SỞ VĂN HÓA, THỂ THAO
VÀ DU LỊCH HÀ NỘI
BAN QL DI TÍCH DANH THẮNG
DỰ THẢO
TÓM TẮT
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
LÝ LỊCH DI TÍCH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT
CHÙA HƯƠNG TÍCH VÀ KHU VỰC HƯƠNG SƠN
Huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội
I. TÊN GỌI DI TÍCH
1. Tên gọi di tích được thống nhất sử dụng trong hồ sơ khoa học di tích:
Ngày 06 tháng 6 năm 2012, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch có văn bản số
1764/BVHTTDL-DSVH về việc lập hồ sơ xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt
Chùa Hương Tích và Khu vực Hương Sơn.
Chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn là tên gọi chính thức của di tích.
2. Các tên gọi khác của di tích (nếu có) và nguồn gốc của tên gọi đó:
Chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn đã được Bộ Văn hoá (nay là Bộ
văn hoá, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di tích Quốc gia ngày 8 tháng 4 năm
1962 tại Quyết định số 313 VH/VP. Người dân xã Hương Sơn và du khách thập
phương khi trẩy hội thường gọi với cái tên dân dã là đi chùa Hương, bởi theo
“Truyện Phật Bà chùa Hương” thì nơi đây là nơi tu trì và trác tích của đức Phật
Quán Thế Âm Bồ Tát đã được Việt hoá và danh xưng là Phật Bà chùa Hương,
nghĩa là: Dấu vết thơm tho.
Chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn là một quần thể di tích gồm phức
hệ núi non, hang động, thảm thực vật, thuỷ văn, hệ động vật và hệ thống đình,
đền, chùa, động nằm rải rác quanh khu vực núi Hương Sơn thuộc xã Hương Sơn,
xã Hùng Tiến, xã An Tiến và xã An phú. Trong 4 xã này thì xã Hương Sơn là
vùng trọng điểm - nơi hội tụ của các danh lam thắng tích; ba xã còn lại lấy lấy
sông Thanh Hà làm ranh giới ôm trọn dãy núi đá vôi chạy từ xã Hương Sơn qua
xã Hùng Tiến, xã An Tiến, xã An Phú vòng qua điểm tiếp giáp của huyện Kim Bôi
(tỉnh Hòa Bình), huyện Kim Bảng (tỉnh Hà Nam) trở về cuối xã Hương Sơn làm
vùng đệm, tạo môi trường sinh thái và cảnh quan cho quần thể di tích. Chùa
Hương Tích và khu vực Hương Sơn bao gồm 3 tuyến điểm di tích chính:
1
- Tuyến điểm di tích Hương – Thiên: Bao gồm các đền - chùa và chùa động:
Đền trình Đục Khê, Đền Ngũ Nhạc, đình Yến Vỹ, hang Sơn thủy hữu tình, chùa
Thiên Trù, động Đại Binh, động chùa Tiên Sơn, chùa Giải Oan, đền Trấn Song
(còn gọi là đền Cửa Võng), chùa động Hương Tích và chùa động Hinh Bồng.
- Tuyến điểm di tích Long Vân - Hương Đài: gồm các chùa, động chùa:
Chùa, chùa động Hương Đài, chùa Long Vân, động Long Vân, chùa động Cây
Khế và hang Sũng Sàm (động Người xưa), tức di chỉ khảo cổ học hang Sũng Sàm,
thuộc di chỉ Văn hoá Hoà Bình;
- Tuyến điểm di tích Tuyết Sơn: gồm các chùa, chùa động và đền: Đền Trình
Phú Yên, chùa Bảo Đài, chùa động Tuyết Sơn, và am Phật Tích.
II- ĐỊA ĐIỂM VÀ ĐƯỜNG ĐI ĐẾN DI TÍCH
1. Địa điểm di tích:
1.1. Trước đây:
Hương Sơn là vùng đất nằm trên bãi bồi sông Đáy. Hai phía Đông và Nam
là dòng sông Đáy uốn lượn ôm trọn vùng đất này và chở phù sa. Dòng sông Đáy
kéo dài từ đầu làng Hà Đoạn ôm Bãi Nương (làng Tiên Mai cùng xã) vòng về ấp
Tân Sơn, cuối làng Phú Yên hơn 6km. Sông Đáy cũng là địa giới tự nhiên giữa
Hương Sơn với các xã Hồng Quang (Ứng Hoà), Tượng Lĩnh (Kim Bảng - Hà
Nam).
Phía Bắc xã Hương Sơn giáp xã Hùng Tiến, An Tiến, An Phú (cùng huyện),
xưa có sông Thường Vệ cắt chéo từ Tây Bắc sang Đông Nam, cửa sông đổ ra Đục
Khê. Dãy núi đá vôi ôm toàn bộ phía Tây xã Hương Sơn, An Tiến và An phú kéo
dài từ Tây sang Bắc tỉnh Hoà Bình, ngăn cách giữa núi rừng và đồng bằng. Bước
tường thành được tạo bởi những dãy núi đá vôi trùng điệp liên tiếp. Nhân dân
quen gọi là “Thượng chí tượng đới, hạ chí chiếu quang”. Chính vì đặc điểm địa
lý này đã “ban” cho Mỹ Đức đặc thù “hùng sơn tú thuỷ”, “tiểu danh lam mà có
đại kỳ quan”, tức Chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn.
Năm 1965, tỉnh Hà Tây sáp nhập với tỉnh Hà Đông thành tỉnh Hà Tây, xã
Hương Sơn, huyện Mỹ Đức thuộc tỉnh Hà Tây. Năm 1991 tái tách hai tỉnh Hà Sơn
Bình thành tỉnh Hà Tây và Hoà Bình thì huyện Mỹ Đức lại trực thuộc tỉnh Hà Tây
cho đến ngày 31 tháng 7 năm 2008.
2
1.2. Hiện nay:
Chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn hiện nay thuộc xã Hương Sơn, xã
Hùng Tiến, xã An Tiến, xã An Phú, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà nội.
2. Đường đi đến di tích:
Để đi đến quần thể di tích chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn, du
khách có thể đi theo hai lộ trình sau:
- Lộ trình thứ nhất: Từ trung tâm thành phố Hà Nội xuôi theo phía Tây Nam tới quận Hà Đông, đến ngã ba Ba La - Bông Đỏ rẽ trái theo đường 21B tới
thị trấn Đại Nghĩa, sau đó rẽ trái theo đường liên xã khoảng 12km là tới quần thể
di tích.
- Lộ trình thứ hai: Từ trung tâm thành phố Hà Nội xuôi theo đường mới
quốc lộ 1A đến cầu Giẽ, rẽ phải qua Dốc Bồ, đường Tây, cầu Nhật Bản khoảng 4
km là tới quần thể di tích.
Đường đi phù hợp với các loại giao thông đường bộ.
III. PHÂN LOẠI DI TÍCH
Căn cứ Điều 11 Nghị định 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Di sản Văn hoá và Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hoá; Căn cứ kết quả khảo sát, nghiên
cứu thực địa thì chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn thuộc loại hình di tích:
Danh lam thắng cảnh, Lịch sử - Kiến trúc và Khảo cổ học.
IV. SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ, ĐẶC ĐIỂM CỦA DI TÍCH
Quần thể di tích chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn gồm đền, chùa,
động chùa nằm rải rác trên địa bàn các thôn: Yến Vĩ, Đục Khê, Hội Xá, Tiên Mai
và Phú Yên. Đa số các di tích dựa vào sườn núi hoặc nằm ở thung lũng có địa thế
đẹp để kiến tạo nên di tích. Cũng như các ngôi chùa Việt, chùa Hương được cổ
nhân xây dựng để thờ Phật; nhưng quần thể di tích danh thắng này có sự độc đáo,
đặc biệt mang tên “Hương Tích” (tức dấu vết thơm tho), nên việc thờ Phật ở đây
cũng có những đặc điểm khác của các chùa làng.
Theo truyền thuyết thì trong tâm thức của người Việt, Chùa Hương là một
địa danh được nhắc đến vì đó là “nơi lưu dấu thơm của Phật” Quán Thế Âm,
một vị Phật do dày công tu luyện ức vạn triệu năm, có lòng từ bi nên Ngài có thể
3
nghe thấy những tiếng kêu than nhỏ nhất của chúng sinh đau khổ ở mọi nơi. Kinh
Pháp Hoa ghi rằng: Khi gặp khổ đau, người ta tụng niệm pháp danh của Ngài thì
Ngài đem phép nhiệm màu cứu giúp. Ngài có phép thần thông biến hoá, có thể
hiện ra ở các sắc tướng khác nhau: có lúc là nam tướng, nữ tướng hay Đức vua và
Hoàng hậu…
Nam Hải Quán Thế âm được thờ ở động Hương Tích, chùa Thiên Trù,
Chùa Giải Oan… Hành trạng của Ngài là công chúa Diệu Thiện; dân gian quen
gọi là công chúa Ba, đã vượt qua mọi trở ngại, quyết chí tu hành. Vua cha là Diệu
Trang Vương ở nước Hưng Lâm sinh được ba công chúa. Khi khôn lớn, hai chị
lấy chồng nhưng các phò mã đều ham mê chơi bời, không lo việc nước nên vua
bắt chúa Ba lấy chồng để chọn người tài giỏi nhường ngôi nhưng Ngài nhất định
xin đi tu để sau này độ cho vương triều và chúng sinh thoát khỏi đau khổ. Trang
Vương không nghe, sai đốt chùa, giết tăng ni và giết cả chúa Ba. Nhưng thiên
đình đã sai thần núi Hương Tích hiện thành hổ cõng chúa Ba về vùng núi Hương
Tích. Đức Phật Thích Ca hiện thân chỉ cho chúa Ba vào động Hương Tích tu tại
đây. Khi thành đạo Bà biến hoá thần thông nghìn mắt, nghìn tay cứu độ cho cha.
