Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Quản lý nhà nước đối với khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Tân Trào Luận văn ThS. Khoa học Quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 112 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




VŨ THỊ HỒNG LUYẾN



QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI KHU DI TÍCH LỊCH SỬ
QUỐC GIA ĐẶC BIỆT TÂN TRÀO





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC QUẢN LÝ







HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



VŨ THỊ HỒNG LUYẾN

QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI KHU DI TÍCH LỊCH SỬ
QUỐC GIA ĐẶC BIỆT TÂN TRÀO

Chuyên ngành: Khoa học Quản lý
Mã số: Thí điểm



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC QUẢN LÝ



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Lan Thanh





Hà Nội, 3/2015
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kếtquả
trong luận văn là trung thực, chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình của các tác giả nào khác

Tác giả





1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ 4
DANH MỤC BẢNG BIỂU 4
PHẦN MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 7
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 9
3.1. Mục tiêu nghiên cứu 9
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 9
4.1. Đối tượng nghiên cứu 9
4.2. Phạm vi nghiên cứu 9
5. Vấn đề nghiên cứu 10
6. Giả thuyết nghiên cứu 10
7 . Phƣơng pháp nghiên cứu 11
8. Kết cấu luận văn 11
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
DI TÍCH LỊCH SỬ 11
1.1. Một số khái niệm cơ bản 12
1.2. Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nƣớc về di tích lịch sử 19
1.3. Chủ thể, nguyên tắc, phƣơng pháp quản lý nhà nƣớc về di tích lich
sử 24

1.3.1. Chủ thể quản lý nhà nước về di tích lịch sử 24
1.3.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước về di tích lịch sử 26
1.3.3. Phương pháp quản lý nhà nước về di tích lịch sử 27
1.4. Nội dung quản lý nhà nƣớc về di tích lịch sử 27
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TA
́
C QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐÔ
́
I

́
I KHU DI TÍCH LỊCH SỬ QUỐC GIA ĐẶC BIỆT TÂN TRÀO 30

2
1.2. Tổng quan về khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Tân Trào 30
1.2.1. Các điểm di tích nổi bật trong khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt
Tân Trào 30
1.2.2. Những giá trị nổi bật của khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Tân
Trào 31
2.2. Thực trạng công tác quản lý Nhà nƣớc đối với khu di tích lịch sử
quốc gia đặc biệt Tân Trào 36
2.1.1. Mô hình cơ cấu quản lý nhà nước 36
2.1.2. Chính sách trùng tu, tu bổ, tôn tạo và phục hồi các điểm di tích .39
2.1.3. Tổ chức kiểm kê, lập hồ sơ quản lý và hồ sơ xếp hạng di tích 43
2.1.4. Tổ chức lễ hội, các hoạt động du lịch, tuyên truyền quảng bá gắn
với khu di tích 46
2.1.5. Chính sách đầu tư cho Khu di tích 49
2.1.6. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực 52
2.2. Đánh giá công tác quản lý khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Tân
Trào 53

2.2.1. Điểm mạnh 53
2.2.2. Điểm yếu 57
2.2.3. Nguyên nhân 61
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI
VỚI KHU DI TÍCH LỊCH SỬ QUỐC GIA ĐẶC BIỆT TÂN TRÀO 62
3.1. Kiện toàn nguồn nhân lực quản lý 62
3.2. Tạo lập một lộ trình và sự đồng bộ trong việc tu bổ, tôn tạo và phục
hồi các điểm di tích 63
3.3. Tăng cường công tác kiểm kê di tích, lập hồ sơ di tích mới phát hiện
và bổ sung hồ sơ di tích hiện có 66
3.4. Tăng cường các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị của khu di tích
gắn với phát triển du lịch 67

3
3.5. Sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nhà nước và xây dựng, ban hành các
chính sách huy động được nguồn vốn bên ngoài 70
3.6. Nâng cao trình độ của cán bộ quản lý và chuyên môn nghiệp vụ của
đội ngũ hướng dẫn viên 74
3.7. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra 76
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
Phụ lục 1 84
Phụ lục 2 87



4
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

Hình 2.1: Mô hình cơ cấu quản lý nhà nước đối với Khu di tích lịch sử quốc

gia đặc biệt Tân Trào: 37




DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Báo cáo số lượng di tích được tu bổ, sửa chữa 42
Bảng 2.2: Bảng thống kê lượt khách tham quan, thu lệ phí, công đức 48
Bảng 2.3: Bảng thống kê số vốn đầu tư cho khu di tích lịch sử Tân Trào: 50












