10-20 năm nữa sự thay đổi về cơ cấu dân số, đặc biệt là tỷ lệ người trẻtrong độ tuổi lao động và những người già- đã nghỉ hưu sẽ ngày càng có dấu
hiệu mất cân bằng khi mà lượng người trẻ giảm đi và số lượng người già tăng
lên quá nhanh, gây nguy hại đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế các nước
trên thế giới vì thiếu hụt nguồn lao động trong độ tuổi trẻ. Cơ sở cho sự phát
9


triển của thế giới trong suốt hàng trăm năm qua là sự tăng trưởng đều đặn của
dân số thế giới, thậm chí có cả những lúc ghi nhận bùng nổ dân số thế giới theo
các giai đoạn nhưng từ thế kỷ XXI trở đi, chúng ta sẽ phải tập làm quen và đối
mặt với một thực tế mới là dân số sẽ suy giảm và điều đó đặt các nhà quản lý
vào hàng loạt câu hỏi và thách thức mới: Chúng ta sẽ quản lý người lao động
như thế nào? Liệu xu hướng mới có phải là tăng độ tuổi nghỉ hưu và trọng dụng
các nhân viên đã qua tuổi nghỉ hưu tiếp tục ở lại gắn bó và cống hiến cho công
ty của mình? Hay các biện pháp sử dụng linh hoạt lao động bán thời gian sẽ trở
thành xu thế mới cho các công ty?,… có quá nhiều những câu hỏi, thắc mắc và
thách thức như vậy mà các nhà quản lý đang đau đầu để trả lời và tìm ra phương
án giải quyết tối ưu. Hãy quay trở lại xem xét những ví dụ gần đây, những ví dụ
mà chứng minh được tính đúng đắn của nhận xét mà Peter Drucker đã đưa ra
trong cuốn sách này dựa trên giả định trên:
- ‘’Trong vòng 20 hay 30 năm tới, dân số học sẽ là vấn đề chính trị bao trùm tại
tất cả các nước phát triển. Và điều không tránh khỏi là nó sẽ trở thành vấn đề
bất ổn lớn về chính trị’’. Để minh chứng cho nhận định này, tôi xin sử dụng
trường hợp của nước Mỹ và châu Âu đã và đang gặp phải trong suốt vài năm
qua. Còn nhớ năm ngoái, tại nước Mỹ, Tổng thống Donald Trump ngay sau khi
lên nắm quyền đã thực thi hàng loạt những chinh sách cụ thể khác nhau với mục
đích hạn chế người nhập cư vào nước Mỹ và vấn đề này cho đến bay giờ vẫn

đang vấp phải hàng loạt những ý kiến trái chiều của người dân cũng như các
chuyên gia và nhà quản lý của Mỹ. Một mặt các chính sách của ông Donald
Trump thể hiện cách xử lý của một daonh nhân trong vấn đề giúp tăng trưởng
việc làm cho người dân Mỹ chính gốc, tuy nhiên mặt khác, nó khiến cho các
công ty của Mỹ mất đi cơ hội tuyển dụng lao động có trình độ cao từ các nước
khác đến làm việc tại Mỹ như vậy về lâu dài chính sách này vô tình hạn chế cả
cơ hội phát triển kinh tế mà đáng lẽ các công ty Mỹ đã tận dụng được và quan
trọng hơn nó gây ra những bất ổn sâu sắc ngay trong lòng nước Mỹ về quan
10


điểm đối xử công bằng đối với mọi người dân cũng như phần nào đó làm mất đi
hình ảnh một nước Mỹ tự do và dân chủ về nhận cư như chính nguồn gốc tên
gọi : Họp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Còn đối với các nước châu Âu, cuộc khủng
hoảng mang tên người nhập cư từ các quốc gia Trung đông, đặc biệt sau phong
trào ‘’ Mùa xuân Ả Rập’’ và các cuộc chiến tranh tranh giành quyền lực nổ ra
liên miên tại khu vực này thì hàng triệu người nhập cư từ Trung Đông qua Biển
Địa Trung Hải đã gia nhập Châu Âu với hy vọng tìm được cơ hội yên bình và
phát triển. Bên cạnh đó, không thể phủ nhận với việc là trung tâm tập trung các
nước có tỷ lệ sinh sản thấp, việc thiếu hụt nguồn lao động trẻ là cơ hội để dân
nhập cư của các nước, không chỉ Trung Đông mà còn cả Châu Á và Châu Phi
tìm kiếm cơ hội việc làm. Tuy nhiên, vấn đề đáng lưu tâm ở đây không chỉ bởi
số lượng người nhập cư trong một vài năm gần đây có dấu hiệu tăng vọt mà bởi
sự khác biệt về văn hóa của người nhập cư và người bản địa đã và đang gây ra
những rắc rối khó kiểm soát cho các chính phủ trong việc quản lý. Đó là các vấn
đề về mâu thuẫn tôn giáo( Đạo Hồi của Trung Đông, Đạo Thiên Chúa của Châu
âu, hay các nước theo Đạo Phật ở Chấu Á,..) hay cả những vấn đề nghiêm trọng
hơn như việc trà trộn vào dân nhập cư của các phần tử khủng bố IS ở Châu âu
với mục đích đánh bom, khủng bố,… tạo dư luận hoang mang lo sợ cho người
dân và phá vỡ an ninh quốc gia. Rõ ràng tất cả những vấn đề như vậy đều mang

