Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

GIẢI PHÁP để PHÁT TRIỂN KINH tế TRI THỨC TRONG THỜI kỳ đẩy MẠNH CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa đất nước HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.78 KB, 20 trang )

BÀI TẬP NHÓM V
CHỦ ĐỀ: GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC TRONG THỜI KỲ ĐẨY
MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
GVHD: Trịnh Công Tráng
Lớp: 58C.OT
Thành viên:


Cụm từ viết tắt:






XHCN: Xã hội Chủ Nghĩa
CNH: Công nghiệp hóa
HĐH: Hiện đại hóa
KH&CN: Khoa học và Công Nghệ
CNTB: Chủ nghĩa tư bản


A: LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội loài người đã trải qua ba nền kinh tế chủ yếu: Kinh tế nông
nghiệp, Kinh tế công nghiệp và Kinh tế phân phối. Trong khoảng một thập
kỷ trở lại đây sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, sự tương
tác giữa tin học, vi điện tử và sinh học đã tạo ra những tiến bộ thần kỳ trong
kinh tế và sẽ tiếp tục cung cấp nguyên liệu cho sự tăng trưởng của thế giới
trong hai hoặc ba mươi năm tới. Sự phát triển không ngừng có tính bùng nổ


của lực lượng sản xuất trong đó tri thức đóng vai trò như lực lương sản xuất
chủ yếu đã dẫn đến sự hành thành một nền kinh tế mới, một nền kinh tế tri
thức.
Đại hội X chỉ rõ: đẩy mạnh công nghệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọn của nên
kinh tế và của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa thế thế giới, nhận thức đúng và tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức có vai
trò lớn thúc đẩy quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chúng ta cần phải nghiên cứu tri thức, tìm
hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế tri thức, phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh đất nước, phù hợp với khu vực, với thế giới và thời đại trong tổng thể
các mối liên hệ, trong sự phát triển vận động không ngừng của nền kinh tế
tri thức. Chính vì thế chúng em quyết định chọn đề tài: “ Giải Pháp Để
Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Trong Thời Kỳ Đẩy Mạnh Công Nghiệp Hóa,
Hiện Đại Hóa Đất Nước Hiện Nay.” Làm bài tiểu luận. Đây là một đề tài
hấp dẫn, giúp sinh viên hiểu được vai trò của mình đối với sự phát triển
kinh tế đất nước, đồng thời nâng cao vốn hiểu biết, kỹ năng thực hành trong
quá trình học tập và nghiên cứu. Do trình độ hiện tại và thời gian nghiên
cứu không nhiều nếu chúng em chọn chủ đề này nên không tránh khỏi thiếu
sót. Kính mong nhận đọc và sự góp ý và phê bình của Thầy cùng các bạn để
bài tiểu luận của chúng em được hoàn thiện hơn.


B: NỘI DUNG
I.

Quan điểm, đường lối, tư tưởng của
Đảng về phát triên kinh tế tri thức
trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước hiện

nay

1.Khái niệm và vai trò của kinh tế tri thức:
1.1. Khái niệm của kinh tế tri thức:
Kinh tế tri thức là khái niệm không dễ hiểu vì dựa trên hai khái
niệm trừu tượng là kinh tế và tri thức, và do vậy đã được hiểu nhiều ít
khác nhau. Nền kinh tế tri thức, còn gọi là kinh tế dựa vào tri thức
(Knowledge - BasedEconomy) là nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri
thức, trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cao. "Nền kinh tế
tri thức là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào việc sản xuất
phân phối và sử dụng tri thức và thông tin" ."Nền kinh tế tri thức là
nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri
thức trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho quá trình tạo ra
của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế". Kinh tế tri thức là
nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ
vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải,
nâng cao chất lượng cuộc sống.
Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã ra định
nghĩa: Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó có sự sản sinh ra, phổ
cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết đinh nhất đối với sự phát
triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Trong nền kinh tế tri thức những nền kinh tế có tác động to lớn
đến sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào các thành
tựu mới của khoa học công nghệ như: Công nghệ thông tin, Công
nghệ sinh học, Công nghiệp, Dịch vụ được ứng dụng công nghệ cao.