5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và quan tâm đến việc
giữ gìn, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc. Quán triệt tư tưởng
chỉ đạo này, ngay từ khi mới thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh bảo vệ
cổ tích. Ngày nay, Chính Phủ đã quyết định lấy ngày 23/11 hàng năm là

ngày Di sản văn hóa Việt Nam. Như vậy, di tích, cổ tích, hay gọi đầy đủ là
di sản văn hóa cho dù ở hoàn cảnh lịch sử nào, giai đoạn cách mạng nào
Đảng ta luôn luôn đặc biệt quan tâm bảo vệ vì nó là hồn của dân tộc, là nền
tảng tinh thần, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững, nhất là giai
đoạn đất nước ta đang trong quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập hiện
nay.
Tuyên Quang là một tỉnh vùng cao miền núi phía Bắc của đất nước ta,
là một tỉnh được biết đến với giàu truyền thống cách mạng, là nơi khởi phát,
nơi hội tụ, giao thoa của những sắc thái văn hóa riêng của các dân tộc thiểu
số ở miền núi phía Bắc với những lễ hội truyền thống đặc sắc, những truyền
thuyết, những làn điệu dân ca ngọt ngào, những cảnh đẹp nên thơ do thiên
nhiên ban tặng. Trong số đó phải kể đến các điểm di tích lịch sử - văn hóa
năm rải rác trên toàn tỉnh, với tổng số trên 400 điểm di tích thì Tuyên
Quang giống như một bảo tàng cách mạng, là một điểm đến hấp dẫn trong
hành trình tìm về cội nguồn của du khách.
Như vừa đề cập ở trên Tuyên Quang có khoảng trên 400 điểm di tích
lịch sử - văn hóa, di tích cách mạng. Trong đó phải kể đến là di tích lịch sử
Tân Trào, trong kháng chiến chống Pháp Tân Trào chính là thủ đô lâm thời
của khu giải phóng, nơi Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành hội nghị
toàn quốc ngày 13/08/1945 để quyết định tổng khởi nghĩa, bầu ra một chính
phủ lâm thời do Hồ Chí Minh là chủ tịch và quân giải phóng tiến hành làm

6
lễ ra quân, mở đầu cho giai đoạn toàn quốc kháng chiến đấu tranh giải
phóng nhân dân ta khỏi ách áp bức bóc lột của Thực dân Pháp. Nơi đây
được biết đến với các di tích đã đi vào lịch sử như: Cây đa Tân Trào, mái
đình Hồng Thái, Lán Nà Lừa, Hang Bòng khu di tích chính là bằng
chứng lịch sử xác thực về một thời kỳ đấu tranh giành độc lập của nhân dân
ta. Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của khu di tích tháng 8/2012 khu di
tích đã được chính thức công nhận là khu di tích quốc gia đặc biệt và có tên

gọi mới là khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Tân Trào (sau đây gọi chung
là khu di tích).Điều này càng thêm khẳng định sự công nhận của Nhà nước
ta về ý nghĩa và tầm quan trọng của khu di tích đối với lịch sử phát triển của
đất nước ta.
Nhận thức được vấn đề này, ngay từ đầu công tác bảo tồn và phát huy
giá trị lịch sử của khu di tích đã được Đảng, Nhà nước ta nói chung và tỉnh
Tuyên Quang nói riêng hết sức chú trọng. Hàng loạt những dự án án, công
trình đã được thực hiện, nhờ đó các di tích gốc được bảo tồn, gìn giữ tốt
hơn; một số di tích quan trọng được phục hưng,…góp phần quan trọng vào
việc lữu giữ những giá trị lịch sử vốn có của khu di tích.
Giá trị của di sản văn hóa nói chung, di tích lịch sử nói riêng là vô cùng
to lớn, song điều quan trọng hơn cả là việc bảo tồn và phát huy những giá
trị của nó như thế nào để phát triển mang tính bền vững trong giai đoạn hiện
nay mới chính là vần đề cần được đặc biệt quan tâm đúng mức của các
ngành, các cấp, nhất là những người làm công tác quản lý văn hóa hiện nay.
Điều dễ nhận ra là di tích lịch sử ngày nay đang ngày càng bị xuống cấp
nghiêm trọng do sự quản lý chưa thật sự sát sao của các cấp chính quyền.
Chính vì thế vấn đề đặt ra là làm thế nào để di sản văn hóa nói chung, di
tích lịch sử nói riêng trở thành bộ phận hợp thành nên nền tảng tinh thần
của xã hội, góp phần vào tăng trưởng kinh tế mang tính bền vững thông qua
các hoạt động quản lý, tu bổ, tôn tạo, khai thác, tuyên truyền…. về khu di
tích. Qua tìm hiểu thực tế tác giả đã nhận thức được những vấn đề bức thiết

7
nêu trên nên tác giả quyết định chọn đề tài “ Quản lý nhà nƣớc đô
́
i vơ
́
i di
tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Tân Trào” làm hướng nghiên cứu cho luận

