Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

lý luận mác lênin về kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường và thực tiễn vấn đề này ở việt nam trong thời kì quá độ lên cnxh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.7 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

TIỂU LUẬN
LÝ LUẬN MÁC-LÊNIN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA VÀ KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG VÀ THỰC TIỄN VẤN ĐỀ NÀY Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH HIỆN NAY

LỚP: 58C.OTO

GIÁO VIÊN BỘ MÔN: TRỊNH CÔNG TRÁNG


Lời mở đầu
Đại hội III của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan đIểm phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta. Quan đIểm
này đã được tái khẳng định rõ hơn ở Đại hội lần thứ VII, VIII của Đảng ta. Gắn với giai
đoạn này là nội dung : phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá, tiền tệ tạo đIều kiện cho
kinh tế hàng hoá phát triển. Cùng những giải pháp chủ yếu:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hoá. Để đảm
bảo sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ổn định của
hệ thống kinh tế quốc dân cũng như ổn định chính trị xã hội. Thúc đẩy ngành trọng đIểm
mũi nhọn tạo sự tích luỹ đồng bộ để thu hút được nguồn vốn đầu tư từ bên ngồi vào tạo
cơng ăn việc làm cho người lao động.
Trong thời kì đầu của xã hội loài người do sù lạc hậu của lực lượng sản xuất, nên
sản xuất xã hội mang tính tù cung tù cấp khiến nhu cầu của con người bị bó hẹp trong
mét giới hạn nhất định. Khi lực lượng sản xuất phát triển và có nhiều thành tựu mới, con
người dần thoát khỏi nền khinh tế tự nhiên và chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá.
Nền kinh tế hàng hoá phát triển càng mạnh mẽ và đến đỉnh cao của nó là nền kinh tế thị
trường. Kinh tế thị trường có những ưu việt của nã , đó là sự thoả mãn tối đa nhu cầu của
con người vãi mét khối lượng hàng hoá khổng lồ. Tuy nhiên nã còng bộc lộ những hạn
chế , nhất là trong chế độ xã hội TBCN , mét chế độ xã hội ở đó chỉ có lợi nhuận được


chú trọng hàng đầu dẫn đến sự phân hoá xã hội sâu sắc và quyền bình đẳng trong xã hội
bị xem nhẹ.
Nhận biết trước tình hình đó, trong q trình nghiên cứu về hình thái kinh tế xã hội
Mac và Anghen đã đưa ra dự đoán: CNTB sớm muộn cũng bị thay thế bởi một chế độ xã
hội cao hơn , chế độ xã hội trong đó con người hồn tồn tự do, văn minh và bình đẳng,
có nền kinh tế phát triển bền vững, xã hơị cơng bằng. Đó là chủ nghĩa cộng xản mà giai
đoạn thấp của nó là CNXH - thời kì chun chính của giai cấp vơ sản.


Nước ta sau khi giành được độc lập ở miền bắc , Đảng đã xác định đưa đất nước
lên tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Khi miền bắc hồn tồn được giảI
phóng thì cả nước bước vào thời kì quá độ lên CNXH.

Đại hội Đảng VI (1986) là một

bước ngoặt lịch sử của nền kinh tế vói đường lối mới của Đảng để phát triển đất nước.
Theo đó ta xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tư tưởng Êy càng được nhấn
mạnh trong các kì đại hội tiếp theo của Đảng.

Cho tới nay, sau hơn mười năm đổi mới ta đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng
kể. Tuy nhiên bên cạnh đó cịn có khá nhiều những mặt cần điêù chỉnh.
Mét sè suy nghĩ và giải pháp qua nghiên cứu kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường
đang diễn ra ở nước ta hiện nay sẽ phần nào giúp ta hiểu rõ hơn về thực trạng của nước ta
trong thời kì quá độ này.
Do hạn chế về hiểu biết nên trong bài viết này của em sẽ khó tránh đựơc những
sai sót. Kính mong được các thầy cô chỉ bảo để bài viết thêm phần sâu sắc.

Em xin chân thành cảm ơn.



B - NỘI DUNG:
PHẦN ĐỀ CƯƠNG KHÁI QUÁT

I - Lý luận Mac-Lênin về kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường và thực tiễn vấn đề này ở
Việt Nam trong thời kì quá độ lên CNXH hiện nay.

1- Kinh tế hàng hoá:
a. Điều kiện ra đời :
Thực tế nền kinh tế thế giới cho thấy không nước nào mà nền kinh tế hàng hoá
hay kinh tế thị trường lại vận động hồn tồn dưới sự điều khiển “vơ hình”của các quy
luật kinh tế khách quan. Mà chúng đều vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết
của các doanh nghiệp và nhà nước và với mức độ và phạm vi khác nhau tuỳ thuộc điều
kiện lịch sử của mỗi nước.
Kinh tế hàng hố là mơ hình kinh tế trong đó hầu hết các quan hệ kinh tế được
thực hiện trên thị trường dưới hình thái hàng hố và dịch vụ, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lí của nhà nước .
Kinh tế hàng hố ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội gắn liền
với hai điều kiện tiền đề:
Một là: Có sự phân cơng lao động xã hội. Phân cơng lao động xã hội là sự
chun mơn hố sản xuất, mỗi ngươì chỉ sản xuất mét hay mét số loại sản phẩm nhất
định. Những nhu cầu cuộc sống đòi hỏi phải có nhiều loại sản phẩm. Vì vậy người sản
xuất này phải dựa vào người sản xuất khác phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Như vậy
phân công lao động xã hội là biểu hiện sự phát triển của lực lựơng sản xuất làm cho năng


suất lao động tăng lên và làm cho trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu. Nó là cơ sở của sản
xuất hàng hố.
Hai là: Có chế độ tư hữu hoặc các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất
và sản phẩm. đIều này làm cho người sản xuất hàng hoá độc lập với nhau và mỗi người

có quyền chi phối sản phẩm của mình, có quyền đem sản phẩm của mình trao đổi với
người khác.
Như vậy : Phân công lao động xã hội làm người sản xuất phụ thuộc vào nhau còn
chế độ tư hữu lại chia rẽ họ làm họ độc lập với nhau đây là một mâu thuẫn. Mâu thuẫn
này chỉ được giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau. Sản xuất hàng
hoá ra đời bắt nguồn từ yêu cầu của cuộc sống.

* Sơ lược về lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá:
Sản xuất hàng hoá ra đời từ sản xuất tự cấp tù tóc và thay thế nã trong quá trình
lịch sử lâu dài.
Ở các xã hội trước chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hoá là sản xuất giản đơn chỉ
giữ vai trò phụ thuộc. Tuy nhiên chính sản xuất hàng hố giản đơn đã tạo khả năng phát
triển lực lượng sản xuất thiết lập các mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế trước đó
vốn tách biệt nhau.
Quan hệ hàng hố phát triển nhanh chóng ở thời kỳ chế độ phong kiến tan rã và
góp phần thúc đẩy q trình đó diễn ra mạnh mẽ hơn.
Hình thức điển hình nhất, cao nhất, phổ biến nhất của sản xuất hàng hoá là sản
xuất hàng hoá TBCN. Dưới CNTB quan hệ hàng hoá thâm nhập vào mọi lĩnh vực, mọi
chức năng của nền sản xuất xã hội, hàng hoá trở thành tế bào của nền sản xuất xã hội . Nã
mang đặc điểm: Dựa trên sự tách rời tư liệu sản xuất với sức lao động trên cơ sở bóc lét
lao động làm thuê dưới hình thức chiếm đoạt giá trị thặng dư.