1.2.Vai trò của kinh tế tri thức:
Tri thức đã và đang ngày càng trở lên quan trọng đối với đời sống
xã hội. Nó tác động trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội : kinh tế,chính

trị,văn hoá giáo dục..


Vài trò của tri thức với kinh tế - kinh tế tri thức

Nền kỉnh tế tri thức là nền kinh tế trong đó quá trình thu nhận
truyền bá, sử dụng, khai thác,sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ
đạo trong quá trình tạo ra của cải.
Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền
kinh tế trước đó:
- Tri thức khoa học-công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là
cơ sỏ chủ yếu và phát triển rất mạnh
- Nguồn vốn quan trọng nhất,quý nhất là tri thức,nguồn vốn trí
tuệ.
- Sáng tạo và đổi mới thướng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc
đảy sụ phát triển.
- Nền kinh tế mang tính học tập.
- Nền kinh tế lấy thị trường toàn cầu là môi trường hoạt động
chính.
- Nền kinh tế phát triển bền vững do được nuôi dưỡng bằng nguồn
năng lượng vô tận và năng động là tri thức.
Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định,dưới tác động của
cách mạng khoa học –công nghệ và toàn cầu hoá,kinh tế tri thức đang
hình thành ở nhiều nước phát triển và sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn
trong một,hai thập niên tới.




Vài trò của tri thức đối với chính trị


Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến
thức.Người có tri thức là có khả năng tư duy lý luận,khả năng phân tích
tiếp cận vấn đề một cách sát thực,đúng đắn.Điều này rất quan trọng,một
đất nước rất cần những con người như vây để điều hành công việc chính
trị.Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia.Đại hội VI của Đảng
đã đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn
lực con ngươì.Đại hội nhấn mạnh:”Phát huy yếu tố con người và lấy việc
phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt đông”chiến lược
phát triển con người đang là chiến lược cấp bách.Chúng ta cần có những
giải pháp trong việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức :
Tuyển chọn những người học rộng tài cao,đức độ trung thành
với mục tiêu xã hội chủ nghĩa,thuộc các lĩnh vực,tập trung đào tạo,bồi
dưỡng cho họ những tri thức còn thiếu và yếu để bố trí vào các cơ quan
tham mưu hoạch định đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của
nhà nước với những qui định cụ thể về chế độ trách nhiệm quyền hạn và
lợi ích.


Vài trò của tri thức với văn hóa – giáo dục

Tri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hoá -giáo dục của một
quốc gia. Nó giúp con người có được khả năng tiếp cận,lĩnh hội những
kiến thức ,ý thức của con người được nâng cao.Và do đó nền văn hoá
ngày càng lành mạnh.Có những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo
dục.Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh,phồn vinh.