văn của mình, với hy vọng góp phần vào việc nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác quản lý di tích nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của nó một
cách bền vững cho sự nghiệp gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa của
tỉnh Tuyên Quang nói riêng và cả nước nói chung.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đề tài về di tích lịch sử hiện nay không phải là đề tài nghiên cứu mới
đối với chúng ta, bởi từ lâu chúng ta đã khẳng định được những vai trò to
lớn của nó.Các nghiên cứu và bài viết đã đề cập nhiều đến giá trị lịch sử,
vai trò to lớn của các di tích đối với lịch sử, văn hóa của đất nước.
Các tác giả Nguyễn Đăng Duy và Trịnh Minh đức đã có nghiên cứu về
di tích lịch sử trong cuốn sách:“Bảo tồn di tích lịch sử văn hóa”, 1993 –
Trường Đại học văn hóa. Trong cuốn sách này các tác giả đã trình bày một
cách có hệ thống những vấn đề lý luận về di tích lịch sử và nghiệp vụ bảo
tồn di tích, không đi sâu vào các loại hình di tích.Đồng thời, giới thiệu một
cách khái lược về các loại hình di tích lịch sử - văn hóa ở Việt Nam. Tuy
nhiên, trong nghiên cứu của mình các tác giả chỉ đi sâu giải quyết một vấn
đề cơ bản của một ngành khoa học – Ngành bảo tồn bảo tàng.
Trong giáo trình “Cơ sở bảo tàng học” do bộ môn Bảo tàng học, Khoa
bảo tồn bảo tàng, trường Đại học văn hóa Hà Nội biên soạn năm 1990 cũng
đã đề cập về di tích lịch sử. Đó là các vấn đề liên quan đến việc bảo tồn di
tích trên thế giới, nhất là về nghiệp vụ bảo tồn ở nước ta. Giáo trình đã giới
thiệu tương đối đầy đủ về các văn bản pháp lý như các Thông tư, chỉ thị,
Nghị định, pháp lệnh về bảo tồn, bảo tàng do Đảng và Nhà nước ta ban
hành. Đồng thời cũng đề cập về số lượng các di tích đã được kiểm kê, tu
sửa; việc xếp hạng, đào tạo cán bộ bảo tồn bảo tàng; về hệ thống tổ chức
của các cơ quan bảo tồn, bảo tàng qua các thời kỳ lịch sử. Cũng như trên
giáo trình cũng chỉ tập trung nghiên cứu về một ngành khoa học của thể.

8
Tác giả Dương Văn Sáu – Trường Đại học Văn hóa Hà Nội trong cuốn

sách “Di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng Việt Nam”, năm 2008 đã
cung cấp những kiến thức cơ bản, cơ sở về về hệ thống di tích lịch sử - văn
hóa Việt Nam. Đồng thời đã cung cấp cho các nhà quản lý có thêm sự nhìn
nhận, đánh giá để hoạch định chính sách phát triển du lịch cho tương xứng
với tiềm năng to lớn của du lịch Việt Nam.
Đối với khu di tích lịch sử Tân Trào từ lâu cũng đã có rất nhiều
bài viết trên báo, trên internet không chỉ đề cập đến vẻ đẹp, giá trị của các
khu di tích mà còn nêu lên tính cấp thiết của việc giữ gìn và phát huy nó.
Và nhiêu nghiên cứu trong các cuốc sách của các tác giả như: Phạm Thuyết
(2007) “Di tích lịch sử cách mạng huyện Sơn Dương”, Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội; Phù Ninh (2004), Di tích lịch sử Tuyên Quang, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội; Nguyễn Khoa Điềm (2002), Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội; Văn Tạo (2005), Cách mạng tháng tám - một số vấn đề lịch sử,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội… Các nghiên cứu của các tác giả trên có đề
cập đến di tích lịch sử Tân Trào nhưng có điểm chung là nó đều chỉ hầu như
giới thiệu một cách khái quát, sự tìm hiểu về di tích cách mạng gắn với thời
kỳ lịch sử của dân tộc mà không đề cập đến vấn đề quản lý và bảo tồn khu
di tích một cách rõ nét.
Thêm vào đó tác giả cũng có những tìm hiểu và tham luận về những bài
báo cáo của sinh viên trường Đại học văn hóa trong đó các báo cáo có giới
thiệu một cách khái quát về khu di tích lịch sử Tân Trào và đặc biệt là đã đề
cập đến giá trị du lịch, văn của khu di tích trong tổng thể tiềm năng du lịch
của tỉnh Tuyên Quang nói chung.
Như vậy, qua sự khái quát trên chúng ta có thể thấy rằng vấn đề về di
tích lịch sử nói chung và về khu di tích lịch sử Tân Trào nói riêng đã được
đề cập đến khá nhiều. Các nghiên cứu trên đóng góp một phần quan trọng
trong việc bổ sung các kiến thức cho đề tài của luận văn. Nhưng điều nhận

9

thấy là chưa có một báo cáo nào đưa ra một khái quát chung nhất về vấn đề
quản lý khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào. Trong bài báo cáo này của
tác giả cũng mong muốn đưa ra một vài tổng hợp khái quát của mình về
thực trạng công tác quản lý khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào, đưa ra
những điểm còn hạn chế và từ đó là một vài đóng góp của đề tài để ngày
một nâng cao hiệu quả quản lý khu di tích để khu di tích ngày càng phát
huy được giá trị lịch sử to lớn củamình.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Chỉ ra thực trạng công tác quản lý nha
̀
nươ
́
c đối vơ
́
i khu di tích lịch sử
Quốc gia đă
̣
c biê
̣
t Tân Trào;
- Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của khu di tích.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề chung về công tác quản lý nha
̀
nươ
́
c đối vơ
́
i

di tích li
̣
ch sư
̉
.
- Tổng hợp và phân tích thực trạng quản lý nha
̀
nươ
́
c đối vơ
́
i khu di tích
lịch sử quốc gia đặc biệt Tân Trào
- Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý khu di tích
quốc gia đặc biệt Tân Trào.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là việc thực hiện quản lý nhà
nước về di tích lịch sử đối với khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Tân
Trào.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Khu di tích lịch sử Tân Trào nằm ở phía Đông
Nam của tỉnh Tuyên Quang bao gồm 11 xã: Tân Trào, Minh Thanh, Trung
Yên, Bình Yên, Lương Thiện (huyện Sơn Dương); Kim Quan, Trung Sơn,