lại những thách thức lớn cho các quốc gia khi đối đầu với sự suy giảm tỷ lệ sinh
đẻ. Ngoài ra, có một hệ quả cũng hết sức quan trọng mà không thể không nhắc
đến khi nhắc đến vấn đề này đối với hoạt động quản lý hiện nay, đó là sự tăng
lên nhanh chóng của hiệu suất làm việc của lao động tri thức tại các nước phát
triển. Bởi vì, một cách hết sức đơn giản, nếu năng suất lao dộng không tăng thì
sẽ không thể bù đắp được những thiếu hụt ngày càng lớn về lực lượng lao động
và hậu quả không thể tránh khỏi là các quốc gia sẽ mất đi chỗ đứng và trở nên
nghèo đi.

11


Bước sang gỉa định thứ hai trong 5 giả định của tác giả, ông đã cho rằng Sự thay
đổi về cơ cấu chi tiêu trong thu nhập khả dụng cũng đáng được các nhà quản lý
lưu tâm không kém gì nếu phải so sánh với vấn đề dân số. Hiện nay đa số các
doanh nghiệp và công ty đều ghi lại doanh số bán hàng và có thống kê hết sức
cụ thể về việc tăng giảm của hệ thống các doanh số đó với sự phát triển của công
ty. Nhưng ngược lại chẳng mấy nhà quản lý hay lãnh đạo của một doanh nghiệp
biết được thực tế chính xác rằng phần tiền mà người tiêu dùng dành ra để mua
sắm các sản phẩm của họ chiếm bao nhiêu phần trăm trong thu nhập kia. Có thể
đến đây một số người sẽ đưa ra câu hỏi và thắc mắc vậy chúng ta tìm hiểu cái
vấn dề có vẻ như chẳng liên quan chút nào đến doanh nghiệp như vậy để làm gì?
Nhưng thực tế nếu bạn hoặc ai đó trả lời câu hỏi mà tác giả đã đưa ra như trên
đồng nghĩa với một thực tế rằng bạn đã và đang trên đường tìm ra những xu
hướng ngành nghề sẽ phát triển trong tương lai. Vì nắm bắt được cơ cấu chi tiêu
của người tiêu dùng cũng có nghĩa bạn đang dự đoán được nhu cầu mà họ đang
thật sự cần thiết là gì để từ đó xây dựng chiến lược sản xuất và kinh doanh sao
cho phù hợp. Trong chương sách này, tác giả đã đưa ra 4 lĩnh vực có tăng trưởng
phát triển mạnh mẽ nhất trong thế kỷ XX, đó là ;Chính quyền, y tế, giáo dục và
giải trí. Trong đó, với nguyên nhân là do ảnh hưởng của dân số học như giả định

trước, khả năng phát triển của ba lĩnh vực là y tế, giáo dục và giải trí đều là tiềm
năng cả trong thế kỷ XXI này. Tuy nhiên, trong một số những trường hợp đặc
biệt một số những ngành tưởng chừng như đã bước vào đà suy thoái vì nhiều lý
do khác nhau lại có sự tăng trưởng trở lại hết sức ấn tượng. Ví dụ tiêu biểu là
công nghiệp in ấn. Đã từng có một thời kỳ, người ta phát sốt khi nhắc đến những
thuật ngữ như ‘’ điện tử’’, ‘’ máy vi tính’’ hay ‘’tin học’’ và nghĩ rằng đã đến lúc
những cuốn sách giấy, vốn đã tồn tại hàng trăm, hàng nghìn năm sắp đến lúc
không còn giá trị sử dụng vì tất cả mọi thứ đều có thể lưu trữ bằng tài liệu số,
vừa gọn gàng lại tiện lợi để sử dụng. Thế nhưng ngược lại, các con số lại chứng
minh hoàn toàn khác với dự đoán: Nhưng số lượng sách được in ấn xuất bản và
bán ra tại tất cả các nước phát triển trong vòng 30 đến 40 năm qua tăng nhanh
12


