Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Kế toán chi ngân sách nhà nước tại kho bạc nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.34 KB, 92 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế nước ta, ngân sách nhà nước có vai trò hết sức quan trọng.
Ngân sách nhà nước là xương sống của nền kinh tế nhà nước, là nguồn lực đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và hoạt động của bộ máy
nhà nước.
Chi ngân sách nhà nước là quá trình nhà nước phân bổ, sử dụng quỹ NSNN
để đảm bảo điều kiện vật chất nhằm duy trì sự tồn tại, hoạt động bình thường cũng
như thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước theo những mục tiêu đã định.
Đồng thời, chi NSNN được sử dụng như một công cụ quan trọng trong hệ thống
chính sách của một quốc gia, góp phần giải quyết các vấn đề tài chính và cân đối vĩ
mô của nền kinh tế.
Kế toán chi ngân sách nhà nước là công tác thu thập, xử lý thông tin đầy đủ,
kịp thời, chính xác về tình hình chi ngân sách nhà nước; đánh giá, dự báo tình hình
chi ngân sách nhà nước; kiểm soát thực hiện chế độ chi ngân sách nhà nước; quản
lý, theo dõi, tổng hợp báo cáo tình hình chi ngân sách nhà nước.
Kế toán chi ngân sách nhà nước là công cụ không thể thiếu để quản lý, điều
hành ngân sách nhà nước các cấp, thông tin kế toán chi ngân sách nhà nước giúp
cho các cấp chính quyền trong quản lý điều hành ngân sách nhà nước, phấn đấu
hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội.
Khoản 2, Điều 55, Nghị định 60/2003/NĐ – CP ngày 06/6/2003 qui định chi
tiết và hướng dẫn thi hành luật ngân sách nhà nước nêu rõ: “Kho bạc nhà nước có
trách nhiệm quản lý quỹ ngân sách nhà nước, thống nhất quản lý, tổ chức thanh
toán, điều hòa vốn và tiền mặt thuộc quỹ ngân sách nhà nước nhằm tập trung
nhanh, đầy đủ các khoản thu; đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán, chi trả của ngân
sách nhà nước”.
Là đơn vị trực thuộc Kho bac nhà nước, Kho bạc nhà nước Nam Định mang
những thuận lợi và khó khăn chung của ngành trong hoạt động nghiệp vụ, đặc biệt
là trong công tác kế toán ngân sách nhà nước. Ngoài ra, với qui mô là một tỉnh nhỏ,
nguồn lực tài chính còn hạn hẹp, việc tìm tòi và thực hiện các giải pháp nhằm quản



lý, sử dụng ngân sách nhà nước một cách tiết kiệm, có hiệu quả luôn được các cấp
chính quyền, các ban, ngành hữu quan tỉnh Nam Định quan tâm.
Việc hoàn thiện kế toán chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Nam
Định nhằm đáp ứng đòi hỏi trong công tác quản lý, điều hành ngân sách nhà nước
một cách có hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương, nhất là với
tỉnh nghèo như Nam Định là việc làm cần thiết. Với những nhận thức trên, tôi chọn
đề tài: “Kế toán chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước” làm luận văn
thạc sỹ.
2. Tổng quan nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây, việc sử dụng quỹ NSNN đã được chú trọng, quản
lý phù hợp, minh bạch nhằm thúc đẩy cải cách hành chính, phát huy tính chủ động,
sáng tạo của địa phương nhờ mối quan hệ trong phân phối nguồn lực giữa Trung
ương và địa phương. Việc quản lý chi NSNN đã gắn với các chính sách kinh tế ở
tầm nhìn trung và dài hạn nâng cao tính hiệu quả và công bằng cho cơ sở.
Dù có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về kế toán và các nhà khoa học
đã cho xuất bản nhiều tài liệu về kế toán và nghiệp vụ quản lý KBNN như: Kế toán
NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN của tác giả Phạm Văn Liên – Phạm Văn
Khoan; Giáo trình nghiệp vụ quản lý và kế toán KBNN của tác giả Nguyễn Kim
Quyến – Lê Quang Cường; Giáo trình quản lý tài chính công của tác giả Phạm Văn
Khoan; … tất cả những tài liệu này đều đề cập đến lý luận chung về công tác kế
toán NSNN trong đó có kế toán chi NSNN và nếu như các tài liệu này có số liệu để
thực hành thì cũng chỉ là số liệu giả định, còn việc đi sâu vào một loại hình quản lý
NSNN với những khoản chi hết sức phức tạp và với những đặc thù riêng biệt thì
không nhiều và nhất là phần kế toán chi NSNN tại KBNN vẫn còn là khá chung
chung chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn về việc phân định và hạch toán một
số nghiệp vụ chi NSNN ở một KBNN cụ thể như Kho bạc nhà nước Nam Định.
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về kiểm soát chi NSNN qua KBNN, nhằm đáp
ứng kịp thời hoạt động của kiểm soát chi NSNN trong từng thời kỳ, sau đây là một
số đánh giá về các vấn đề đã nghiên cứu có liên quan đến phạm vi nghiên cứu của

đề tài:


Đề tài: “Hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước
qua Kho bạc Nhà nước” của Tác giả Lương Ngọc Tuyền - thực hiện năm 2005. Tác
giả đã nghiên cứu sâu về hoạt động của KBNN trong công tác KSC thường xuyên
NSNN qua KBNN.Tuy nhiên tác giả đi sâu vào phần cơ sở lý luận, phần thực trạng
chưa nêu cụ thể công tác quản lý và điều hành chi NSNN (giai đọan trước khi có
luật ngân sách), chưa đưa ra số liệu cụ thể để phân tích công tác kiểm soát chi
NSNN qua KBNN.
Đề tài: “Hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua Kho
bạc Nhà nước tỉnh Bến Tre”, của tác giả Nguyễn Văn Biểu, thực hiện năm 2008,
Tác giả chỉ nghiên cứu về nghiệp vụ KSC thường xuyên qua KBNN từ năm 20042007 của tỉnh Bến tre. Tuy nhiên về phương pháp luận rất chặt chẽ, có nhiều đề
xuất và có những đề nghị từ đơn vị thực thi đến các cấp quản lý địa phương, cấp
Bộ, Chính phủ, nên có thể áp dụng vào thực tiễn cho hệ thống KBNN.Tác giả
nghiên cứu đã khá lâu, hiện nay các văn bản chế độ về công tác kiểm soát NSNN
đã có những thay đổi.
Đề tài:“Hoàn thiện công tác kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc
Nhà nước Quảng Ngãi”, của tác giả Nguyễn Văn Cần, thực hiện năm 2010. Đề tài
tổng hợp chi NSNN gồm chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển (ĐTPT), phạm
vi nghiên cứu là kiểm soát chi những đơn vị sử dụng NSNN của cả hệ thống
KBNN tỉnh Quảng Ngãi. Tác giả chủ yếu trình bày hoạt động kiểm soát chi NSNN
qua KBNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ các năm 2004- 2008 và có nêu ra nhiều
phương hướng, giải pháp của hạn chế để hoàn thiện cơ chế kiểm soát chi NSNN
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Tác giả không đi sâu về công tác tổ chức, phân công
nhiệm vụ kiểm soát chi NSNN.Trong công cuộc cải cách hành chính hiện nay có
nhiều thay đổi nên đã có nhiều tình huống mới về công tác kiểm soát chi NSNN.
Các tổ chức nước ngoài có rất nhiều dự án về cải cách ngân sách, chi tiêu
công cộng như dự án FSP của Thượng viện Pháp (2003) “Các bài tham luận về cải
cách ngân sách tại Công hòa Pháp”; Dự án GTZ – FM (2004) “Hệ thống ngân sách

công CHLB Đức”; Dự án VIE/96/028 “Đánh giá chi tiêu công”; Dự án quản lý tài
chính công FST (2003) “Khóa đào tạo quản lý tài chính công”….nhưng chưa có dự
án nào có liên quan đến tổ chức công tác kế toán NSNN hay chi NSNN mà cụ thể
tại KBNN nào cả.


