Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

Văn xuôi viết cho thiếu nhi của đoàn lư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 136 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM THỊ QUYÊN

VĂN XUÔI VIẾT CHO THIẾU NHI
CỦA ĐOÀN LƯ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Thái Nguyên - Năm 2014


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM THỊ QUYÊN

VĂN XUÔI VIẾT CHO THIẾU NHI
CỦA ĐOÀN LƯ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Hồng My

Thái Nguyên - Năm 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì
công trình nào khác.
này đã được chỉnh sửa theo ý kiến đóng
góp của hội đồng chấm luận văn ngày 07 tháng 06 năm 2014.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2014
Tác giả luận văn

PHẠM THỊ QUYÊN


Xác
nhận

X
á
c
n
h

n

c

a
K
h
o
a

c
h
u
y
ê
n
m
ô
n

của
người
hướn
g dẫn
khoa
học

M
T
T
r
a
n
g
b
ì
a
p
h


L

i
c
a
m
đ
o
a
n


Mục lục ................................................................................................................. i
................................................................................................ 1
PHẦN NỘI DUNG........................................................................................... 10
Chương 1: NHÀ VĂN ĐOÀN LƯ VÀ CẢM HỨNG SÁNG TÁC ............. 10
TRONG VĂN XUÔI VIẾT CHO THIẾU NHI ............................................ 10
1.1. Giới thiệu nhà văn Đoàn Lư ....................................................................... 10
1.1.1. Người con của mảnh đất đầu nguồn cách mạng, giàu truyền
thống văn hoá, văn học .............................................................................. 10
1.1.2. Một trí thức vùng cao tiêu biểu, một nghệ sĩ đa tài......................... 12
1.1.3. Bước chuyển bất ngờ trong sự nghiệp từ ước muốn làm được
“điều gì đó” cho trẻ thơ............................................................................. 15
1.2. Nguồn cảm hứng trong sáng, lãng mạn hướng về thế giới trẻ thơ ............. 17
1.2.1. Cảm hứng về khung cảnh vùng cao ................................................. 17
1.2.2. Đề cao các giá trị văn hóa truyền thống ......................................... 24
1.2.3. Cảm hứng trân trọng ngợi ca những con người miền núi “lên
đường không bé nhỏ” ................................................................................ 30
1.2.4. Cảm hứng khoa học táo bạo, lãng mạn ........................................... 39
* Tiểu kết chương 1 ........................................................................................... 43

Chương 2:
THIẾU NHI CỦA ĐOÀN LƯ ....................................................................... 44
2.1. Kho kiến thức hấp dẫn từ những trang văn ................................................ 44
.................................................... 44
2.1.2. Những kiến thức đời sống phong phú, thú vị và thiết thực .............. 52
/>
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

i


2.2. Những bài học nhận thức - giáo dục phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi.......... 58
2.2.1. Những “cuốn sách nhỏ” nuôi dưỡng “tâm hồn lớn”...................... 59
2.2.2. Những bài học giáo dục kĩ năng sống ............................................. 65
* Tiểu kết chương 2 ........................................................................................... 72
Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TIÊU BIỂU ........ 73
3.1. Sự hóa thân linh hoạt của người trần thuật................................................. 73
3.1.1. Hóa thân vào những con vật thông minh......................................... 73
3.1.2. Hóa thân vào các em thiếu nhi ........................................................ 75
3.2. Ngôn ngữ mang đậm sắc thái của thiếu nhi vùng cao ................................ 77
3.2.1. Ngôn ngữ giàu chất trữ tình ............................................................ 77
3.2.2. Ngôn ngữ phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi......................................... 80
3.2.3. Ngôn ngữ mang sắc thái Tày ........................................................... 82
3.3. Giọng điệu chủ đạo: hài hước và dí dỏm hồn nhiên................................... 88
* Tiểu kết chương 3: .......................................................................................... 92
KẾT LUẬN....................................................................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 96
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 1