1.3. Những đặc trung chủ yế của nên kinh tế tri
thức:



Thứ nhất, là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế: Trong 15 năm qua
các nền kinh tế phát triển trên thế giới đã có những chuyển đổi to lớn,
sâu sắc về cơ cấu kinh tế, về cách thức hoạt động và các qui tắc hoạt
động; đang phát triển nhanh các ngành kinh tế dựa vào tri thức; các ý
tưởng đổi mới và công nghệ là chìa khoá cho việc tạo ra việc làm mới và
nâng cao chất lượng cuộc sống. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao,
dịch chuyển nhanh cơ cấu. Nhưng đây cũng là nền kinh tế mang tính rủi
ro, và không ngừng thay đổi, luôn đặt ra nhiều thách thức mới. Nếu
như trong khi nền kinh tế công nghiệp dựa vào sự tổ chức sản xuất hàng
loạt, qui chuẩn hoá, thì nền kinh tế tri thức được tổ chức trên cơ sở sự
sản xuất linh hoạt hàng hoá và dịch vụ dựa vào công nghệ cao, đây cũng
là kinh tế văn phòng (người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm trong các nhà
máy ít đi, người làm việc ở văn phòng nhiều lên).
Thứ hai, là sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan
trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các
ngành kinh tế tri thức đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và
phát triển. Các doanh nghiệp đều có sản xuất công nghệ, đồng thời có
nhiều doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghệ, có thể gọi là doanh
nghiệp tri thức, trong đó khoa học và sản xuất được nhất thể hoá, không
còn phân biệt phòng thí nghiệm với công xưởng, những người làm việc
trong đó là công nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất.
Thứ ba, là việc ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi
lĩnh vực và thiết lập mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối
với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên
quan trọng nhất. Mọi người đều có nhu cầu thông tin và được truy nhập
vào các kho thông tin cần thiết cho mình. Mọi lĩnh vực hoạt động trong
xã hội đều có tác động của công nghệ thông tin để nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả, cũng chính vì vậy nhiều người gọi nền kinh tế tri
thức là nền kinh tế số hay kinh tế mạng hay kinh tế số.

Thứ tư, là các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát
triển. Trong cùng một lĩnh vực khi một công ty thành công hơn, lớn
mạnh hơn, thì công ty khác tìm cách sáp nhập vào hoặc chuyển hướng
khác ngay, nếu không muốn bị phá sản. Mà trong nền kinh tế tri thức vì


nảy sinh nhiều công nghệ mới nên luôn luôn xuất hiện nhiều công ty
mới; sự ra đời của công ty gắn với sự ra đời của một công nghệ mới, một
sáng chế mới. Các công ty phải luôn đổi mới và phải kịp thời chuyển
hướng theo sự phát triển của công nghệ. Để tăng sức mạnh các công ty
phải hợp tác với nhau, để tồn tại và phát triển.
Thứ năm, xã hội thông tin thúc đẩy sự dân chủ hoá. Thông tin đến
với mọi người. Mọi người đều dễ dàng truy cập đến các thông tin cần
thiết. Dân chủ hoá các hoạt động và tổ chức điều hành trong xã hội được
mở rộng. Người dân nào cũng có thể được thông tin kịp thời về các
quyết định của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức có liên quan đến họ và họ
có thể có ý kiến ngay nếu thấy không phù hợp. Do đó phải tạo không khí
dân chủ, cách làm việc dân chủ. Khi chuẩn bị các quyết định, các chính
sách, luật pháp cơ quan nhà nước rất dễ dàng đưa ra lấy ý kiến nhân dân.
Việc tập hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân cũng rất dễ dàng, thuận
tiện. Nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân kiểm tra" sẽ được thực hiện đầy
đủ nhất. Cho nên CNTT thúc đẩy sự phát triển dân chủ. Có dân chủ mới
phát huy được khả năng sáng tạo của mọi người.
Thứ sáu, xã hội thông tin là một xã hội học tập. Giáo dục rất phát
triển. Mọi người đều học tập, học thường xuyên, học ở trường và học
trên mạng, để không ngừng trau dồi kỹ năng, phát triển trí sáng tạo.
Không học tập thường xuyên thì không phát triển được nền kinh tế tri
thức. Mọi người thường xuyên được bổ túc, cập nhật kiến thức, chủ
động theo kịp sự đổi mới và có khả năng thúc đẩy sự đổi mới. Với sự
bùng nổ thông tin và sự luôn đổi mới kiến thức, mô hình giáo dục truyền

thống: đào tạo xong rồi ra làm việc là không còn phù hợp, mà phải đào
tạo cơ bản, ra làm việc và tiếp tục đào tạo, vừa đào tạo vừa làm việc.
Con người phải học tập suốt đời, vừa học vừa làm việc. Hệ thống giáo
dục phải đảm bảo cho mọi người bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu cũng có thể
học tập được. Mạng thông tin có ý nghĩa rất quan trọng cho việc học tập
suốt đời.
Thứ bảy, vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức. Tri
thức là nguồn lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng. Không phải như các
nguồn lực khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin có thể được