Xuất phát từ tổng quan tình hình nghiên cứu trên, tác giả thấy phải tiếp tục
nghiên cứu để hoàn thiện kế toán chi NSNN tại Kho bạc nhà nước Nam Định.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về kế toán chi ngân sách nhà nước trong đó trọng
tâm phân tích những lý thuyết về kế toán chi ngân sách nhà nước chủ yếu.
Nghiên cứu thực tế, đánh giá thực trạng kế toán chi ngân sách nhà nước tại
Kho bạc nhà nước Nam Định.
Đưa ra các giải pháp, kiến nghị chủ yếu nhằm hoàn thiện kế toán chi ngân
sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Nam Định.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
kế toán chi ngân sách nhà nước tại kho bạc nhà nước Nam Định bao gồm chi ngân
sách nhà nước trong chu trình quản lý ngân sách nhà nước, tổ chức bộ máy kế toán
và tổ chức phần hành kế toán chi ngân sách nhà nước chủ yếu tại kho bạc nhà nước
Nam Định từ đó có những đánh giá và đưa ra giải pháp phù hợp.
- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là kế toán chi ngân sách nhà nước trong
điều kiện vận hành dự án hệ thống TABMIS tại kho bạc nhà nước Nam Định từ
năm 2010 – 2012.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như thu thập tài liệu, thống
kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, biểu đồ….để lảm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu

của đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Luận văn khái quát, hệ thống hóa và làm sáng tỏ những vấn đề chủ yếu về kế
toán chi ngân sách nhà nước tại kho bạc nhà nước. Phân tích thực trạng kế toán chi
ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Nam Định.


Luận văn đưa ra một số các giải pháp hoàn thiện công tác kế toán chi ngân
sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Nam Định nhằm quản lý, điều hành ngân sách
nhà nước trên địa bàn tỉnh Nam Định đạt hiệu quả cao hơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về kế toán chi ngân sách nhà nước tại kho bạc nhà nước.
Chương 2: Thực trạng kế toán chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Nam Định.
Chương 3: Thảo luận kết quả nghiên cứu và giải pháp hoàn thiện kế toán chi ngân
sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Nam Định
.


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC TẠI KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.1. Chi ngân sách nhà nước và vai trò của chi ngân sách nhà nước trong cơ
chế thị trường
1.1.1. Ngân sách nhà nước và chi ngân sách nhà nước
1.1.1.1. Ngân sách nhà nước
Trong hệ thống tài chính, NSNN là bộ phận chủ đạo, là điều kiện vật chất
quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước do hiến pháp quy định, nó còn
là công cụ quan trọng của Nhà nước có tác dụng điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã hội,
muốn sử dụng tốt công cụ này phải nhận thức được những vấn đề lý luận cơ bản về

NSNN.
Thuật ngữ NSNN “Budget’’ bắt nguồn từ tiếng anh có nghĩa là cái ví, cái
xắc.Tuy nhiên, trong cuộc sống kinh tế thuật ngữ này đã thoát ly ý nghĩa ban đầu và
mang nội dung hoàn toàn mới. Do đó để đảm bảo khách quan chúng ta sẽ tham
khảo các tài liệu kinh điển của nước ngoài để rút ra những kết luận cần thiết vừa
phù hợp với chuẩn mực quốc tế, vừa phản ánh được những đặc điểm cụ thể của
nước ta.
Theo cuốn từ điển bách khoa toàn thư của Liên Xô “cũ’’ thì Ngân sách là:
Bảng liệt kê các khoản thu - chi bằng tiền trong giai đoạn nhất định của Nhà nước.
Mọi kế hoạch thu chi bằng tiền bất kỳ một cơ quan, cá nhân nào trong một giai
đoạn nhất định.
Cuốn tư liệu xanh của Pháp được ấn hành nhằm hướng dẫn một số luật định
tài chính và thuế, trong đó ngân sách được hiểu là: Chứng từ dự kiến cho phép các
khoản thu chi hàng năm của nhà nước. Toàn bộ tài liệu kế toán mô tả, trình bày các
khoản chi phí của nhà nước trong một năm.Toàn bộ các khoản trình bày tiền mà
một Bộ được cấp trong một năm.
Từ những tài liệu vừa nêu, có thể rút ra một số kết luận của ngân sách như sau:
Thứ nhất, NS là một bảng liệt kê, trong đó dự kiến cho phép thực hiện các
khoản thu, chi bằng tiền của một chủ thể nào đó “Nhà nước, Bộ…’’.
Thứ hai, NS tồn tại trong khoảng thời gian nhất định thường là một năm.


Thứ ba, NSNN là những quan hệ kinh tế phát triển trong quá trình NN huy động
và sử dụng các nguồn tài chính khác nhau.
Xét về nhiều mặt thì NSNN là một hoạt động tài chính cụ thể của nhà nước,
vì vậy khái niệm NSNN phải được xem xét trên các mặt hình thức, thực thể và
quan hệ kinh tế chứa đựng bên trong NSNN.
Xét theo hình thức biểu hiện bên ngoài và ở trạng thái tĩnh, NSNN bao gồm
những nguồn thu cụ thể, những khoản chi cụ thể và được định hướng các nguồn thu
đều được nộp vào một quỹ tiền tệ - quỹ NSNN và các các khoản đều được xuất ra

từ quỹ tiền tệ ấy.
Cũng cần phải thấy rằng, thu chi NSNN hoàn toàn không giống như bất kỳ
một hình thức thu chi nào khác. Ở đây thu chi của NN luôn được thực hiện bằng
luật pháp do luật định “về thu có các luật thuế và các văn bản khác về chi có các
tiêu chuẩn luật định’’. Trên cơ sở đó nhằm đạt mục tiêu cân đối giữa thu và chi
NSNN.
Mặt khác, NSNN còn phản ánh các quan hệ kinh tế giữa một bên là Nhà
nước một bên là các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi nhà nước tham gia phân
phối các nguồn tài chính theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
Những khoản thu nộp và cấp phát qua quỹ NSNN là các quan hệ được xác định
trước, được định lượng và NN sử dụng chúng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.
Từ những phân tích trên, ta có thể xác định được “NSNN phản ánh các quan
hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ
chung của NN khi NN tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực
hiện các chức năng của NN trên cơ sở luật định’’.
Theo Điều 1, Luật ngân sách nhà nước được Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam thông qua ngày 16/12/2002 thì: NSNN là toàn bộ các khoản thu - chi của nhà
nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà
nước giao.
1.1.1.2. Chi ngân sách nhà nước
Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm đảm
bảo thực hiện chức năng của nhà nước theo những nguyên tắc nhất định.


Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã
được tập trung vào ngân sách nhà nước và đưa chúng đến mục đích sử dụng. Do
đó, chi ngân sách nhà nước là những việc cụ thể không chỉ dừng lại trên các định
hướng mà phải phân bổ cho từng mục tiêu, từng hoạt động và từng công việc thuộc
chức năng của nhà nước.