Sản xuất hàng hoá tiếp tục tồn tại và phát triển dưới CNXH. Đặc điểm của sản
xuất hàng hoá XHCN là nó khơng dựa trên cơ sở chế độ người bóc lột người và nó nhằm
mục đích thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mọi thành viên xã hội trên cơ sở sản
xuất kinh doanh .

* Tính ưu việt của sản xuất hàng hoá:
Sản xuất hàng hoá tiếp tục tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội là sản phẩm của

lịch sử phát triển sản xuất của lồi người. Bởi vậy nó có nhiều ưu thế, và là một phương
thức hoạt động kinh tế tiến bộ hơn hẳn so với sản xuất tự cấp tù tóc :
Nã làm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao
động xã hội . Nã thúc đẩy q trình xã hội hố sản xuất nhanh tróng làm cho sù phân
cơng chun mơn hố sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác hố chặt chẽ hình thành các
mối liên hệ kinh tế và sù phụ thuộc lẫn nhau của những người sản xuất hình thành thị
trường trong nước và thế giới.
Nã thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, đó là cơ sở để thúc
đẩy q trình dân chủ hố, bình đẳng và tiến bộ xã hội.
• Ở Việt Nam:
Trong giai đoạn quá độ lên CNXH, ở nước ta những điều kiện chung của
kinh tế hàng hóa vẫn cịn bởi vậy nền kinh tế hàng hóa tồn tại là một tất yếu khách quan:
Phản công lao động xã hội với tư cách là cơ sở của trao đổi chẳng những
không mất đi, trái lại ngày một phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sau, sự chun mơn
hóa và hợp tác hóa lao động đã vượt qua khỏi biên giới quốc gia và ngày càng mang tính
quốc tế .
Phản cơng lao động xã hội phá vỡ các mối quan hệ truyền thống của nền
kinh tế tự nhiên khép kín, tạo cơ sở thống thất, phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản
xuất vào hệ thống của hợp tác lao động.


Sự phân công lao động của ta ngày càng cho tiết hơn đến từng ngày, từng cơ sở và
phạm vi rộng hơn nữa là toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hiện nay ta đã có hàng loạt các thị
trường được hình thành tõ sù phan cơng lao động đó là: Thị trường công nghệ, thị trường
các yếu tố sản xuất, …Tạo đà cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển giúp
ta nhanh chóng hồ nhập được với kinh tế trong khu vực và thế giới.
Trong nền kinh tế đã và đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể của những người sản
xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu tư nhân TBCN, sở hữu hỗn hợp, đồng sở hữu, …Chế độ xã
hội hoá sản xuất giữa các ngành, các xí nghiệp trong cùng một hình thức sở hữu vẫn chưa

đều nhau. Sở dĩ như vậy là do cơ cấu kinh tế của ta giờ là cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần, sự tồn tại của các thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan .
Sản xuất hàng hoá là để trao đổi đáp ứng nhu cầu của xã hội nên người sản xuất
có điều kiện để chuyên mơn hố cao. Trình độ tay nghề được nâng lên do tích luỹ kinh
nghiệm, tiếp thu được tri thức mới. Công cụ chuyên dùng được cải tiến, kỹ thuật mới
được áp dụng do đó cạnh cạnh tranh ngày càng gay gắt khiến cho năng suất lao động
được nâng lên, chất lượng sản phẩm ngày càng được cải thiện và tốt hơn. Hiệu quả kinh
tế được trú trọng làm mục tiêu đánh giá sự hoạt động của các thành phần kinh tế. Việc
trao đổi hàng hoá dựa trên nguyên tắc ngang giá khiến cho người sản xuất ln tìm cách
tiết kiệm giảm đến mức tối đa những chi phí cá biệt, giảm giá trị hàng hố cá biệt để có
lợi nhuận khi trao đổi. Trên cơ sở phân công lao động, sản xuất hàng hoá phát triển. Khi
sản xuất hàng hoá phát triển sẽ làm phân công lao động ngày càng cao hơn, sâu hơn.
Quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường ngày càng được chủ thể sản xuất hàng hố
vân dụng có hiệu quả hơn và từ đó ngoài các quan hệ kinh tế phát triển mà các quan hệ
pháp lý xã hội, tập quán, tác phong cũng thay đổi.
Chính từ tính ưu việt riêng , rất có lợi ( tuy bên cạnh đó vẫn cịn có những khuyết
tật ) của sản xuất hàng hóa mà tại đại hôi VII Đảng ta đã xác định phương hướng : Phát
triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước.
b. Đặc điểm của kinh tế hàng hóa trong thời kì q độ lên CNXH bỏ qua chế
độ TBCN ở nước ta :


Nước ta tiến lên xã hội CNXH từ một nền kinh tê tiểu nông lạc hậu, lực lượng sản
xuất chưa phát triển, lại bỏ qua giai đoạn TBCN nên nền kinh tế hàng hóa của ta khơng
giống với nền kinh tế hàng hóa của các nước khác trên thế giới với những đặc trưng tiêu
biểu:
Thứ nhất: Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ một nền kinh
tế hàng hóa kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc sang một nền kinh tế hàng hóa
phát triển từ thấp đến cao.

Xuất phát từ thực trạng có thể nói là rất tiêu điều của nền kinh tế nước ta: Kết cấu
hạ tầng vật chất và xã hội kém, trình độ cơ sơ vật chất và cơng nghệ trong các doanh
nghiệp lạc hậu, khả năng cạnh tranh gần như khơng có , đội ngũ nhà doanh nghiệp tầm cỡ
thiếu trầm trọng . Bên cạnh đó thì thu nhập của người làm công ăn lương cũng như của
nông dân thấp kém khiến dung lượng hàng hóa trên thị trường có sự thay đổi rất chậm
chạp, khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường thấp. Từ sư thật khơng mấy sáng
sủa này , buộc ta phải có chiến lược phát triển kinh tế để vượt qua thực trạng của nền
kinh tế , đưa nền kinh tế hàng hóa phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng và nâng cao
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế hàng hóa ở nước ta.
Thứ hai: Nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành
phần.Từ thực trạng nền kinh tế hàng hóa kém phát triển do nhiều nhân tố song nhân tố
gây hậu quả nặng nề nhất là sự nhận thức không đúng đắn dẫn đến nơn nóng xố bỏ
nhanh các thành phần kinh tế, thực chất là xoá bỏ điều kiện tồn tại và phát triển kinh tế
hàng hoá, làm mất khả năng cạnh tranh và tác dụng tích cực của nền kinh tế hàng hoá.
Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả năng đưa
nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém. Cơ cấu ngành theo hướng phát triển kinh tế
dịch vụ đang dần chiếm ưu thế cao trong nền kinh tế hàng hoá thu hút mét số lượng lớn
lao động. Từ đó cơ cấu cơng- nơng nghiệp và dịch vụ sớm hình thành theo định hướng
chuyển dịch kinh tế mà Đại hội Đảng VIII đã đề ra. Nã đảm bảo cho mọi người, mọi
doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế đều được tự do kinh doanh theo pháp luật và
được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp. Nó cịn làm cho các
chủ thể kinh tế được hoạt động theo cơ chế tự chủ, hợp tác cạnh tranh và bình đẳng trước
pháp luật.