chia xẻ, và trên thực tế lại tăng lên khi sử dụng. Nền kinh tế tri thức do
đó là một nền kinh tế dư dật chứ không phải khan hiếm.
Thứ tám, sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu
nhất thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công
nghệ rút ngắn; quá trình từ lúc ra đời, phát triển rồi tiêu vong của một
lĩnh vực sản xuất, hay một công nghệ chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng.
Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển thì phải luôn đổi mới
công nghệ và sản phẩm. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới.
Thứ chín, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá. Thị
trường và sản phẩm mang tính toàn cầu, một sản phẩm sản xuất ở bất kỳ
nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt khắp nơi trên thế giới. Quá
trình toàn cầu hoá cũng là quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức,
toàn cầu hoá và kinh tế tri thức thúc đẩy nhau, gắn quyện với nhau, là
hai anh em sinh đôi của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Toàn cầu hoá một mặt tạo thuận lợi cho sự phát triển nhanh kinh tế tri
thức ở các nước, nhưng đồng thời cũng đặt nhiều thách thức rủi ro. Trên
thế giới hiện nay thì khoảng cách giàu nghèo vẫn đang tăng nhanh do
chêch lệch nhiều về tri thức và điều đó chỉ có thể xoá được khi rút ngắn
khoảng cách và tri thức.

Thứ mười, là sự thách thức đối với văn hoá. Trong nền kinh tế tri
thức - xã hội thông tin, văn hoá có điều kiện phát triển nhanh và văn hoá
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Do thông tin, tri thức
bùng nổ, trình độ nền văn hoá nâng cao, nội dung và hình thức các hoạt
động văn hoá phong phú đa dạng.

2. Đường lối tư tưởng cảu Đảng để phát triển
kinh tế tri thức trong thời kỳ đẩy manh CNH-HĐH
đất nước hiện nay.
Trong bối cảnh hoàn cầu thế giới, một số nước đang phát triển,
tuy chưa có công nghệ hiện đại, công nghệ cao nhưng biết chủ đông hội


nhập kinh tế, tranh thủ tiếp thu công nghệ cao trên cơ sở nguồn nhân lực
thích hợp, thì vẫn có thể bước đầu phát triển kinh tế tri thưc. Nước ta,
tuy còn ở trong nền kinh tế nông nghiệp và là nước đang phát triển thu
nhập thấp, nhưng biết phát huy đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ có
năng lực tiếp thu và ứng dụng các công nghệ cao vẫn có thể có cơ hội
rút ngắn thời gian để tiến nhanh hơn.
Nghị quyết đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: Tranh thủ thời
cơ thuận lợi do bối cảnh Quốc tế là lợi thế của nước ta để rút ngắn quá
trình công nghiêp hóa hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức,coi kinh tế tri thức là yếu tố quan
trọng của nền kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa vào nhiều tri thức kết
hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của người Việt Nam với tri thức mới
nhất của nhân loại. Như vậy, lý luận và thực tiễn là căn cứ vững chắc để
xây dựng đường lối đúng đắn, tranh thủ thời cơ, rút ngắn thời gian công
nghiệp hóa, hiện đại hóa sớm đất nước ta trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
Thứ nhất, Nhà nước phải xây dựng thể chế xã hội và chính sách

kinh tế năng động, mở rộng, khuyến khích sáng tạo và ứng dụng có hiệu
quả những tri thức mới. Thúc đẩy kinh doanh, tác đông cho nở rộ doanh
nghiệp mới làm ăn phát đạt. Phải tạo dựng một nền hành chính có hiệu
quả, tránh phiền hà, tham nhũng, giảm chi phí hành chính, góp phần tăng
sức mạnh cạnh tranh.
Thứ hai, Đào tạo nguồn nhân lực tài nâng sáng tạo, biết phối hợp
và chia sẻ thông tin , tri thức thành sản phẩm có sức cạnh tranh cao.
Thứ ba, Xây dụng một hệ thống đổi mới hiệu quả bao gồm: các
doanh nghiệp các trung tâp nghiên cứu, các trường đại học, các tôt chức
tư vấn và các tổ chức khác liên kết, trao đổi thông tin, tri thức với nhau
theo những mục tiêu đã xác định.
Thú tư, Tích cực xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và truyền
thông, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển nền công nghệ cao dẫn đầu này


Phát triển các ngành và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng
cao dựa nhiều vào tri thức kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con
người Việt Nam với trị thức mới nhất của nhân loại.