Quá trình của chi ngân sách nhà nước
- Quá trình phân phối: là quá trình cấp phát kinh phí từ ngân sách nhà nước
để hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng;
- Quá trình sử dụng: là trực tiếp chi, dùng khoản tiền cấp phát từ NSNN mà
không phải trải qua việc hình thành các loại quỹ trước khi đưa vào sử dụng.
Theo Khoản 2, Điều 2 Luật NSNN: Chi NSNN bao gồm các khoản chi phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy
nhà nước; chi trả nợ và các khoản chi khác theo qui định của pháp luật.
Như vậy, chi NSNN gắn liền với mọi hoạt động của nhà nước trên tất cả mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.Nguồn lực tài chính có hạn, vì vậy nhà nước phải lựa
chọn lĩnh vực hoạt động cần được ưu tiên trong khoản thời gian nhất định.
Chi NSNN chủ yếu là những khoản chi không hoàn trả trực tiếp, bao gồm
những khoản chi cho các ngành, các cấp thuộc các lĩnh vực hoạt động không những
đòi hỏi trả giá hoặc hoàn lại cho nhà nước.Chi NSNN là một bộ phận cấu thành
lượng tiền tệ, NSNN chiếm tỷ trọng lớn trong luồng tiền của nền kinh tế vì vậy nó
chi phối mạnh mẽ hoạt động của luồng tiền tệ.
Chi NSNN là sự thể hiện các quan hệ hình thành trong quá trình phân phối
và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm trang trải các chi phí của bộ máy nhà
nước và thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội nhà nước đảm nhận theo những
nguyên tắc nhất định:
- Gắn chặt khoản thu để bố trí các khoản chi;
- Đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố trí các khoản chi tiêu
của NSNN;
- Tập trung có trọng điểm;
- Phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các cấp chính quyền
theo luật định để bố trí các khoản chi cho thích hợp;


- Tổ chức chi NSNN trong sự phối hợp chặt chẽ với khối lượng tiền tệ, lãi
suất, tỷ giá hối đoái để tạo nên công cụ tổng hợp cùng tác động đến các vấn đề kinh

tế vĩ mô.
1.1.2. Vai trò của chi ngân sách nhà nước trong cơ chế thị trường
Theo quan điểm cổ điển trước đây, chi ngân sách được nhấn mạnh đến chức
năng đảm bảo nguồn lực tài chính cho bộ máy nhà nước và cai trị, điều hành xã
hội. Kể từ khi cơ chế thị trường cũng bộc lộ những thất bại trong điều hành kinh tế,
thì điều cần nhấn mạnh của chi NSNN là không chỉ cung cấp tài chính cho bộ máy
nhà nước hoạt động và thực hiện chức năng cai trị của mình. Chi NSNN lúc này
đóng vai trò quan trọng hơn với tư cách là công cụ hữu hiệu để điều tiết thị trường,
xoá đói giảm nghèo, góp phần đảm bảo công bằng xã hội, phát triển cân đối giữa
các vùng, lãnh thổ, ngành kinh tế, cung cấp hàng hoá dịch vụ công cho xã hội một
cách tốt nhất trong trường hợp khu vực tư nhân không đảm bảo được.
Nền kinh tế thị trường với đặc trưng cơ bản là cạnh tranh và hiệu quả. Một
mặt kinh tế thị trường khuyến khích cạnh tranh tự do của hãng tư nhân vì mục tiêu
lợi nhuận và đó là động lực thúc đẩy tăng trưởng, chỉ có như vậy mới tạo ra cho xã
hội một lượng hàng hoá phong phú đáp ứng mọi nhu cầu không ngừng tăng lên của
đời sống xã hội. Song nếu chỉ có hoạt động của các hãng tư nhân thì ở một số lĩnh
vực nhất định, nhất là khu vực sản xuất hàng hóa công cộng không có nhà sản xuất
và không có cạnh tranh bởi không mang lại lợi nhuận hoặc các hãng tư nhân không
đủ điều kiện để thu hồi lại chi phí bỏ ra để cung cấp một thứ hàng hóa công cộng
nào đó. Đây chính là cơ sở cho việc xuất hiện vai trò của Chính phủ.Vì vậy, chúng
ta thấy trên thế giới không có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo, hoàn toàn chỉ có
hoạt động của các hãng tư nhân với mục tiêu hiệu quả. Nền kinh tế thị trường hiện
đại ngày nay bao gồm các hoạt động đan xen nhau: Một số hoạt động kinh tế do
khu vực công đảm nhận, còn các hoạt động khác do khu vực tư thực hiện. Có thể
nói đây là nền kinh tế hỗn hợp. Trong nền kinh tế đó, rất nhiều hàng hoá dịch vụ
công cộng do Chính phủ bỏ tiền ra mua hoặc trực tiếp cung cấp thông qua bộ máy
của mình để đảm bảo hoạt động của các cơ quan đơn vị thuộc bộ máy nhà nước;
cung cấp hệ thống dịch vụ công; trợ cấp nhà bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp,
trợ cấp trợ cấp người nghèo; chi để cung cấp các dịch vụ hành chính pháp lý, đảm
bảo hoà bình, trật tự, an ninh quốc gia; cung cấp một số hàng hoá dịch vụ cá nhân



hoặc trợ cấp cho một số hàng hoá dịch vụ mà các hãng tư nhân không muốn làm
nhưng xã hội cần; trợ cấp để thúc đẩy phát triển của vùng sâu, vùng khó khăn...
Như vậy, vai trò của chi tiêu của Chính phủ trong kinh tế thị trường càng tỏ
ra quan trọng hơn, nhất là trong những lĩnh vực mà thị trường vận hành khó khăn,
thì Chính phủ cần can thiệp và lớn hơn nữa, hành động của Chính phủ thường là sự
đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng.
Động lực của Chính phủ khi can thiệp vào thị trường là nhằm hạn chế, khắc
phục những khiếm khuyết, mặt trái của thị trường.
Chúng ta đều biết rằng, kinh tế thị trường vận hành theo chu kỳ. Khi có suy
thoái kinh tế, hệ quả của nó là thất nghiệp, thậm chí trong diện rộng và kéo dài.
Chu kỳ suy thoái tác động phản ứng dây chuyền đến toàn bộ nền kinh tế, hệ thống
ngân hàng, thị trường chứng khoán... Kéo theo số đông người rơi vào tình trạng phá
sản, rủi ro trầm trọng; lúc này không còn là vấn đề riêng của các hãng tư nhân.
Chính phủ phải giải quyết rất nhiều việc: vừa phải đóng vai trò tích cực, can thiệp
để ổn định kinh tế; vừa phải chi bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
tiền gửi, trợ giá nông nghiệp và hàng loạt các công việc khác.
Để khắc phục những bất công do kinh tế thị trường mang lại sự phân hoá
giàu nghèo sâu sắc, Chính phủ phải chi những khoản tiền rất lớn cho cuộc chiến
chống đói nghèo. Ví dụ như chương trình cung cấp lương thực, thực phẩm và chăm
sóc sức khoẻ cho người nghèo, chương trình đào tạo lại cho những người thất
nghiệp để họ có cơ hội tìm việc làm mới, trợ cấp nhà ở cho những người có thu
nhập thấp...
Một cơ sở quan trọng nữa khiến Chính phủ phải tham gia vào quá trình cung
cấp hàng hoá công cộng là Chính phủ với tư cách là người được bầu ra hoặc do
người được bầu chỉ định. Tức là Chính phủ được trao quyền hợp pháp để thực hiện
một số quyền hạn nhất định mà tư nhân hoặc tổ chức khác không được giao. Chính
phủ có thể bắt buộc mọi công dân nộp thuế và có bộ máy đảm bảo sự bắt buộc đó
thực hiện, hoặc có thể thu tài sản của công dân vì lợi ích công cộng và chỉ bồi

thường trong giới hạn chứ không làm hài lòng các cá nhân công dân bằng sự thoả
thuận. Chính phủ có thể bắt buộc mọi thanh niên làm nghĩa vụ quân sự với mức
tiền công thấp hơn mức họ đòi hỏi...