chẳng khác gì số lượng bán ra của các sản phẩm điện tử. Các công ty xuất bản
sách hàng đầu thế giới có thể đã không phát triển nhanh như một số công ty điện
tử hàng đầu như Intel và Microsoft ở Mỹ hay SAP tại Đức, nhưng lại nhanh hơn
ngành công nghiệp điện tử - thông tin tính chung lại và có thể còn có lãi nhiều
hơn. Và mặc dù Mỹ là thị trường sách in phát triển nhanh nhất và lớn nhất thế
giới, nhưng không một nhà xuất bản Mỹ nào nhìn ra điều này. Do vậy mà nhiều
nhà xuất bản Mỹ hiện nay là do người nước ngoài sở hữu (dẫn đầu là
Bertelsmann, Holtzbrinkc và Mudoch). Và các công ty này ngày càng thống trị
thị trường sách in ở các nơi khác trên thế giới, với sự tăng trưởng nhanh như ở
Mỹ, Nhật và châu Âu (chẳng hạn các câu lại bộ sách của Bertelsmann tại Trung
Quốc). Những dẫn chứng trên cho thấy một kết luận rằng tùy vào từng điều kiện
và xu thế phát triển hay suy thoái của những lĩnh vực mà các nhà quản lý trong
lĩnh vực đó cần đưa ra chiến lược phát triển hợp lý để đảm bảo tối ưu dựa trên
phân bố chi tiêu của người tiêu dùng là cơ sở chính.
Thứ ba trong loạt những giả định mà Peter Drucker đã nêu ra trong cuốn sách
này là xác định hiệu năng của doanh nghiệp. Thực ra đây cũng là một giả định

được xuất phát trên nền tảng cơ sở của 2 giả định trước, đặc biệt là giả định về
dân số. Với những xu hướng hiện nay, rõ ràng hệ thống lực lượng lao động đã và
đang nắm vai trò quan trọng trong thế giới của chúng ta đã không còn bị giới
hạn bởi độ tuổi nữa, cũng có nghĩa càng ngày bộ phận người lao động qua tuổi
hưu tri nhưng vẫn sẽ tiếp tục làm việc sẽ ngày càng tăng và họ chính là đối
tượng sẽ kiểm soát phần lớn xu hướng chi tiêu của thế giới trong thời kỳ mới.
Như vậy, họ sẽ muốn đảm bảo cho cuộc sống lâu dài sau này của mình bằng
những khoản đầu tư góp vốn vào các công ty, có thể chính công ty của họ hoặc
một công ty nào đó khác mà họ cảm thấy sẽ có thể duy trì được sự phát triển
trong thời gian dài, có lẽ từ 20-30 năm, nghĩa là họ đã đạt tuổi hưu trí. Và theo
như nhận định của tác giả, đây quả là một thách thức cực kỳ khó khăn vì thực tế
cho thấy chu kỳ thành công của các công ty hiếm khi vượt quá 30 năm. Và vì
13


vậy để đưa công ty thực hiện những mục tiêu hết sức khó khăn đó, toàn bộ các
nhà quản lý sẽ cần xét và xác định lại hiệu năng của mình là gì, một việc sẽ
không còn đơn giản như trước kia chúng ta vẫn quan niệm.
Thứ tư và cũng là một nội dung đang trở thành vấn đề hết sức được quan tâm
trên thế giới ngày nay mà tác giả đề cập, đó là tính cạnh tranh toàn cầu đang len
lỏi vào từng ngóc ngách nhỏ nhất của các doanh nghiệp và lĩnh vực trong đời
sống. Ngày nay, đã qua rồi cái thời các doanh nghiệp chỉ biết đến môi trường
đầu tư trong nước với sự bảo bọc của hệ thống chính phủ từ hệ thống các hàng
rào thuế quan đối với sản phẩm nước ngoài, đến các ưu đãi về thị trường, vốn
đầu tư, nhân công giá rẻ trong nước. Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, khi
mà các nước ngày càng tham gia nhiều hơn vào các hiệp định thương mại toàn
cầu, hiệp định thương mại khu vực và sự hội nhập đang diễn ra nhanh chống
hơn bao giờ hết thì cạnh tranh và hơn thế nữa là cạnh tranh toàn cầu đang là
động lực phát triển của tất cả các doanh nghiệp, tất cả các quốc gia, không phân
biệt đó là quốc gia, doanh nghiệp nào cả. Mặc dù vậy, nhìn lại vào trường hợp

của một nước còn đang phát triển như Việt nam, cụ thể hơn là xuất phát điểm lạc
hậu thì giả định này đang đem lại cho chúng ta những khó khăn to lớn hơn rất
nhiều nếu so với các nước phát triển. Một hệ quả hết sức rõ ràng mà chúng ta
đang phải chấp nhận đó là có thể lấy lao động rẻ làm cơ sở để phát triển một
doanh nghiệp hay nền kinh tế của một nước nữa rồi. Một doanh nghiệp dù với
nhân công giá rẻ đến đâu – trừ doanh nghiệp rất nhỏ và thuần túy ở địa phương,
chẳng hạn một hiệu ăn – cũng khó có thể tồn tại, chưa nói đến phát đạt, nếu như
lực lượng lao động của doanh nghiệp đó không nhanh chóng đạt được mức năng
suất lao động của các doanh nghiệp đang dẫn đầu trong lĩnh vực đó dù ở bất cứ
đâu trên thế giới. Điều này đặc biệt đúng đối với ngành công nghiệp sản xuất. Vì
trong hầu hết các ngành công nghiệp sản xuất tại các nước phát triển thì chi phí
lao động chân tay nhanh chóng trở thành yếu tố ngày càng nhỏ hơn, chỉ chiếm
vào khoảng 1/8 tổng chi phí sản xuất hoặc thấp hơn. Năng suất lao động thấp
14