II.

Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi
bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng
dự án kinh tế - xã hội.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực

và lãnh thổ.
Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng xuất lao động của tất cả
các ngành, lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh
cao.
Giảm nghèo, nhất là các vùng sâu vùng xa biên giới, hải đảo vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.

Giải pháp để phát triển kinh tế tri thức
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất
nước hiện nay.

2.1 Thực trạng việc phát triển kinh tế tri thức
Việt Nam trong những năm qua.
2.1.1. Thành tựu:
Sau hơn 20 năm đổi mới đất nước ta đã thu được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trong đó có những thành tựu nổi bật của CNHHĐH.
Một là, Cơ sở vật chất – kỹ thuật của đất nước được tăng cường
đáng kể khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Công
nghiệp nông thôn và miền núi có bước tăng trưởng cao. Nhiều công trình
quan trọng thuộc kết cấu hạ tầng được xây dựng: sân bay, cảng biển,
đường bộ, cầu, nhà máy điện, bưu chính – viễn thông theo hướng hiện
đại.


Hai là, Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đã đạt được những kết quả quan trọng: tỉ trọng công nghiệp
và xây dựng tăng, tỉ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm. Trong
từng ngành kinh tế đều có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ
cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn với sản xuất, với thị
trường.

Cơ cấu kinh tế vùng đã có sự điều chỉnh theo hướng phát huy lợi
thế so sánh của từng vùng, các vùng kinh tế trọng điểm phát triển khá
nhanh.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát
huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở
hữu.
Cơ cấu lao động đã có chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ba là, Những thành tựu của CNH-HĐH đã góp phần quan trọng
đến nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. Điều đó đã góp phần
quan trọng vào công tác xóa đói giảm nghèo.
Những thành tựu trên có ý nghĩa rất quan trọng là cơ sở phấn đấu
để sớm đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản tạo thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

2.1.2 Hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế nổi bật là:


Tốc độ tăng trưởng kinh tế còn thấp so với khả năng và thấp hơn
nhiều nước trong khu vực thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Quy mô
nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp. Tăng
trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, tập trung vào các ngành
công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên
vốn và lao động. Năng xuất lao động còn thấp so với nhiều nước
trong khu vực.













Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng hiệu quả, nhiều nguồn
lực trong dân chưa được phát huy.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, các sản phẩm có tri thức
cao còn ít. Trong nông nghiệp sản xuất chưa gắn kết chặt chẽ với
thị trường. Nội dung công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn còn thiếu cự thể. Chất lượng nguồn nhân lực của đất
nước còn thấp. Tỉ trọng trong nông nghiệp còn cao, tỉ trọng qua
đào tạo còn thấp, lao động thiếu việc làm còn nhiều.
Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi
nhanh vào cơ cấu kinh tế hiện đại. Kinh tế vùng chưa có sự liên
kết chặt chẽ, hiệu quả thấp và chưa được quan tâm đúng mức.
Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm
năng, chưa tạo được đầy đủ môi trường hợp tác cạnh tranh bình
đẳng và khả năng phát triển của các thành phần kinh tế.
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Công tác quy hoạch chất lượng thấp,
quản lý kém, chưa phù hợp với cơ chế thị trường.
Nhìn chung, dù đã cố gắng đầu tư, nhưng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội.

II.1.3.