Như vậy, khác với nguyên tắc trao đổi của thị trường là tự nguyện, ngang
giá, Chính phủ được sử dụng quyền năng để làm những việc mà tư nhân không thể
làm được.
Đó là điểm khác biệt và cũng là lý do Nhà nước dùng tiền ngân sách tham
gia vào các hoạt động để theo đuổi mục đích của mình, cũng chính là ưu việt của
chi ngân sách trong cơ chế thị trường. Có thể nghiên cứu vai trò chi ngân sách
trong cơ chế thị trưừng theo các chức năng như sau:
1.1.2.1. Vai trò của chi NSNN đối với hoạt động của bộ máy nhà nước
Đây là phát huy chức năng đầu tiên và là tiền đề cho các chức năng khác bởi
vì bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào, chi ngân sách trước tiên cung cấp nguồn tài
chính để đảm bảo cho bộ máy nhà nước tồn tại, hoạt động, từ đó mà thực hiện được
chức năng quản lý xã hội của mình. Nền kinh tế thị trường với sự phân công lao
động xã hội ở cấp độ cao, kinh tế phát triển, tạo ra nhu cầu hưởng thụ xã hội trên
mọi lĩnh vực đều ở mức cao, bộ máy nhà nước càng cần tăng cường cả về số lượng
và chất lượng để tương đồng với nhu cầu đòi hỏi đó. Vì vậy, chi ngân sách dành tỷ
trọng thoả đáng trả lương cho đội ngũ công chức và duy trì hoạt động của bộ máy
nhà nước là cần thiết.
Một số quan điểm trước đây cho rằng: trong khuôn khổ hạn hẹp của NSNN,
việc chi cho bộ máy nhà nước càng ít càng tốt, từ đó mà trong bố trí ngân sách chi
hành chính thường chiếm một tỷ trọng rất nhỏ và ít về số tuyệt đối. Kết quả là, tệ
quan liêu, phiền hà, sách nhiễu... trong bộ máy nhà nước thường là phổ biến và ở
mức độ cao, mà nguyên nhân cơ bản nhất là đội ngũ công chức được hưởng quá
thấp các lợi ích vật chất. Trước thực tế ấy, các nước kinh tế thị trường phát triển,
NSNN bao giờ cũng dành ưu tiên trước hết thoả mãn cho nhu cầu của bộ máy nhà
nước, đảm bảo ổn định và ràng buộc trách nhiệm của công chức bộ máy nhà nước

với quyền năng được giao, để bộ máy này cung cấp cho xã hội hàng hoá công cộng
thuần tuý với chất lượng cao nhất.
1.1.2.2. Vai trò của chi ngân sách nhà nước đối với thực hiện các chức năng quản
lý xã hội, y tế, văn hóa, giáo dục
Trong cơ chế thị trường, Chính phủ như người chỉ huy dàn nhạc để đảm bảo
sự phát triển ăn khớp, đồng đều, thúc đẩy tương tác lẫn nhau cùng phát triển của


các lĩnh vực; quản lý toàn diện từ kinh tế, giáo dục, y tế, văn hoá, các lĩnh vực xã
hội... yêu cầu phát triển cao của nền kinh tế thị trường tạo ra nhiều dịch vụ hết sức
phong phú trên tất cả các lĩnh vực.
Theo một xu hướng mang tính phổ biến thì đối với các nước càng phát triển
thì tỷ trọng chi đầu tư hạ tầng và phát triển kinh tế giảm, tăng chi cho giáo dục, y
tế, văn hoá, trợ cấp xã hội trong đó điển hình là các nước Bắc Âu. Chính phủ các
nước này chủ trương thoả mãn ở mức cao các nhu cầu phúc lợi xã hội cho mọi
công dân, chủ yếu là dựa vào nguồn lực từ NSNN. Do tỷ lệ động viên từ GDP trên
40%, đã tạo nguồn lực dổi dào dành cho giáo dục, y tế, an sinh và trợ cấp xã hội
(khoảng 50 - 60% NSNN).
Nhìn chung, tỷ trọng chi cho giáo dục y tế an sinh và trợ cấp xã hội ngày
càng lớn lên cả về quy mô và tỷ trọng. Tuy nhiên, chi cho những lĩnh vực này
không chỉ từ ngân sách. Các nhà cung cấp dịch vụ đưa ra hàng hoá công cộng ở
lĩnh vực giáo dục y tế và thu lại từ NSNN và một phần là từ người được hưởng dịch
vụ. Tức là song song tồn tại hai phương thức, dịch vụ do Nhà nước trả tiền và dịch
vụ do người được hưởng trả tiền. Người hưởng dịch vụ được lựa chọn một trong
hai phương thức và tuân thủ những yêu cầu cụ thể của từng phương thức.
1.1.2.3. Vai trò của chi NSNN đối với việc điều tiết vĩ mô của nhà nước
Đây là thế mạnh của chi ngân sách trong cơ chế thị trường và được Chính
phủ các quốc gia sử dụng như những công cụ hữu hiệu và uyển chuyển.
Chi ngân sách đối với thúc đẩy tăng trưởng: Thông thường giai đoạn đầu cơ
chế thị trường Chính phủ các nước tập trung ưu tiên chi đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế

xã hội khó có khả năng hoàn vốn hoặc tư nhân không muốn đầu tư, như đường xá,
cầu cống, bến cảng sân bay, trường học, cơ sở y tế hiện đại, công trình văn hoá...
Việc tăng chi cơ sở hạ tầng trên sẽ tạo điều kiện và mở đường thu hút các thành
phần kinh tế cùng đầu tư. Ở một số công trình Nhà nước tham gia như một cổ đông
bình đẳng như các nhà đầu tư khác, tạo ra cú huých đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng.
Trong trường hợp tốc độ tăng trưởng chậm, thông qua công cụ chi ngân sách có thể
kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng bằng cách ưu tiên ngân sách đầu tư cho các
công trình thuộc dự án phê duyệt từ nguồn NSNN, từ đó tác động đến tăng trưởng,
còn khi nền kinh tế phát triển nóng, thì chi ngân sách cùng với các công cụ khác


như chính sách tiền tệ được sử dụng thắt chặt chi tiêu, giảm chi ngân sách cho đầu
tư, cho tiêu dùng.
Chính phủ cũng có thể sử dụng ngân sách là công cụ hỗ trợ tài chính để
khuyến khích đầu tư hoặc trợ giúp doanh nghiệp như chính sách đầu tư một số công
trình hạ tầng đường giao thông, điện, nước, có liên quan đến hoạt động của các
doanh nghiệp mới đầu tư, hỗ trợ tiền thuê đất, hỗ trợ miễn giảm thuế... trợ giá, hỗ
trợ bù chênh lệch lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu và sản xuất hàng nông sản
thực phẩm liên quan đến nông dân v.v...
Trong một số trường hợp, khi cần thúc đẩy tăng trưởng Chính phủ có thể sử
dụng công cụ phát hành, vay nợ để tăng tỷ lệ bội chi ngân sách, đây cũng là một
giải pháp thúc đẩy tăng trưởng.
Tuy nhiên, khi lựa chọn sử dụng giải pháp nào, Chính phủ cũng đều phải cân
nhắc, tính toán, thậm chí là hết sức thận trọng, chỉ hạn chế trong một số trường hợp
thật cần thiết và khi xem xét luôn gắn với điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.
Khi chi ngân sách được sử dụng như một công cụ tác động đến tăng trưởng
thì đồng nghĩa với việc gián tiếp tạo việc làm thông qua tác động mở rộng quy mô
và tăng đầu tư chiều sâu cho các doanh nghiệp, góp phần làm giảm tỷ lệ thất
nghiệp, tạo cho thị trường lao động sôi động lên.
Khi ngân sách đạt được quy mô nhất định, thì ngoài nhu cầu thiết yếu phải