Hai chị của Ngài sau cũng quy y tu hành và đều thành Phật.
Không gian quần thể di tích chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn hầu
như hình tượng Phật Bà Quán Thế Âm luôn bao trùm trong các di tích. Các hang
động, động - chùa khác ở chùa Hương như: Hang chùa Thanh Sơn, động Hinh
Bồng, động Long Vân, hang Sũng Sàm… đều có ánh sáng mờ ảo, hình thù nhũ đá
ly kỳ, khiến người ta liên tưởng tới sự sắp đặt đầy kỳ bí của tạo hoá. Người xưa
trước những hiện tượng thiên nhiên ấy với tư tưởng tôn sùng đạo Phật và đức tin
với Phật, sự tín ngưỡng và tôn giáo đã nảy sinh ở vùng này khá sớm. Chưa thấy
sách nào ghi chép về sự hình thành Phật giáo ở Hương Sơn trước thế kỷ XV, chỉ
đến thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) chùa Hương mới được phát hiện, truyền
thuyết dân gian vẫn coi nơi đây lưu dấu và hành trạng của Phật Bà Quán Âm.
Tuy nhiên, với hình thể núi non tươi đẹp và hang động nhuốm màu huyền
tích, rất có thể quần thể di tích chùa Hương đã được người Việt Nam biết đến và
sử dụng hang động làm nơi thờ cúng. Các chùa trong quần thể di tích chùa Hương
Tích và khu vực Hương Sơn, ngoài việc thờ Phật theo phái Đại Thừa, thờ Phật Bà
4
Quán Âm, còn có điện thờ Mẫu (Tam tòa thánh mẫu). Riêng đền Cửa Võng, còn
gọi là đền Trấn Song là nơi thờ Thanh Y công chúa, tục gọi là bà chúa Thượng
Ngàn, huý là Sơn Tinh Triều Mường công chúa Lê Mại đại vương và 12 thị nữ
tiên cô là người dân tộc thiểu số.
Ngoài việc tôn thờ Quán Thế Âm và Mẫu, đến thế kỷ XVII, quần thể danh
thắng này xuất hiện thêm các chùa, hệ thống tượng Phật nhiều hơn. Các bia đá
“Hương Tích động Thiên Trù bi ký”, lập năm Cảnh Trị 05 (1667) ở vách đá động
Hương Tích, bia “Thiên Trù tự bi ký” lập năm Chính Hoà 7 (1686)… cho thấy sự
ghi chép tu sửa, tôn tạo, hưng công, tạc tượng, đúc chuông và văn thơ đề vịnh của
Chúa Trịnh, của các quan Nghè, quan Đốc học… với chùa Hương suốt từ thời Lê
đến thời Nguyễn. Chùa - động là nơi bài trí tiếp các vị Phật tổ, La Hán, các
tượng Tam giáo đồng nguyên (Phật - Lão - Nho) nhưng trung tâm vẫn là tượng
Phật.
Sức cuốn hút của một vùng “Kỳ sơn tú thuỷ” và sự hình thành một trung
tâm Phật giáo ngày càng mạnh, từ nửa cuối thế kỷ XIX về sau, các ông hoàng bà
chúa giữ cương vị trọng trách đương thời và các vị đại khoa, danh sĩ… đến chùa
Hương ngày càng đông, họ đã để lại những bài thơ nổi tiếng trong văn học cổ cận đại Việt Nam.
V. SINH HOẠT VĂN HÓA, TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN DI TÍCH
Hàng năm khi mùa xuân đến, hoa xuân nở rộ khắp các triền núi Hương
Sơn, hàng triệu Phật tử cùng tao nhân mặc khách khắp bốn phương lại nô nức trẩy
hội - hành hương về nơi tâm linh đất Phật, đốt nén tâm hương và thả hồn mình
hoà nhập với thiên nhiên miền Sơn lâm Phúc địa. Lễ hội chùa Hương là lễ hội
đậm nét của đạo Phật Việt Nam. Mật độ con người cộng với trường độ không gian
vô cùng rộng lớn khiến cho nơi đây xứng danh là lễ hội vui nhất trời Nam, kéo dài
trong 3 tháng.
Mỗi độ xuân về, hoa mơ nở trắng núi rừng Hương lĩnh, khí xuân tràn ngập
khắp núi rừng Hương Sơn, hoa gạo rực hồng các triền núi, chân đồi. Lòng người
thiện tín cũng ấm áp tưng bừng trong những ngày trẩy hội chùa Hương.
Những năm đầu khi mới khai sơn phụng sự, các Tổ sư Hương Tích chỉ tổ
chức khánh đản Đức Quán Thế Âm (Phật chủ chùa Hương) vào ngày 19 tháng 2
5
Âm lịch. Theo truyền thống địa phương, ngày 6 tháng Giêng là ngày tế lễ khai
sơn. Sau đó nhân dân địa phương vào rừng, lên nương rẫy để lễ thổ kỳ, đồng thời
vào chùa - động lễ Phật Quán Thế Âm. Rồi từ đó, du khách thập phương cũng
theo tập quán ấy mà lần lượt trẩy hội vào mùa xuân. Đến năm Bính Thân (1896)
niên hiệu Thành Thái thứ 8, lễ hội lớn nhất chính thức được tổ chức và kéo dài
cho tới hết tháng 2 âm lịch. Để rồi năm tiếp năm, bước chân theo nhịp bước chân,
giữa cảnh non xanh nước biếc
Xưa kia, ở Hương Sơn có tục ném đá giữa hai thôn Đục Khê và Yến Vỹ
diễn ra trong lễ hội chùa Hương từ 15 tháng Chạp đến 15 tháng Giêng âm lịch
hàng năm trên cánh đồng Cửa Mạ của thôn Đục Khê và cánh đồng Ngò của thôn
Yến Vỹ. Theo các cụ già của hai thôn kể lại thì tục này có cách đây khoảng 500 600 năm. Vào những năm 1959 -1960, hai cánh đồng trên trở thành khu giãn dân
thì tục ném đá này khép lại vào thời điểm ấy.
Khi diễn ra lễ hội, những trai đinh và dân làng của hai thôn tập trung ở cánh
đồng Cửa Mạ và cánh đồng Ngò đông đúc. Họ lượm những hòn đá quanh khu vực
và ném vào nhau. Thời gian ném đá diễn ra liên tục, bên nọ ném vào bên kia nhịp
nhàng và có lúc trở thành cao trào nhưng không có biển hiệu của sự thù hận hay
ân oán cá nhân. Sau những trận ném đá, có người sứt đầu mẻ trán, máu chảy ròng
ròng… Thế rồi, những người tham gia lại trở về nhà, tắm rửa và sang làng nhau
chơi, xem văn nghệ, vào tư gia uống nước, chúc tết, thắm đượm tình nghĩa xóm
làng.
Hình thức ném đá trong lễ hội của hai thôn Đục Khê và Yến Vỹ có nhiều
hình thức lý giải khác nhau. Có ý kiến cho rằng, hai làng Yến Vỹ và Đục Khê ở
vào hai thế đất hình hai ông phỗng nên mới diễn ra tục ném đá vào nhau như vậy.
Có ý kiến khác lại quan niệm, ở dãy núi Hàm Rồng - Đồng Bèo có một quả núi
hình thạch khuyển. Nếu hai thôn ném đá thì thạch khuyển sợ không sủa, không
phun lửa thiêu cháy nhà cửa của làng Yến Vỹ.
Theo một số nhà nghiên cứu thì tục ném đá giữa hai thôn là sự tái hiện cuộc
sống sinh hoạt của người nguyên thuỷ, dùng đá làm công cụ săn thú, hái lượm,
ném đá cho quả rơi để ăn và có khi dùng đá ném nhau để đùa vui.
Người dân nơi đây còn cho biết thêm, tục ném đá là sự rèn quân của các vị
6
tướng, khiến quân sĩ dạn dày với chiến trận, tạo nên tinh thần dũng cảm để cùng
Phù Đổng Thiên Vương - người giúp vua Hùng thứ 6 dẹp giặc Ân, hiện được
phụng thờ ở đền Đục Khê, đình Yến Vỹ…
VI. KHẢO TẢ DI TÍCH:
Quần thể danh thắng Hương Tích và khu vực Hương Sơn nằm ở toạ độ địa
lý 20034’ - 20039’ vĩ độ bắc, 105041’ - 105049’ kinh độ đông. Đây là hệ núi đá vôi
nằm kề châu thổ sông Hồng có tuổi địa chất khoảng 220 - 250 triệu năm, là hệ
thống núi đá thấp chỉ có đỉnh Bà Lồ cao nhất trong vùng với độ cao 397m, còn lại
là 200m trở xuống. Do biên độ chia cắt sâu khá lớn nên đã tạo cho du khách đến
đây có ấn tượng của cảnh núi non kỳ vĩ.