đúng là mối đe dọa cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Nhưng chi phí lao động
thấp lại không còn đủ lợi thế bù đắp cho chi phí do năng suất lao động thấp nữa.
Vì vậy, bài toán quản lý hiện nay là làm sao phát triển tập trung vào giáo dục và
đào tạo con người, nhân lực chất lượng cao, đó mới là nguồn gốc của sự phát
triển bền vững và lâu dài mà các doanh nghiệp Việt Nam nên hướng tới. Bởi vì
cho dù chúng ta có cố gắng chống lại sự cạnh tranh toàn cầu hóa đến đâu đi
chăng nữa, bằng những biện pháp cũ như tăng thuế quan hay trợ gái sản phẩm
trong nước thì đến một lúc nào đó, các biện pháp này cũng sẽ tỏ ra thiếu tác
dụng và dẫn đến khủng hoảng, như trường hợp của Mexico những năm 50 với
chính sách cấm doanh nghiệp xuất khẩu hay Nhật Bản những năm 90 với chính
sách trợ giá doanh nghiệp trong nước, đều đã thất bại.
Cuối cùng, một giả định quan trọng mà không thể không nhắc đến đó là Khoảng
cách ngày càng lớn giữa thực tại kinh tế và thực tại chính trị là nền tảng cuối
cùng để xây dựng chiến lược trong thời kỳ mà sự thay đổi cơ cấu và sự bất trắc

đang diễn ra trên khắp thế giới. Ở đây, theo như cách diễn giải của tác giả, thực
tại kinh tế chính là việc toàn cầu hóa về kinh tế đang diễn ra một cách nhanh
chóng và mỗi doanh nghiệp đều là một phần trong tiến trình không thể đảo
ngược đó. Tuy nhiên trái ngược với thực tại kinh tế thì thực tại chính trị mà cụ
thể hơn là biên giới chính trị giữa các quốc gia lại có xu hướng ngày càng bền
vững hơn trước. Một ví dụ hết sức điển hình cho xu hướng trên chính là ngay
trong các nước thuộc khu vực Liên minh Châu Âu EU, mặc dù chung thể chế
kinh tế, sử dụng cùng một đồng tiền chung Euro thuế quan gần như không có
nhưng xét về mặt chính trị thì các quốc gia đều gần như độc lập hoàn toàn và có
những quan điểm chính trị về cùng một vấn đề khá là khác biệt. Đỉnh điểm là
nước Anh vào năm ngoái đã quyết định bỏ phiếu để rời khỏi Liên minh Châu Âu
sau hơn 30 năm gia nhập và đã trở thành một vụ việc gây ra rất nhiều khó khăn
và ảnh hưởng khác nhau đến các nước trong khối và cả với các doanh nghiệp
cũng như Chính phủ Anh để thỏa thuận các hiệp định kinh tế sau khi Brexit.
15


Chính vì vậy mà hệ quả đặt ra đầu tiên cho các nhà quản lý và lãnh đạo của các
tổ chức trong thời kỳ mới đó là phải tìm ra những chiến lược mới để giúp tổ
chức của mình tồn tại song song giữa hai thực tại tưởng chừng như đối lập hoàn
toàn đó với nhau. Dưới góc độ cá nhân với kinh nghiệm lâu năm trong hoạt
động quản lý của mình, Peter Drucker đã chỉ ra một cách rất rõ ràng những điều
nên làm và không nên làm khi bạn là một nhà lãnh đạo của tổ chức trong hoàn
cảnh đó. Đầu tiên, hai điều không nên làm trong bất cứ tình huống nào, đó là:
đừng để chính quyền sở tại mua chuộc khi ra những quyết định về kinh tế và
đừng tìm cách mở rộng doanh nghiệp của mình ra toàn cầu chỉ bằng việc mua lại
các công ty hay doanh nghiệp khác. Lý giải cho 2 quyết định này, tác giả nói:
nếu chỉ vì những hứa hẹn về điều kiện ưu tiên tại một khu vực mà bạn quyết
định đầu tư vốn và hoạt động sản xuất của mình vào khu vực đó mà bỏ qua việc
xem xét ‘’ thực tại kinh tế’’ của khu vực thì dù sớm hay muộn, quyết định đó của