đảm bảo, những vấn đề xã hội cho người nghèo, người có thu nhập thấp, người thất
nghiệp phải được hưởng phúc lợi từ ngân sách trực tiếp thông qua các chính sách
trợ cấp xã hội. Ở quốc gia phát triển, thu nhập bình quân đầu người lớn, tỷ lệ động
viên GDP vào ngân sách cũng thường lớn, chi đầu tư từ ngân sách lại thường chiếm
tỷ trọng nhỏ, từ đó cho phép trong cơ cấu trong ngân sách, tỷ lệ chi cho bộ máy nhà
nước và trợ cấp xã hội có cơ hội càng lớn, quỹ trợ cấp và phúc lợi xã hội cho người
nghèo, người đông con, người có hoàn cảnh đặc biệt có thể chiếm tỷ lệ cao trong
ngân sách.
Vấn đề chênh lệch giữa các vùng miền về phát triển kinh tế xã hội cũng được
giải quyết có hiệu quả thông qua các công cụ điều tiết, trong đó chi NSNN đóng vai
trò thu hút đầu tư, thu hút nguồn nhân lực: như chính sách tiền lương, phụ cấp ưu
đãi để thu hút nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng đến những vùng xa,
khó khăn, kém phát triển, mật độ dân số thấp. Chính phủ tài trợ đầu tư công trình


hạ tầng kinh tế như đường cao tốc, sân bay, công trình công cộng, thậm chí hệ
thống nhà ở tạo nên sức hấp dẫn đối với các thành phần dân cư từ các địa phương
khác. Công cụ hỗ trợ ngân sách cho các, vùng miền có điều kiện kém hấp dẫn trên
có thể dưới dạng trợ cấp trọn gói hoặc trợ cấp có mục tiêu ở một số quốc gia trong
thời gian qua cũng làm thay đổi đáng kể diện mạo những vùng xa trung tâm, vùng
khó khăn về điều tự nhiên, xã hội và giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng miền
trong một quốc gia phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế các vùng lãnh thổ, giảm bớt sự
chênh lệch phát triển giữa thành thị và nông thôn.
Bảo vệ môi trường và phòng trừ các dịch bệnh nguy hiểm là những vấn đề
thời sự hiện nay. Trong cơ chế thị trường, khi kinh tế phát triển mạnh mẽ, toàn cầu
hoá đang tranh giành xu thế tất yếu thì môi trường và dịch bệnh chịu tác động sâu
sắc, lớn cần được đặc biệt quan tâm không chỉ trong phạm vi từng quốc gia mà còn
cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các quốc gia thông qua vai trò quan trọng của các tổ
chức mang tính quốc tế cho từng vấn đề có tính thời điểm. Trả giá cho sự tác động
của môi trường và địch bệnh trong nền kinh tế hội nhập quốc tế, mỗi quốc gia cần

dành tỷ trọng ngân sách thích đáng để giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát
triển kinh tế gắn với đảm bảo môi trường thân thiện bền vững, với hệ thống chăm
sóc sức khoẻ và hạn chế tối đa sự lây lan của dịch bệnh giữa các quốc gia, khu vực.
NSNN tạo ra động lực quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chính
phủ sử dụng chi NSNN là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô để thực hiện chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá đặc biệt là giai đoạn đầu của cơ chế thị
trường. Ngay cả ở các nước phát triển, những công cụ này được sử dụng hữu hiệu
thông qua trợ giá hoặc tài trợ vốn đối với các ngành, lĩnh vực Nhà nước cần chi
phối để đạt mục tiêu thúc đẩy chuyển dịch và tăng trưởng…
Ví dụ như muốn thúc đẩy tăng sản lượng cà phê thì Nhà nước khuyến khích
nông dân chuyển đổi diện tích trồng cây khác sang cây cà phê để được trợ giá, như
vậy nông dân sẽ tập trung trồng cây cà phê, vì làm như vậy vừa được tăng thu nhập,
vừa được tiêu thụ sản phẩm dễ dàng hơn. Đối với doanh nghiệp cũng vậy, ở nhiều
ngành, tỷ suất lợi nhuận thấp nhưng lại là ngành đang cần khuyến khích như chế
biến nông sản chẳng hạn, Nhà nước tài trợ vốn để các doanh nghiệp thấy được nếu
đầu tư vào ngành chế biến nông sản sẽ có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, điều này tạo


sức hấp dẫn để nhà đầu tư chọn lĩnh vực Nhà nước khuyến khích để được nhận tài
trợ.
Tóm lại, chi NSNN cho đầu tư có xu hướng ngày càng giảm về tỷ trọng
trong đầu tư của toàn xã hội, song lại là công cụ đáp ứng nhu cầu cơ bản, và ở
nhiều lĩnh vực thậm chí đóng vai trò quyết định: đó là đảm bảo hoạt động bộ máy
nhà nước, cung cấp cho xã hội hàng hoá công cộng thuần tuý hành chính pháp lý,
dịch vụ thực thi luật pháp, an ninh trật tự. Đồng thời, Nhà nước sử dụng chi NSNN
để quản lý xã hội và thực hiện những chiến lược ưu tiên nhằm thúc đẩy kinh tế phát
triển, xoá đói giảm nghèo, điều tiết lạm phát, giải quyết những vấn đề bất cập về sự
chênh lệch cơ cấu kinh tế và phát triển giữa các vùng, địa phương. Giải quyết
những vấn đề nêu trên, chỉ có NSNN đảm nhận vai trò đó mà không một khâu tài
chính nào khác có thể làm được. Bởi vì chi NSNN được thực hiện không vì mục

tiêu lợi nhuận, lời lãi ở tầm vĩ mô, mà chủ yếu phục vụ cho thực hiện các chức
năng quản lý xã hội của Nhà nước ở tầm vĩ mô.
1.2. Yêu cầu quản lý chi ngân sách nhà nước và vai trò kế toán chi ngân sách
nhà nước
1.2.1. Yêu cầu quản lý chi ngân sách nhà nước
Trong bất kỳ nền kinh tế nào, chi ngân sách phải tuân thủ những nguyên lý
nhất định, những đòi hỏi đó càng trở thành yêu cầu bắt buộc bởi tính đa dạng phong
phú cũng như mục tiêu hiệu quả là những đặc trưng cơ bản đối với nền kinh tế thị
trường.
Chi ngân sách phải đảm bảo kỷ luật tài chính tổng thể.
Điều đó có nghĩa là chi ngân sách phải được tính toán trong khả năng nguồn
lực huy động được từ nền kinh tế và các nguồn khác. Khả năng này không chỉ tính
trong một năm mà phải được tính trong trung hạn (3-5 năm), kết hợp với dự báo
xảy ra rủi ro, chỉ có như vậy mới đảm bảo tính ổn định và bền vững của ngân sách
trong trung hạn. Nhìn chung các nhà quản lý phải dự tính được rủi ro về thu và sự
biến động về chi để có chính sách đối ứng với những tình huống có thể xảy ra và
dự tính nhiều phương án. Hàng năm trên cơ sở đánh giá và xây dựng ngân sách
năm rà soát lại kế hoạch trung hạn để điều chỉnh sát với thực tiễn và cập nhật thêm
một năm những biến động tăng giảm nguồn và những chính sách bổ sung hoặc thay


đổi, như vậy lúc nào cũng đảm bảo có kế hoạch trung hạn để xác định ngân quỹ
trong 3-5 năm, đáp ứng được yêu cầu chi ngân sách trong khuôn khổ nguồn lực cho
phép và thể hiện tính bền vững. Đây là yêu cầu đầu tiên cần tôn trọng trong cân đối
ngân sách.
Ngân sách nói chung và chi ngân sách nói riêng phải gắn với chính sách kinh
tế, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế trung và dài hạn.
Chi ngân sách phải dựa trên nguồn thu có được, nhưng nguồn thu lại được
hình thành chủ yếu từ hoạt động kinh tế và gắn với chính sách kinh tế, gắn với mục
tiêu vĩ mô. Mặt khác, trong bất cứ nền kinh tế nào và đặc biệt là kinh tế thị trường,

