Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

mối quan hệ giữa di sản văn hóa với phát triển du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.79 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ÐẠI HỌC SƯ PHẠM - ÐẠI HỌC ÐÀ NẴNG
KHOA NGỮ VĂN

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Đề tài: MỐI QUAN HỆ GIỮA DI SẢN VĂN HÓA VỚI PHÁT

TRIỂN DU LỊCH
(Học phần: QUẢN LÍ – KHAI THÁC DI SẢN VĂN HÓA)

Ðà Nẵng, tháng 12/2018


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 2
Chương 1: Khái quát về Di sản Văn hóa và Du lịch ........................................ 3
1.1. Khái niệm.................................................................................................. 3
1.1.1. Di sản văn hóa .................................................................................... 3
1.1.2. Du lịch ................................................................................................ 4
1.2. Đặc điểm ................................................................................................... 4
1.2.1 Di sản văn hóa ...................................................................................... 4
1.2.2 Du lịch .................................................................................................. 5
1.3. Vai trò của Di sản văn hóa với phát triển Du lịch .................................... 5
Chương 2: Mối quan hệ giữa Di sản Văn hóa với phát triển du lịch ............. 7
2.1. Di sản văn hóa với sự phát triển kinh tế - xã hội ...................................... 7
2.2. Tầm quan trọng của di sản văn hóa đối với việc phát triển du lịch ........... 8
2.3. Tác động của hoạt động du lịch đối với di sản văn hóa ............................. 9
Chương 3: Thực trạng và phương hướng phát triển giữa di sản văn hóa và
du lịch ................................................................................................................. 11
3.1. Thực trạng ............................................................................................... 11
3.2. Phương hướng phát triển ........................................................................ 12


KẾT LUẬN ........................................................................................................ 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 15

1


MỞ ĐẦU
Di sản văn hóa là một bộ phận quan trọng của văn hóa dân tộc. Đó là những giá
trị văn hóa có sức sống trường tồn, đã vượt qua được sự thẩm định của thời gian
để từ quá khứ đến được với hiện tại. Di sản văn hóa dân tộc là tài sản quý giá của
mỗi quốc gia, là linh hồn, hạt nhân gắn kết dân tộc. Là biểu hiện rõ nét của bản
sắc văn hóa dân tộc, di sản văn hóa đặc biệt quan trọng trong thời đại toàn cầu
hóa hiện nay. Vị trí địa lý và lịch sử văn hoá đã đem lại cho Việt Nam nhiều di
sản rất có giá trị trải dọc theo chiều dài đất nước. Những giá trị đó là nguồn tài
nguyên quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của ngành du lịch
Việt Nam. Sau đây chúng ta cùng tìm hiểu kĩ hơn về mối quan hệ giữa di sản văn
hóa và phát triển du lịch.

2


Chương 1: Khái quát về Di sản Văn hóa và Du lịch
1.1.
Khái niệm
1.1.1.
Di sản văn hóa
Theo UNESCO: “Di sản văn hóa là toàn bộ kết quả sáng tạo văn hóa của các thế
hệ trước để lại”. Di sản văn hóa gồm: Di sản văn hóa hữu thể (Tangble) và di sản
văn hóa vô thể (Intangble).
Theo luật di sản văn hóa có hiệu lực từ ngày 1/1/2002 thì “Di sản văn hóa” được

định nghĩa như sau: “Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản
văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”.
Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử văn hóa, khoa
học được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng miệng, truyền nghề,
trình diễn và các hình thức lưu giữ lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, diễn xướng
dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri
thức về y học, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống
dân tộc và những tri thức dân gian khác.
Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
bao gồm di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc
gia.
 Di tích lịch sử văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di
vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học.
 Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự
kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm
mỹ, khoa học.
 Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học.
 Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử
văn hóa, khoa học có từ một trăm năm tuổi trở lên.
 Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt
quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học.

3


1.1.2. Du lịch

Du lịch là việc thực hiện một chuyến đi của con người, với nhiều mục đích cụ thể
riêng biệt đến một nơi khác mà không phải để định cư và có sự trở về sau chuyến
đi. Du lịch là đi để vui chơi, giải trí là việc thực hiện chuyến đi khỏi nơi cư trú, có
tiêu tiền, có lưu trú qua đêm và có sự trở về. Mục đích của chuyến đi là giải trí,
nghỉ dưỡng, thăm thân nhân, công tác, hội nghị khách hàng hay du lịch khen
thưởng, hoặc nhằm mục đích kinh doanh. Các Tổ chức Du lịch Thế giới định
nghĩa khách du lịch như những người "đi du lịch đến và ở lại ở những nơi bên
ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong hơn 24 giờ và không quá một năm
liên tiếp cho giải trí, kinh doanh và các mục đích khác không liên đến những nhân
viên hướng dẫn du lịch của tổ chức thực hiện việc du lịch đó."
1.2.