Do ảnh hưởng của vùng nhiệt đới ẩm, xưa kia rừng núi Hương Sơn âm u,
cây gỗ nhỏ và cây bụi phát triển nhiều ở sườn vách núi và đỉnh núi. Ở những
thung lũng là kiểu rừng rậm nhiệt đới có cây, cỏ mọc ở phía trên, phía dưới có
thảm thực vật thủy sinh và ngập nước. Hệ động vật và tài nguyên động vật ở
Hương Sơn có hổ, báo, hươi, nai, khỉ, vượn và nhiều loài chim, côn trùng.
Đặc điểm của vùng núi đá vôi ở Hương Sơn đã tạo nhiều hang động kỳ ảo,
ánh sáng lung linh. Các hang động là nơi cư trú lý tưởng của người nguyên thủy
như hang Sũng Sàm, hang Luộm (động Hương Đài), hang Thanh Sơn, núi đá Sập
Bon… được giới khảo cổ học Việt Nam khẳng định, di chỉ khảo cổ này thuộc thời
đại đồ đá Hòa Bình - Bắc Sơn.
Do kiến tạo địa lý nên dãy núi phía Tây của Hương Sơn và dòng sông Đáy
ở phía Đông đã tạo nên dòng Yến giang thơ mộng, nằm vắt vẻo giữa hai bên của
các ngọn núi, chảy từ bến Đục vào động Hương Tích. Hai bên tả ngạn và hữu
ngạn dòng suối này là muôn hình vạn trạng những ngọn núi nhấp nhô với tên gọi
dân giã như núi Con Voi, núi Đổi Chèo, núi Mâm Xôi… làm mê đắm khách hành
hương trẩy hội.
Thảm thực vật và hệ động vật ở Hương Sơn dẫu không còn đầy đủ và
phong phú như xưa nhưng ở đây còn nhiều loại thú quý hiếm, có giá trị về kinh tế,
về nghiên cứu khoa học được xếp vào sách đỏ thế giới như gà Lôi Trắng, Tê Tê
…
Hương Sơn là tên gọi dân dã, là nơi hội tụ tín ngưỡng dân gian, là nơi đồng
7
thể của Tam giáo đồng nguyên: đạo Phật, đạo Lão và đạo Nho. Vì thế ở Chùa
Hương, cổ nhân đã xây dựng các loại hình kiến trúc có cả đình, đền và chùa. Loại
hình kiến trúc dạng đền được xây dựng ở Hương Sơn theo tín ngưỡng dân gian.
Dạng đền này hiện diện ở đền trình Đục Khê và đền Ngũ Nhạc. Đền thờ sơn thần
Hoàng Hổ và sau đó là người anh hùng văn hóa dân tộc Hùng Lang, mạnh như hổ
đã cùng với Thánh Gióng đánh giặc Ân. Ở Chùa Hương còn nhiều đền thờ mẫu
như đền Trấn Song, đền mẫu ở Thiên Trù.
Với sự xuất hiện của các ngôi đền, mầu sắc Phật giáo ở Hương Sơn là cả
một tổng thể tín ngưỡng, tôn giáo. Cùng với tín ngưỡng dân gian, Phật giáo
Hương Sơn đã gắn liền với Phật thoại Nam Hải Quán Thế Âm Bồ Tát tu hành và
trác tích ở Chùa Hương. Vì vậy nhiều hang động, ngôi chùa ở Chùa Hương Tích
và khu vực Hương Sơn, hình tượng Phật Bà Chùa Hương (tức Đức Phật Nam Hải
Quán Thế Âm Bồ Tát đã được Việt hóa) và gia quyến của Bà luôn bao trùm và
giữ vị trí tâm linh trọng yếu.
Theo Thiền phả Hương Sơn và Phật thoại Chùa Hương thì nơi đây là nơi
lưu dấu tu hành của đức Phật Nam Hải Quán Thế Âm Bồ Tát, tức Phật Bà Chùa
Hương. Khi Phật thoại này truyền bá ra thì các Thuyền sư cổ đức đã chống gậy
trúc tới đây nhàn du mây nước, dựng thảo am tu trì và xiển dương Phật pháp.
Thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Quang Thuận (1460 - 1469), có 03 vị
Hoà thượng đã tìm thấy động Hương Tích và dựng lên thảo am ở Thiên Trù. Kể từ
đó, động Hương Tích được gọi là chùa Trong, chùa Thiên Trù được được gọi là
chùa Ngoài, rồi mọi người lấy tên chung là khu vực Chùa Hương, hay“Hương
Thiên Bảo Sái”.
Năm Quang Thuận 08 (1467), vua Lê Thánh Tông tuần thú phương Nam
lần 2 đã đóng quân ở Thiên Trù. Năm Chính Hoà 07 (1686), Hoà thượng Trần
Đạo Viện Quang chống gậy trúc, dạo gót thảo hài tiếp tục công việc“Nội tu
Hương Tích bảo điện, ngoại khai Phật cảnh Thiên Trù”. Năm 1770, Tĩnh đô
vương Trịnh Sâm vãng cảnh nơi đây và định danh là “Nam Thiên đệ nhất động”,
lưu một số thơ văn và bi ký. Rồi từ đó,“Tổ ấn trùng quang, đèn thuyền truyền nối
cho đến đầu thế kỷ XX, Thiên Trù đã trở thành lâu đài tráng lệ “Biệt chiếm nhất
Nam thiên”. Chùa có trên 100 nóc với những công trình kiến trúc quy mô tinh
8
xảo.
Vào các năm 1947, 1948 và 1950, thực dân Pháp đã ném bom tàn phá toàn
bộ khu vực này, khiến cho“Cao chất ngất một toà cổ sái” không còn nữa, chỉ còn
lại vườn tháp Viên Công thế kỷ XVII, tháp Thiên Thuỷ thế kỷ XVIII, vườn tháp
Thịnh Kỳ thế kỷ XIX và một quả chuông đồng thời Tây Sơn.
Căn cứ vào những văn tự thành văn khắc trên những bức ma nhai và những
tấm bia cổ tại đây thì Chùa Hương là một trong những trung tâm Phật giáo được
hình thành vào thế kỷ XV. Sử liệu - văn tự cổ nhất hiện nay còn giữ được ở Chùa
Hương là tấm bia Chính Hòa 07 (1687) nói về việc Hòa thượng Viên Quang mở
mang Phật cảnh Thiên Trù và sửa sang động Hương Tích. Đặc biệt, hiện ở động
Hương Tích còn một tấm bia tứ trụ dựng năm Quý Sửu (1793), thời Cảnh Thịnh
ghi việc tạc tượng Phật Bà Chùa Hương bằng đá xanh.
Nét đặc sắc của kiến trúc ở Chùa Hương là kiến trúc tôn giáo - Phật giáo.
Các công trình kiến trúc ở đây tuân thủ lối kiến trúc truyền thống, các hàng chân
cột kê trên đá tảng, các vì kèo giá chiêng hoặc chồng rường bào trơn đóng bén
thiên về độ bền chắc. Mái chùa phần lớn đắp bờ nóc, có các đầu đao cong vút và
lợp ngói ri. Sự nổi bật của kiến trúc là lựa chọn được hình thế núi sông. Trong đó,
thế núi làm nền, sự đắp vẽ và tô điểm nhằm tăng thêm vẻ đẹp bằng hệ thống cổng
chùa, tam quan bằng chất liệu gạch nung và vôi vữa.
Những hang động mà người xưa“lợi dụng” để làm nơi thờ tự là những
hang động đẹp với những nhũ đá kết tủa hàng vạn năm, hình thù và mầu sắc
phong phú. Những nhũ đá ở đây được gọi theo tín ngưỡng nông nghiệp như Ao
Bèo, Nong Tằm, Né Kén…
Trong hang động, phần điêu khắc của con người - tạc tượng, đã làm cho
Hang động trở thành ngôi chùa: chùa trong động. Và như vậy, nếu coi Chùa
Hương có từ lâu đời (trước thế kỷ XV) thì việc thờ phụng phải bắt đầu từ các mái
đá và hang động. Các di tích trong quần thể di khu thắng tích này hàm chứa các
giá trị tiêu biểu, đặc sắc bao gồm:
* Đền Đục khê: Đền trình Đục Khê là di tích nằm ở cửa ngõ của quần thể
di tích Hương Sơn, ngay sát bến Đục xưa của dòng sông Đáy. Bến sông này đã đi
vào thi ca và nhạc họa của các tao nhân mặc khách. Trước Cách mạng tháng Tám,
9
thi nhân tài hoa bạc mệnh Nguyễn Nhược Pháp đã viết thi phẩm nổi tiếng « Đi
chùa Hương ». Bến Đục mà thi nhân nhắc đến trong thi phẩm này chính là địa
điểm mà du khách khi trẩy hội từ hạ lưu Hà Nam ngược lên, từ thượng lưu Vân
Đình xuôi xuống trên dòng sông Đáy đều phải dừng lại để lên đền Đục Khê trình
với đức Thành hoàng làng, song xuống đò đi tiếp theo dòng Độc Khê (tức Đục
Khê) vào tuyến trong du lãm. Dấu tích của bến Đục và dòng Độc Khê hiện còn rất
mờ nhạt, chỉ còn lại trong tâm thức của người dân.