trách nhiệm của Nhà nước là phải tập trung giải quyết vấn đề về phát triển kinh tế
xã hội, giáo dục, y tế, xoá đói giảm nghèo, trợ cấp xã hội, bảo vệ môi trường,
phòng chống dịch bệnh, khắc phục chênh lệch giữa các vùng, miền... NSNN chính
là công cụ để Nhà nước thực hiện trách nhiệm xã hội to lớn đó. Điều đó thể hiện
chỉ có gắn chi ngân sách với chính sách kinh tế thường niên, mục tiêu kinh tế trung
và dài hạn thì mới tạo được sự nhất quán, đảm bảo chi ngân sách đạt được tính khả
thi cao và dự báo ngân sách chuẩn xác hơn.
Chi ngân sách phải đảm bảo tính minh bạch, công khai trong cả quy trình từ
khâu lập, tổ chức thực hiện, quyết toán, báo cáo và kiểm toán.
Chi ngân sách thực chất là chi chủ yếu từ nguồn thuế, phí do dân đóng góp
nên phải đảm bảo rõ ràng, công khai để các tổ chức cá nhân giám sát và tham gia.
Thực hiện nguyên tắc này vừa nâng cao trách nhiệm của các tổ chức cá nhân có
liên quan đến ngân sách, vừa đảm bảo sử dụng ngân sách có hiệu quả, vừa giúp
cho phát hiện chỉnh sửa để thông tin về ngân sách sát đúng thực tiễn hơn.
Chi ngân sách nhà nước phải cân đối hài hoà giữa ngành, địa phương, giữa
trung ương, địa phương, kết hợp giải quyết ưu tiên chiến lược trong từng năm với
trung và dài hạn.
Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển ngành - địa phương, giữa các ngành,
giữa các địa phương để xây dựng ngân sách, thúc đẩy phát triển cân đối, toàn diện,
tạo ra mối quan hệ tương tác hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngành các địa phương.
Giải quyết mối quan hệ giữa trung ương- địa phương theo hướng phân cấp
mạnh cho địa phương để khuyến khích địa phương khai thác tiềm tàng thế mạnh,
gắn trách nhiệm với quyền lợi địa phương, đồng thời tạo chủ động cao nhất cho địa


phương, phân cấp ngân sách trên cơ sở phân cấp kinh tế xã hội giúp địa
phươngđiều hành nhất quánvà thuận lợi hơn. Song với những chính sách quan
trọng, những nội dung chi ảnh hưởng lớn trong phạm vi quốc gia cần tập trung
nguồn lực để điều phối thống nhất trong phạm vi quốc gia.
Cần tập trung giải quyết ưu tiên chiến lược, bởi thực tiễn cho thấy nhu cầu

cung cấp hàng hoá dịch vụ công trong kinh tế thị trường rất đa dạng phong
phú.Chưa có một quốc gia phát triển nào lại có nguồn lực tài chính dồi đào để đáp
ứng đủ mọi nhu cầu chi tiêu. Vì vậy, phải sắp xếp thứ tự ưu tiên chiến lược để tập
trung giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước, những vấn đề có tác động
tích cực đến các lĩnh vực khác, tạo động lực cho sự phát triển, hoặc giải quyết
những vấn đề bức xúc về đời sống xã hội. Nguyên tắc này tạo cho chi ngân sách trở
thành công cụ hữu hiệu để điều hành có hiệu quả, gắn ngân sách với chính sách
kinh tế và đảm bảo cho ngân sách được cân đối vững chắc, chủ động khi có biến
động về nguồn thu. Việc điều hành chi ngân sách cần tập trung nguồn lực giải quyết
được những ưu tiên bắt buộc, những ưu tiên ở cấp độ thấp hơn được giải quyết tuỳ
khả năng cân đối ở từng thời điểm.
Chi ngân sách phải gắn kết giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên.
Bố trí cơ cấu chi hợp lý để vừa giải quyết vấn đề tăng trưởng và đáp ứng dịch
vụ mang tính thường xuyên. Đồng thời chi ngân sách phải tạo được động lực
khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia cùng với Nhà nước cung cấp dịch vụ
thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của mọi người dân.
Như trên đã phân tích, nguồn lực huy động vào ngân sách cóhạn trong khi
nhu cầu lớn đòi hỏi phải cân nhắc dành cho đầu tư phát triển bao nhiêu, dành cho
chi thường xuyên bao nhiêu để vừa giải quyết vấn đề trước mắt vừa giải quyết tăng
trưởng trong tươnglai.Mặt khác, trước đây với ngân sách truyền thống thì giữa chi
đầu tư phát triển và chi thường xuyên ít gắn kết với nhau.Vì vậy, sự phối hợp giữa
hai khoản chi để phát huy hiệu quả của chi ngân sách còn hạn chế.Có thể khắc phục
tình trạng này bằng cách phối hợp giữa hai khoản chi trong từng chương trình dự
án.Như vậy, vừa đảm bảo sự kết hợp để xác định cơ cấu từng khoản chi lại có thể
xem xét ở góc độ hiệu quả.


Quản lý chi NSNN phải là tác động đòn bẩy để thúc đẩy các thành phần
khác tham gia cung cấp dịch vụ công, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ đa dạng, phong
phú của mọi đối tượng.

Cơchế thị trường cần nhiều hàng hoá dịch vụ công chất lượng cao, trong đó
nhiều dịch vụ người dân có thể bỏ tiền một phần hoặc toàn bộ để được hưởng
thụ.Đồng thời, những người cung cấp dịch vụ muốn tham gia và tổ chức thu tiền từ
người dân được hưởng trực tiếp mà không cần nhà nước phải bỏ toàn bộ tiền để
mua dịch vụ đó. Thực tế đó làm giảm áp lực đối với NSNN, chi ngân sách chỉ dành
cho những dịch vụ công mà tư nhân không muốn làm hoặc không thể làm mà
không có sự tham gia từ Nhà nước.Vai trò của chi ngân sách ở đây như đòn bẩy tác
động, Nhà nước đảm nhận một phần trách nhiệm, tạo sức hấp dẫn để các thành
phần kinh tế có thể tham gia cung cấp hàng hoá dịch vụ công.
Đây là điểm khác cơ bản giữa chi ngân sách trong cơ chế thị trường với chi
ngân sách ở các nền kinh tế khác, ngân sách không là nguồn cung cấp duy nhất cho
những dịch vu công, vai trò tư nhân ngày càng được nhìn nhận như một lực lượng
quan trọng để nâng cao chất lượng dịch vụ công cả về mức độ thoả mãn và tính đa
dạng của dịch vụ công.
Nhìn chung, kinh tế thị trường đưa ra những yêu cầu nghiêm ngặt trong quản
lý chi ngân sách nhà nước, đó vừa là đòi hỏi để thích ứng, đồng thời bản thân cơ
chế thị trường cũng tạo ra những nhân tố thuận lợi giúp cho thực hiện những
nguyên tắc đó.
1.2.2. Vai trò kế toán chi ngân sách nhà nước
Tổ chức kế toán NSNN có vai trò quan trọng đối với việc quản lý và điều
hành ngân sách từ khâu lập kế hoạch dự toán chi NSNN cho đến khâu quyết toán
chi NSNN. Vai trò cụ thể như sau:
- Cung cấp thông tin lập dự toán chi NSNN: Công tác lập dự toán NSNN
phải căn cứ vào nguồn thu và nhiệm vụ chi NSNN. Thu – chi NSNN luôn đảm bảo
cân đối. Vì vậy, nếu để tình trạng chi NSNN vượt quá nguồn thu tức là xảy ra tình
trạng thâm hụt ngân sách (chi lớn hơn thu), sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh
tế hoặc ngược lại nếu công tác lập dự toán NSNN thiếu thông tin kế toán dẫn đến
việc nhiệm vụ chi làm cho việc thực hiện chi chuyển nguồn quá lớn sẽ gây lãng phí
trong bố trí nhiệm vụ chi chuyển nguồn năm nay phục vụ cho công tác lập dự toán