10
Hùng Lợi, Trung Minh, Đạo Viện, Công Đa (huyện Yên Sơn); Tổng diện
tích tự nhiên 530,9 km². Với 183 điểm di tích, trong giới hạn của luận văn
tác giả không thể nêu hết toàn bộ 183 điểm di tích trên. Vì vậy, trong luận
văn tác giả giới hạn phạm vi không gian nghiên cứu là các điểm di tích tiêu

biểu ở huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang nới mà tác giả đang sinh sống,
gồm các điểm di tích sau: Cây đa Tân Trào, Đình Hồng Thái, Đình Tân
Trào, Lán Nà Lừa, Hang Bòng.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2010 – 2012. Sở dĩ tác giả chọn mốc thời
gian này là do trong khoảng thời gian này tồn tại nhiều vấn đề yếu kém
trong vấn đề quản lý. Điều đó sẽ dẫn đến những hệ lụy không tốt cho việc
bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản của khu di tích
5. Vấn đề nghiên cứu
- Thực trạng quản lý Nhà nước đối với khu di tích lịch sử Quốc gia đặc
biệt Tân Trào hiện nay như thế nào?
- Giải pháp nào để tăng cường quản lý nhà nước đối với khu di tích lịch
sử Quốc gia đặc biệt Tân Trào?
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Công tác quản lý nhà nước đối với khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt
Tân Trào hiện nay đã được thực hiện tương đối tốt góp phần rất lớn vào
việc quản lý và nâng cao giá trị của khu di tích. Tuy nhiên vẫn còn một vài
hạn chế trong quá trình quản lý cần khắc phục để đạt hiệu quả cao hơn.
- Để tăng cường quản lý nhà nước đối với khu di tích lịch sử Tân Trào
phải nâng cao hơn nữa chất lượng quản lý khu di tích thông qua việc thực
hiện đồng bộ các giải pháp từ giải pháp đối với việc tu bổ, tôn tạo, phục hồi,
đào tạo quản lý nguồn nhân lực đến các giải pháp thực hiện thu hút đầu tư,
giải pháp tăng cường các hoạt động du lịch, lễ hội truyền thống gắn với khu
di tích. Từ đó góp phần nâng cao hơn nữa công tác quản lý nhà nước đối
với khu di tích lịch sử Tân Trào.

11
7 . Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tác giả sử dụng các phương pháp:
* Phương pháp luận: đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng
phương pháp luận của phép biện chứng duy vật và lịch sử , trên quan điểm

của Đảng, Nhà nước về công tác quản lý, bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể: đề tài được triển khai với các phương
pháp nghiên cứu khoa học cụ thể sau:
- Phương pháp nghiên cứu và phân tích tài liệu
- Phương pháp thu thập thông tin và xử lý thông tin.
- Phương pháp khảo sát các điểm di tích
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm có 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử
Chƣơng 2: Thực trạng công ta
́
c quản lý nhà nước đối vơ
́
i khu di tích lịch
sử quốc gia đặc biệt Tân Trào
Chƣơng 3: Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với khu di tích lịch
sử quốc gia đặc biệt Tân Trào

12
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
DI TÍCH LỊCH SỬ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
* Khái niệm quản lý
Quản lý là hoạt động khách quan của mọi quá trình lao động xã hội.
Nói đến quản lý là nói đến một dạng hoạt động có mục đích của chủ thể
quản lý tác động lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu nhất
định thông qua việc sử dụng các công cụ, phương tiện quản lý phù
hợp.Quản lý bao giờ cũng có tính mục đích, tính tổ chức và hướng tới tính
hiệu quả.Như vậy, nó là một quá trình bao gồm chuỗi các hoạt động khác

nhau để đạt được mục tiêu mà chủ thể quản lý mong muốn. Để tồn tại và
phát triển, quản lý cần thiết đối với mọi phạm vi hoạt động của xã hội.
Quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt quan trọng của con người. Nó
chứa đựng nội dung rộng lớn, đa dạng phức tạp và luôn vận động, biến đổi,
phát triển. Vì vậy, có nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau.
Tuy nhiên dựa vào các hoạt động thực tế nói chung, quản lý có thể
được hiểu theo nghĩa chung nhất như sau: Quản lý là tác động có ý thức,
bằng quyền lực, theo quy trình, của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý để
phối hợp các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức trong điều
kiện môi trường biến đổi [32, tr. 17].
Như vậy, từ định nghĩa trên về quản lý ta có thể thấy, trong hoạt động
quản lý ít nhất phải có một chủ thể quản lý (cá nhân hay tổ chức), ít nhất
một đối tượng quản lý (con người – một cá nhân hay nhiều người, hoặc một
bộ phận của giới vô sinh hay sinh vật) gián tiếp hoặc trực tiếp nhận sự tác
động của chủ thể quản lý. Hoạt động quản lý bao giờ cũng nhắm tới một
mục tiêu nhất định.Các yếu tố khác tạo nên môi trường của hệ thống chính
là khách thể của hoạt động quản lý.