Đặc điểm

1.2.1 Di sản văn hóa
Di sản văn hoá bao gồm hầu hết các giá trị văn hoá do thiên nhiên và con người
tạo nên trong quá khứ. Nó là phần tinh tuý nhất, tiêu biểu nhất đọng lại sau hàng
loạt hoạt động sáng tạo của con người từ đời này qua đời khác. Di sản văn hoá là
những giá trị văn hoá đặc biệt bền vững vì nó phải được thẩm định một cách khắt
khe bằng sự thừa nhận của cả cộng đồng người trong một thời gian lịch sử lâu dài,
đó chính là tính chất đặc thù của di sản văn hóa, phân biệt với khái niệm văn hóa
nói chung. Bởi vậy, có thể nói di sản văn hoá là bộ phận quan trọng nhất, cơ bản
nhất của nền văn hoá nếu không muốn nói là tất cả. Những hoạt động văn hoá
đương đại trong chừng mực nào đó chỉ mới là biểu hiện của văn hoá, một phần có
thể được coi là hoạt động sáng tạo mà kết quả của nó chưa thể khẳng định ngay là
sản phẩm tiêu biểu, tinh tuý của văn hoá dân tộc, vì còn thiếu một yếu tố cơ bản
là sự thẩm định của thời gian. Xét về mặt triết học thì quan hệ giữa văn hóa và di
sản văn hóa là quan hệ của phạm trù cái chung và cái riêng. Văn hóa là cái chung,
di sản văn hóa là cái riêng. Mọi yếu tố của di sản văn hóa đều là văn hóa, nhưng
không phải mọi yếu tố của văn hóa đều là di sản văn hóa, vì trong văn hóa còn

nhiều yếu tố bị mai một trong dòng chảy lịch sử, do không vượt qua đuợc thử
thách của thời gian nên không được lưu truyền lại cho thế hệ sau thành di sản văn
hóa, hoặc những yếu tố văn hóa mới được hình thành chưa được thẩm định của
thời gian.

4


1.2.2 Du lịch
Du lịch là ngành không khói, ít gây ô nhiễm môi trường, giúp khách du lịch vừa
được nghỉ ngơi, giảm stress vừa biết thêm nhiều điều hay mới lạ mà khách chưa
biết. Du lịch còn góp phần phát triển kinh tế của đất nước, tạo việc làm và tăng
thu nhập cho người lao động (hướng dẫn viên, các dịch vụ liên quan...).
Hiện nay ngành du lịch đang phát triển mạnh ở các nước thuộc thế giới thứ ba.
Nhu cầu về du lịch càng tăng thì vấn đề bảo vệ môi trường cần phải được coi
trọng. Có một dạng du lịch nữa, đó là du lịch xúc tiến thương mại, vừa đi du lịch
vừa kết hợp làm ăn, cũng rất phổ biến tại Việt Nam.
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, có các dạng du lịch:















1.3.

Du lịch làm ăn.
Du lịch giải trí, năng động và đặc biệt.
Du lịch nội quốc, quá biên.
Du lịch tham quan trong thành phố.
Du lịch mạo hiểm, khám phá, trải nghiệm.
Du lịch hội thảo, triển lãm MICE.
Du lịch giảm stress, Du lịch ba-lô, tự túc khám phá.
Du lịch bụi.
Du lịch tình dục.
Du lịch biển đảo.
Du lịch văn hóa.
Du lịch sinh thái.
Du lịch y tế.
Du lịch người cao tuổi.
Vai trò của Di sản văn hóa với phát triển Du lịch

Phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa là hai mặt của một thể thống nhất, có tác
động tương hỗ lẫn nhau trong quá trình phát triển của mỗi xã hội mà văn hóa được
xem là nền tảng. Việc phát huy các giá trị văn hoá sẽ có tác dụng làm tăng ý thức,
trước hết là của mỗi thành viên trong cộng đồng dân tộc và của bè bạn quốc tế đối
với trách nhiệm bảo tồn các giá trị văn hóa. Ngược lại việc bảo tồn sẽ là cơ sở và
tạo ra cơ hội có được các giá trị văn hóa để tự hào, để giới thiệu với các dân tộc
khác, các quốc gia khác trên thế giới.
Du lịch là một ngành kinh tế có định hướng tài nguyên một cách rõ rệt, hay nói
một cách khác du lịch chỉ có thể phát triển trên cơ sở khai thác các giá trị tài
nguyên du lịch. Đứng từ góc độ này, các giá trị văn hóa được xem là dạng tài