NSNN năm sau nói chung và dự toán chi NSNN năm nay nói riêng. Đối với thời kỳ
ổn định của ngân sách, số liệu chi NSNN năm nay là cơ sở để xác định nhiệm vụ
chi và mức chi cho năm sau.
- Thông tin kế toán chi NSNN phục vụ đắc lực cho công tác điều hành thu –
chi ngân sách có hiệu quả.
Số liệu chi NSNN phục vụ cho việc xác định tồn ngân quỹ tại một thời
điểm.Trong nền kinh tế còn nhiều khó khăn, việc bố trí đầy đủ tồn ngân quỹ cho
công tác chi NSNN là rất khó.Mặc dù vậy, nhu cầu chi cho chi thường xuyên, chi
đầu tư phát triển lại rất lớn.Vì vậy, số liệu chi NSNN sẽ giúp công tác điều hòa vốn
NSNN được tốt hơn.
- Thông tin kế toán chi NSNN phục vụ cho công tác giám sát việc chấp hành
NSNN ở các thời điểm, phản ánh tình hình thực hiện dự toán đồng thời với chức
năng giám sát của kế toán NSNN sẽ cung cấp cho nhà quản lý thông tin về tình
hình chấp hành các chế độ chính sách về chi NSNN để kịp thời từ chối, bổ sung
chứng từ, nâng cao trách nhiệm chấp hành luật NSNN của các chủ chi, đồng thời
ngăn ngừa và xử lý các trường hợp sai phạm.
- Thông tin phục vụ lập báo cáo quyết toán, công khai NSNN:
Báo cáo quyết toán NSNN phải được Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp
phê chuẩn và thực hiện công khai theo qui chế dân chủ theo qui định của luật
NSNN. Thông tin kế toán chi NSNN phục vụ công tác lập và phân tích báo cáo
quyết toán NSNN có vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá chất lượng dự toán,
đánh giá hiệu quả của các biện pháp điều hành ngân sách.
1.3. Kế toán chi ngân sách nhà nước tại kho bạc nhà nước
1.3.1. Kế toán chi thường xuyên
1.3.1.1. Chứng từ ban đầu
* Lệnh chi tiền (Mẫu số C2-01a/NS)
- Mục đích
Lệnh chi tiền là chứng từ kế toán do cơ quan Tài chính lập hoặc UBND xã lập
để làm căn cứ thực hiện trích quỹ NSNN để cấp kinh phí ngân sách cho các đối

tượng thụ hưởng hoặc chuyển nguồn kinh phí ngân sách; là căn cứ để CQTC,
KBNN hạch toán chi NSNN.


- Phương pháp và trách nhiệm ghi chép đối với KBNN
(1) Đối với LCT do cơ quan tài chính nhập:
KTV KBNN nhận LCT, kiểm tra các thông tin có liên quan nếu phù hợp, hoàn
thiện các yếu tố thanh toán theo quy định, in LCT phục hồi.
+ Ký và đóng dấu đầy đủ vào nơi quy định.
(2) Đối với LCT NS xã
+ Ghi mã địa bàn hành chính.
+ Định khoản nghiệp vụ chi NSNN.
+ Ghi ngày, tháng, năm hạch toán.
+ Ký và đóng dấu đầy đủ vào nơi quy định.
- Luân chuyển chứng từ:
(1) Đối với LCT do cơ quan tài chính nhập:
Cơ quan tài chính lập 01 liên LCT làm căn cứ hạch toán và lưu.
(2) Đối với LCT NS xã
Dùng trong trường hợp xã là một cấp ngân sách.
UBND xã lập Lệnh chi tiền (gồm 04 liên) gửi KBNN nơi mở tài khoản. Tại
KBNN, các liên chứng từ được xử lý như sau:
Trường hợp thanh toán bằng tiền mặt:
+ 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
+ 01 liên để báo nợ cho UBND xã;
+ 02 liên thừa hủy bỏ.
- Trường hợp thanh toán bằng chuyển khoản:
- Trường hợp đơn vị nhận tiền có tài khoản tại KBNN nơi nhận Lệnh chi tiền:
+ 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
+ 01 liên báo nợ cho xã;
+ 01 liên báo có cho đơn vị;

+ 01 liên UNC thừa hủy bỏ.
- Trường hợp đơn vị hưởng có tài khoản tại ngân hàng:
+ 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
+ 01 liên báo nợ cho xã;
+ 02 liên chứng từ còn lại được sử dụng làm chứng từ thanh toán nếu giao
nhận chứng từ thủ công với NH hoặc hủy bỏ nếu thanh toán điện tử với ngân hàng.


- Trường hợp đơn vị hưởng có tài khoản tại KBNN khác:
+ 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
+ 01 liên báo nợ cho xã;
+ 02 liên chứng từ còn lại được hủy bỏ.
* Giấy rút dự toán ngân sách (Mẫu số C2-02/NS)
- Mục đích
Giấy rút dự toán ngân sách là chứng từ kế toán do đơn vị SDNS lập để rút
kinh phí thường xuyên của ngân sách (dự toán kinh phí thường xuyên, dự toán
thường xuyên CTMT và dự toán kinh phí ủy quyền thường xuyên, khác) bằng tiền
mặt hoặc chuyển khoản; là căn cứ để KBNN hạch toán chi NSNN.
- Phương pháp và trách nhiệm ghi chép đối với KBNN:
+ Trường hợp chứng từ phải qua kiểm soát chi của bộ phận ngoài bộ phận kế
toán thì Bộ phận kiểm soát: ghi ngày, tháng, năm, ký vào nơi quy định.
+ Kế toán: định khoản, ghi đầy đủ các yếu tố quy định vào ô “Phần KBNN
ghi”; ghi ngày, tháng, năm vào dòng “KBNN ghi sổ và thanh toán...”.
+ Thủ quỹ (trong trường hợp lĩnh tiền mặt): chi tiền cho đơn vị, đóng dấu “ĐÃ
CHI TIỀN”;
+ Ký và đóng dấu đầy đủ vào nơi quy định.
- Luân chuyển chứng từ
Trường hợp rút dự toán kinh phí bằng tiền mặt:
- Đối với chứng từ do bộ phận kế toán trực tiếp kiểm soát chi: Đơn vị SDNS
lập 02 liên Giấy rút dự toán ngân sách gửi KBNN. Các liên chứng từ được xử lý

như sau:
+ 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
+ 01 liên trả lại đơn vị.
- Đối với chứng từ do bộ phận khác ngoài bộ phận kế toán thực hiện kiểm soát
chi: Đơn vị SDNS lập 03 liên Giấy rút dự toán NS gửi KBNN. Các liên chứng từ
được xử lý như sau:
+ 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
+ 01 liên gửi bộ phận kiểm soát;
+ 01 liên trả lại đơn vị (Qua bộ phận KSC).
Trường hợp rút dự toán kinh phí bằng chuyển khoản:


- Trường hợp đơn vị SDNS và đơn vị nhận tiền có tài khoản tại một KBNN:
+ Đối với chứng từ do bộ phận kế toán trực tiếp kiểm soát chi: Đơn vị SDNS
lập 03 liên Giấy rút dự toán ngân sách gửi KBNN. Các liên chứng từ được xử lý
như sau:
 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
 01 liên báo Nợ cho đơn vị rút dự toán;
 01 liên báo Có cho đơn vị nhận tiền.
+ Đối với chứng từ do bộ phận khác ngoài bộ phận kế toán thực hiện kiểm
soát chi: Đơn vị SDNS lập 04 liên Giấy rút dự toán ngân sách gửi KBNN. Các liên
chứng từ được xử lý như sau:
 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
 01 liên gửi bộ phận kiểm soát;
 01 liên báo Nợ cho đơn vị trả tiền (Qua bộ phận kiểm soát chi);
 01 liên báo Có cho đơn vị nhận tiền.
- Trường hợp đơn vị nhận tiền có tài khoản tại NH hoặc KBNN khác:
+ Đối với chứng từ do bộ phận kế toán trực tiếp kiểm soát chi: Đơn vị SDNS
lập 04 liên Giấy rút dự toán ngân sách gửi KBNN. Các liên chứng từ được xử lý
như sau:

 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
 01 liên báo Nợ cho đơn vị rút dự toán;


02 liên làm chứng từ thanh toán hoặc hủy bỏ (tùy theo phương thức

thanh toán).
+ Đối với chứng từ do bộ phận khác ngoài bộ phận kế toán thực hiện kiểm
soát chi: Đơn vị SDNS lập 05 liên Giấy rút dự toán ngân sách gửi KBNN. Các liên
chứng từ được xử lý như sau:
 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
 01 liên gửi bộ phận kiểm soát;
 01 liên báo Nợ cho đơn vị rút dự toán;

thanh toán).