13
Nội dung cơ bản của quản lý hiện nay cũng có nhiều học giả và các nhà
nghiên cứu đưa ra, nhưng tựu chung lại vẫn gồm các nội dung sau: Nguyên
tắc và phương pháp quản lý, lập kế hoạch và ra quyết định quản lý, tổ chức,
lãnh đạo, kiểm tra.
Cấp độ quản lý (dưới góc độ văn hóa) cũng có hai cấp độ cơ bản:
+ Quản lý cấp vĩ mô: quản lý văn hóa ở cấp vĩ mô
+ Quản lý cấp vi mô (chuyên ngành): quản lý các ngành như thư viện,
bảo tàng, nghệ thuật, di tích,…
* Khái niệm di tích và di tích lịch sử
Di tích và di tích lịch sử là một bộ phận quan trọng của di sản văn
hóa.

- Khái niệm di tích
Trong quá trình phát triển, do tác động ảnh hưởng, hệ quả của các
yếu tố lịch sử và văn hóa để lại mà trong ngôn ngữ của người Việt có sử
dụng nhiều từ Hán – Việt, trong đó di tích cũng chính là một từ Hán Việt.
Theo Hán việt tự điển của Thiều Chửu di tích được hiểu như sau:
- Di: sót lại, rớt lại, để lại;
- Tích: tàn tích, dấu vết;
- Di tích: tàn tích, dấu vết còn để lại của quá khứ [31, tr. 123]
Còn theo giáo trình “Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa” của trường Đại
học văn hóa đã đưa ra một khái niệm khoa học về di tích như sau: “Là
những không gian vật chất cụ thể, khách quan trong đó chứa đựng các giá
trị điển hình lịch sử; do tập thể hoặc cá nhân con người hoạt động sáng tạo
ra trong lịch sử để lại”[35, tr. 17]
- Khái niệm di tích lịch sử
Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt
Nam thì di tích lịch sử - văn hóa là: “Tổng thể những công trình, địa điểm,
đồ vật hoặc tác phẩm, tài liệu có giá trị lịch sử hay giá trị văn hóa được lưu
lại”[22, tr. 533]

14
Tại chương IV, Điều 28.1 Luật di sản văn hóa quy định về di tích
lịch sử văn hoá phải là:
“a- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu
trong quá trình dựng nước và giữ nước;
b- Công trình xây dựng, địa điềm gắn với thân thế và sự nghiêp của
anh hùng dân tộc, danh nhân của đất nước;
c- Công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu
của các thời kỳ cách mạng kháng chiến;
d- Địa điểm có giá trị tiêu biểu về khảo cổ;
đ- Quần thể các công trình kiến trúc hoặc công trình đơn lẻ có giá trị

tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử” [19,
tr. 16]
Nhiều nước trên thế giới đặt chung cho di tích lịch sử văn hoá là dấu
tích, dấu vết còn lại. Tiếng Pháp viết là Vestige, tiếng Anh cũng viết là
Vestige. Trung Quốc gọi là “Cổ tích”.Mỗi nước trên thế giới đều có những
khái niệm, quy định khác nhau về di tích lịch sử văn hoá. Theo điều 1 của
Hiến chương Venice – Italya 1964 quy định:di tích lịch sử bao trùm không
chỉ là một công trình kiến trúc đơn lẻ mà cả khung cảnh đô thị hoặc nông
thôn có chứng tích của một nền văn minh riêng, một sự tiến hóa có ý nghĩa
hoặc một sự kiện lịch sử”.
Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra
nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/07/1998 về xây dựng và phát triền nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó nhấn mạnh: di
sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản
sắc văn hóa dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn
hóa. Hết sức coi trọng, bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống (bác học, dân gian), văn hóa cách mạng bao gồm cả văn hóa
vật thể và văn hóa phi vật thể.di tích lịch sử văn hoá là một bộ phận quan
trọng của di sản văn hóa.

15
Theo “Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa và danh
lam thắng cảnh” công bố ngày 04/04/1984 quy định “Di tích lịch sử - văn
hoá là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và tác phẩm có
giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật cũng như có giá trị văn hoá khác hoặc
có liên quan đến những sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hoá, xã
hội”[18]
Ngày 22/07/2001 Chủ tịch nước đã ký sắc lệnh số 09 - L/CTN công
bố Luật Di sản văn hóa, được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ IX quốc
hội khóa X ngày 29/06/2001 thì “Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây

dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa
điểm có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”.
Ngày 24 tháng 7 năm 2001, Bộ Trưởng Bộ Văn hóa Thông tin đã ký
quyết định phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị di tích
lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh đến năm 2020. Quyết định đã đưa
ra nhiều định hướng cho việc bảo tồn, tôn tạo di tích một cách tổng thể và
có lộ trình, kế hoạch rõ ràng. Càng khẳng định Nhà nước ta đã ý thức được
nhiều hơn nữa vai trò của di tích lịch sử
Như vậy, qua sự phân tích trên ta có thể thấy nhiều khái niệm khác
nhau về di tích lịch sử văn hoá, từ đó ta có thể rút ra một cách hiểu chung
nhất về di tích lịch sử đó là “những khu vực, địa điểm, các công trình với
quy mô và tính chất khác nhau. ở đó lưu giữ và ghi lại những dấu ấn về các
sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu có tác động, ảnh hưởng sâu sắc, trực tiếp
hoặc gián tiếp đến tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của địa
phương, đất nước và dân tộc”[15, tr. 119]
* Khái niệm quản lý di tích lịch sử văn hoá
Như trên đã trình bày quản lý là quá trình tác động của chủ thể quản lý
lên đối tượng quản lý trong môi trường luôn biến đổi để đạt được mục đích
quản lý nhất định. Còn đối với quản lý di tích lịch sử nói riêng thì mục đích