bạn sẽ bộc lộ sự sai lầm và rồi bạn sẽ gặp thất bại. Tương tự với các quyết định
mua lại các công ty khác để mở rộng thị phần trong cuộc cạnh tranh toàn cầu
hóa, yếu tố khác biệt về văn hóa, môi trường giữa các công ty sẽ là một rào cản
hết sức lớn cho việc sát nhập các công ty, doanh nghiệp khác nhau mà người
lãnh đạo cần tính toán trước khi ra quyết định cuối cùng. Ngoài ra, bên cạnh hai
yếu tố không nên làm, hai yếu tố nên thực hiện để chuẩn bị và đón đầu cho sự
thay đổi này nên là: Xu hướng hình thành những liên minh liên kết giữa các
doanh nghiệp nằm trong các quốc gia khác nhau và sự quản lý ngày càng chặt
chẽ về hoạt động tiền tệ( ngoại hối) của từng công ty. Để làm rõ hơn vấn đề trên,
tôi sẽ đi sâu vào phân tích ví dụ cụ thể về ảnh hưởng của hoạt động tiền tệ thế
giới và chính sách kiểm soát giá trị đồng tiền của từng quốc gia đến các công ty
trong và ngoài quốc gia đó: Năm 2014, Trung Quốc là một trong những nước đã
khơi mào cuộc chiến tranh tiền tệ khi ngân hàng trung ương và chính phủ nước
này quyết định giảm giá liên tục Đồng nhân dân tệ so với Đồng dollar Mỹ nhằm
tạo ra lợi thế cạnh tranh không lành mạnh về giá cả hàng hóa khi xuất khẩu sang
các nước sử dụng Dollar Mỹ để thanh toán. Và nối tiếp các chính sách đó của
16


Trung Quốc, cả Nhật Bản cũng sử dụng chính sách giảm giá đồng Yên Nhật để
tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa, tạo đà phát triển cho các doanh
nghiệp trong nước. Tuy nhiên về mặt lâu dài, đây là những chính sách hết sức
sai lầm khi nó thúc đẩy các nước phá vỡ quy tắc chung và đua nhau thay đổi
chính sách quản lý tiền tệ để thu về lợi ích cho đất nước của mình nhưng lại gây
ra sự bất ổn cho hệ thống tiền tệ chung của thế giới. Và trong một thế giới mà
hoạt dộng toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, sẽ rất
khó để một doanh nghiệp hay công ty nào có thể đừng ngoài sự ảnh hưởng của
hệ thống tiền tệ thế giới. Nói cách khác, bất cứ một thay đổi nào, dù nhỏ nhất
của hệ thống này cũng sẽ ảnh hưởng nhiều mặt đến chiến lược kinh doanh và
phát triển của các công ty trên thế giới. Hệ quả tất yếu rằng các doanh nghiệp

hiện nay, nếu không quản lý tốt tình trạng ngoại hối của doanh nghiệp mình, khả
năng phá sản và thất bại của các tổ chức này sẽ là cực kỳ cao.
Kết thúc các giả định chắc chắn sẽ xảy ra trong thế kỷ XXI mà tác giả đã đặt ra
và minh chứng trong chương thứ hai của cuốn sách, chúng ta, những người đọc
đã cảm nhận được phần nào những thách thức to lớn mà các giả định đó mang
lại cho bản thân và tổ chức của mình trong thế kỷ này. Như chính lời tác giả đã
miêu tả trong phần dẫn luận trước khi bắt đầu tác phẩm: ‘’ Người đọc cuốn sách
này sẽ có cảm giác bất an và lo âu như cảm giác của chính tác giả khi viết nó”.
Nhưng rõ ràng, điều quan trọng hơn mà Peter Drucker muốn nhắn đến chúng ta
khi viết nên tác phẩm này, đó không phải chỉ là dự đoán hay nhìn nhận ra những
thách thức mà phải là hành động, cách chúng ta nên và phải hành động nhằm đi
trước sự thay đổi đó. Thông thường với con người chúng ta tâm lý đầu tiên sẽ
xuất hiện khi đối mặt với các thay đổi , đó là sự sợ hãi và quan niệm muốn
chống đối sự thay đổi, bảo vệ các giá trị và cách làm thành công đã xưa cũ mà
chúng ta vẫn coi là đúng. Nhưng trong hiện tại, con người sẽ phải chấp nhận một
sự thật không thể chối cãi rằng: Thay đổi là không thể tránh khỏi và điều đó
cũng đồng nghĩa với: nếu bạn không đi trước sự thay đổi, bạn chắc chắn sẽ thất
17