02 liên làm chứng từ thanh toán hoặc hủy bỏ (tùy theo phương thức


Lưu ý: Đối với trường hợp rút dự toán chi ngân sách do Bộ phận kiểm soát
ngoài bộ phận kế toán thực hiện kiểm soát thì bộ phận kiểm soát chi phải ghi rõ
ngày, tháng, năm kiểm soát và ký vào nơi quy định trước khi chuyển cho bộ phận
kế toán.
* Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng, ứng trước (Mẫu số C2-03/NS)
- Mục đích
Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng, ứng trước là chứng từ kế toán do đơn vị
SDNS lập đề nghị KBNN thanh toán số kinh phí chi thường xuyên, chi khác đơn vị
đã tạm ứng khi có đủ chứng từ, khối lượng thanh toán:
- Chuyển tạm ứng thành thực chi NSNN;
- Chuyển khoản ứng trước chưa đủ ĐKTT thành ứng trước đủ ĐKTT;

Là căn cứ để KBNN hạch toán.
- Phương pháp và trách nhiệm ghi chép đối với KBNN
+ Ghi số tiền KBNN duyệt thanh toán cho đơn vị: số KBNN duyệt sẽ nhỏ hơn
hoặc bằng số đơn vị đề nghị thanh toán (tại cột KBNN duyệt thì ghi chi tiết theo
tiểu mục - mỗi tiểu mục ghi trên một dòng).
+ Phần dành cho KBNN ghi: Ghi rõ nội dung đồng ý duyệt thanh toán cho đơn
vị, Ghi số tiền bằng chữ (bằng với số tổng cộng tại cột “Số KBNN duyệt thanh
toán”).
+ Kế toán định khoản, ghi đầy đủ các yếu tố quy định trên chứng từ: mã địa
bàn hành chính; ghi ngày, tháng, năm hạch toán.
+ Đối với khoản thanh toán tạm ứng chi do Bộ phận kiểm soát ngoài bộ phận
kế toán thực hiện kiểm soát thì bộ phận kiểm soát chi phải ghi rõ ngày, tháng, năm
kiểm soát và ký vào nơi quy định trước khi chuyển cho bộ phận kế toán.
+ Bộ phận kế toán ký và đóng dấu đầy đủ vào nơi quy định.
- Luân chuyển chứng từ
- Đối với dự toán kinh phí thường xuyên do bộ phận kế toán thực hiện kiểm
soát chi: Đơn vị SDNS lập 02 liên Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng gửi KBNN.
Các liên chứng từ được xử lý như sau:
+ 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
+ 01 liên trả lại đơn vị.


- Đối với thanh toán dự toán kinh phí do bộ phận khác (ngoài kế toán) thực
hiện kiểm soát chi: Đơn vị SDNS lập 03 liên Giấy đề nghị thanh toán tạm ứng gửi
KBNN. Các liên chứng từ được xử lý như sau:
+ 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
+ 01 liên gửi bộ phận kiểm soát
+ 01 liên trả đơn vị (Qua bộ phận kiểm soát chi).
Lưu ý:Đối với khoản thanh toán tạm ứng, ứng trước do Bộ phận kiểm soát
ngoài bộ phận kế toán thực hiện kiểm soát thì bộ phận kiểm soát chi phải ghi rõ

ngày, tháng, năm kiểm soát và ký vào nơi quy định trước khi chuyển cho bộ phận
kế toán.
* Giấy nộp trả kinh phí (Mẫu số C2-05/NS)
Mục đích
Giấy nộp trả kinh phí là chứng từ kế toán do đơn vị SDNS lập để nộp trả
NSNN số kinh phí đã tạm ứng theo dự toán nhưng không đủ điều kiện thanh toán,
các khoản thực chi cấp sai nội dung hoặc các khoản kinh phí phải thu hồi theo
quyết định của cơ quan có thẩm quyền; là căn cứ để KBNN hạch toán thu hồi kinh
phí cho NSNN.
Phương pháp và trách nhiệm ghi chép đối với KBNN
- Trường hợp nộp trả kinh phí bằng chuyển khoản: Kế toán định khoản, ghi
ngày, tháng, năm, ký đầy đủ vào nơi quy định.
- Trường hợp nộp bằng tiền mặt: Kế toán kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của
chứng từ chuyển thủ quỹ thu tiền. Thủ quỹ sau khi thu tiền ký, đóng dấu “ĐÃ THU
TIỀN” vào nơi quy định trả chứng từ cho kế toán hạch toán.
- Trường hợp nộp trả kinh phí NSNN năm trước khi chưa quyết toán NSNN
phải định khoản cả 2 bút toán trên chứng từ (kỳ năm nay và kỳ 13 năm trước)
Luân chuyển chứng từ
- Đối với thanh toán kinh phí thường xuyên do bộ phận kế toán thực hiện kiểm
soát chi: Đơn vị SDNS lập 02 liên Giấy nộp trả kinh phí gửi KBNN. Các liên
chứng từ được xử lý như sau:
+ 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
+ 01 liên trả lại đơn vị.


- Đối với kinh phí do bộ phận khác (ngoài kế toán) thực hiện kiểm soát chi:
Đơn vị sử dụng NS lập 03 liên Giấy nộp trả kinh phí. Các liên chứng từ được xử lý
như sau:
+ 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
+ 01 liên gửi bộ phận kiểm soát;

+ 01 liên trả lại đơn vị.
Lưu ý: Đối với khoản nộp trả kinh phí do Bộ phận kiểm soát ngoài bộ phận kế
toán thực hiện kiểm soát thì bộ phận kiểm soát chi phải ghi rõ ngày, tháng, năm
kiểm soát và ký vào nơi quy định trước khi chuyển cho bộ phận kế toán.
 Giấy rút dự toán ngân sách bằng ngoại tệ (Mẫu số C2-06/NS)
Mục đích
Giấy rút dự toán ngân sách bằng ngoại tệ là chứng từ kế toán do đơn vị SDNS
lập, đề nghị KBNN rút dự toán ngân sách bằng ngoại tệ; là căn cứ để KBNN hạch
toán chi NSNN bằng ngoại tệ quy ra đồng Việt Nam theo tỷ giá hạch toán của Bộ
Tài chính và đề nghị ngân hàng trích tài khoản ngoại tệ của KBNN thanh toán cho
đơn vị.
Phương pháp và trách nhiệm ghi chép đối với KBNN
- Định khoản nghiệp vụ.
- Kế toán ghi mã địa bàn hành chính.
- Phần “Kho bạc Nhà nước duyệt chi”: ghi chi tiết số ngoại tệ duyệt chi và số
tiền Việt Nam quy đổi tương ứng sau khi đã thực hiện kiểm soát chi tiết theo từng
khoản chi.
- Ghi đầy đủ ngày tháng năm hạch toán, ký và đóng dấu đầy đủ vào nơi quy định.
Luân chuyển chứng từ
Đơn vị lập 03 liên Giấy rút dự toán ngân sách bằng ngoại tệ (trường hợp chỉ
sử dụng một phương thức thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản) hoặc 04
liên nếu sử dụng cả hai phương thức (tiền mặt và chuyển khoản), gửi KBNN kèm
hồ sơ chi. Kế toán KBNN xử lý như sau:
+ 01 liên làm căn cứ hạch toán và lưu;
+ 01 hoặc 02 liên còn lại gửi ngân hàng để trích tài khoản tiền gửi ngoại tệ của
KBNN tại ngân hàng thanh toán cho đơn vị (01 liên nếu chỉ chi tiền mặt hoặc chỉ


×