16
chính là thông qua hoạt động quản lý để bảo tồn và phát huy giá trị của di
tích lịch sử. Bởi di tích lịch sử luôn mang trong mình nhưng giá trị vô hình
không thể cân đong đo đếm được. Chính vì vậy vấn đề quản lý di sản văn
hóa cũng như di tích lịch sử, văn hoá luôn là một vấn đề đặt ra bức thiết
hiện nay vì theo thời gian nó không còn được nguyên vẹn như ban đầu, nếu
chúng ta không có những chính sách để bảo vệ, giữ gìn và tôn tạo nó thì
sớm muộn gì nó sẽ bị “biến hóa” một cách nghiêm trọng.
Ngày nay, dù phát triển ở trình độ nào, mỗi nước đều phải tiến hành
hoạt động quản lý, bảo tồn gìn giữ và truyền lại cho thế hệ sau biết về mỗi

di sản văn hóa của mỗi địa phương. Trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện
nay của đất nước, đời sống được cải thiện, nhu cầu tìm hiểu, tham quan,
nghiên cứu, giáo dục, học hỏi những giá trị văn hóa truyền thống ngày càng
cao và được quan tâm nhiều hơn. Vì vậy, việc quản lý, bảo tồn và phát huy
giá trị của di sản văn hóa nói chung và di tích lịch sử nói riêng là một việc
làm cấp thiết.
Với ý nghĩa đó, chúng ta có thể hiểu về quản lý di tích lịch sử như sau:
Quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử là sự tác động có tổ chức chỉ đạo
và điều hành thực hiện kết hợp với thanh tra, kiểm tra bằng quyền lực nhà
nước do các cơ quan trong bộ máy nhà nước về di tích tiến hành, trên cơ sở
các văn bản quy phạm pháp luật về di tích để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn của nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành
vi của công dân đối với lĩnh vực di tích.
* Khái niệm nhà nước
Khái niệm nhà nước có rất nhiều nghiên cứu và cách hiểu khác nhau,
sau đây là một vài khái niệm:
Theo Từ điển luật học của tập thể tác giả do tác giả Nguyễn Đình Lộc
(Chủ tịch Hội đồng biên soạn), xuất bản năm 2006, nhà nước được định
nghĩa là: “tổ chức quyền lực chính trị của xã hội có giai cấp, có lãnh thổ,

17
dân cư, và chính quyền độc lập, có khả năng đặt ra và thực thi pháp luật
nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định trong phạm vi lãnh thổ của mình”
Theo giáo trình Lý luận chung nhà nước và pháp luật do tác giả Lê
Minh Tâm (chủ biên): “Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực
chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các
chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích
bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội"
Theo giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của tác giả Nguyễn Minh
Đoan: “Nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, một bộ

máy đặc biệt để cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý xã hội, phục
vụ lợi ích và thực hiện mục đích của giai cấp thống trị và của toàn xã hội
Có thể nói các khái niệm về nhà nước ở trên được xác định qua việc nêu
một số dấu hiệu, đặc trưng cơ bản của nhà nước, chức năng nhà nước, xu
thế phát triển của nhà nước, trong đó nhấn mạnh đến hai phương diện cơ
bản thuộc bản chất của nhà nước đó là tính giai cấp và tính xã hội.
* Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là một dạng của quản lý xã hội, là sự tác động có
tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật của nhà nước đối với các
quá trình xã hội, các hành vi hoạt động của con người để duy trì, phát triển
các mối quan hệ xã hội cũng như trật tự pháp luật nhằm thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Hiểu theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ
máy nhà nước từ hoạt động lập pháp, hành pháp đến tư pháp. Hoạt động
quản lý nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ
chức chính trị kinh tế xã hội và đoàn thể quần chúng, các đơn vị địa
phương, công dân chấp hành pháp luật theo quy định của Nhà nước.
Hiểu theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước là hoạt động của quyền hành
pháp, tức là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan quản lý nhà
nước. Hoạt động quản lý của Nhà nước chủ yếu được thực hiện bởi các cơ

18
quan hành chính nhà nước bao gồm: Chính phủ, Bộ, các cơ quan ngang bộ,
Ủy ban nhân dân.
Bản chất của quản lý nhà nước là quyền lực nhà nước.Quyền lực nhà
nước được ghi nhận và củng cố bằng pháp luật và được thực hiện bởi bộ
máy nhà nước với cơ sở vật chất – tài chính to lớn, bằng phương pháp
thuyết phục và cưỡng chế.
Hoạt động quản lý nhà nước bao gồm quyền ban hành tất cả các văn
bản pháp luật, quản lý hành chính, tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành,

