Tải bản đầy đủ (.pdf) (2 trang)

Ứng dụng rong câu cải thiện chất lượng nước nuôi tôm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.87 KB, 2 trang )

Ứng dụng rong câu cải thiện chất lượng nước nuôi tôm

Nguồn: vietlinh.com.vn
Mô hình kết hợp nuôi trồng rong câu trong ao xử lý nước thải từ ao hồ nuôi
tôm sú công nghiệp đã mang lại hiệu quả khá tốt trong việc giảm tải nguồn vật lơ
lửng, muối dinh dưỡng vô cơ và dinh dưỡng hữu cơ, đồng thời làm giảm đáng kể
sự phát triển của tảo trong nước.
CÁCH BỐ TRÍ HỆ THỐNG
Hệ thống nuôi tuần hoàn gồm 3 ao riêng biệt: Ao tôm sú thương phẩm
(Penaeus monodon), chiếm 62% tổng diện tích, mật độ 25-30 post larvae/m2; ao
rong câu, diện tích chiếm 17% tổng diện tích, mật độ ban đầu 1kg tươi/m2 và ao
chứa, diện tích chiếm 21% tổng diện tích. Nước bắt đầu được tuần hoàn giữa hai
ao rong và tôm vào tháng thứ hai của vụ nuôi.
Nước từ ao tôm được tháo chảy qua ao chứa khoảng 1/7-1/6 thể tích nước
trong ao tôm, sau đó bơm qua ao rong câu. Nước được giữ ở ao rong câu 3 ngày
rồi được bơm tiếp trở lại ao tôm, còn lần kế tiếp thì phải bơm nước từ ao rong qua
ao tôm trước khi bơm nước từ ao chứa sang ao rong câu. Quá trình xử lý nước tiếp
tục như vậy, mỗi tháng xử lý được 100 – 120% thể tích nước trong ao tôm. Ao
chứa chỉ có chức năng chứa và xử lý nước sơ bộ bằng trầm tích. Lượng nước bay
hơi và thẩm thấu được bổ sung bằng nguồn nước bên ngoài, tốt nhất bằng nguồn
nước ngọt để duy trì được độ mặn theo yêu cầu của tôm theo từng lứa tuổi. So
sánh đường đi của nước trong hai hệ thống nuôi tôm sú, truyền thống và mới (mũi
tên chỉ đường đi của nước).
HIỆU QUẢ MÔI TRƯỜNG, KINH TẾ CỦA MÔ HÌNH
Mô hình kết hợp nuôi trồng rong câu trong ao xử lý nước thải từ ao hồ nuôi
tôm sú công nghiệp có hiệu quả khá tốt trong việc giảm tải nguồn vật lơ lửng,
muối dinh dưỡng vô cơ và dinh dưỡng hữu cơ, đồng thời kéo theo sự giảm đáng
kể sự phát triển của tảo trong nước. Hàm lượng các muối dinh dưỡng trong ao tôm
thí nghiệm, nhất là ammoni trung bình cả vụ (488,6 243,2mg N-Nh4+.1-1) giảm
21,4% so với ao tôm đối chứng (609,8 302,5 g N-Nh4+.1-1) và nhỏ hơn kết quả
nghiên cứu của Vũ Dũng & CS (201) trong mô hình nuôi tôm sú ít thay nước ở


khu vực Hải Phòng (0,6 – 0,8 0,04). Điều đó chứng tỏ ao rong đã góp phần tích
cực trong việc cải thiện chất lượng nước hơn ao lắng không rong, duy trì các yếu
tố thuận lợi cho tôm phát triển và đồng thời giảm chất thải giàu dinh dưỡng ra môi
trường. Ngoài giá trị xử lý môi trường, rong câu cũng là các đối tượng nuôi trồng
có giá trị kinh tế cao ở nước ta và nhiều nước trên thế giới, nên cũng là một nguồn
thu nhập phụ của nhà nuôi trồng. Kết quả tổng hợp hiệu quả của mô hình xử lý
nước thải bằng việc nuôi trồng rong cho thấy không những lợi ích về kinh tế mà
còn giảm thiểu chất thải đổ trực tiếp ra môi trường gây ô nhiễm các vực nước ven
biển, làm tác động xấu đến đa dạng sinh thái.

×