Thứ ba: Nền kinh tế hàng hoá theo cơ cấu kinh tế “mở”giữa nước ta với các nước
trên thế giới.
Trước kia với cơ cấu kinh tế “khép kín”, với tình trạng “bế quan toả cảng”, luẩn
quẩn sau luỹ tre làng nên kinh tế nước ta lâm vào bế tắc, kém phát triển có thể nói là lạc
hậu nhất thế giới. Vì vậy sù ra đời của nền kinh tế hàng hoá TBCN đã làm cho thị trường

dân tộc hoạt động trong sù gắn bó với thị trường thế giới. Do sù phân bố phát triển không
đều về tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và thế mạnh giữa các nước tõ quy luật phân
công và hợp tác lao động quốc tế, đời sống mang tính quốc tế hố …dẫn đến nhu cầu
khách quan là mở cửa nền kinh tế hàng hoá để đạt được hiệu quả cao và phát triển với tốc
độ nhanh nền kinh tế.
Thứ tư : Phát triển kinh tế hàng hóa theo định hưỡng XHCN với vai trò chủ đạo
của nền kinh tế Nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Trong các thành phần kinh tế thì kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo do bản chất
vốn có và lại nắm giữu các ngành, lĩnh vực then chốt và trọng yếu, nên đảm bảo cho các
thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN . Tuy nhiên vai trị của nó chỉ
được khẳng định khi nó phát huy được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế
khac, nó sớm chuyển đổi cơ chế quản lý theo hướng năng suất , chất lượng và hiệu quả để
đứng vững và chiến thắng trong môi trường hợp tác và cạnh tranh giữa các thành phần
kinh tế .
Nền kinh tế hàng hóa bên cạnh mặt tích cực là làm thay dổi bộ mặt đất nước
không tránh khỏi những khuyêt tật nhất định và mặt xã hội như :phá sản , khủng hoảng ,
áp bức bất công, tàn phá môi trường, phân hóa giàu nghèo….Chính vì vậy cần phải có sự
quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Nước ta do chịu ảnh hưởng lâu dài của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu ,
bao cấp nên những công cụ để Nhà nước điều hành vĩ mô nền kinh tế hàng hóa như : hệ
thơng ngân hàng ,tín dụng … cịn thấp kém . Nước ta đang xây dựng pháp luật về kinh tế
những lại chưa đồng bộ, xã hội chưa quen với việc chấp hành luật pháp trong kinh doanh.
Trình độ hiểu biết của nhà nước về cơ chế thị trường cịn nhiều hạn chế , thiếu tính
khoa học, thực tế còn lúng túng trong quản lý kinh tế vĩ mơ.Trong điều kiện đó xu hướng
vận động khách quan của nhà nước ta trước mắt và lâu dài là phấn đấu nâng cao năng lực


và tăng cường các cơng cụ và do đó nâng cao trinh độ quản lý vĩ mô của nhà nước. Từ
đinh hướng đó đảng dã kiên định chiến lược phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hương

XHCN. MÀ nhà nước là của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của đảng là nhân rố
quyết định đảm bảo tính định hướng XHCN.
Sau hơn mười năm đổi mới ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể làm vai trò
quản lý của nhà nước được tăng cường, Bằng các công cụ rất riêng: Pháp luật kế hoạch.
Thiết chế về tài chính , tiền tệ và những phương tiện vật chất khác . Nhà nước tạo điêu
kiến khuyến khích, phát huy những mặt tích cực của nền kinh tế hàng hóa, ngăn ngừa,
hạn chế tính tự phát và các khuyết tật của cơ chế thị trường.
Nhận xét:
Các đặc điểm của nền kinh tế hàng hóa ở trên có quan hệ mật thiết quan hệ mật
thiết với nhau phản ánh kết quả của sự phân tích thực trạng và xu hướng vận động nội tại
của quá trình hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa ở nước ta hiện nay và tương lai.
Các đặc điểm này bắt nguồn từ sự chi phối của các quy luật kinh tế nền kinh tế
hàng hóa ( quy luật giá trị , quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và quy luật thông tiền
tệ ) bắt nguồn từ vai trò định hường của kinh tế nhà nước và vai trò quản lý của nhà nước
ở nước ta . Nhà nướclà của dân và vì dân quyết định.
c. Phương hướng phát triên kinh tế hàng hóa ở nước ta:
Trong giai đoạn hiện nay khi mà chiến lược ổn định về kinh tế, chính trị, xã
hội đã được xác định rõ, kết cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội được xây dựng ngày
càng đáp ứng tố nhu cầu sản xuất và tiêu dùng , hệ thống pháp luật và bộ máy nhà nước
được củng cố và trong sạch hóa, số lượng các nhà quản lý, nhà kinh doanh giỏi thích nghi
với cơ chết thị trường ngày càng đông đảo, tay nghề khá cao. Đảng đã xác định hướng đi
của nền kinh tế phù hợp với các điều kiện tiền đề hiện có:
-

Trước hết phải thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành

Phần theo định hướng XHCN với các hình thức sở hữu đa dạng: sở hữu nhà nước , sở
hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp …



Thứ hai : cần sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước theo hướng nắm khâu mặt
hàng trọng yếu chuyển dần sang hạch toán kinh doanh, tự chủ về mọi mặt đủ sức đứng
vững và giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Ba là: sừ dụng rộng rãi các hình thức kinh tế của kinh tế tư bản nhà nước để
phát huy sức mạnh hỗn hợp của tư bản trong và ngồi nước với nhà nước về các mặt
vốn,cơng nghệ và tài năng quản lý.
Bốn là : đẩy mạnh phân công lao động và hợp tác lao động theo hướng chuyên
môn hóa kết hợp đa dạng hóa sản xuất kinh doanh, tăng cường phát triển ngành sản xuất
phi vật chất, coi trọng lao động trí tuệ.
Năm là: đầy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa , hiện đại hóa coi trọng việc ứng
dụng các thành tựu khóa học và cơng nghê của lồi người .Dẫn đến đẩy mạnh kinh tế
hàng hóa phát triển cả về chiều rộng lẫn khu vực và quốc tế.
Sáu là: xây dựng và phát triển thị trường hướng ngoại nhưng phải lấy thị trường
trong nước làm cơ sở , phải có mặt hàng mũi nhọn có khả năng cạnh tranh trên cơ sở thế
mạnh và lợi thế so sánh . Bởi vì người ta chỉ nhập khẩu những gì là thế yếu của mình và
thế mạnh của người khác tức là bản hay xuất cái mà thị trường cần chứ khơng phải cái
mà mình có .
Bảy là: thực hiện chính sách đổi ngoại có lợi cho phát triển của kinh tế hàng
hóa. Mở rộng quan hệ theo hướng đa dạng hóa về hình thức , đa dạng hóa vè nguồn và
hai bên cùng có lợi , khơng can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và không phân biệt
chế độ chính trị .
Kết luận:
Thấy rằng việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa ở nước ta là một
q trình vừa có tính cấp bác lại vừa có tínhchiến lược lâu dài. Trong từng bước đi cảu
q trình vừa có những khó khăn do sự xuất phát thấp của nền kinh tế nhưng lại có những
thuận lợi nhất định cần được khai khác : đó là nguồn lao động dồi dào , môi trường và
con người việt nam năng động , có khả năng tiếp cận cơ chế thị trường nhanh , ta lai nằm
trong khu vực Châu á – Thái bình dương: vùng trung tâm của nền văm minh loài người
đang được di chuyển đến , vùng kinh tế năng động nhất hiện nay.



Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN với vai trò chủ
đạo của kinh tế Nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mơ của nhà nước.
Chính vì thế ngay tõ buổi đầu của chính sách đổi mới kinh tế ta đã xác định ngay
việc đổi mới phải theo hướng có lợi cho sù phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Trong
mấy thập niên gần đâ, kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ nhờ sự tác động và thúc đẩy
của công nghệ mới và lực lượng sản xuất mới, cho nên nền kinh tế hàng hố đang có su
hướng chuyển sang kinh tế thị trường. Tốc độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá tạo sự
hấp dẫn mạnh đối với các nhà hoạch định chiến lược phát triển kinh tế – xã hội hiện nay
ở các nước XHCN.

2a- Kinh tế thị trường:
a-Thị trường và vai trò thị trường:
- Thị trường là một phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hoá được biểu hiện các
hoạt động mua bán, trao đổi cùng với các mối quan hệ do chóng gây ra được diễn ra
trong mét khơng gian và thời gian nhất định .
- Vai trị: Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thơng hàng hố, nơi
ra đời và phát triển cùng qúa trình ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thơng hàng
hố, sản xuất hàng hố phát triển, lượng sản hẩm lưu thông trên thị trưtờng ngày càng dồi
dào phong phó - thị trường mở rộng- khái niệm thị trườngđược mở rộng hơn. Đó là lĩnh
vực trao đổi hàng hố thơng qua tiền tệ làm mơi giới. ở đây người mua và người bán tác
động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường.
- Thị trường là trung tâm của tồn bộ q trình tải sản xuất hàng hóa . Những vấn
đề cơ bản của nền sản xuất hàng hóa là sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? và cho ai?
Đều phải thông qua thị trường. Vì vậy , thị trường đóng vai trị hoạt động và phương án
sản xuất , kinh doanh có hiệu quả.
- Thị trường các yếu tố sản xuất hay thị trường đầu vào là nơi mua
bán các yếu tố sản xuất. Thông qua thị trường này mà nhà kinh doanh mua
được các yếu tố sản xuất như tư liệu sản xuất, sức lao



Sự định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta là cần
thiết và có tính khách quan. Xây dựng nền kinh tế thị trường khơng có gì
mâu thuẫn với định hướng XHCN. Đại hội đảng VIII đã khẳng định: “
cơchế thị trường đã phát huy tác dụng đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó
chẳng những khơng đối lập mà cịn là một nhân tố khách quan cần thiết của
việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN ”

b. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang kinh
tế thị trường theo định hướngXHCN:
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, chúng ta đứng trước thực trạng
là: đất nước đang từng bước quá độ lên CNXH tõ mét xã hội vốn là thuộc
địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất
thấp. Đất nước lại phải trải qua hàng chục năm chiến tranh, tàn dư thực dân
phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp.
Với điểm xuất phát ấy có thể thấy rằng: nền kinh tế nước ta khơng
hồn tồn là nền kinh tế tự nhiên nữa nhưng cũng chưa phải là kinh tế hàng
hoá theo nghĩa đầy đủ. Mặt khác do đổi mới kinh tế nên nền kinh tế nước ta
khơng cịn là nền kinh tế chỉ huy. Có thể nói nền kinh tế nước ta khi chuyển
sang kinh tế thị trường, là nền kinh tế hàng hố kém phát triển, cịn mang
nặng tính tự cấp tù tóc và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp.
Thực trạng đó được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất: Kinh tế hàng hố cịn kém phát triển, nền kinh tế cịn
mang nặng tính chất tự nhiên. sự yếu kém của kinh tế hàng hố ở nước ta
thể hiện ở :
Trình độ cơ sở vật chất – kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp
kém ( do chiến tranh kéo dài, cơ sở hạ tầng bị phá huỷ nặng nề, mặt khác
mọi chi phí thời bấy giờ tập trung cho chiến tranh nên chưa có đIều kiện tập

trung cho sản xuất )


Hệ thống kết cấu tầng , phục vụ sản xuất và phục vụ xã hội chưa
đủ để phát triển kinh tế thị trường trong nước và ngoài nước và chưa có khả
năng mở rộng giao lưu với thị trường thế giới .
Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả . Từ điểm xuất
phát thấp , nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế
nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp.Trong
nông nghiệp lại có hiện tượng độc canh cây lúa , ngành nghề chưa phát
triển.Từ sau đại hội Đảng VI đến nay tuy cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu
thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi nhưng vân chưa hình thành một cơ
cấu kinh tế mới hợp lý và có hiệu quả.
( Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý và có hiệu quả khi nó phản
ảnh đúng yêu cầu quy luật khách quan , khi nó cho phép khai thác mọi tiềm
năng của đất nước và thực hiện được sự phân công và hợp tác quốc tế )
Chưa có thị trường théo đúng nghĩa của nó . Trong những năm
qua thị trường ở nước ta còn ở trình độ thấp với tính chất cịn hoang sơ ,
dung lượng thị trường cịn thiếu và có phần rồi loạn , mới từng bước có thị
trường nói chung , trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường với
hệ số giá cả và quan hệ mua bán bình thường theo cơ chế thị trường . Mà về
cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động hoặc mới chỉ có thị
trường này ở khu vực kinh tế ngồi quốc doanh với hình thức th mướn
cịn thơ sơ mà phần lớn sử dụng chế độ lao động theo biên chế . Ta cũng
chưa có thị trường tiền tệ và thị trường vốn đã có nhưng mới chỉ ở mức độ
thô sơ.
Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên nhân khác nhau . Về khách quan
trình độ phát triển của phân công lao động thấp . Về mặt chủ quan là do
nhận thức chưa đúng đắn về nền kinh tế XHCN, do sự phân biệt duy ý chí
giữa thị trường có tổ chức và thị trường tự do . Với những quan niệm quy tư

liệu sản xuất lưu truyền nội bộ trong xí nghiệp quốc doanh là hàng hóa đặc
biệt khơng được mua bán tự do, lại do quản lý theo chiều doc – theo chức
năng kinh doanh của từng ngành một cách máy móc dẫn đến hiện tượng cửa