bại và diệt vong. Người dẫn đầu sự thay đổi tìm kiếm sự thay đổi, biết cách tìm
ra sự thay đổi nào thích hợp và biết cách thực hiện hiệu quả các thay đổi đó cả
bên trong cũng như bên ngoài. Muốn làm được điều đó, đỏi hỏi phải có:
1. Các chính sách xây dựng tương lai
2. Các phương pháp có hệ thống để phát hiện và dự kiến trước sự thay đổi.
3. Có biện pháp thích hợp để giới thiệu sự thay đổi với cả bên trong lẫn bên
ngoài tổ chức
4. Các chính sách để cân bằng sự thay đổi và tính liên tục
Trên đây là những nội dung trọng tâm được tác gải nêu ra trong chương sách thứ
ba của tác phẩm này với tiêu đề: Dẫn đầu sự thay đổi. Nhưng trong bài tiểu luận

này tôi sẽ chỉ đề cập đến vấn đề đầu tiên đó là các chính sách để thay đổi vi theo
tôi trong quá trình thay đổi thì bước đi đầu tiên của tổ chức của nhà lãnh đạo bao
giờ cũng khó khăn và là quan trọng nhất. Chỉ cần có quyết tâm và thực hiện
thành công bước đi đầu tiên này, tất cả những bước đi sau đó đều sẽ dần dần
thực hiện một cách dễ dàng hơn đối với tổ chức của bạn.” Ngày nay người ta
hay nói nhiều về “tổ chức đổi mới”. Nhưng làm cho một tổ chức dễ tiếp nhận sự
đổi mới, hay thậm chí biết tổ chức để đổi mới đi chăng nữa, thì cũng chưa đủ để
trở thành người dẫn đầu sự thay đổi. Thậm chí đó còn là sự nhiễu loạn. Bởi vì,
để trở thành người dẫn đầu sự thay đổi đòi hỏi phái có quyết tâm và khả năng
thay đổi cái cũ đang làm cũng như thực hiện cái mới, cái khác chưa từng làm
bao giờ. Nó đòi hỏi phải có các chính sách để làm cho cái hiện tại tạo ra tương
lai.” Đó là những câu nói truyền cảm hứng cho tất cả những người đã, đang và
sẽ làm lãnh đạo của tổ chức trước khi muốn thay đổi và tiên phong sự thay đổi
trong tổ chức của tác giả Peter Drucker.
Chính sách đầu tiên mà ông nhắc đến trong phần này chính là loại bỏ cái cũ, một
bước đi tưởng chừng hết sức cơ bản nhưng thực ra lại là bước đi rất khó khăn để
có thể thay đổi được tổ chức. Bởi vì những cái cũ vốn bản thân nó đã tồn tại
18


trong suy nghĩ và hành động hằng ngày của mọi thành viên và bộ phận trong
một tổ chức và loại bỏ nó chưa bao giờ là một việc dễ dàng. Bằng chính những
kinh nghiệm của mình qua thời gian làm cố vấn quản lý cho hãng GM- hãng sản
xuất ô tô lâu đời và nổi tiếng hàng đầu của thế giới, ông đã được tận mắt chứng
kiến những sai lầm của công ty dẫn đến thiệt hại nặng nề về mặt kinh tế khi
không dám loại bỏ những điều đã cũ trong doanh nghiệp của mình.
Bất cứ ai ở Mỹ cũng đều biết rằng các nhà chế tạo ôtô Nhật chiếm lĩnh 30% thị
phần ôtô chở khách ở Mỹ trong thời gian chưa tới 10 năm từ giữa những năm 70
đến giữa những năm 80. Và điều này đã thực sự đe dọa đến một công ty nổi
tiếng và từng dẫn đầu về thị phần ô tô tại Mỹ như GM. Trong vòng 15 năm GM

chẳng làm gì khác ngoài quanh quẩn với việc giảm giá, hạ giá sản phẩm mà kết
quả chẳng đi đến đâum công ty vẫn không thể cạnh tranh với các hãng sản xuất
Nhật Bản. Thế rồi cuối cùng, vào cuối những năm 80, công ty quyết định phản
công, tung ra thị trường loại ô tô mới với cái tên Saturn. Saturn là loại xe nhỏ
nhưng giá hơi đắt hơn nguyên mẫu là xe Nhật, nó sao chụp nguyên xi của Nhật
về mẫu mã, phương pháp chế tạo và tiếp thị sản phẩm, về cung cấp dịch vụ và cả
quan hệ lao động. Tuy nhiên, đây là thành công khá bất ngờ vì số đông dân
chúng Mỹ đang khao khát ôtô loại mới do người Mỹ sản xuất.
Nhưng sau đó không lâu, khi hầu hết những người ở ngoài GM nhận ra rằng
việc bán được Saturn không phải vì xe này cạnh tranh được với xe của Nhật mà
là do sự sút kém – nếu không nói là sự cáo chung – của các loại xe khác do GM
sản xuất, như Oldsmobile, Buick; thì lúc đó cty GM và nhất là tổ chức Công
đoàn của hãng này, Liên đoàn thống nhất công nhân ngành ôtô (United
Automobile Workers – UAW) bắt đầu siết cổ Saturn. Họ không cấp vốn để mở
rộng sản xuất Saturn, thay vào đó chuyển vốn sang đầu tư cho những dự án kém
hiệu quả nhằm “hiện đại hóa” các nhà máy sản xuất là Oldsmobile và Buick. Họ
cũng từ chối cấp vốn cho Saturn để phát triển các mẫu mã mới và số vốn này lại
được chuyển cho việc thiết kế lại Oldsmobile và Buick. Đồng thời UAW bắt đầu
19