Nguyên nhân của hạn chế:

Những hạn chế trên với nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là nguyên
nhân chủ quan như:
• Nhận thức của chúng ta về kinh tế chưa đầy đủ.
• Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử
dụng tốt nhất các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực vào công
cuộc phát triên kinh tế và xã hội.
• Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả. Công tác tổ chức,
cán bộ chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu.
• Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu kém người các nguyên nhân
chung nói trên, còn có các nguyên nhân cụ thể, trực tiếp như: công
tác quy hoạch chất lượng kém, nhiều bất hợp lý dẫn đến “treo”


khá phổ biến gây lãng phí nghiêm trọng; cơ cấu đầu tư bất hợp lý
làm cho đầu tư kém hiệu quả, công tác quản lý yếu kém.
• Hợp tác với các nước nền kinh tế tri thức còn hạn chế.
• Năng lực khoa học và công nghệ quốc gia còn yếu, kết quả ứng
dụng những công trình, bằng sáng chế phát minh khoa học còn ít
và thấp so với các nước, thị trường KH&CN chậm được hình
thành; sự gắn kết hoạt động KH&CN với giáo dục - đào tạo và
sản xuất, kinh doanh còn yếu (tỷ lệ sử dụng công nghệ cao trong
công nghiệp của Việt Nam mới chỉ khoảng 20%, trong khi Thái
Lan 31%, Ma-lai-xi-a 51%, Xin-ga-po 73%...); đầu tư cho đổi mới
thiết bị - công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam thấp, chỉ
khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu (trong khi Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc
là 10%);
II.2.


Một số giải pháp xây dựng và phát triển
kinh tế tri thức trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH-HĐH của nước ta hiện nay.

2.2.1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nhà
nước và các cấp chính quyền trong việc phát huy các
động lực trong quá trình phát triển kinh tế tri thức.
Trong nền kinh tế tri thức, yếu tố quan trọng nhất của
sản xuất là tri thức, sự phát triển kinh tế tạo ra của cải chủ yếu
vào việc thu nhận, tạo ra, quảng bá và sử dụng tri thức. Trọng
tâm của quản lý kinh tế chuyển sang quản lý tri thức nhằm
khơi dậy các năng lực sáng tạo nhân lên vốn tri thức và sử
dụng có hiệu quả biến nó thành giá trị. Điều đó phải đổi mới
mạnh mẽ hệ thống quản lí chuyển trọng tâm từ quản lí nguồn
lực, vật chất cái hữu hình sang quản lí cái lực lượng tinh thần,
cái vô hình. Vai trò của các nhà nước phải chăm sóc, vun xới
các khả năng tài năng phát triển, nhân nhanh các nhân tố mới.


2.2.2. Cần đào tạo trọng dụng, bồi dưỡng thu hút
nhân tài
Phát triển kinh tế tri thức ở nước ta là vận dụng tri thức
mới, công nghệ và các ngành kinh tế làm tăng nhanh giá trị gia
tăng của sản phẩm giảm thiểu tiêu hao nhiên liệu và lao động,
tăng hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm, dịch chuyển
nhanh kinh tế theo hướng hiện đại hóa. Giải pháp có tính đột
phá cho thành công của chiến lực này là giải phóng các nguồn
lực, quan trọng nhất nguồn lực con người, phát huy năng lực
sáng tạo đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới theo định

hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi sáng tạo và đổi mới là động lực
sản phẩm phát triển kinh tế xã hội, là năng lực nội sinh của nền
kinh tế tri thức ngày nay nên cần chú trọng đào tạo thu hut
nhân tài.
II.2.3.