kiểm soát nhắm phối hợp để đưa pháp luật vào cuộc sống nhằm đạt được
mục tiêu quản lý của nhà nước.
Với cách hiểu chung về quản lý nhà nước trên sẽ là cơ sở cho việc đi
vào việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở một lĩnh vực cụ thể - di
tích lịch sử.
* Khái niệm quản lý nhà nước về di tích lịch sử
Di tích lịch sử là một bộ phận của di sản văn hóa Việt Nam, là bằng
chứng sinh động, quý báu về quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc
ta. Một đất nước mà không có di tích thì mất hết ý nghĩa, chính vì vậy các
di tích lịch sử cần được quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị để phục vụ cho
lợi ích xã hội, đáp ứng nhu cầu của người dân muốn tìm hiểu về lịch sử dân
tộc, khẳng định thêm niềm tự hào dân tộc, góp phần ổn định chính trị, giữ
gìn bản sắc dân tộc và phát triển kinh tế xã hội vì mục tiêu tiến tới xây dựng
đất nước dân chủ, văn minh.
Trong hoạt động quản lý di sản văn hóa nói chung và di tích lịch sử
nói riêng thì việc ban hành các văn bản pháp luật sẽ tạo cơ sở pháp lý cho
việc quản lý là việc làm tối cần thiết. Vì vậy, trong quá trình lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước do nhận thức rõ tầm quan trọng của
văn hóa trong đó có di sản văn hóa đối với sự phát triển bền vững của đất
nước, Đảng và Chính phủ đã có nhiều quyết sách, ban hành các văn bản
pháp luật về quản lý di sản văn hóa nói chung, di tích lịch sử nói riêng phù

19
hợp với điều kiện lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của đất
nước.
Từ những lý giải trên có thể rút ra rằng: Quản lý nhà nước về di tích
lịch sử là hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có thẩm
quyền trong việc sử dụng quyền lực nhà nước để xây dựng, ban hành pháp
luật. Đồng thời sử dụng phương tiện pháp luật để quản lý, tuyên truyền
giáo dục, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật; xử lý nghiêm minh,

kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về di tích lịch sử nói riêng, di sản
văn hóa nói chung để ngày càng bảo vệ, phát huy một cách tối đa giá trị
thực sự của nó.
1.2. Cơ sở pháp lý của quản lý nhà nƣớc về di tích lịch sử
Trong bất cứ sự tồn tại nào của một xã hội loài người thì pháp luật
đều là công cụ, phương tiện để Nhà nước quản lý và điều chỉnh các mối
quan hệ xã hội, nó phát triển cùng sự ra đời của nhà nước. Trong quản lý xã
hội ở bất kỳ một lĩnh vực nào cũng cần đến pháp luật.
Việt Nam là một quốc gia văn hiến lâu đời, trong quá trình dựng
nước và giữ nước các thế hệ đi trước đã để lại cho chúng ta kho tàng di sản
văn hóa vô cùng quý giá. Kho tàng di sản văn hóa đó đã được cô đọng lại,
vật chất hóa ở các di tích lịch sử, văn hoá mang nhiều giá trị sâu sắc. Chính
vì thế việc giữ gìn giá trị các di tích cho đời sau là một việc làm cần
thiết.Để bảo vệ và giữ gìn di sản văn hóa không có công cụ nào hơn là phải
sử dụng công cụ pháp luật. Nhìn lại hệ thống pháp luật về di sản văn hóa
nói chung và về di tích lịch sử văn hóa nói riêng chúng ta nhận thấy nhà
nước ta đã xây dựng và ban hành từ rất sớm và ngày càng được hoàn thiện.
Ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lênh số 65/ SL – sắc
lệnh đầu tiên về công tác bảo tồn, bảo tàng. Sắc lệnh gồm 6 điều trong đó
nội dung chính ấn định nhiệm vụ của Đông Phương Bác Cổ học viện. Sắc
lệnh đã nhấn mạnh đến việc bảo tồn cổ tích là việc làm cần thiết của nhà
nước Việt Nam. Sắc lệnh coi toàn bộ Di tích lịch sử, văn hoá là tài sản của

20
nhân dân, nghiêm “cấm phá huỷ những đình chùa, đền, miếu hoặc những
nơi thờ tự khác, những cung điện, thành, quách cùng lăng mộ chưa được
bảo tồn. Cấm phá huỷ những bia ký, đồ vật, chiểu sắc, văn bằng, giấy má,
sách vở có tính sách tôn giao hay không, nhưng có ích cho lịch sử mà chưa
được bảo tồn”. Sắc lệnh quy định nhà nước chi ngân sách cho việc bảo vệ,
tu sửa di tích và công nhận các khoản trợ cấp cho Viện Đông phương Bác

cổ học viện. Ngày 28/6/1956 Ban chấp hành Trung Ương Đảng Lao động
Việt Nam ra Thông tư số 38-TT/TW gửi tới các cấp bộ Đảng về việc bảo vệ
những di tích lịch sử văn hóa, vừa uốn nắn những sai sót gây tổn hại cho
kho tàng di sản văn hóa dân tộc, vừa đề ra một số việc phải làm là: Nâng
cao ý thức trách nhiệm bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh trong các
cấp các ngành, các tổ chức xã hội và toàn dân; Đình chỉ ngay những hoạt
động kinh tế đang phương hại trực tiếp đến một số di tích cụ thể; Tiến hành
phân loại các di tích, cần có kế hoạch để tu bổ các di tích.
Ngày 29/10/1957, Thủ tướng Chính phủ ra nghị định số 519/TTg, quy
định về thể lệ bảo tồn cổ tích. Đây là văn bản pháp lý có giá trị thiết thực
của Chính Phủ trong việc bảo vệ, giữ gìn các di sản văn hóa trong hai thập
kỷ chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta. Nghị định là kim chỉ nam cho mọi
hoạt động công tác quản lý di sản văn hóa từ năm 1957 - 1984. Nghị định
gồm 7 mục, 32 điều trong đó đề cập đến công tác quản lý di tích lịch sử,
văn hoáở các góc độ như liệt hạng di tích lịch sử, văn hoá; việc trùng tu, tôn
tạo di tích; chế độ khen thưởng và kỷ luật đối với các tổ chức và cá nhân có
thành tích trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Nghị
định đã phát huy tác dụng mạnh mẽ trong đời sống xã hội, phục vụ sự
nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Sau khi đất nước thống nhất, cả nước bước vào giai đoạn khôi phục và
phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất cho con đường chủ nghĩa xã hội.
Đảng và nhà nước ta luôn đánh giá đúng vai trò của công tác quản lý di sản
văn hóa, tiếp tục đề ra những chính sách, biện pháp cụ thể thích ứng với