quyền cắt đứt mối quan hệ tự nhiên giữa các ngành , dẫn đến thị trường bị
chia cắt .
Từ đó ta thấy với tất cả tính phức tạp và các mặt tiêu cực xảy ra
trên thị trường, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường vẫn chưa tới bước
ngoặt quyết định. Vì vậy phải tiếp tục thúc đẩy quá trình hình thành và phát
triển của thị trường ngày càng thơng suốt , đầy đủ và thông nhất trên cả
nước , gắn liền tới thị trường nước ngoài.
Năng suất lao động và thu nhập quốc dân theo đầu người còn
thấp, như vậy rõ ràng là nền kinh tế hàng hóa cịn kém phát triển, cơ cấu
kinh tế còn mất cân đối , thị trường trong nước chưa phát triển .
Theo số liệu thống kê của ngân hàng thế giới năm 1991 thì mức thu
nhập bình quân đầu người ở nươc ta so với các nước đang phát triển ở Đông
Nam Á vào loại thấp nhất .Theo sự dự đoán của các nhà kinh tế Việt Nam
thì GNP/người , năm 96’ là 250 USD trong khi đó Singapore là 22520
USD , Thái Lan là 2315 USD , Thụy Sỹ > 40000 USD.
Thứ hai: ảnh hưởng của mơ hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp .
Chính những nhơcj điểm lạc hậu của cơ chế này đã kìm hãm sự
phát triển của nền kinh tế , nó xóa bỏ quan hệ hàng hóa tiền tệ làm nền kinh
tế bị “ hiện vật hóa ”. Một cơ chế lệnh kế hoạch, lệnh giá cả , tài chính tiền
tệ theo quy tác cấp phát giao nộp nhằm thực hiện kế hoạch , một cơ chế mà
phạm trù giá cả , tài chính , lưu thơng tiền tệ là những phạm trù vốn có của
kinh tế hàng hóa mà dù có được sử dụng thì cũng là hình thức – gần như đối
lập với nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường . Ở mặt quan
hệ tổ chức hành chính cơ chế kinh tế ấy là cơ chế quản lý chủ yếu theo lệnh

tập trng nhưng lại diều hành bởi nhiều đầu mối của các ngành chức năng
( công nghiệp , nông nghiệp …), kiểu một dàn nhạc có nhiều nhạc trưởng
nên mang tính chất phân tán.
ở mặt quan hệ kinh tế, cơ chế ấy thể hiện quan hệ giao nộp, thu
mua cấp phát. Sản xuất và kinh doanh được tiến hành gần như là ở khu vực


hành chính sự nghiệp hay hậu cần quân đội tạo đIều kiện cho sù phát triển
kinh tế, suy yếu, triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, gây hiện tượng ỉ nại,
dựa dẫm, lười biếng, tạo môi trường cho lãng phí thất thốt tài sản quốc gia,
cản trở việc cải thiện đời sống và phát triển sản xuất.
Vì vậy Đại hội Đảng VII đã khẳng định : “Xoá bỏ triệt để cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các cơng cụ khác. Xây
dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ,
tiền vốn, sức lao động …Thực hiện giao lưu kinh tế thông suốt trong nước
và với thị trường thế giới”.

d.Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam
sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN:
Xuất phát từ thực trạng của nền kịnh tế nước ta khi chuyển sang
kinh tế thị trường theo ta thấy thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế
nước ta sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là quá trình kết hợp
giữa chuỷên nền kinh tế cịn mang nặng tính chất tự cấp tù tóc sang nền kinh
tế hàng hố tiến tới nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ
lên sản xuất lớn “địn xeo” là nền kinh tế hàng hố. Chính Mác đã coi sự
phát triển của kinh tế hàng hoá là xuất phát điểm và là điều kiện quan trọng
nhất không thể thiếu được đối với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất

lớn TBCN. Về sau khi nội chiến kết thúc Lê Nin còng chủ trương thi hành
chính sách kinh tế mới ( NEP ) để khởi động sự sống động của nền kinh tế,
mở rộng giao lưu hàng hóa giữa thành thị và nơng thơn, thực hiện các quan
hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hóa tiền tệ trên thị trường.
Đối với nước ta trong qua trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường có những đặc điểm khác với các nước Đông Âu và Liên Xô cũ
.Trong khi họ đi lên từ một nền kinh tế phát triển , đã được cơ khí hóa ,
thốt khỏi tính chất tự nhiên thì chúng ta đi lên từ một nên kinh tế còn mang


nặng tính chất tự cấp tự túc, đó cũng là mơ hình nền kinh tế chỉ huy vơi cơ
chết kế hoạch hóa tập trung đối lập với thị trường .Do vậy quá trình chuyển
nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá trình
thực hiện nền kinh tế mở , nhằm hòa nhập với thị trường thế giới .
Trong bối cảnh hiện nay , bài học về sự kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh của thời đại trong công cuộc đâu tranh giành độc lập tự do
trước đây lại một lần nữa sống động trong công cuộc phát triển đất nước.
Quan hệ quốc tế của ta đã có nhiều đổi mới quan trọng , ta
chuyển từ quan hệ đơn phươn sang đa phương , quan hệ với tất cả các nước
không chỉ với các nước XHCN như trước nữa .Vì vậy mà hoạt động kinh tế
đã có những tiến bộ lớn . Xuất khẩu hàng hóa tăng nhanh với nhịp độ
20%/năm (1986-1992 ) bảo đảm nhập khẩu các loại vật tư và cơng nghệ chủ
yếu , cải thiện cán cân thanh tốn quốc tế . Ta đã nhanh chóng điều chỉnh và
khắc phục được hững hụt hẫng về nguồn vốn và thị trường từ các nước SNG
và Đơng Âu . Hàng hóa xuất khẩu của ta đã tìm được những thị trường mới
trong khu vực Đông Nam Á và Tây Âu . Nguồn vốn nước ngoài vào Việt
Nam cũng tăng nhanh .
Trong khi hòa nhập vào thị trường thế giới và đẩy mạnh hoạt
động thương mại cần áp dụng có hiệu quả nguyên tác lợi thế so sánh . Từ đó
để xác định rõ cần sản xuất và cung ứng cho thị trường loại hàng hóa nào ,

và số lượng bao nhiêu để từ đó xác định quy mơ sản xuất.
Nhưng năm gần đây , lợi thế so sánh của ta đã và đang chú ý và
phát huy : đó là sự phong phú của tài nguyên thiên nhiên ( về số lượng
loai ), nguồn nhân lực dồi dào với tiền công thấp và vi trí lãnh thổ thuận lợi .
Bên cạnh đó nhà nước lại có chính sách đầu tư hấp dẫn , tạo điều kiện thuận
lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài . Ta tiếp tực coi trọng các thị trường
truyền thơng , nhanh chóng thâm nhập vào các thị trường mới , mở rộng thị
trường khu vực cải tiến cơ cấu suất khẩu theo hướng tăng tỉ trọng các chế
biến , giảm tỉ trọng xuất khẩu nguyên liệu tạo ra các sản phẩm xuất khẩu


chủ lực như dầu mỏ , nông lâm thủy hải sản…phát triển dịch vụ vận tải
hàng không , thông tin liên lạc…
Để làm được những vấn đề đó Nhà Nước cần có những chinh
sách bảo hộ mậu dịch hợp lý nhằm khuyến khích các ngành kinh tế phát
triển , thu hút những sản phẩm quý hiếm và sản phẩm khoa học từ bên ngoài
, ngăn chặn nhập khẩu những mặt hàng ta có khả năng sản xuất . Đồng thời
cần duy trì ổn định về chính trị , kinh tế và xã hội nhằm tạo ra môi trường và
hành lang cần thiết cho tất cả các doanh nghiệp trong cá thành phần kinh tế
hoạt động thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển.