Đền được xây dựng lớn vào thế kỷ XVIII. Đặc biệt, Đền còn giữ được đôi
sấu đá, rồng đá và gạch hoa thị được làm vào thời Lê. Hiện đền trình Đục Khê
mới được tu bổ và hoàn thiện năm 2012 với các hạng mục công trình quy mô bề
thế, gồm : Nghi môn, nhà bia - nhà khách, cung Đệ nhất, cung Đệ nhị, cung Đệ
tam, cung Đệ tứ, cung Đệ ngũ và tiền tế, hậu cung của nhà mẫu.
* Đình yến Vỹ : Xưa kia, khi du khách trẩy hội chùa Hương, lúc đò cập bến
ở đền trình Đục Khê làm lễ xong sẽ tiếp tục cuộc hành trình qua đình Yến Vỹ rồi
lãng du vào chốn bồng lai tiên cảnh đệ nhất trời Nam.
Đình Yến Vỹ tọa lạc ven khu vực cư trú giữa trung tâm của làng trong
khuôn viên thoáng đãng, rợp bóng cây cổ thụ. Đình đã được tu sửa với quy mô
khá bề thế, kết cấu theo kiểu chữ “Nhị” gồm đại bái và hậu cung.
* Đền Ngũ Nhạc: Từ bến Yến xuôi theo dòng Yến giang là tới đền Ngũ
Nhạc. Theo thuyết phong thuỷ thì hình thế núi Ngũ Nhạc là thế Thanh long gác
cổng trời Nam. Trước cửa đền là tất thảy thế phong thuỷ bao la cẩm tú với sự hội
tụ của bốn dòng nước thiên nhiên“Sinh lai hội vượng, vượng khứ nghênh sinh”,
nghĩa là: Nước trường sinh gặp nước đế vượng, nước đế vượng đón nước trường
sinh, cây cối quanh năm phủ bóng xuống các hạng mục của ngôi đền : Tiền tế,
trung tế, hậu cung, nhà mẫu ...
* Hang Sơn thủy hữu tình: Từ đền Ngũ Nhạc, du khách xuôi theo dòng suối
Yến khoảng 300m tới Cầu Hội. Tại đây có ngã tư dòng suối: Dòng phía trước đi
vào Thiên Trù; dòng phía sau trở ra đền Ngũ Nhạc; bên trái là dòng suối Tuyết với
vách đá dựng đứng có khắc bức ma nhai «Kỳ Sơn Tú Thủy» của chúa Trịnh Sâm;
rẽ phải vào dòng phía trong chừng 30m, du khách sẽ gặp hang «Sơn Thủy Hữu
Tình» với những nét bút như in hình xuống dòng Yến giang.
10
* Chùa Thiên Trù: Rời đền Ngũ Nhạc, theo dòng suối Yến đi tiếp đến bến
Trò, theo hướng thần đạo là tới Nam Thiên Môn và các hạng mục chính của chùa
Thiên Trù. Theo“Hương Sơn Thiên Trù thuyền phả” thì chùa Thiên Trù được xây
dựng cách ngày ngày nay hơn 200 năm.
Xưa kia, ở Thiên Trù xây dựng theo kiểu“Ngũ môn tam cấp”. Đi qua các
bậc thềm và qua hai lần tam quan mới đến tam bảo. Ở khu vực này có gác
chuông, gác trống, nhà bia, nhà dầu, nhà oản, nhà tương… Sau tam bảo là điện
mẫu, Suối Hổ Khê, nhà khách. Năm 1947, 1948, 1950, giặc Pháp ba lần tàn phá.
Chùa và tượng Phật bị đổ nát. Những năm gần đây, Nhà chùa cùng du khách thập
phương đã dựng lại Nam Thiên môn, Gác chuông, Tam bảo, Điện mẫu, Tàng kinh
các và các hạng mục khác…Đây là ngôi chùa có quy mô bề thế và khang trang
nhất với rất nhiều hạng mục có giá trị nghệ thuật cao.
* Động Đại Binh : Từ sân bày bán hàng quà trước Nam Thiên Môn, du
khách rẽ phải men theo sườn non hướng lên cao rồi lại vòng xuống thấp, tới biển
chỉ dẫn đi tiếp 150m là tới động Đại Binh.
Động này vốn do tạo hoá kiến tạo từ lâu đời, lưu dấu tích một đạo quân
người dân tộc thiểu số do hai ông Đinh Công Tráng và Đinh Công Vân khởi nghĩa
chống Pháp, bị vây hãm và tuẫn tiết ở đây. Hai ông đã cho khắc hai chữ Hán“Đại
Binh” lên cửa động để giữ dấu tích. Hiện tại động Đại Binh có hai phần: Phần
động ở phía dưới; phần kiến trúc ở phía trên cùng một đoạn hành lang lan can dẫn
vào cửa động.
* Chùa Tiên Sơn: Từ cổng Nam Thiên Môn rẽ phải theo hướng vào động
Hương Tích, khi du khách tới ngã ba thì rẽ phải men theo sườn non khoảng 200m
là tới động chùa Tiên Sơn, dựa vào vách núi, cổng tam quan như một biểu trưng
cho giả quan - không quan - trung quan rộng mở đón chào Phật tử trên đỉnh non
ngàn. Toàn bộ giá trị của động chùa Tiên Sơn là ở toà Phật điện. Toà Phật điện
chính là toàn bộ lòng động đã được bao bọc bởi những nhũ đá thiên tạo rất có giá
trị mỹ thuật, trông tựa toà lâu đài tráng lệ mà bà mẹ thiên nhiên đã ban tặng.
Năm Canh Dần (1770) chúa Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm đến thăm động này
và đã để lại bài thơ chữ Nôm đặc sắc. Bài thơ tài tình của vị chúa tài hoa ấy đã mô
tả đầy đủ cảnh trí của ngôi động này.
11
* Chùa Giải Oan: Chùa Giải Oan nằm ở giữa đoạn đường từ chùa Thiên
Trù lên động Hương Tích. Chùa này do Đại sư Thông Dụng khai sáng theo thế “Ỷ
bích sơn”. Từ giữa đoạn đường ấy, du khách bước lên 67 bậc từ thấp lên cao, hai
bên là hai dãy hành lang, khi bước hết 67 bậc đá, du khách bước tiếp 5 bậc lát
gạch đỏ là tới sân chùa, lưng tựa vào khe núi, phía trước là tường ngăn cách với
vách núi.
* Đền Trấn Song: Trấn Song là một ngôi đền nhỏ toạ lạc ở đoạn gấp khúc
bên non ngàn trên đường dẫn vào động Hương Tích. Đền Trấn Song do Hoà
thượng Thích Thanh Tích, tổ đời thứ 9 khai sáng vào năm 1908. Đền xưa kia có
những dây quạch chằng chịt đan vào nhau như chiếc võng nên đền còn có tên
nôm là đền Cửa Võng.
* Chùa động Hương Tích: Hương Tích là động tiêu biểu của toàn bộ quần
thể di tích chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn. Vì thế, nói tới động chùa
Hương Tích là đồng nghĩa và đồng thể với toàn bộ khu vực thắng cảnh Hương
Sơn. Có người đã ví nếu đi chùa Hương mà không vào chùa động Hương Tích thì
cũng coi như chưa đi hoặc đi nhưng chưa đến nơi.
Lòng động chùa Hương là cái hàm rồng, rộng thênh thang, sâu hun hút.
Bên dưới, bên trên, bên phải, bên trái cân đối. Hòn thạch nhũ trong động trông tựa
đụn gạo ở khoảng giữa ngay gần cửa vào, có người ví như lưỡi của con rồng, sâu
phía trong là cổ họng…
Ở ngoài cửa động có tấm bia ma nhai vuông. Mặt ngoài bia khắc bài thơ
chữ Hán viết theo lối cuồng thảo trông rất mãn mục. Chữ viết đã tốt, văn lại hay.
Tác giả bài thơ này là cụ Phó bảng Bùi Dị, một vị đại thần đương triều đã từng đi
sứ Trung Hoa. Mấy chữ lớn“Nam Thiên Đệ Nhất Động” vào cửa trông lên là chữ
của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm đề bút khắc vào đá tháng 3 năm Canh Dần (1770).
* Chùa Hinh Bồng: Theo sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan
Huy Chú thì xưa kia có một toà động Hinh Bồng tuyệt đẹp nằm cheo leo về phía
Nam động Hương Tích.
Từ Nam Thiên Môn du khách rẽ trái theo đường bậc đá còn giữ được vẻ
hoang sơ với những rừng tre, trúc, rau sắng là tới động chùa Hinh Bồng. Con
đường này rất gian nan hiểm trở, lúc lên dốc, lúc xuống đèo, cao thăm thẳm và
12
hun hút vực sâu, không phải du khách nào cũng vượt qua được. Đứng dưới thung
lũng nhìn lên động chùa cứ ngỡ đây là nơi bồng lai tiên cảnh. Năm 1770, Tĩnh Đô
vương Trịnh Sâm đã đề thơ ngự bút.
* Chùa hang Thanh Sơn: Từ bến Yến, du khách xuôi đò tới cầu Hội. Tại
đây có nhánh rẽ trái. Đi đò hoặc đi bộ khoảng 1000m là tới chùa, hang Thanh
Sơn. Chùa Thanh Sơn, toạ lạc theo thế “Phượng hoàng ẩm thuỷ”, hai bên là hai
quả núi phượng trông như đang tung cánh bay lên bầu trời lộng gió và dần dần hạ
xuống dòng suối uống nước. Chùa bao gồm các hạng mục: Tam quan, tiền đường,
thượng điện, nhà tổ, nhà mẫu và vườn tháp.