Số hóa bởi Trung tâm Học

liệu

/>

1. Nếu ví văn học

, thì văn

học thiếu nhi như một khoảng rừng xanh non, góp phần tạo nên sự phong phú
của văn học dân tộc. Theo nhà nghiên cứu Phương Lựu: văn học người lớn và
văn học thiếu nhi là những hiện tượng có quan hệ lẫn nhau. Đó không chỉ là hai
dạng sáng tạo mà còn là những bình thông nhau. Thiếu văn học cho trẻ em thì
lịch sử văn học người lớn cũng như ý nghĩa của nó sẽ không đầy đủ. Còn theo ý
kiến của nhà thơ Hữu Thỉnh: “Văn học thiếu nhi rất quan trọng và không thể
thiếu. Mỗi tác phẩm có giá trị được ví như một người thầy không những bồi
dưỡng tâm hồn mà còn định hướng cho các em” [12].
Là một bộ phận của văn học dân tộc, ra đời và phát triển từ sau cách mạng
tháng tám, đến nay văn học thiếu nhi của ta đã đạt được những thành tựu đáng
kể; đã có những cây bút để lại dấu ấn sâu đậm với bạn đọc tuổi thơ: Tô Hoài,
Võ Quảng, Nguyễn Huy Tưởng, Phạm Hổ, Xuân Quỳnh, Phùng Quán, Phong
Thu, Tạ Duy Anh, Nguyễn Nhật Ánh, Trần Thiên Hương, Lê Cảnh Nhạc,
Nguyễn Ngọc Thuần v.v… Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, số nhà văn chuyên
tâm sáng tác cho thiếu nhi chưa nhiều. Trong bài viết Cảm nhận về văn học
thiếu nhi Việt Nam đầu thế kỉ XXI, PGS. TS. Lã Thị Bắc Lý đã tổng kết những
thành tựu của văn học thiếu nhi 20 năm cuối thế kỉ XX, đồng thời ghi nhận công
lao đóng góp của các nhà văn đã bền bỉ sáng tác cho lứa tuổi này. Theo đánh giá
của tác giả, ta thấy hầu hết các nhà văn sáng tác cho thiếu nhi đều là người sinh
sống và làm việc ở những thành phố lớn, những trung tâm văn hóa lớn: Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,…và chủ yếu là khu vực miền nam, miền
xuôi. Số nhà văn người dân tộc thiểu số miền núi tham gia vào mảng văn học

này còn hiếm hoi. Trước thực tế đó, viết cho thiếu nhi là điều đáng khích lệ. Đặc
biệt, những cây bút miền núi viết cho thiếu nhi càng xứng đáng được khuyến
khích và trân trọng.

Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu

/>

2. Đoàn Lư là một trong số ít những nhà văn dân tộc miền núi sáng tác cho
thiếu nhi. Ông là người dân tộc Tày, sống và làm việc tại Cao Bằng – mảnh đất
biên cương gắn với tên tuổi của các nhà văn, nhà thơ dân tộc thiểu số: Bàn Tài

Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu

/>

Đoàn, Vi Hồng, Y Phương, Cao Duy Sơn, Hoàng Triều Ân
sáng tác dành cho người lớn thì Đoàn Lư lại chọn cho mình một lối đi riêng.
Ông dành phần lớn thời gian, tâm sức viết cho thiếu nhi. Đến nay, Đoàn Lư đã
có những thành công đáng ghi nhận ở mảng văn học này. Ông là tác giả quen
thuộc và có uy tín với nhà xuất bản Kim Đồng. Sáng tác của ông đã đến với
thiếu nhi dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa. Từ năm học 2011-2012, truyện
ngắn Cô bé nhặt hoa rụng được chọn giảng dạy cho học sinh lớp 7, trong
chương trình ngữ văn địa phương tỉnh Cao Bằng.
Sáng tác của Đoàn Lư đã vượt ra biên giới của những bản làng xa xôi, nhỏ
bé để đến với bạn đọc thiếu nhi cả nước. Nhà xuất bản Trẻ thành phố Hồ Chí
Minh đã mua bản quyền và chọn in tác phẩm Kỉ niệm về một dòng sông trong
“Tuyển truyện hay dành cho thiếu nhi” (tháng 4/2013). Cuốn tiểu thuyết khoa

học viễn tưởng Lêna-Kítti cô bé siêu nhân được Đài truyền hình Trung Ương
chọn giới thiệu trong chương

trình“Mỗi ngày một cuốn sách”, kênh

VTV1 (ngày
13/01/2010). Sách truyện thiếu nhi của Đoàn Lư được in và tái bản bởi nhiều nhà
xuất bản có uy tín, được chọn vào“Tủ sách thiếu nhi” hay “Tủ sách vàng” và có
mặt trong nhiều tuyển tập. Trong “Thư viện sách nói dành cho người khiếm thị”
- thư viện sách nói online lớn nhất Việt Nam, Đoàn Lư cũng được chọn 3 tác
phẩm (Tướng cướp hoàn lương; Chân trời rộng mở ; Những mạch nước).
Nhà văn đã vinh dự nhận được nhiều giải thưởng về sáng tác văn học dành cho
thiếu nhi.
3. Tác giả luận văn hiện là giáo viên THPT tại Cao Bằng. Quá trình công
tác đã giúp tác giả nhận thức sâu sắc vai trò của văn học đối với công tác giáo
dục thiếu niên tại địa bàn miền núi. Sự quan tâm đến văn học thiếu nhi (Năm
2007, tác giả đã thực hiện đề tài: “Tuổi thiếu niên trong Ti-Mua và đồng đội của
A. Gaiđa”- Khóa luận tốt nghiệp tại trường ĐHSP I Hà Nội) cùng với niềm tự
hào về truyền thống văn học của quê hương Cao Bằng và nhu cầu bồi dưỡng,
nâng cao kiến thức phục vụ công tác giáo dục thiếu nhi cũng là những lý do
Số hóa bởi Trung tâm Học
/>liệu