2b.Các giai đoạn và biện pháp hình thành kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN

Việt
Nam:
Quá trình hình thành và phát triển nền kinh té hàng hóa theo định hướng XHCN ở
nước ta là một quan hệ phức tập, nhiều khó khăn, khơng nên quan niệm giản đơn và nóng
vội cần phải tuân thủ những quy luật của quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị
trường.

Gồm
các
giai
đoạn
sau:
+ Giai đoạn quá độ chuyển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng
XHCN:
Về mặt lịch sử giai đoạn này bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sử rất quan trọng là
nghị quyết BCHTW lần VI ( khóa IV), tháng 9 năm 1979. Về mặt logic thì bắt đầu từ việc
hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hóa theo đúng nghĩa nhằm tạo ra mối
quan hệ vừa tự chủ vừa lệ thuộc lã nhau giữa các chủ thể sản xuất. Giai đoạn này mang
nội dung chủ yếu khắc phục tính hiện vật trong quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ hàng
hóa tiền tệ cùng với nội dung ấy là các giải pháp chủ yếu sau:
-Hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hóa nhằm chuyển quan hệ
trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hóa tiền tệ.
- Chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hẹ sở hữu có tính đa dạng với
nhiều
hình
thức
sở
hữu
khác
nhau.
- Đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế theo chiều dọc sang
các
quan
hệ
kinh
tế
theo

chiều
ngang.
+ Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN:
Đại hội III của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta. Quan điểm này đã
được tái khẳng định rõ hơn ở Đại hội lần thứ VII, VIII của Đảng ta. Gắn với giai đoạn này
là nội dung: phát tiển và mở rộng quan hệ hàng hóa, tiền tệ tạo điều kiện cho kinh tế hàng
hóa phát triển. Cùng những giải pháp chủ yếu:


- Chuyển dịch cơ cấu kin tế theo định hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để đảm bảo
sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ổn định của hệ
thống kinh tế quốc dân cũng như ổn định chính trị xã hội. Thúc đẩy ngành trọng điểm
mũi nhọn tạo sự tích lũy đồng bộ để thu hút được nguồn vốn đầu tư từ bên ngồi vào tạo
cơng ăn việc làm cho người lao động.
- Chủ động tạo điều kiện cần thiết để xây dựng đồng bộ các yếu tố của thị trường,
phát huy những ưu thế và động lực của thị trường đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực
của

chế
thị
trường.
Hiện nay ở nước ta thị trường đầu ra của sản xuất, khả năng cạnh tranh của hàng
nội địa còn kém nên cần nâng cao chất lượng sản phẩm và phấn đấu giảm giá cả hàng
hóa, cịn ở thị trường đầu vào của sản xuất cần hình thành nhanh chóng thị trường tiền
vốn và thị trường lao động. Sở dĩ cần như vậy là vì trình độ thị trường là phản ánh trình
độ phát triển của cơ chế hàng hóa, thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển hơn.Nó vừa là
điều
kiện
vừa


mơi
trường
của
sản
xuất.
- Hồn thiện và tăng cường vận dụng các chính sách tài chính và tiền tệ
- Bồi dưỡng và đào tạo bộ quản lý doanh nghiệp theo yêu cầu của kinh tế thị trường.
+ Giai đoạn hình thành và phát triển kinh tế thị trường theo quy định hướng XHCN:
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là tiền tệ hoặc các quan hệ kinh tế, tạo lập cơ
sở kinh tế cho các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường phát huy tác dụng một cách đầy
đủ, phát triển kinh tế trong nước và hòa nhập với kinh tế thế giới với các giải pháp là:
- Phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hóa kinh tế quốc dân. Đây là giải pháp
mang tính thời đại. Dựa trên lợi thế so sánh và chủ quyền nước ta.
-Hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường và các yếu tố sản xuất nhằm đáp ứng
nhu cầu về vốn, sức lao động và các điều kiện vật chất khác cho sản xuất.
- Thiết lập cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước giải áp quyết định đến sự
hình
thành

phát
triển
nền
kinh
tế
thị
trường
nước
ta.
- Lựa chọn chính sách khoa học, cơng nghệ vì mục tiêu phát triển nhằm khắc phục

sự khan hiếm các nguồn lực đưa nền kinh tế phát triển theo chiều sâu, trong đó lao động
trí tuệ trở thành đặc trưng nổi bật.Như vậy phải địi hỏi có một đội ngũ cán bộ khoa học
kỹ thuật đông đảo và tài năng, tận tụy với sự nghiệp xây dựng đất nước.
Nói tóm lại, để thành cơng trong q trình hình thành xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường ở nước ta cần theo đúng trình tự cộng
các giai đoạn và giải quyết tốt các yêu cầu đặt ra để phát triển một cách toàn diện, tránh
những thất bại khơng đáng có.

3. Một số kết quả đạt được từ khi đổi mới cơ chế ở nước ta:
Sau hơn 10 năm thực hiện việc chuyển đổi cơ chế kinh tế từ cơ chế kế hoạch tập trung
sang cơ chế thị trường đã làm thay đổi về mọi mặt của nền kinh tế- xã hội nước ta.
Về Nông Nghiệp: Những năm 80 sản xuất nông nghiệp bị cản trở do khơng
khuyến khích đối với hoạt động tư nhân, cá thể và giá cả bị bóp méo. Từ chỉ thị 150 của


ban bí thư ( 1981) đến nghị quyết 10 của bộ chính trị (1988), nghị quyết trung ương V
(khóa 7) tháng 6/1993 và kì họp thứ 3 quốc hội khóa IX đã thông qua luật ruộng đất, giao
quyền sử dụng lâu dài cho người dân, cùng với cơ thể một giá theo thị trường với sản
phẩm nông nghiệp và mở rộng hình thức tổ chức sản xuất làm thay đổi phương thức canh
tác, nâng cao năng suất. Đến nay nông sản phẩm đã có phần dư thừa và đã trở thành một
nước xuất khẩu gạo nổi tiếng trên thế giới cùng với ngơ, sắn, mía, đường. Tóm lại, chúng
ta
đã