Hang Thanh Sơn nằm sát gian hồi nhà mẫu của ngôi chùa Thanh Sơn.
Hang này không giống các hang động khác vì từ cửa hang đi vào cửa hẹp và thấp,
khi đi du khách phải khom lưng. Hang có bốn ngách chính và một ngách phụ nên
người dân và du khách mường tượng đây là bàn tay Phật. Ngách chính là nơi thờ
các quan, các cô, các cậu…
* Động Hương Đài : Từ chùa Thanh Sơn đi qua sườn trái nhà tổ men đường
núi, qua lau lách Thung Vương vòng theo sườn núi khoảng 400m là lên tới động
Hương Đài.
Đứng từ chân núi nhìn lên là vách đá dựng đứng có tiết diện như một mặt
phẳng, bỗng nhiên bàn tay tạo hoá khoét sâu vào trong thành động có vẻ đẹp lạ
kỳ. Phía ngoài cửa động là một trụ đá lớn như mầm non đang đâm chồi đỡ lấy
phần trên cửa động. Động được chia làm hai phần: Bên trái là một hang nhỏ dẫn
xuống phía dưới có khắc bốn chữ Hán ma nhai tên động. Ở phần này là những
nhũ đá có hình thù giống như voi, đụn gạo, bầu sữa mẹ, những giọt nước thánh
thót nhỏ xuống thềm, phía dưới động thoải dần và có một hang dẫn lên và thông
ra bên ngoài.
* Chùa động Long Vân: Dời chùa - hang Thanh Sơn, du khách lên thuyền
đò ngược dòng về ngã ba hướng đền Ngũ Nhạc. Tại đây, gặp một dòng suối rẽ đôi
hướng suối Long Vân khoảng 2km là tới chùa Long Vân. Dòng suối này uốn lượn
theo thế “Nhất khúc bình điền lưỡng tuyến khai”. Chính điểm cuối của dòng suối
này là nơi toạ lạc của ngôi chùa.
Chùa Long Vân được khởi dựng vào năm Canh Thân (1920) ngay sườn núi,
13
một nửa lấp sau núi Ấn, một nửa lộ giữa rừng cây xanh biếc, mây trắng quấn quýt
tựa như bức hoạ nghìn thu. Chùa kết cấu theo kiểu chữ “Đinh” bao gồm các hạng
mục: Tiền đường, thượng điện, nhà mẫu và nhà bia, nhà tổ.
Từ chùa Long Vân theo đường núi như dựng đứng rồi lại thoải dần, du
khách đi khoảng 400m tới ngã ba rẽ trái xuống chùa Cây Khế, rẽ phải lên động
Long Vân. Phần ngoài cửa động phình to theo hình phễu, vào bên trong thon và
nhỏ dần. Phía bên phải (từ ngoài vào) là lối đi dẫn xuống hang phía dưới. Hang
này sâu thăm thẳm chưa xác định được điểm dừng. Từ hang lại chia thành nhiều
nhánh như ma trận, những bậc đá thiên tạo xoắn hình chôn ốc, phía dưới như có
dòng suối cạn. Đi từ cửa hang xuống khoảng 10m là gặp ban Sơn thần, đi tiếp
khoảng 20m nữa là tới ban tam bảo. Những nhũ đá tạo hình ở hang động này
không đẹp như những hang động khác, nhưng hang này có đặc điểm là rất sâu,
từng lớp đá xếp lớp nghiêng như nằm song song, phía trên thành động hướng ra
phía ngoài.
* Chùa Cây Khế: Chùa Cây Khế là ngôi chùa trong động nằm giữa lưng
chừng núi Cây Khế, cách động Người Xưa (hang Sũng Sàm) khoảng 800m. Từ
đường mòn chân núi đi lên những bậc thang cao vút, du khách sẽ gặp cửa động.
Trông từ ngoài nhìn vào, cửa động tựa như miệng con rồng đang hướng xuống
Thung Vương. Tảng đá hình vòng cung phía dưới trông giống hàm dưới, vòm
động phía trên tựa hàm trên. Khoảng trống phía giữa của hai hàm khiến du khách
mường tượng đây là hình ảnh của con rồng đang há miệng.
Vào bên trong là vòm động hình cầu trông tựa chiếc ô. Phía trước là tảng đá
lớn trông giống đụn gạo, phía bên trái là những tảng đá sỏi án ngữ, thành động là
những hòn đá bám chắc vào nhau được hình thành trong thời kỳ biển dâng. Ở hai
bên sườn động là hai hốc nhỏ, thoải dần vào phía trong theo kiểu hàm ếch. Tại
đây đặt các ban thờ.
* Hang Sũng Sàm: Hang Sũng Sàm nằm ở lưng chừng núi Sũng Sàm, phía
trước là Thung Vương. Để lên được động phải leo lên chừng 200m đường dốc
cheo leo mới tới cửa động. Cửa động rộng, thoáng. Người xưa đã dựa vào địa thế
này để sinh sống, hái lượm và săn bắt, gần nguồn nước, cách đây khoảng 20 đến
30 vạn năm. Họ biết ghè đá, dùng lửa và sưởi ấm.
14
Từ cổng động đi vào là những dải đá và mô đá tạo lên những hình thù lạ.
Bên phải có hình tàn lọng. Ở vòm động là một khoảng trống thông vút lên phía
trên. Tại đây có những hình hài thiên tạo giống như người nguyên thuỷ xưa kia ăn
lông ở lỗ cùng những voi chầu, hổ phục rất sống động...
* Đền Trình Phú Yên: Đền Trình Phú Yên còn có tên gọi là đền Hạ, nằm
ngay sát suối Tuyết, đầu hồi của đền dựa vào núi. Từ bến Yến du khách ngược trở
lại ngã tư Đục Khê, sau rẽ phải qua làng Tiên Mai, tới bến đò Phú Yên sẽ tới đền
Trình Phú Yên, toạ lạc trên bến Tuyết. Đền toạ lạc trong không gian thơ mộng,
phía trái là núi, phía phải nhìn xa xa là cánh đồng bao la và những hồ sen thơm
ngát. Đền nhìn theo hướng Nam ghé Đông, kết cấu kiểu chữ “Quốc” gồm các
hạng mục: Tiền tế, tả hữu hành lang và hậu cung.
* Chùa Bảo Đài: Chùa Bảo Đài nằm giữa khu đất cao của hai quả núi nối
tiếp nhau như đang ôm trọn dòng suối Tuyết. Nếu ngắm kỹ, du khách sẽ thấy
nước non ở đây thật kỳ thú: Suối tuy nhỏ nhưng trong xanh, uốn lượn quanh co
như một con rồng xanh đang lượn sâu vào dãy núi chất ngất bao la. Chiếc thuyền
rồng thiên tạo chơi vơi trên đỉnh núi và hình tượng đức Phật thiên tạo mặc cà sa
pháp phục với dáng “từ bi tiếp dẫn” cùng 4 chữ Hán trên vách đá của chúa Trịnh
Sâm “Kỳ Sơn tú thuỷ”. Ngôi chùa này giống như ngôi chùa của làng xã Việt Nam
trong truyện cổ tích phong quang, u tịch.
* Chùa Ngư Trì: Từ chùa Bảo Đài đi khoảng 100m là tới chùa Ngư Trì.
Ngư Trì là ngôi chùa trong động, nhân dân nơi đây gọi là chùa Cá, ban mẫu 2 bên
là mắt cá, trong tam bảo còn có một ban thờ ông cá.
Từ sân bước lên khoảng 10m là tới cửa động, là một hang nhỏ đủ để cho
từng người một đi vào. Từ cửa động đi xuống, sẽ gặp những nhũ đá rủ xuống với
những hình thù như trống, chiêng, khi gõ vào thì sẽ phát ra những âm thanh kỳ lạ,
trong veo, người ta gọi là hồn của đá. Bên phải thành động là một am nhỏ đặt một
pho tượng đá thời Lê đã bào mòn theo thời gian. Đây là hai pho tượng A Di Đà và
hai pho tượng gỗ cùng một ban thờ cậu ở bên phải. Ngay ban thờ cậu này là một
hang sâu ăn ra dòng suối Tuyết.
* Động chùa Tuyết Sơn: Từ chùa Bảo Đài men theo sườn núi bên trái
(hướng chùa) là tới vách đá đề ba chữ ma nhai “Bạch Tuyết môn” rất rõ nét, song
15
đi tiếp khoảng 600m là tới dốc Mãnh Hổ. Đây là điểm dừng chân của du khách
bởi nơi đây xưa kia là nơi thờ Mãnh Hổ. Tại đây còn một phiến đá phẳng, trên
mặt khắc ba bức bia ma nhai. Hai tấm khắc vào thời Nguyễn, niên hiệu Bảo Đại.
Tấm chính giữa có giá trị văn học rất lớn, bởi đây là bức khắc bài thơ Nôm
“Đăng Tuyết Sơn hữu hứng” của chúa Trịnh Sâm như bao quát toàn bộ cảnh
chùa.