21
thời kỳ mới của đất nước nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý di tích
lịch sử, văn hoá.
Ngày 31/03/1984, Hội đồng nhà nước đã ban hành và công bố pháp
lệnh 14 LCT/HĐND về việc “Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoávà
danh lam thắng cảnh”. Pháp lệnh gồm 5 chương và 27 điều. Pháp lệnh đã

xác định biện pháp quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa bao gồm: Kiểm
kê, đăng ký và xác định loại hình di tích; Quy định chế độ bảo vệ, sử dụng
di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh; Thanh tra thi hành những quy
định của pháp luật về bảo vệ, sử dụng di tích và danh lam thắng cảnh[17]
Pháp lệnh 14 ra đời trên cơ sở kế thừa tinh thần của Nghị định
519/TTg đã tập trung thống nhất quản lý, sử dụng Di tích lịch sử, văn hoá
và danh lam thắng cảnh trên phạm vi cả nước, đưa công tác kiểm kê, lập hồ
sơ xếp hạng di tích có quy chuẩn hơn. Quy định về cổ vật, xuất nhập khẩu
cổ vật, việc tu bổ tôn tạo và hoạt động bảo vệ di tích rõ ràng và chặt chẽ.
Pháp lệnh ra đời có ý nghĩa to lớn, là một bước tiến về mặt pháp lý với mục
đích làm cho công tác quản lý di sản của đất nước toàn diện hơn.
Hiến pháp năm 1992 ra đời tiếp tục là một dấu ấn quan trọng khẳng
định sự quan tâm đặc biệt của nhà nước ta đối với những giá trị to lớn của
di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh. Tại điều 34 Hiến pháp xác
định: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển các di sản văn hoá dân tộc;
chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo vệ và phát huy tác
dụng của các di tích lịch sử, cách mạng, các di sản văn hoá, các công trình
nghệ thuật, các danh lam, thắng cảnh; Nghiêm cấm các hành động xâm
phạm đến các di tích lịch sử, cách mạng, các công trình nghệ thuật và danh
lam, thắng cảnh”[14]
Bước sang thời kỳ đất nước đổi mới và hội nhập để nâng cao hơn nữa
vai trò của công tác quản lý di sản văn hóa, năm 2001 Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 9 đã ban hành và thông
qua Luật Di sản văn hóa và được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009.

22
Đây là lần đầu tiên nước ta có một văn bản luật cao nhất tạo hành lang pháp
lý cho công tác quản lý di tích lịch sử, văn hoátrong cả nước. Luật gồm 7
chương, 74 điều trong đó trong đó quy định rõ nội dung quản lý nhà nước
về di sản văn hóa, phân định trách nhiệm của các cấp đối với việc quản lý di

sản văn hóa. Luật Di sản văn hóa đã cụ thể hóa đường lối, chính sách pháp
luật, tư duy đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho tiến trình dân chủ hóa và xã hội hóa các hoạt động bảo vệ và
phát huy giá trị các di sản văn hóa. Luật điều chỉnh những vấn đề hoàn toàn
mới và hoàn thiện nâng cao những vấn đề đã được quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật trước đây cho phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam và
thông lệ quốc tế.
Những nội dung được cụ thể hóa qua các quy định ở Luật Di sản văn
hóa đã tạo động lực cho sự nghiệp bảo vệ và phát huy di sản văn hóa của
dân tộc có những bước phát triển mới theo hướng: Bảo tồn và tôn vinh
những di sản văn hóa dân tộc có giá trị cao nhất; Tạo điều kiện thuận lợi
nhằm thu hút nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt là các chủ sở
hữu di sản văn hóa đóng góp cho sự bản tồn và phát huy giá trị di tích; phát
huy di sản văn hóa phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
góp phần thực hiện mục tiêu: Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Đồng thời phải biết vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa để tạo nguồn thu đáng
kể từ hoạt động dịch vụ văn hóa tại di tích, tái đầu tư cho công tác bảo
quản, tu bổ và phục hồi di tích. Để thực thi Luật Di sản văn hóa, Chính phủ,
Bộ Văn hóa Thông tin (Nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cũng ban
hành một số văn bản dưới luật nhằm hướng dẫn thi hành:
Ngày 11/11/2002 Chính Phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ban hành Nghị định số 92/2002/NĐ-CP quy đinh chi tiết thi hành
một số điều của Luật di sản văn hóa.

×