5


nguyên du lịch để khai thác tạo ra các sản phẩm du lịch hấp dẫn, khác biệt và có
khả năng cạnh tranh không chỉ giữa các vùng miền, các địa phương trong nước
mà còn giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và quốc tế.
Có nhiều phương thức tiếp cận để phát huy các giá trị văn hóa, tuy nhiên du lịch
được xem là phương thức phát huy có hiệu quả nhất, đặc biệt đối với bạn bè quốc
tế. Không phải ngẫu nhiên du lịch được xem là “cầu nối” giữa các dân tộc, giữa
các nền văn hóa trên thế giới. Qua hoạt động hướng dẫn du lịch, du khách có cơ
hội không chỉ được tận mắt nhìn thấy trong thực tế, mà còn được hiểu về giá trị
các di sản văn hóa nơi mình đến du lịch. Nhiều giá trị văn hóa chỉ có thể cảm nhận
được trong những khung cảnh thực của tự nhiên, của nếp sống truyền thống cộng
đồng mà không thể có phim ảnh, diễn xuất nào có thể chuyển tải được. Và chỉ có
du lịch mới có thể đem lại cho du khách những trải nghiệm đặc biệt, sống động.
Công tác bảo tồn các giá trị văn hoá đòi hỏi có kinh phí cho hoạt động thu thập,
nghiên cứu di sản; bảo vệ, tu sửa, tôn tạo, v.v. bên cạnh những yêu cầu về kinh
nghiệm, về đội ngũ, về trình độ khoa học công nghệ, v.v. trong lĩnh vực bảo tồn.
Nguồn kinh phí dành cho hoạt động bảo tồn di sản văn hóa từ ngân sách nhà nước
và hợp tác quốc tế thường rất hạn hẹp so với nhu cầu thực tế. Điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả của công tác bảo tồn văn hoá.
Trong bối cảnh trên, nguồn thu từ du lịch sẽ là đóng góp quan trọng cho hoạt động
bảo tồn của chính những giá trị văn hoá.
Như vậy có thể thấy mối quan hệ tương hỗ mật thiết giữa bảo tồn với phát huy di
sản văn hóa và giữa bảo tồn, phát huy di sản với hoạt động phát triển du lịch. Đây
là những mối quan hệ biện chứng cần được nhìn nhận một cách khách quan và
đầy đủ để xây dựng định hướng khai thác có hiệu quả các gía trị di sản văn hóa
phục vụ phát triển du lịch và xây dựng các chính sách phù hợp để du lịch có thể
có những đóng góp tích cực và trách nhiệm nhất cho hoạt động bảo tồn, phát huy

các giá trị di sản văn hóa.
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính xã hội hoá cao vì vậy hoạt động phát
triển du lịch có thể thu hút và cần được sự tham gia rộng rãi của các thành phần
kinh tế và cộng đồng xã hội. Đây được xem là một trong những “điểm mạnh” so
sánh của du lịch so với các ngành kinh tế khác.
Chính vì vậy một trong những phương thức tiếp cận quan trọng cho phát triển du
lịch bền vững là đẩy mạnh phát triển du lịch cộng động đồng, trong đó các giá trị
truyền thống và vai trò của cộng đồng được phát huy đầy đủ nhất.