Động được chia làm 2 phần thông nhau bằng một hang nhỏ. Động bên phải
là nơi đặt ban tam bảo. Ở đây có những hình thù kỳ tác do thiên nhiên tạo ra, gồm
long chầu hổ phục và hình đức Phật Bà nhìn vào chính điện. Phía dưới hình tượng
Phật Bà là bức bích tượng bằng đá. Năm Giáp Tuất, niên hiệu Chính Hòa 15
(1694), quận phu nhân Hoàng Ngọc Hương đã công đức và đưa tượng Phật vào
thờ trong động và tạc pho tượng Bồ tát Quan Thế Âm từ bi hỷ xả vào vách đá. Từ
đó, động này gọi là chùa Ngọc Long (tức chùa Tuyết Sơn). Mùa xuân khi hoa mơ
nở trắng rừng, những màu tuyết trắng lan tràn khắp triền núi nên từ đây động
được gọi là Tuyết Sơn.
* Am Phật Tích: Am Phật Tích nằm cạnh động chùa Tuyết Sơn, cách
khoảng 50m. Từ những bậc thang dẫn lên có ngã ba, một hướng dẫn lên Tuyết
Sơn, một hướng phải rẽ sang am Phật Tích. Am Phật Tích là một am nhỏ trông
tựa như chiếc tàn, phía trên vòm động đua ra ngoài, hang động ăn sâu vào phía
trong khoảng 10m. Ở đây có những phiến đá hình búp măng. Đặc biệt, có một nhũ
đá hình nghiên bút. Tương truyền, đây chính là nơi tu trì của đức Phật Bà chùa
Hương. Phật thoại kể rằng, sau khi tẩy trần ở giếng nước Thanh Trì (chùa Giải
Oan) đức Phật Bà chùa Hương vào am Phật Tích tu luyện và thành đạo quả ở đây.
Sau đó Ngài độ giúp cứu người, xiển dương Phật pháp, phổ độ chúng sinh. VII.
SƠ ĐỒ PHÂN BỐ DI VẬT THUỘC DI TÍCH
……………………………………………………………………………..
VIII. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HÓA, KHOA HỌC, THẨM MỸ CỦA DI
TÍCH
Chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn là một quần thể di tích với bức
tranh thiên nhiên tuyệt sắc của miền bán sơn địa với thảm động - thực vật phong
phú và quý hiếm. Chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn còn là địa bàn khảo
16
cổ học có giá trị cốt tử và lâu dài về sự tồn tại của cộng đồng, một nơi chốn du
lịch thần tiên, nguồn cảm hứng vô tận của thi ca nhiều đời.
1. Về giá trị lịch sử:
Sự chung anh dục tú của đất nước Việt Nam có rất nhiều danh lam thắng
cảnh nhưng không phải tự nhiên con mắt tinh đời của vị chúa vốn nổi tiếng hay chữ
là Trịnh Sâm, rất sành sỏi các thú du ngoạn không chỉ bình phẩm Hương Sơn là
chốn “Kỳ sơn tú thuỷ”, “Sơn thuỷ hữu tình” mà còn phong cho Hương Tích là
“Nam thiên đệ nhất động”. Hàm “đệ nhất” mà Tĩnh Đỗ Vương Trịnh Sâm dành
cho Hương Tích vừa là sự so sánh, vừa là sự khẳng định chốn cảnh đẹp không đâu
sánh nổi trên đất nước ta. Dù cho đến nay các nhà khảo cổ chưa khai quật nhiều
đến vùng đất Hương Sơn nhưng cảnh quan sinh thái cũng như những di chỉ đã phát
hiện xung quanh vùng này đã khẳng định, đất Hương Sơn xưa đã sớm có dấu tích
đời sống của con người.
Truyền thuyết bên bờ suối Yến còn đề cập đến chàng trai Hùng Lang cùng
thời với Thánh Gióng tham gia đánh giặc Ân, có công giết tướng giặc là Thanh
Linh, khi hóa được phong làm Phúc thần làng Yến Vỹ. Theo sách “Hương Sơn ký”
của Nguyễn Uông thì “khoảng đời Hồng Đức (1470 – 1496) con đường vào
Hương Sơn mới được mở. Nhờ đó mà phong cảnh kỳ thú của núi rừng mới lộ ra,
rồi trở thành một kỳ quan lớn trong vũ trụ”. Chính sức hấp dẫn của cảnh quan thiên
nhiên đã bồi đắp cho danh thắng này giá trị lịch sử.
Trước hết, Hương Sơn là điểm hội tụ của những danh nhân lịch sử, những
bậc đế vương cùng các danh nhân văn hoá. Ngoài những nét bút, nét khắc dọc
ngang vách đá ở non ngàn của Trịnh Sâm, cuồng thảo và phóng túng của Phó bảng
Bùi Dị, người ta biết dấu tích và tên tuổi các bà chúa, phu nhân của Trịnh Căn góp
tiền của để xây dựng chùa. Các tao nhân mặc khách, các văn nhân tài tử khi lãng du
đến Hương Sơn thường để lại những bài thơ trác tuyệt xưa và nay.
Trải các thời từ Lý - Trần - Lê con đường thượng đạo được hình thành làm
vang động cảnh đẹp Hương Sơn bởi những biến động của nghĩa quân Lê Lợi, và
sau này là Quang Trung Nguyễn Huệ tiến công ra Đông Đô, Thăng Long để giải
phóng dân tộc khỏi ách ngoại bang. Dưới con mắt của con nhà võ, Hương Sơn là
căn cứ địa của nghĩa quân Bãi Sậy mà người đương thời gọi là “nghĩa quân Tuyết
17
Sơn”. Người ta còn nhớ mãi tên tuổi của vị “Tăng trung hào kiệt” là Hoà thượng
Thích Thanh Quyết, Hương Sơn động chủ đời thứ 8, từng làm tham mưu cho nghĩa
quân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám.
Cả một vùng thiên nhiên hùng vĩ và tuyệt đẹp của Hương Sơn kể từ khi vua
Lê Thánh Tông phát hiện và trải qua 11 đời Hương Sơn động chủ đã, đang “sáng
bừng trời Hương - Thiên”. Bên cạnh những huyền thoại, truyền thuyết về một thời
kỳ lịch sử xa xưa cũng đủ tạo dựng lên bề dày lịch sử truyền thống với những giá
trị trân trọng. Không chỉ giữ gìn cảnh quan thiên nhiên - món quà của Đất Mẹ trao
cho mà còn phải giữ gìn, trân trọng những di sản của ông cha để lại, không chỉ là
những chiếc trống đồng, những minh văn, những kiến trúc độc đáo…
2. Về giá trị kiến trúc nghệ thuật:
Như chúng ta đã biết, Phật giáo tồn tại ở nước ta gần 2000 năm lịch sử.
Trong gần 2000 năm lịch sử ấy, văn hoá Phật giáo đã bám gốc sâu bền trong tâm
thức người Việt. Những ngôi chùa tháp, những pho tượng thờ trong đó biểu tàng
giá trị văn hoá về kiến trúc, mỹ thuật, về ý nghĩa xã hội. Những nếp nghĩ, nếp sống
theo đạo Phật Việt Nam được biểu hiện qua ý thức tư tưởng, quan niệm nhân sinh,
đời sống chính trị, nếp sống chính trị, nếp sống đạo đức, nếp sống tâm linh, tục lệ
trong lễ, lễ hội… Một mảng lớn ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo trong văn hoá
Việt Nam ở Hương Sơn… và như vậy, văn hoá và giá trị văn hoá ở quần thể di tích
này chính là văn hoá Phật giáo, từ kiến trúc, nghệ thuật, điêu khắc, âm nhạc, văn
chương,... nếu không phải là văn hoá Phật giáo hoặc những người chịu ảnh hưởng
của văn hoá Phật giáo sáng tạo thì cũng mang âm hưởng mầu sắc của Phật giáo.
Điều ấy không chỉ đúng với thời gian từ lập quốc đến thế kỷ XIII.
Huyện Mỹ Đức nói chung và xã Hương Sơn nói riêng là vùng đất cổ nằm ở
phía Nam của Hà Nội. Vị trí địa lý này đã được Phan Huy Chú khẳng định trong
“Lịch triều hiến chương loại chí” rằng: Trấn Sơn Nam đất tụ khí anh hoa, tục gọi
văn nhã thực là bình phong, phên dậu của Trung Đô và là kho tàng của nhà vua.
Phía trên có núi Ba Vì, có “Thập bát tú sơn”, gọi là Vịnh Hạ Long cạn. Xuôi về
phía Nam có dãy núi Hương Sơn, nơi có di chỉ khảo cổ đồ đá giữa (Hang Sũng
Sàm), đặc biệt là động Hương Tích, nơi truyền rằng là chốn tu hành của Đức Chúa
Ba (Phật Bà chùa Hương). Trải qua thời gian, chúng ta vẫn bảo lưu được những di
18
sản văn hoá, kết tinh trí tuệ của dân tộc.
Thứ hai, chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn là một loại hình di tích
hang động vừa mang dấu tích cư trú của người Việt cổ, vừa là nơi sinh hoạt tín
ngưỡng tôn giáo. Động Hương Tích ghi lại dấu tích Bồ Tát Quán Thế Âm, còn gọi
là bà chúa Ba tu trì tại chùa Hương đã đắc đạo và hoá thân vào cõi hư vô tại động.
Ở đây không chỉ bảo lưu những tín ngưỡng dân gian như tục thờ đá, tục cầu tự, cầu
phồn thực mà lưu thờ cả tượng Phật, tượng Đạo giáo, tượng Mẫu tạo nên một kho
tàng dân gian đặc sắc trên nền bức tranh Phật giáo Việt Nam.