Đẩy mạnh giáo dục đào tạo khoa học công nghệ
tiếp tục coi đây quốc sách hàng đầu
Đảng cần nhận rõ những thách thức để có quyết tâm và
giải pháp vươn lên trình độ tiên tiến thế giới vì nước ta hiện
còn có khoảng cách xa so với các nước đang đi vào nền kinh tế
tri thức như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo. Cụ thể về ngành
nông, lâm nghiệp, thủy hải sản Việt Nam đóng góp GDP
20,34% trong khi ngành này ở Nhật Bản chưa đến 1% . Ở
ngành công nghiệp Việt Nam đóng gop vào GDP là 41,48%
trong khi ở Nhật Bản là 28,9%. Ở ngành thương mại, dịch vụ
Việt Nam đóng góp vào GDP là 38,18% trong khi ngành này ở
Nhật Bản là 70,28% . So sánh trên cho thấy GDP vẫn có sự
đóng của nhiều ngành sản xuất đơn giản, nhiều ngành sản xuất
hàm lượng kiến thức cao còn chiếm tỉ trọng thấp. Trong khí đó
ở Nhật Bản phần lớn GDP có được nhờ công nghiệp tri thức
đây là một thách thức lớn mà Việt Nam còn phải vượt qua.


II.2.4.

Tăng cường hợp tác đầu tư với các nướng trong
khu vực và thế giới đặc biệt là các nước đang
phát triển hàng đầu về khoa học công nghệ
Lôi kéo, thu hút tập đoàn xuyên quốc gia có tiềm lực

khoa học công nghệ và tài chính mạnh đầu tư vào Việt
Nam, khuyến khích họ xây dựng các trung tâm nghiên
cứu – phát triển tọa kênh để từ đó tri thức công nghệ lan
tỏa rộng rãi toàn bộ nền kinh tế.
• Công nghệ thôn tin là chìa khóa để đi vào kinh tế tri
thức, muốn rút ngấn quá trình CNH – HĐH, rút ngắn
khoảng cách với các nước, phải khác phục khoảng cách
về công nghệ thông tin.


II.2.5.

Chính sách hỗ trợ và mô hình các khu công
nghiệp mang tính chất điển hình và hàm lượng tri
thức
Phát triển mạnh công nghệ và xây dụng theo hướng hiện
đại nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh. Trong quá trình đó
phải coi trọng phát triển kinh tê tri thức phải đảm bảo tăng
hàm lượng khoa học công nghệ và tăng tỉ trọng giá trị nội địa
trong sản phẩm, phát triển có chọn lọc công nghiệp chế biến,
chế tác, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp năng lượng
khai khoáng luyện kim, công nghiệp quốc phòng. Vì vậy, cần
chú ý phát huy hiệu quả các khu , cụm công nghiệp ví dụ: Khu
công nghệp cao Hòa Lạc - Hà Nội, khu công nghiệp phần
mềm Quang Trung – TP.Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh phát triển
công nghiệp theo hình thức cụm nhóm sản phẩm tọa thành các
tổ hợp công nghệ quy mô lớn.

II.2.6.


Tiếp tục coi việc phát triển kinh tế tri thức là sự
nghiệp phát triển của toàn Đảng toàn Dân, trong


đó trách nhiệm bậc nhất thuộc về đội ngũ tri
thức.
Trong mọi thời địa, tri thức luôn là nền tảng tiền bộ xã
hội, đội ngũ tri thức luôn là lực lượng nòng cốt sáng tạo,
vì vậy đội ngũ tri thức trong xã hội phải xác định được
vị trí quan trọng của mình cùng với sự phát triển nhanh
chóng của khoa học công nghệ hiện đại và đặc biệt quan
trọng trong sự hình thành phát triển kinh tế tri thức.
• Mục tiêu đặt ra: Bằng con đường rút nhắn “ Đi tắt đón
đầu” sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
cơ bản thành một nước CNH – HĐH.


II.2.7.

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; huy động
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Để thực hiện tốt vấn đề đó, cần tiếp tục đổi mới việc
xây dựng và thực hiện luật pháp bảo đảm cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế; đổi mới công tác quy hoạch; kê hoạch và điều hành
phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường; đồng thời, thực hiện
tốt chính sách xã hội. Cùng với đó, cần có hệ thống cơ chế và
chính sách phù hợp, đặc biệt là cơ chế, chính sách tài chính,
tiền tệ nhằm nâng cao chát lượng trưởng, bảo đảm sự phát

triển an toàn, lành mạnh của nền kinh tế; bảo đảm quyền tự do
kinh doanh và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; tạo lập
đồng bộ và vận hành thông suốt các loại thị trường.