6


Chương 2: Mối quan hệ giữa Di sản Văn hóa với phát triển du lịch
2.1. Di sản văn hóa với sự phát triển kinh tế - xã hội
Di sản là một tài sản vô cùng quý giá của dân tộc. Nó là cốt lõi, là cơ sở để gắn
kết cộng đồng dân tộc và là cơ sở để tạo ra những giá trị mới và giao lưu văn hóa.
Trong thời đại ngày nay, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, với cách
nhìn nhận mới và quan niệm mới khi đánh giá di sản văn hóa là một sản phẩm du
lịch thì di sản văn hóa không những không chỉ đáp ứng nhu cầu tinh thần, vật chất
của con người mà còn là nguồn lực to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
địa phương, của một vùng hay của một quốc gia. Ta có thể tóm tắt ý nghĩa của di
sản đối với sự phát triển kinh tế xã hội trong thời đại ngày nay một cách sơ lược
như sau:
- Nguồn di sản của cha ông với những di tích lịch sử, bia mộ, gia phả còn lưu
lại đến ngày nay cùng với các nguồn tư liệu lịch sử là những minh chứng hùng
hồn thể hiện sự tồn tại và phát triển của một dân tộc, tộc người tại quốc gia hay
địa phương đó. Từ đó con người sẽ có ý thức về cội nguồn của mình, dân tộc mình
và hiểu rõ về những biến cố thăng trầm lịch sử của dân tộc.
- Các di sản văn hóa còn lưu giữ cho đến ngày nay có tác dụng giáo dục tinh
thần yêu nước, khơi dậy lòng tự hào dân tộc một cách to lớn. Có thể nói, mỗi con

người khi tiếp xúc trực tiếp với các thành tựu văn hóa của dân tộc mình đặc biệt
lại có sự giải thích của người am hiểu về nó ta sẽ thực sự cảm nhận được giá trị
to lớn của các di tích. Ví dụ khi đứng trước sườn núi Tản Viên nhìn xuống những
con đê bên dưới, nghe hướng dẫn viên kể về sự tích “Sơn Tinh - Thủy Tinh” ta sẽ
thấy con đê bình thường kia có ý nghĩa biết bao và mỗi khi thấy nó ta sẽ có cảm
giác tự hào và nó chính là xương máu, mồ hôi của biết bao thế hệ người dân Việt
Nam.
- Thực tế đã chứng minh, một nơi có nguồn di sản văn hóa phong phú, giàu
bản sắc dân tộc thì hàng năm nơi đó thu hút được một lượng khách lớn. Khách từ
khắp nơi đổ về sẽ có tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội địa phương mà
trong đó điều dễ dàng nhận thấy là nó làm cho cuộc sống của địa phương ngày
càng sôi động, nhộn nhịp hơn. Mặt khác, quá trình giao lưu tiếp xúc của khách
với người dân địa phương sẽ là điều kiện để các nền văn hóa hòa nhập với nhau
làm cho mọi người hiểu về nhau hơn và tăng thêm tình hữu nghị, tương thân,
tương ái giữa các cộng đồng.
- Nơi có nguồn di sản văn hóa có giá trị lớn đặc biệt là những nơi được công
nhận là di sản thế giới thì ở đó có nhiều ưu thế và điều kiện để phát triển kinh tế
hơn so với các địa phương khác thông qua hoạt động du lịch, đồng thời có tác
động nhiều mặt đến nền kinh tế của địa phương.

7


- Khi một nơi có nguồn di sản hấp dẫn và trở thành một điểm du lịch thì du
khách từ mọi nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu vật chất tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi
một số lượng lớn vật tư, hàng hóa các loại đã kích thích mạnh mẽ đến các ngành
kinh tế có liên quan như nông nghiệp, công nghiệp chế biến, giao thông vận tải,
dịch vụ. Từ đó tạo ra nhiều việc làm cho người dân và giảm bớt nạn thất nghiệp
góp phần ổn định trật tự xã hội ở địa phương.
Như vậy, với nguồn di sản phong phú mà biết cách khai thác để phục vụ du lịch