đang
trong
giai
đoạn
thay
đổi


cấu
ngành.
Về cơng nghiệp: Đã có sự thay đổi cơ cấu kinh tế. Năm 1990 có khoảng 60% sản
lượng cơng nghiệp thuộc về sở hữu nhà nước còn 40% thuộc về khu vực tư nhân và hợp
trong khu vực quốc doanh. Giá trị xuất khẩu hàng năm tăng trên 60%, trong đó dầu thơ là
mặt hàng có kim ngạch lớn nhất hiện nay. Đến năm 2001 sản lượng dầu khai thác được là
17 triệu tấn, với kim ngạch 3,17 tỷ USD. Dự đoán năm 2002 kim ngạch xuất khẩu đạt 2,6
tỷ USD. Ngành dệt may: đã xâm nhập vào gần 30 nước đặt biệt cả các thị trường khó tính
như EU, Mĩ, Nhật. Năm 2001 giá trị đạt 2,1 tỷ USD. Dự kiến năm 2002 đạt 2,4 tỷ USD.
Về xây dựng cơ bản: Những năm gần đây đã tăng thêm. Xét về cơ cấu thì việc đầu
tư trong khu vực Nhà Nước cũng có nhiều điều chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho ngành nơng
nghiệp cịn rất ít so với nhu cầu cần thiết. Ta phải vay vốn và cho nước ngoài đầu tư trực
tiếp. Các dự án đầu tư nước ngoài chủ yếu vào lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí,
than, vàng, đá quý, sản xuất hàng xuất khẩu, chế biến nông, lâm, hải, sản, xây dựng khách
sạn, nhà ở, du lịch, GTVT, bưu chính viễn thơng với quy mô không lớn lắm. Gàn đây đầu
tư cho kết cấu hạ tầng, y tế- giáo dục được quan tâm hơn. Do vậy cán cân thanh toán quốc
tế được cải thiện. Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP tăng mạnh trong thời kỳ đổi mới. Phần
nhập khẩu cũng chỉ nhập những mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất là chính, từ đó tỷ lệ
lạm phát giảm, đồng tiền Việt Nam ổn định. Tuy lãi suất tiền gửi có giảm nhưng không
gây sự phản ứng trong dân chúng bằng cách rút tiền gửi khỏi ngân hàng, bằng chính sách
thuế. Nhà nước cũng tăng được nguồn thu, khắc phục thâm hụt ngân sách.
Tuy vậy vẫn còn mặt trái của cơ chế thị trường mới xuất hiện này. Đó là sự phân hóa
giàu nghèo với những khó khăn trong việc phân phối tài nguyên và sản phẩm làm ra,
nhiều hành vi trái đạo đức,văn minh ( làm hàng giả, gây ô nhiễm) đang phát triển nhưng
chưa được ngăn chặn.
Tóm lại: Sau hơn 10 năm thực hiện cơ chế thị trường nền kinh tế của chúng ta đã
đạt được những kết quả vượt trội trong tiến trình phát triển kinh tế như: giải quyết được
nạn nghèo đói, đề cao vai trị tiền tệ, giảm đáng kể lạm phát, hàng hóa, dịch vụ đa dạngphong phú có khả năng tích lũy từ nội tại nền kinh tế,...
Bên cạnh đó cịn có những biểu hiện mặt trái của nó ra nền kinh tế xã hội đó là sự

phân hóa giàu nghèo, chạy theo thuận mà bất chấp đạo đức, sự thối hóa biến mất về lập
trường tư tưởng của một số lãnh đạo...


II- MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ TIẾP TỤC GIỮ VỮNG ĐỊNH HƯỚNG TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN TỚI:
1- Các biện pháp đảm bảo định hướng XHCN trong phát triển kinh tế:
Phát triển cơ chế thị trường theo định hướng XHCN là một tiến trình phức tạp lâu dài và
khó khăn. Khi hình thành nền kinh tế thị trường cơ cấu xã hội trở nên phức tạp và khó
nắm bắt, đồng thời nếu như khơng định hướng tốt thì cơ chế thị trường sẽ bị chệch hướng.
Do đó để tiếp tục giữu vững định hướng XHCN trong khi đổi mới cơ chế cần thực hiện
một số giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của toàn bộ nền kinh tế,
đồng thời phải giữ đúng hướng đi của nền kinh tế.Giải pháp quan trọng để thực hiện mục
tiêu trên chính là việc đề cao vai trò của kinh tế nhà nước, bên cạnh đó là các thành phần
kinh tế tư nhân, cá thể được phát triển mạnh, cần phát huy tính tích cực định hướng nền
kinh
tế
của
các
thành
phần
kinh
tế
nhà
nước.
Muốn
làm
những
điều
ấy

cần:
Một là: Giữ vững quyền sở hữu trong tay nhà nước- chỉ nhà nước là duy nhất có
chủ
quyền
sở
hữu
tồn
bộ
lãnh
thổ
quốc
gia.
Hai là: Nhà nước xác định rõ những ngành kinh tế, những lĩnh vực đảm bảo sự chi
phối hoạt động thống nhất của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đảm bảo cho an ninh quốc
gia và an toàn xã hội như: hệ thống cảng biển, sân bay, đường sắt, quản lý mạng lưới
đường quốc lộ, hệ thống phân phối điện quốc gia, liên lạc viễn thông, hệ thống quỹ dự trữ
quốc gia, các cơ sở kinh tế phục vụ quốc phịng an ninh, những cơ sở phục vụ cơng cộng
đảm
bảo
nhu
cầu
sinh
hoạt
thường
xun
của
nhân
dân...
Ba là: Nhà nước đầu tư xây dựng mạnh các xí nghiệp quốc doanh khẳng định cần
tồn tại để mau chóng vượt lên và đứng vững trên thị trường, cơ sở vật chất, trang thiết bị

công nghệ, tổ chức quản lý sản xuất của các xí nghiệp quốc doanh được đầu tư xứng đáng
từ đó đứng vững trong cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân.
Bốn là: Hỗ trợ việc xây dựng và hoạt động của kinh tế HTX trong các ngành và lĩnh
vực kinh tế với đa dạng hình thức tổ chức và hoạt động đảm bảo đúng với các ngun tắc
hợp
tác

lợi
ích
tập
thể.
Năm là: Tổ chức lại hệ thống thương nghiệp quốc doanh và HTX mua bán nhằm
cung ứng hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm cho các vùng miền núi và trung du, các vùng
đồng bào dân tộc ít người, xa xôi hẻo lánh, hải đảo... để đảm bảo công bằng xã hội và các
mục tiêu kinh tế- xã hội- chính trị trong phát triển, bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Sáu là: Có các chính sách kích thích cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư đổi mới trang thiết bị cơng nghệ.Từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch
vụ. Đồng thời có những chính sách ngăn chặn những hoạt động làm hàng giả, hàng kém
phẩm chất cấm nhập thiết bị công nghệ - thuộc diện đào thải của nước ngoài.
Bảy là: Thực hiện hệ thống chính sách xã hội để hạn chế bớt những tác động xấu của
kinh tế thị trường đến đời sống của các tầng lớp nhân dân, đảm bảo xã hội đối với từng
đối tượng lao động, chính sách ưu đãi với những người có cơng với đất nước, chính sách
bảo trợ xã hội với những người có nhiều khó khăn thua thiệt vì tật nguyền, cơ đơn vơ gia


cư,

những
dân
tộc

ít
người...
Tám là: Xây dựng là tuyên truyền giáo dục thực hiện các hành vi và thái độ ứng xử
có văn hóa, đạo đức lành mạnh trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, phục
vụ,
quản