II.2.8.

Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các
dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn và có sức
cạnh tranh.


Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao
hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP là một
hướng quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cần tập
trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng
tri thức và công nghệ cao, như: du lịch, hàng hải, hàng không,
viễn thông, công nghệ thông tin, y tế, ...; hình thành một số
trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cớ khu vực và quốc tế. Hiện
đại hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao, như: tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, lô – gi – stic và các
dịch vụ hộ trợ kinh doanh khac; phát triển mạnh dịch vụ
KH&CN, giáo dục và đào tạo, văn hóa, thông tin, thể thao,
dịch vụ việc làm và an sinh xã hội.
II.2.9.

Tập trung phát triển KH&CN, đảm bảo thực sự
là động lực then chốt của quá trình phát triển
nhanh và bền vững.
Theo đó, cần hướng trọng tâm hoạt động KH&CN vào
phục vụ CNH,HĐH, nhất là công nghệ thông tin, bảo đảm phát

triển theo chiều sâu góp phần tăng nhanh năng suất, chất
lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế;
thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ; nâng cao năng lực, đổi mới
cơ chế quản lý, đẩy mạnh ứng dụng KH&CN, tăng cường hội
nhập quốc tế về khoa học, công nghệ.


C. KẾT LUẬN
Sự nghiệp CNH - HĐH ở Việt Nam là tất yếu lịch sử. Nó
nhắm tới mục tiêu rất cụ thể và mang tính cách mạng. Nó làm đổi
mới hàng loạt vấn đề cả về lý luận và thực tiễn, cả về kinh tế và chính
trị - xã hội. Nó bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh điều kiện mới. Trong quá trình thực
hiện CNH lại nhằm mục tiêu biến đổi nước ta thành một nước công
nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan
hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với sự phát triển sản xuất, nguồn lực con
người được phát huy, mức sống vật chất tinh thần được nâng cao,
quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng và văn minh. Như vậy, phát triển kinh tế tri thức trong quá trình
đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước để tạo ra sự chuyển đổi cơ bản toàn
bộ bộ mặt nước ta về kinh tế - chính trị - quốc phòng - an ninh. Trọng
tâm nhìn dài hạn phù hợp với xu hướng thời đại về thay đổi mô hình
tăng trưởng để thực hiện quan điểm bền thực như các luận điểm
cương lĩnh và chiến lược cho thấy dựa vào chủ yếu việc phát triển
nguồn lực chất lượng cao và áp dụng công nghệ hiện đại đây chính là
định hướng phát triển kinh tế tri thức. Xu hướng xây dựng và phát
triển tri thức là xu hướng tất yếu của lịch sử, không riêng gì CNTB.
Vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn
minh" Việt nam không thể đi ngược xu hướng đó. Nước ta đã nắm bắt
được rất nhiều cơ hội và từ đó có thể phát triển nền tri thức, theo kịp

nền kinh tế của các nước phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn
những khó khăn mà chúng ta phải vượt qua. Nước ta phải vận dụng
những điều kiện thuận lợi để đẩy lùi nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
tiến vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tăng cường
mở rộng các mối quan hệ ngoại giao, tìm hiểu kinh nghiệm của các
nước tiên tiến. Và một điều quan trọng nữa là phải chăm lo đến cải
cách giáo dục về con người và vật chất nước nhà. Phát triển kinh tế
tri thức trong thời kì đẩy mạnh cnh hđh đất nước là hết sức đúng đắn.
Bằng sự thông minh, sáng tạo, cần cù của con người Việt Nam chúng
ta hoàn toàn tin tưởng rằng trong một tương lai không xa Việt Nam sẽ


cất cánh trở thành con rồng Châu Á và chính ta hoàn thành cnh hđh
đất nước đất nước Việt Nam sánh vai với các nước bạn bè trong cộng
đồng quốc tế trên con đường phát triển.



×