thì sẽ có tác dụng to lớn trong việc làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội của khu vực
cả về nhận thức cũng như đời sống tinh thần của người dân. Chính vì vậy, nhiều
nước trên thế giới đã coi di sản văn hóa như một hạt nhân của hoạt động kinh
doanh du lịch và góp phần không nhỏ để vực dậy nền kinh tế ốm yếu của đất nước.
2.2. Tầm quan trọng của di sản văn hóa đối với việc phát triển du lịch
Di sản văn hóa là một thành tố quan trọng tạo nên sản phẩm du lịch và tạo nên
sức hấp dẫn trong du lịch. Chúng ta có thể hiểu di sản văn hóa được coi như là
tổng quan cuộc sống của mỗi cộng đồng dân tộc. Nó bao hàm cả đặc trưng về
phong cách, lối sống, thói quen, phong tục tập quán đến những giá trị vật chất
được lưu truyền từ ngàn xưa cho đến nay. Mà những thành tố này đều được hình
thành từ những tác động tương hỗ nhằm thích ứng với hoàn cảnh môi trường thực
tại.
Các tài nguyên du lịch văn hóa được coi là tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn.
Nếu như tài nguyên du lịch tự nhiên hấp dẫn du khách bởi sự hoang sơ, độc đáo
và hiếm hoi của nó thì tài nguyên du lịch nhân văn thu hút khách bởi tính phong
phú, đa dạng, độc đáo và tính truyền thống cũng như tính địa phương. Các đối
tượng di sản văn hóa - tài nguyên du lịch nhân văn là cơ sở để tạo nên loại hình
du lịch văn hóa phong phú. Mặt khác nhận thức văn hóa còn là yếu tố thúc đẩy
động cơ du lịch của du khách.
Như vậy, xét dưới góc độ thị trường thì văn hóa vừa là yếu tố cung vừa góp phần
hình thành yếu tố cầu của hệ thống du lịch. Trong một chừng mực nào đó ta có
thể xét mối quan hệ giữa du lịch và văn hóa thông qua một số phương tiện và sản
phẩm văn hóa, cụ thể:
 Các sản phẩm tranh vẽ, điêu khắc, tượng nặn… tạo nên một động lực thúc
đẩy tầm quan trọng của du lịch. Tranh Đông Hồ, tranh lụa… là những loại hình
nghệ thuật mà du khách rất ưa thích. Khi đến Huế về hầu như ai cũng mua cho
mình hoặc bạn bè một chiếc nón bài thơ. Người đi đến các vùng biển thì thường
tìm mua một số đồ lưu niệm được làm bằng các chất liệu có từ biển hoặc mô
phỏng cuộc sống vùng biển.


8


 Trình diễn dân ca và các loại hình văn nghệ truyền thống cũng như hiện đại
cũng là một biểu hiện của di sản văn hóa. Thực tế ở một số nước, âm nhạc là
nguồn chủ yếu để mua vui và làm hài lòng du khách tại các cơ sở lưu trú. Đặc biệt
các khách sạn, nhà nghỉ tại các nơi nghỉ mát có thể mang lại cơ hội cho du khách
thưởng thức âm nhạc dân tộc một cách tốt nhất. Các chương trình giải trí buổi tối,
hòa nhạc ghi âm đều làm tăng khía cạnh nghệ thuật đang tồn tại của quốc gia đó.
Hòa nhạc, diễu hành và các lễ hội được du khách rất hoan nghênh. Các băng hình,
băng nhạc mà khách có thể mua được là phương tiện rất hiệu quả nhằm duy trì,
gìn giữ nền văn hóa của một địa phương.
 Điệu nhảy dân tộc truyền thống tạo nên một sức hút hết sức lôi cuốn, sôi
động và mạnh mẽ của một nền văn hóa đối với du khách. Các hình thức và chương
trình tiến hành đầy màu sắc, trang phục cổ truyền dân tộc và trình độ nghệ thuật
đã tăng thêm sức cuốn hút. Hầu hết các dân tộc đều có điệu nhảy của mình. Các
buổi biểu diễn khu vực và các chương trình công cộng khác cũng tạo thêm nhiều
cơ hội mới để duy trì và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc.
Tầm tác động, ảnh hưởng và sức hấp dẫn của di sản phụ thuộc và giá trị của nó.
Một di sản có giá trị càng lớn thì tầm tác động, ảnh hưởng và sức hấp dẫn của nó
càng lớn. Điển hình là các di sản văn hóa thế giới của Việt Nam như Cố Đô Huế,
Thánh địa Mỹ Sơn, Phố cổ Hội An… được đánh giá có giá trị toàn cầu thì thực tế
cũng chứng minh nó có sức hấp dẫn toàn cầu. Hàng năm, một lượng du khách lớn
không chỉ trong nước mà trên toàn thế giới đến tham quan và thưởng thức giá trị
của nó.
2.3. Tác động của hoạt động du lịch đối với di sản văn hóa
Một trong những ý nghĩa của du lịch là góp phần cho việc phục hồi và phát triển
truyền thống văn hóa dân tộc. Nhu cầu về nâng cao nhận thức văn hóa trong
chuyến đi của du khách thúc đẩy các nhà cung ứng chú ý, yểm trợ cho việc khôi
phục, duy trì các di tích, lễ hội, sản phẩm làng nghề để thu hút du khách. Từ đó

góp phần bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Và ngược lại, việc phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc là góp phần làm cho du lịch phát triển. Hoạt động du lịch
phát triển đã tạo ra nguồn thu để tạo đầu tư cho công tác bảo tồn. Thông qua hoạt
động du lịch, việc khai thác có hiệu quả các giá trị văn hóa truyền thống đã mang
lại nguồn lợi cho người dân và địa phương, góp phần vào việc nâng cao nhân thức
của họ trong việc phát huy các giá trị truyền thống. Ngày nay, nhu cầu về du lịch
văn hóa, du lịch nhân văn, du lịch trở về với cội nguồn đang trở thành một nhu
cầu cần thiết và chính đáng của con người thì mối quan hệ giữa di sản văn hóa với
du lịch càng trở nên gắn bó khăng khít với nhau. Các điểm du lịch còn tạo ra một
không gian và môi trường sống cho các hoạt động văn hóa dân gian truyền thống