cắt giảm các mối quan hệ lao động mới và thành công của Saturn vì lo ngại rằng
mô hình quản lý lao động của Saturn có thể lan truyền sang các nhà náy khác
của GM.
Bất chấp mọi cố gắng, tình hình của Oldsmobile và Buick vẫn không được cải
thiện, cả hai vẫn tiếp tục đi xuống. Trong khi đó Saturn coi như bị tiêu diệt. Còn
GM và UAW tiếp tục sa sút. Qua ví dụ cụ thể trên điều mà chúng ta rút ra đó là
nếu không quyết tâm và thực sự thay đổi thì cho dù trong quá khứ bạn đã thành
công rực rỡ thì bạn sẽ nhanh chóng phải chấp nhận thất bại trong thời đại hiện
nay. Loại bỏ cái gì như ví dụ trên đã nhắc đến là quan trọng nhưng một câu hỏi

khác có ý nghĩa còn quan trọng hơn với các nhà quản lý mà tác giả đã đưa ra
trong cuốn sách là loại bỏ những cái cũ như thế nào? Trong thực tế, đã có không
ít những công ty và doanh nghiệp thất bại trong quá trình cố gắng thay đổi để trở
nên tốt hơn chỉ vì họ đã sai lầm trong phương hướng thay đổi của công ty mình.
Quay trở lại với ví dụ mà chúng ta đã nhắc ở trên với công ty GM, nếu thay vì
làm theo cách mà các lãnh đạo đã thực hiện, công ty nên tổ chức loại bỏ hẳn
dòng xe cũ đã ngày càng lỗi thời và cung cấp mọi nguồn lực để tách hẳn dòng xe
mới Saturn thành một đơn vị phát triển độc lập thì có lẽ GM đã không phải chịu
thất bại lớn đến như vậy. Tiếp theo chính sách để thay đổi là quá trình cải tiến
liên tục và khai thác thành công. Hẳn là trong số chúng ta ai cũng đã từng một
lần được nghe đến cụm từ này trong hệ thống tư tưởng quản lý của Nhật bản với
tên gọi là Kaizen. Trong thực tế thì việc cải tiến liên tục của các doanh nghiệp
Nhật Bản được hình thành không chỉ ở những cá nhân quản lý, lãnh đạo mà còn
được phổ biến đến từng thành viên trong tổ chức và việc cải tiến này phải là một
quá trình được thực hiện trong khoảng thời gian dài, có sự đóng góp của rất
nhiều những thành viên trong tổ chức để hướng đến mục tiêu cuối cùng là sự
thay đổi cơ bản hoạt động của tổ chức nhằm phù hợp với sựu phát triển của thời
đại. Nhưng lại một lần nữa, tác giả khẳng định rằng thay đổi không hẳn là phải
xóa bỏ hoàn toàn những cái cũ mà điều cần tập trung là khai thác những giá trị
20


chủ đạo đã tạo nên thành công và phát triển nó ở một tầm cao mới. Một ví dụ mà
tác giả đã sử dụng để minh chứng cho quan điểm nói trên đó là thành công từ
nguyên lý kế thừa của công ty điện tử nổi tiếng Sony. Toàn bộ những thành công
của các sản phẩm Mà sony có hiện nay đều dựa trên nền tảng một sáng chế thậm
chí không phải do công ty tạo ra, đó là: máy ghi âm băng từ. Mỗi một sản phẩm
mới được công ty thiết kế lại ứng dụng một khía cạnh của sáng chế trên và cứ
thế các sáng chế sau lại sử dụng thành công đã có của sáng chế đi trước làm tiền
đề. Tất cả, tất cả những chính sách đã được tác giả nêu ra chính là những bài học

hết sức quý báu cho mỗi nhà quản lý, nhà lãnh đạo cần ghi nhớ và áp dụng cho
tổ chức của mình nếu muốn tòn tại và xa hơn là thành công trong thực tại đầy
bất trắc của thế kỷ này.