Theo quan niệm dân gian, đi chùa Hương mà chưa tới động Hương Tích thì
chưa tròn quả phúc, chưa thành tâm với Phật Thánh. Đến cửa động, du khách bắt
gặp cổng đá, kiến trúc theo hình mái vòm mà dân gian gọi là cổng trời. Qua cổng,
quý khách bước theo đường bậc thang vào động ngắm nhìn chốn bồng lai tiên cảnh
vừa thực vừa hư, vừa thiêng liêng vừa trần tục. Nơi đây quả thực là danh thắng
vĩnh hằng, đạo và đời đã được hoà làm một.
Hầu hết, các hiện tượng tín ngưỡng tôn giáo dân gian ở chùa Hương đều
mang màu sắc huyền thoại của Phật Bà chùa Hương. Hình ảnh Phật Bà chùa
Hương rất gần gũi với cuộc sống đời thường nên đã hoà đồng với các vị thần thiên
nhiên để mang lại cuộc sống ấm no cho con người.
3. Về giá trị văn hóa, khoa học:
Chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn nằm ở hệ thống núi đá Hương
Sơn thuộc hệ núi thấp ở Việt Nam, có tuổi địa chất khoảng 220 – 250 triệu năm.
Do ảnh hưởng của vùng nhiệt đới ẩm, xưa kia ở Hương Sơn rừng núi âm u, cây
gỗ nhỏ và cây bụi phát triển nhiều ở sườn vách núi, đỉnh núi. Ở những thung lũng
là kiểu rừng rậm nhiệt đới có cây, cỏ mọc ở phía trên, phía dưới có thảm thực vật
thuỷ sinh và ngập nước. Hệ động vật và tài nguyên động vật ở Hương Sơn có hổ,
báo, hươu, nai, khỉ,vượn và nhiều loài chim, côn trùng.
Do kiến tạo địa lý vùng núi đá vôi ở Hương Sơn có nhiều hang động. Các
hang động ấy là nơi cư trú lý tưởng của người nguyên thuỷ như hang Sũng Sàm,
hang Luộm (Hương Đài), hang Thanh Sơn, núi đá Sập Bon được giới khảo cổ học
Việt Nam khẳng định thực vào thời đại đồ đá Hoà Bình - Bắc Sơn. Theo cố Giáo
sư Trần Quốc Vượng thì vào tháng 3 năm 1974 khi khảo sát những nhuyễn thể,
19
mảnh cuội, xương răng động vật ở chùa Cây Khế đã chứng tỏ sự có mặt của
người nguyên thủy tại đây. Đặc biệt ở hang Sũng Sàm, một di tích còn tương đối
nguyên vẹn dấu tích của người xưa.
Giá trị khoa học của quần thể di tích Chùa Hương Tích và khu vực Hương
Sơn còn thể hiện ở phần sử liệu - văn tự cổ như tấm bia Chính Hoà 07(1686) nói
về việc Hoà thượng Trần Đạo Viên Quang chống tích tượng dạo gót thảo hài mở
mang cõi phật ở Thiên Trù và sửa sang động Hương Tích… Chùa còn bảo tồn
được những tấm ma nhai, đặc bút của Trịnh Sâm, Bùi Dị… cùng những bích
tượng tạc vào thành động đạt giá trị nghệ thuật rất cao. Đặc biệt, tại chùa Hương
Tích còn lưu giữ bức tượng Phật Bà chúa Ba bằng đá xanh tạc thời Tây Sơn.
Nét đặc sắc về kiến trúc ở chùa Hương là kiến trúc tôn giáo, Phật giáo và
tín ngưỡng bản địa. Các công trình kiến trúc ở đây tuân thủ lối kiến trúc truyền
thống với hệ thống các hàng chân cột kè đá tảng. Mái chùa phần lớn đắp bờ nóc,
có các đầu đao cong vút và lợp ngói ri. Sự nổi bật của kiến trúc là sự lựa chọn
được hình thế, thế núi làm nền tô điểm và đắp vẽ làm tăng thêm vẻ đẹp bởi hệ
thống cổng chùa, tam quan bằng chất liệu gạch nung và vôi vữa. Những hang
động mà người xưa đã “lợi dụng” để làm nơi thờ tự là những hang động đẹp với
những nhũ đá kết tủa hàng vạn năm, màu sắc phong phú. Trong những hang động
ấy, phần điêu khắc của con người là việc tạc tượng nên đã tạo thành ngôi chùa với
thể loại chùa động.
4. Về giá trị thẩm mỹ:
Trong tâm thức của người dân Việt Nam, Hương Sơn được coi là đất Phật.
Chùa Hương thờ đức Phật Bà Quán Thế Âm Bồ tát, khai hội vào ngày 06 tháng
Giêng âm lịch hàng năm, trải dài trên ba tuyến: Hương - Thiên; Long Vân và
Tuyết Sơn. Vào những ngày này, từ chùa Ngoài (Thiên Trù) vào chùa Trong
(Hương Tích) tấp nập kẻ vào người ra. Trẩy hội chùa Hương không chỉ dành cho
những người đi lễ Phật mà còn là dịp để du khách thưởng ngoạn cảnh đẹp mê
hồn, non nước hữu tình của biết bao hình thế sông núi, của các công trình tôn
giáo, tín ngưỡng lớn nhỏ, đặc sắc nơi đây.
Đến chùa Hương, bắt đầu bằng cuộc hành trình từ suối Yến, suối Tuyết,
Long Vân. Dòng suối này uốn mình dưới chân núi, mềm mại như dải lụa trắng nối
20
liền giữa cuộc đời trần tục với chốn bồng lai tiên cảnh. Từ bến Yến, những chiếc
thuyền to nhỏ nhẹ nhàng như chiếc lá, bồng bềnh lướt trên sóng nước. Khách
hành hương thả hồn vào phong cảnh thiên nhiên với những cái tên như núi Con
Voi, Con Gà, Đổi Chèo… Tương truyền, nơi đây có 100 ngọn núi, 99 ngọn quay
đầu vào động Hương Tích lễ phật, chỉ riêng núi Tượng bướng bỉnh quay đầu đi
nơi khác nên bị vị Hộ pháp vương vung gươm chém sạt một bên hông.
Trong động Hương Tích nói riêng và khu vực Hương Sơn nói chung có
muôn vàn tượng Phật lớn nhỏ, có những pho được tạc vào thành động (chùa Tuyết
Sơn), được tạc vào các nhũ thạch rủ xuống muôn màu, muôn sắc. Nhưng có giá trị
thẩm mỹ cao nhất vẫn là bức tượng Phật Bà chùa Hương và Đức Quán Thế Âm
Bồ tát Thiên thủ thiên nhãn.
IX. THỰC TRẠNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
1. Tình trạng quản lý:
Theo Quyết định số 12/2014/QĐ-UBND ngày 26 tháng 02 năm 2014 của
UBND thành phố Hà Nội về việc bổ sung một số điều về phân cấp quản lý nhà
nước một số lĩnh vực kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn
2011 - 2015 ban hành kèm theo Quyết định số 11/2011/QĐ - UBND ngày
02/3/2011 của UBND Thành phố Hà Nội thì hiện nay chùa Hương Tích và khu
vực Hương Sơn thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của Ủy ban nhân dân huyện
Mỹ Đức và Ban Quản lý di tích thắng cảnh Hương Sơn.
2. Tình trạng sử dụng, bảo quản:
2.1. Về đất đai, cảnh quan:
Quần thể di tích chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn là di tích đặc thù,
đất đai rộng lớn, địa hình đa dạng phong phú, chủ yếu là vùng núi đá vôi Hương
Sơn và tả ngạn sông Đáy; di tích nằm trong không gian mở, chủ yếu các thôn Đục
Khê, Hội Xá, Yến Vỹ, Tiên Mai và Phú Yên. Hiện tại, quần thể di tích không có
hiện tượng tranh chấp hay xâm lấn đất đai, phù hợp với việc khoanh vùng bảo vệ
và phát huy giá trị di tích.
Nguồn thu chủ yếu của di tích là nguồn thu từ việc bán vé thắng cảnh và
tiền công đức của khách trẩy hội chùa Hương. Thông qua nguồn kinh phí này,
UBND huyện Mỹ Đức đã tái đầu tư tôn tạo chùa Hương Tích và khu vực Hương
21
Sơn. Ngoài ra, Ban xây dựng phục chế và tôn tạo chùa Hương cũng đóng góp
nguồn kinh phí đáng kể để tu bổ quần thể di tích này.
Mọi hình thức đóng góp cho di tích và quần thể di tích danh thắng đều
được UBND huyện Mỹ Đức, Ban Quản lý di tích thắng cảnh Hương Sơn giám sát
chặt chẽ.
2.2. Về kiến trúc, di vật:
Các đơn nguyên kiến trúc trong di tích của quần thể di tích chùa Hương
Tích và khu vực Hương Sơn được Ban quản lý di tích thắng cảnh Hương Sơn,
Ban xây dựng tôn tạo và phục chế chùa Hương quan tâm bảo vệ, thường xuyên
bao sái theo định kỳ.
Chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn đã được UBND tỉnh Hà Tây (cũ)
ra Quyết định số 426/QĐ-UB ngày 25 tháng 12 năm 1997 về việc thành lập Ban
Quản lý khu di tích thắng cảnh Hương Sơn, quy định nhiệm vụ chức năng cụ thể
về việc khai thác, bảo vệ và phát huy giá trị của quần thể di tích này. Ban Quản lý
khu di tích thắng cảnh Hương Sơn đã lập ba đội quản lý trực tiếp trên ba tuyến
điểm: Tuyến Hương - Thiên, tại bến Thiên Trù phụ trách các di tích: Đền Trình
Ngũ Nhạc, chùa Thiên Trù, động Đại Binh, chùa Tuyết Sơn, chùa Giải Oan, động
Tuyết Kình, am Từ Vân, đền Trấn Song, động Hương Tích và chùa Hinh Bồng;
Tuyến Long Vân, Thanh Sơn gồm: chùa, hang Thanh Sơn, chùa, động Hương
Đài, động Long Vân, chùa Cây Khế, động Người Xưa; Tuyến Tuyết Sơn gồm các
di tích: Chùa Bảo Đài , chùa Ngư Trì, chùa Tuyết Sơn và am Phật Tích. Các tuyến
điểm này đều có các bộ phận phụ trách hàng ngày.
Chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn là quần thể di tích rộng lớn
mang tính đặc thù, có hệ thống núi non “Kỳ sơn tú thuỷ”, các hang động, phức hệ
thảm động thực vật phong phú, hệ thống nước ngầm, cùng các loại hình di tích
“Biệt chiếm nhất Nam thiên” đã và đang phục dựng các hạng mục di tích xứng
tầm với khu thắng cảnh nên việc phục dựng, tu bổ, tôn tạo cần đảm bảo nguyên
tắc bảo tồn theo các văn bản pháp qui hiện hành.
2.3. Phương án sử dụng:
Để bảo tồn và phát huy tốt giá trị di tích, Ban Quản lý di tích thắng cảnh
Hương Sơn cần xây dựng kế hoạch và triển khai một số công việc cụ thể như sau:
22
- Tăng cường nghiên cứu, in tờ rơi, tờ gấp, giới thiệu trên báo chí, tạp chí,
quảng bá nội dung giá trị của di tích.
- Mỗi di tích cần treo bảng giới thiệu về lai lịch, giá trị đặc trưng của di
tích.
- Tổ chức tuyên truyền sâu rộng hơn nữa về giá trị lịch sử, văn hoá, khoa
học và thẩm mỹ của di tích để quảng đại quần chúng và khách hành hương hiểu
tường tận về di tích, trên cơ sở đó có ý thức bảo vệ và phát huy giá trị của di tích.
- Tuyên truyền mọi người cùng tham gia bảo vệ di tích, đặc biệt là giữ gìn,
bảo vệ cảnh quan, môi sinh trong di tích.
X. PHƯƠNG HƯỚNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
Để bảo tồn và phát huy giá trị của di tích, Ban Quản lý di tích danh thắng
Hương Sơn đã phối hợp với cơ quan chức năng và UBND huyện Mỹ Đức, UBND
xã Hương Sơn, Ban xây dựng tôn tạo và phục chế chùa Hương tăng cường công
tác quản lý về việc bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị của quần thể di tích.
Căn cứ bản đồ hiện trạng khoanh vùng bảo vệ di tích (UBND huyện Mỹ
Đức cung cấp) do công ty …. lập ngày….. diện tích….m2, trong đó diện tích khu
vực bảo vệ I là…..m2, khu vực bảo vệ II là …..m2. Diện tích nêu trên đã được địa
phương thống nhất nên cần tiến hành thủ tục cắm mốc giới cho di tích.
Ban Quản lý di tích danh thắng chùa Hương cần có kế hoạch kiểm kê, giám
định khoa học các hiện vật có trong di tích để phục vụ công tác quản lý.
Địa phương nên tăng cường công tác quản lý nhà nước về di tích và danh
lam thắng cảnh theo hướng tăng cường quản lý nhà nước, mở rộng quá trình xã
hội hoá, thu hút sự tham gia rộng rãi của các tổ chức xã hội và nhân dân vào việc
bảo vệ và phát huy giá trị di tích, gắn với việc quản lý nhà nước bằng các văn bản
pháp quy.
Chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn đã được quy hoạch tổng thể theo
Quyết định số 1454/QĐ-UB ngày 30 tháng 12 năm 1998 của UBND tỉnh Hà Tây
(cũ) về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể khu di tích thắng cảnh Hương Sơn. Tuy
nhiên Ban quản lý khu di tích thắng cảnh Hương Sơn trong thời gian tới cần có kế
hoạch:
- Rừng Hương Sơn là loại rừng đặc dụng với các tầng thực vật, có nhiều
23
giống quý hiếm đã được thế giới liệt vào hạng thiên nhiên đẹp, cần có kế hoạch
trước mắt và lâu dài về việc bảo vệ nghiêm túc.
- Một số nơi trong khu vực vẫn xảy ra hiện tượng săn bắn thú rừng, nạn
đánh bắt cá bằng kích điện ở suối Yến và một số dòng suối trong khu vực Hương
Sơn.
- Việc mở động, mở đền làm phá vỡ cảnh quan thiên nhiên, biến dạng di
tích đã được xử lý nghiêm túc vào năm 2000, một số tổ chức cá nhân lợi dụng tôn
giáo phải đình chỉ theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.
- Ban Quản lý di tích danh thắng Hương Sơn và địa phương cần tăng cường
và có biện pháp cụ thể để bảo vệ sự trong lành, tự nhiên trên các dòng suối dẫn
vào các tuyến điểm quần thể di tích, nhất là đoạn cuối dòng suối Tuyết. Các hộ
dân ở khu vực này còn nuôi vịt, ảnh hưởng tới môi trường nước và cảnh quan
thiên nhiên.
- Các cơ quan và các tổ chức trong khu vực thắng cảnh đã triển khai và tích
cực trong việc xử lý chất thải, có chương trình quy hoạch các công trình vệ sinh
đạt tiêu chuẩn.
- Cần có các biện pháp để giảm thiểu và tiến tới loại bỏ các yếu tố ảnh
hưởng tới di tích như sức ép của sự phát triển, sự xâm hại đến di sản, những sức
ép và áp lực về ô nhiễm môi trường, đối phó với những thay đổi khí hậu, phòng
chống các hiểm họa về động đất làm biến dạng hang động có giá trị mỹ thuật hay
hoả hoạn, đồng thời, giảm áp lực của khách hành hương thăm quan trong những
ngày hội.
XI. KIẾN NGHỊ
Xuất phát từ những nội dung giá trị vừa nêu trên, Ban Quản lý di tích Danh
thắng Hà Nội đã phối hợp với UBND huyện Mỹ Đức, Ban Quản lý di tích thắng
cảnh Hương Sơn, Ban xây dựng tôn tạo và phục chế chùa Hương và các phòng
ban của huyện, UBND xã Hương Sơn, UBND xã Hùng Tiến, UBND xã An Tiến,
UBND xã An phú lập xong hồ sơ pháp lý và hồ sơ khoa học, kính đề nghị Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch có văn bản trình Thủ tướng chính phủ xem xét và ra
Quyết định xếp hạng Chùa Hương Tích và khu vực Hương Sơn là Di tích Quốc
Gia Đặc Biệt.
24
XII. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguồn tư liệu:
- Đảng ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ huyện Mỹ Đức;
- Đảng ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ xã Hương Sơn, xã Hùng Tiến, xã An
Tiến, xã An Phú;
- Ban Quản lý rừng đặc dụng Hương Sơn Hà Nội;
- Ban Quản lý di tích thắng cảnh Hương Sơn;
- Ban xây dựng tôn tạo và phục chế chùa Hương;
- Tùng lâm Hương Tích;
- Thượng tọa Thích Minh Hiền - Trưởng Ban Văn hoá Thành hội Phật giáo
Hà Nội, Hương Sơn động chủ đời thứ 12;
- TS. Nguyễn Doãn Tuân - nguyên Trưởng Ban quản lý di tích danh thắng
Hà Nội;
- Ông Đặng Bằng - nguyên Phó Trưởng Ban Quản lý di tích danh thắng Hà
Nội.
2. Tài liệu tham khảo:
- Đại Việt sử ký toàn thư (Tập I). Nxb Văn hoá Thông Tin, H.2003;
- Đại Nam nhất thống chí. Nxb Khoa học xã hội, H1971;
- Hà Văn Tấn: Chùa Việt. Nxb Khoa học học xã hội, H.1993;
- Lê Mạnh Thát (dịch và chú giải): Thiền uyển tập anh. Nxb Vạn Hạnh -Sài
Gòn, H.1976;
- Thích Mật Thể: Việt Nam Phật giáo sử lược. Nxb Minh Đức tái bản,
H.1970;
- Thích Viên Thành: Lược sử các tông phái Phật giáo. Nxb Văn hóa thông
tin, H.2001;
- Nguyễn Thế Long - Phạm Mai Hùng: Chùa Hà Nội. Nxb Văn hóa thông
tin, H.1997;
- Đại học Quốc gia Hà Nội - Trường Đại học khoa học tự nhiên: Kỳ quan
hang động Việt Nam. Nxb Giáo dục, H2001;
- Hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam - Trung tâm UNESCO về Hương Sơn:
Hương Sơn Nam thiên đệ nhất động, H.1994;
25