9


gắn với các di tích đặc biệt là các giá trị văn hóa phi vật thể (như ca Huế, nhã nhạc
cung đình Huế, hát quan họ, nghệ thuật ẩm thực). Hoạt động du lịch góp phần thổi
hồn vào di tích, đưa các giá trị truyền thống tham gia vào cuộc sống hàng ngày
với người dân. Điều này đã góp phần giáo dục lòng yêu nước và tự hào dân tộc
cho mỗi người dân địa phương, cho những du khách đến từ mọi miền của Tổ quốc.
Một trong những chức năng của du lịch là giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng.
Từ việc giao lưu này, các di sản văn hóa còn tiếp nhận những cái mới trên cơ sở
giữ nguyên bản chất có sự sàng lọc sẽ tạo ra văn hóa dân tộc ngày càng trở nên
tiên tiến, đậm đà bản sắc, thích ứng và hội nhập chung với nền văn hóa thế giới
mà vẫn không mất đi bản sắc riêng của mình.
Đi du lịch, trong quá trình giao lưu tiếp xúc và cảm nhận, con người sẽ dần đồng
cảm, gần gũi và thấu hiểu văn hóa địa phương. Đồng thời nhận thức giá trị và tầm
quan trọng của di sản địa phương mà từ đó có hành vi tuyên dương, bảo vệ thậm
chí có những hành động thiết thực để đầu tư bảo tồn, phát triển cho giá trị di sản
văn hóa đó. Tuy nhiên xét về một khía cạnh nào đó thì du lịch cũng có những tác
động xấu đến bản sắc văn hóa địa phương. Nhiều khi sự thâm nhập với mục đích

chính đáng lại bị lạm dụng và sự thâm nhập biến thành sự xâm hại. Ai đến Sa Pa
cũng muốn đi chợ Tình song chợ Tình Sa Pa - một nét sinh hoạt văn hóa truyền
thống của đồng bào dân tộc đang bị những du khách tò mò, ít văn hóa xâm hại
bằng những cử chỉ thô bạo như rọi đèn vào các cặp tình nhân, lật nón các thanh
nữ để xem mặt. Mặt khác để thỏa mãn nhu cầu của du khách, vì lợi ích kinh tế
trước mắt nên các hoạt động văn hóa truyền thống được trình diễn một cách thiếu
tự nhiên hoặc mang ra làm trò cười cho du khách. Nhiều nhà cung ứng du lịch đã
thuyết phục được địa phương thường xuyên trình diễn lại các phong tục, lễ hội
cho khách xem. Nhiều trường hợp do thiếu hiểu biết về nguồn gốc, ý nghĩa các
hành vi của lễ hội nên người ta đã giải thích một cách sai lệch các giá trị đó.
Như vậy, những giá trị văn hóa đích thực của một cộng đồng đáng lý phải được
tôn trọng lại bị đem ra làm trò tiêu khiển, mua vui cho du khách. Giá trị truyền
thống đã dần bị lu mờ do sự lạm dụng về mục đích kinh tế.

10


Chương 3: Thực trạng và phương hướng phát triển giữa di sản văn hóa và
du lịch
3.1. Thực trạng
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp chỉ có thể phát triển trên cơ sở khai thác các giá
trị tài nguyên du lịch. Từ góc độ này, kho tàng di sản đồ sộ ở cả loại hình vật thể,
phi vật thể cùng hệ thống di tích thiên nhiên, lịch sử, văn hóa phong phú, dày đặc
của Việt Nam chính là nguồn tài nguyên du lịch lớn, góp phần quan trọng tạo nên
sự hấp dẫn, độc đáo cho sản phẩm du lịch giữa các vùng miền, địa phương trong
nước và giữa Việt Nam với các quốc gia khác.
Ở chiều ngược lại, hoạt động du lịch cũng là cầu nối hữu hiệu giúp quảng bá, phát
huy giá trị di sản, mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng, từ đó giới thiệu hình
ảnh, văn hóa Việt Nam tới công chúng cả nước, nhất là bạn bè quốc tế. Đơn cử,
năm 2017, Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) đã đón hơn 3,6 triệu lượt khách, trong đó