đời
sống

hội.
Những biện pháp vừa đảm bảo yêu cầu trong đường lối lãnh đạo của Đảng, trong chức
năng quản lý của nhà nước vừa đáp ứng được mong muốn của mọi người dân được sống
ngày càng hạnh phúc trong xã hội có kinh tế phát triển, dân giàu nước mạnh xã hội công
bằng
văn
minh
định
hướng
XHCN
được
giữ
vững.
Tuy nhiên để các biện pháp này được thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả thì cần đề
cao vai trị quản lý của nhà nước trong quá trình thực hiện định hướng XHCN.
2. Vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN
Trước đây do sai lầm về nhận thức, ta gắn kinh tế thị trường với CNTB đối lập với kế
hoạch hóa và áp dụng máy móc mơ hình quán lý kinh tế tập trung, bỏ qua con đường sản
xuất hàng hóa và duy trì khá kiểu sản xuất tự cung tự cấp. Việc trao đổi hàng hóa bị hạn
chế trong phạm vi quốc gia và giữa các nước XHCN với nhau dẫn đến khủng hoảng kinh

tế. Đó chính là lý do vì sao ta cần phải đổi mới và kết quả ban đầu của sự đổi mới khẳng
định sự sáng tạo của toàn dân ta và tư duy của Đảng.
CNXH là ước mơ của dân ta từ lâu và là ý tưởng của Đảng, nó bao trùm trong cấu trúc về
chính trị- kinh tế- xã hội, khong để tách bạch những đặc trưng của nó trong hệ thống mục
tiêu, cơ cấu và cơ chế kinh tế mà chúng ta hướng tới: đó là dân giàu, nước mạnh xã hội
cơng
bằng,
văn
minh

dân
chủ.
Giai đoạn hiện nay ở nước ta vừa phải có tốc độ tăng trưởng kinh tế vừa phải giải quyết
chống nghèo nàn và thất nghiệp. Do đó các nhân tố xã hội phải thường xuyên giải quyết
đi liền với các nhân tố knh tế để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế là
nguồn gốc của cho sự phát triển xã hội và ngược lại, phát triển xã hội chính là động lực
cho
sự
phát
triển
kinh
tế.
Nhà nước cần điều chỉnh các hình thức sở hữu và cách phân phối sẽ tạo ra một cơ chế
kinh tế mới trong nền kinh tế nước ta. Đồng thời phải đầu tư phát triển các doanh nghiệp
cùng các thành phần kinh tế khác để hỗ trợ, giải quyết việc làm góp phần giải quyết việc
làm và làm phát triển kình tế, HTX phải được phát triển trên nguyên tắc tự nguyện, cộng
đồng dưới dạng cổ phần và liên doanh..., kinh tế tư nhân được phát triển bình đẳng và có
thể
đan
xen

vào
các
thành
phần
kinh
tế
khác.
Q trình vận nền kinh tế ở nước ta sẽ tạo một cơ cấu kinh tế mới, cơ cấu đó có
một phần do tự điều chỉnh và một phần do Nhà Nước điều chỉnh và một phần do Nhà
Nước điều tiết để có sự ổn định và cân bằng mới. Đặc tính của cơ cấu kinh tế này là nó
phải thể hiện được tính xã hội hóa ngày càng cao, tính cộng đồng trong sản xuất, kinh
doanh ngày càng mở rộng, quy mô các loại và cơng trình cơng cộng ngày càng lớn và
được sử dụng có hiệu quả gắn chặt với tốc độ phát triển kinh tế.
Nhà nước với chức năng của mình sẽ góp phần tích cực tạo lập, ni dưỡng và quản
lý nền kinh tế là đặc trưng quan trọng trong cơ chế thị kinh tế ở trường nước ta, đảm bảo


cơng

bằng,
ổn
định

tăng
trường.
Cơ chế thị trường có khả năng điều chỉnh nền kinh tế phát triển nhưng nó có những
khuyết tật là sự phân biệt giàu nghèo, môi trường và phúc lợi xã hội.Bởi vậy cần có sự
can thiệp của nhà nước để kinh tế phát triển theo đúng hướng của nó.
Nhà nước ta được hình thành và phát triển do quá trình đấu tranh cách mạng của
nhân dân ta, nhà nước đó phải mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc. Bởi vậy nó phải đánh vai

trị bà đỡ giúp cho thị trường phát triển đúng hướng bằng hệ thống pháp luật bảo vệ
quyền
tự
do,
dân
chủ,
sự
công
bằng,

hội.
Chúng ta đi vào nền kinh tế thị trường có nhiều thử thách nhưng cũng có những
thuận lợi và cơ hội tốt. Hiện tại sự cách biết trong nền kinh tế nước ta giữa các tầng lớp
gia cư là không quá lớn, khoảng cách giữa giàu và nghèo là khơng có xa.Cần khuyến
khích mọi người làm giàu một cách chân chính, cấm sự phi đạo đức ảnh hướng đến đời
sống
của
tồn

hội.
Q trình chuyển nền kinh tế ta vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà Nước theo định hướng XHCN là kết quả lao động trí tuệ do quần chúng nhân dân
sáng tạo dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Con đường đi lên còn phải trải qua nhiều thử
thách và cam go nhưng đoàn kết trong cộng đồng dân tộc sẽ tạo ra sự phát triển và ổn
định về mọi mặt. Đó là nhân tố để phát triển bền vững đất nước ta.

III




Kết

luận

chung

Việt Nam hiện nay trong giai đoạn quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội đó là một thời
kỳ phức tạp và đầy biến động, một thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng cho Chủ
Nghĩa

Hội
để
hoàn
thành
cách
mạng
dân
dân
chủ.
Với điểm suất phát thấp, điều kiện kinh tế khó khan và nhiều chở ngoại. Muốn
phát triển kinh tế bền vững ta thực hiện nền kinh tế hàng hóa là bước ngoặc quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là một tất yếu và cần thiết. Tuy nhiên trong
quá trình thực hiện kinh tế hàng hóa nhiều thành phần xuất hiện nhiều khó khăn, phức tạp
và đã tác động đến mặt xã hội nói chung. Để hạn chế những tác động tiêu cực này ta cần
định hướng cho nền kinh tế phát triển, buộc nó phải đi đúng con đường mình lựa chọn là
xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội. Chính vì vậy chính sách phát triển của nền kinh tế hàng hóa
thành phần có định hướng Xã Hội Chủ nghĩa là một yêu cầu cấp thiết và hợp lý của quy
luật pháp triển, nó thể hiện tư tưởng tiến bộ, sang suốt của Đảng. Trong khi thực hiện
từng bước triển đổi này chúng ta phải giữ vững định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, đứng
ngang tầm với mục tiêu phát triển kinh tế. Muốn vậy cần phải ngày càng hoàn chỉnh bộ

máy Nhà Nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo đưa nước ta đi theo con đường

Hội
Chủ
Nghĩa
như
đã
chọn.
Là một sinh viên kinh tế - một cử nhân kinh tế tương lai, em tự nhận thấy rằng cần phải
học tập tốt môn KTCT để nhận thức tốt quá trình hình thành, vận động và phát triển của
nền kinh tế thị trường – nền kinh tế của chúng ta hiện nay.



Mục Lục
Trang
A.Lời Mở Đầu ………………………………………….. 1
B - NỘI DUNG
PHẦN ĐỀ CƯƠNG KHÁI QUÁT
I. Lý luận Mac-Lênin về kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường và thực tiễn vấn đề
này ở Việt Nam trong thời kì quá độ lên CNXH hiện nay.
1- Kinh tế hàng hoá………………………………………… 3
2- A. Kinh tế thị trường…………………………………….. 10
B. Các giai đoạn và biện pháp hình thành kinh tế thị trường theo định hướng

XHCN ở Việt Nam …………………………………. ….. 16
3- Một số kết quả đạt được từ khi đổi mới cơ chế ở nước ta…. 18

II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ TIẾP TỤC GIỮ VỮNG ĐỊNH HƯỚNG TRONG
PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN TỚI

1- Các biện pháp đảm bảo định hướng XHCN trong phát triển kinh tế…19
2- Vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN……………… 20


×