IV. Ứng dụng của tư tưởng quản lý trong thời kỳ hiện nay
Sau đây, dưới góc độ cá nhân của mình, tôi muốn nêu ra một số những ứng dụng
hết sức cụ thể của tư tưởng quản lý của tác giả vào quản lý hiện nay mà tôi đã
nhận ra sau khi đọc xong tác phẩm trên:
- Đối với các công ty, đặc biệt là các công ty tại Việt Nam hiện nay, chìa khóa để
hướng tới phát triển và thành công dài lâu chính là chất lượng của đội ngũ nguồn
nhân lực trong tổ chức. Rõ ràng trong thời kỳ hiện đại, các công ty Việt Nam
không còn có thể mãi dựa vào các cơ chế ưu đãi thuế của chính phủ hay dựa vào
chi phí lao động giá rẻ để trở thành lợi thế cạnh tranh như trước nữa. Mà muốn
cạnh tranh toàn cầu thì nguồn lực lao động tri thức và năng suất của đội ngũ này
sẽ là trọng tâm cần được đầu tư để phát triển vì xu thế hiện nay là thay thế ngày
càng nhanh chóng đội ngũ lao động truyền thống tay chân bằng lao động tri thức
21


trong những lĩnh vực công nghệ cao và hiện đại. Và để có thể thực hiện được
điều này thì từng công ty phải thay đổi hệ thống quản lý lao động và tuyển dụng
nhân lực của mình theo một chiều hướng hoàn toàn mới, chiều hướng lấy con
người là trung tâm và đề cao vai trò của con người hơn nữa trong các công ty.
-Một khía cạnh khác mà các công ty cần thay đổi, đó là đảm bảo cân bằng tài
chính của công ty. Còn nhớ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã nổ
ra chính vì nguyên nhân là cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ, với bắt nguồn
sâu xa là sự buông lỏng quản lý về tiền tệ dẫn đến các chính sách đầu cơ của
doanh nghiệp Mỹ và người dân vào bất động sản, làm mất đi cân bằng tài chính
của các công ty, dẫn đến sự đổ vỡ có hệ thống không thể tránh khỏi. Bài học cần
rút ra ở đây là nghiêm túc xem xét các khoản vay cũng như đầu tư để tránh lặp

lại tình trạng mất kiểm soát và phá sản.
-Cuối cùng là vấn đề cân bằng dân số tại các nước phát triển. Trong những thập
kỷ tới, xu hướng người cao tuổi sẽ vẫn tiếp tục gia tăng tại các nước phát triển
và đối với các công ty tại quốc gia như vậy, bài toán sẽ không chỉ dừng lại ở việc
tuyển dụng lao dộng nhập cư mà còn là thay đổi cái nhìn tổng quan về độ tuổi
nghỉ hưu của người lao động. Sẽ không thể trông mong ngay lập tức các chính
phủ thông qua các quyết định tăng độ tuổi nghỉ hưu vì nó còn liên quan đến các
chính sách an sinh xã hội nhưng việc mà các công ty có thể thực hiện ngay lúc
này sẽ là chuyển dần từ lao động toàn thời gian sang sử dụng nhiều hơn lao động
bán thời gian như một cách khuyến khích các lao động lâu năm có thể tiếp tục
đóng góp cho công ty với một thời gian hợp lý hơn hiện tại. Như vậy các doanh
nghiệp vẫn sẽ cân bằng được số lượng người lao động nhằm đảm bảo sự phát
triển lâu dài.
Tóm lại, qua những phân tích cụ thể về nội dung của hai chương sách quan
trọng trên cũng như những nhận định cá nhân của tôi về tác giả và ứng dụng tư
tưởng quản lý của ông trong thời đại mới,chúng ta đã có một nhận thức sâu sắc
hơn về bức tranh toàn cảnh những thách thức của quản lý và xã hội loài người
22


đặt ra trong thế kỷ XXI. Hy vọng rằng trong tương lai cùng với sự phát triển của
hệ thống các tư tưởng quản lý, sẽ có những tác giả có nghiên cứu kỹ lưỡng hơn
về các thách thức như dân số, lao động tri thức, cách mạng thông tin,… cũng
như cách thức giải quyết các hệ quả mà các thách thức đã và đang đặt ra hiện
nay. Vì cho đến cuối cùng, sẽ chỉ có những ai hành động và dám hành động để
thay đổi mới làm chủ tương lai như cách mà tác giả đã nhận xét:’’ Chỉ có chính
sách duy nhất dẫn đến thành công là phải tìm cách tạo ra tương lai’’.

Phụ lục
Các tài liệu tham khảo:

-Nguyễn Canh Chất( 2003), Tinh hoa quản lý, Nhà xuất bản Lao động xã hội,
Hà Nội .
-Peter F. Drucker( 2004), Những thách thức của quản lý trong thế kỷ XXI, Nhà
xuất bản Trẻ.
-Peter F.Drucker(1985), Nhà quản trị hiệu quả, Nhà xuất bản thống kê.
-Peter F.Drucker , Quản trị trong thời khủng hoảng, Nhà xuất bản Lao động xã
hội
-Hồ Văn Vĩnh( 2003), Một số vấn đề về tư tưởng quản lý, Nhà xuất bản chính trị
quốc gia.
23


24



×