có 2,4 triệu lượt khách quốc tế, thu khoảng 1.100 tỷ đồng từ bán vé; quần thể di
tích Cố đô Huế đón khoảng 3 triệu lượt khách, trong đó có hơn 1,8 triệu lượt khách
quốc tế, thu hơn 320 tỷ đồng từ bán vé; Khu phố cổ Hội An (Quảng Nam) đón
1,96 triệu lượt khách, thu về 219 tỷ đồng từ bán vé… Như vậy, có thể thấy giữa
hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch có mối quan hệ
tương hỗ mật thiết. Nếu biết quản lý, sử dụng đúng hướng, di sản sẽ là nguồn lực
lớn mang đến lợi nhuận lâu dài, bền vững cho du lịch nói riêng và nền kinh tế xã hội nói chung.
Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động du lịch dựa trên khai thác di sản thời gian qua,
dễ nhận thấy để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phần thua thiệt thường thuộc về
di sản khi công tác bảo tồn “nguồn vốn tự nhiên” này chưa được coi trọng đúng
mức. Bằng chứng là để đánh đổi cho những công trình hoành tráng như các khu
du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, hệ thống cáp treo…; hàng trăm nghìn héc-ta rừng
đã biến mất, nhiều bãi biển đẹp bị biến dạng, nhiều dãy núi bị tàn phá; và cùng
với đó là sự biến đổi hệ sinh thái tự nhiên cũng như môi trường văn hóa của cộng
đồng dân cư trong khu vực. Ở châu Á, UNESCO từng lên tiếng cảnh báo đối với
In-đô-nê-xi-a khi văn hóa bản địa ở Ba-li gần như biến mất do phát triển du lịch
“nóng”. Cố đô Ayutthaya, di sản văn hóa thế giới nổi tiếng của Thái-lan cũng từng
làm chính phủ nước này đau đầu khi hoạt động du lịch có khả năng làm biến đổi
các giá trị căn bản của di tích đã được Công ước Bảo tồn Di sản văn hóa thiên
nhiên ghi nhận. Đáng chú ý, thung lũng Elbe ở Đức đã phải rút khỏi danh sách di
sản thế giới do mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Còn ở Việt Nam, Vịnh Hạ
Long không dưới một lần lọt vào tầm ngắm báo động của UNESCO bởi các hạng
mục kinh tế, du lịch phát triển ồ ạt làm thay đổi cảnh quan, môi trường nơi đây.

11


Báo giới từng tốn không ít giấy mực khi phải “kêu cứu” cho nhiều di sản của Việt
Nam trước làn sóng du lịch. Ấy là khi các hang động ở Vịnh Hạ Long trở thành
địa điểm tổ chức những dạ tiệc xa hoa cho du khách; bên trong động Thiên Đường

(Quảng Bình) có nguy cơ trở thành nơi tổ chức Cuộc thi Hoa hậu Hòa Bình Thế
giới 2017; những dự án đầu tư du lịch ở bán đảo Sơn Trà gây ảnh hưởng nghiêm
trọng tới cảnh quan, hệ sinh thái của nơi được ví là “lá phổi xanh” của Đà Nẵng;
hay khi dự án xây dựng cáp treo và khai thác con đường thám hiểm xuyên động
Sơn Đoòng (Quảng Bình) gây nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận… Mới đây
những chuyên gia di sản và công chúng lại tiếp tục ngỡ ngàng, đau xót khi một
“công trình du lịch đồ sộ” bỗng mọc lên ngay giữa vùng lõi Khu di sản văn hóa
và thiên nhiên thế giới Tràng An (Ninh Bình) mà không hề được cấp phép; tượng
Bà Chúa Xứ thứ hai cũng được doanh nghiệp lén lút thi công trên núi Sam (An
Giang). Dù các công trình này đã buộc phải tháo dỡ, nhưng những tổn thương mà
chúng gây ra đối với cảnh quan, hệ sinh thái di sản khó có thể khắc phục. Rõ ràng,
nếu mối quan hệ biện chứng giữa phát triển du lịch và bảo tồn, phát huy giá trị di
sản không được nhìn nhận một cách khách quan, đầy đủ, có định hướng thì sự
phát triển du lịch theo kiểu đặt mục tiêu kinh tế lên hàng đầu sẽ chỉ mang đến
những lợi ích ngắn hạn trước mắt và để lại hậu quả dài lâu.
3.2. Phương hướng phát triển
Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng, xã hội
hóa cao và nội dung văn hóa sâu sắc. Trong đó, nội dung văn hóa của du lịch hàm
chứa nhiều nghĩa: Các giá trị văn hóa là tài nguyên, là cái gốc để khai thác tạo ra
các sản phẩm du lịch văn hóa; Kinh doanh du lịch phải có văn hóa; ứng xử của
khách du lịch và cộng đồng địa phương nơi có hoạt động du lịch phải có văn
hóa;… Hơn thế nữa, thế mạnh của một quốc gia/địa phương chính là bản sắc văn
hóa và chỉ có dựa vào văn hóa thì du lịch mới phát triển bền vững được. Trong
Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn đã chỉ rõ trong quá trình phát triển du lịch phải chú trọng bảo tồn và
phát huy các di sản văn hóa và các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, tài nguyên du
lịch văn hóa, nhất là các di sản văn hóa đã được xếp hạng, là nguồn tài nguyên vô
cùng quý giá để phát triển du lịch bền vững ở các quốc gia/địa phương.
Tâm lý chung của du khách là thích tìm hiểu, khám phá những gì mới lạ, quý

hiếm. Vì thế, một số địa phương có những phong tục tập quán cổ đã thu hút đông
đảo du khách đến tham quan. Trong những năm gần đây, dòng khách du lịch trên
thế giới nói chung tìm đến những nơi có các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc
ngày càng tăng nhanh. Việt Nam cũng là một điểm đến hấp dẫn như vậy.

12


Thực trạng khai thác di sản trong phát triển du lịch ở Việt Nam hiện nay cho thấy,
để khai thác tốt hơn giá trị của các di sản, cần thấm nhuần quan điểm khai thác
hợp lý đi đôi với bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Theo đó, cần đào tạo đội ngũ
cán bộ từ quản lý di sản cho đến những người làm du lịch am hiểu cả về văn hóa
và kinh doanh du lịch. Bên cạnh đó, trong phát triển du lịch tại các khu vực di sản
phải giải quyết hài hòa mối quan hệ và quyền lợi của các bên tham gia, nhất là đối
với cộng đồng địa phương. Mặt khác, cần đầu tư thỏa đáng cho công tác kiểm kê
hệ thống di sản và nghiên cứu, đánh giá giá trị của các di sản để quản lý và xây
dựng chiến lược khai thác một cách bài bản.
Cũng cần lưu ý là gắn di sản với phát triển du lịch không có nghĩa là tất cả các di
sản nào đều được khai thác du lịch. Có những di sản chưa hoặc không được khai
thác du lịch mà phải bảo tồn. Trong khai thác du lịch ở các khu vực di sản, phải
chú ý đến quy mô, mức độ và thời điểm khai thác, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa
để tạo thêm nguồn kinh phí cho trùng tu, bảo tồn di sản, phát huy vai trò của cộng
đồng địa phương với tư cách là chủ nhân của di sản trong các hoạt động bảo vệ,
quản lý và khai thác di sản.

13


KẾT LUẬN
Hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa và phát triển du lịch không phải

là hai mặt đối lập mà là một thể thống nhất, đều hướng tới mục tiêu chung là vì
sự phát triển bền vững. Có thể thấy, trong “hành trình” tìm ra tiếng nói chung giữa
phát triển du lịch và bảo tồn di sản văn hóa hiện nay cần có sự thay đổi đồng bộ
từ nhiều cấp. Ở đó, là việc tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách, tạo hành
lang pháp lý thuận lợi để phát triển bền vững du lịch văn hóa. Huy động nguồn
lực xã hội cho việc khai thác di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quản lý di sản văn hóa và khai thác du lịch.
Đặc biệt, nâng cao nhận thức về vai trò của di sản văn hóa trong phát triển du lịch
bền vững. Trong đó, việc cần làm ngay và luôn chính là việc nâng cao nhận thức
của các chủ thể di sản văn hóa về việc phát triển du lịch thân thiện với môi trường,
không làm ô nhiễm xâm hại cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái…

14


1.
2.
3.
4.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Đăng Duy, Trịnh Minh Đức (1993), Bảo tồn di tích lịch sử văn
hoá.
Trần Ngọc Thêm (1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục.
/> />
15




×