khiến tác giả luận văn lựa chọn đề tài Văn xuôi viết cho thiếu nhi của Đoàn
Lư.

Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu


/>

Đoàn Lư bắt đầu sáng tác từ 1995 với tác phẩm Lão Lìm được giới thiệu
trên báo Thiếu niên Tiền phong. Đến năm 1997, ông đã hiện diện trong lĩnh
vực sáng tác với tư cách một nhà văn viết cho thiếu nhi. Trong quá trình nghiên
cứu, chúng tôi đã tập hợp và phân loại những tài liệu nghiên cứu theo nhóm
như sau:
1. Nhóm bài giới thiệu về Đoàn Lư trong các công trình nghiên cứu về văn
học thiếu nhi và văn học thiểu số Việt Nam:
Trong giáo trình Văn học trẻ em (Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, 2003)
và bài viết “Văn học thiếu nhi thời kì đổi mới” (trích Văn học Việt Nam sau
1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo Dục, năm 2006),
PGS.TS Lã Thị Bắc Lý đề cập đến truyện ngắn Kiềng ba chân và Chân trời
rộng mở của Đoàn Lư và nhận xét: “Tác phẩm đã khiến người đọc càng hiểu
và yêu mến sự hồn nhiên, mộc mạc, đời sống tâm hồn chất phác mà biết bao
nghĩa tình của con người vùng cao” [16, tr.165].
Năm 2011, trong công trình nghiên cứu Văn học dân tộc thiểu số Việt
Nam thời kì hiện đại - một số đặc điểm PGS. TS Trần Thị Việt Trung – TS.
Cao Thị Hảo đã nêu tên 4 tập truyện của Đoàn Lư. Trong đó có 3 tập truyện
thiếu nhi: Miếng hiểm cuối cùng (1995); Tướng cướp hoàn lương (1997);
Ngựa hoang lột xác (1998).
Năm 2013, khi nghiên cứu: Bản sắc dân tộc trong sáng tác của một số
nhà văn dân tộc thiểu số, PGS.TS Đào Thủy Nguyên và nhóm nghiên cứu đã
khảo sát 4 tập truyện của Đoàn Lư. Trong đó Miếng hiểm cuối cùng (1995);
Lêna-Kítti cô bé siêu nhân (2009) và một số tác phẩm của Những truyện ngắn
chọn lọc (2006) là văn học thiếu nhi. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một đề
tài rộng, trọng tâm nghiên cứu là “bản sắc dân tộc”. Do đó, sáng tác của Đoàn
Lư cũng chỉ được điểm qua trong mục“cảm hứng về thiên nhiên, đất nước” với

Số hóa bởi Trung tâm Học

liệu

/>

nhận định: “Nhiều truyện ngắn của Đoàn Lư (…) là lời cảnh báo con người
trước những hành động tàn ác, gây sự với thiên nhiên” [46, tr.63].
Như vậy, trong các công trình nghiên cứu về văn học thiểu số, Đoàn Lư
được giới thiệu với tư cách là một nhà văn dân tộc Tày, sáng tác đặt trong sự
phát triển chung của văn học thiểu số chứ chưa được khẳng định là nhà văn viết
cho thiếu nhi một cách chuyên nghiệp. Còn trong các công trình nghiên cứu về
văn học thiếu nhi, ông được coi là một nhà văn miền núi có tác phẩm sáng tác
cho thiếu nhi song chưa được chú ý tới một cách hệ thống.
2. Nhóm bài giới thiệu, nghiên cứu tác phẩm của Đoàn Lư:
Năm 1997, trong lời giới thiệu cuốn Kỉ niệm về một dòng sông của Đoàn
Lư (giải ba cuộc thi “Vì tương lai đất nước” lần II)- nhà văn Nguyễn Quang
Sáng đã nhận định: “Các tác phẩm đạt giải đều mang màu sắc riêng của mỗi
địa phương... mỗi truyện đều có một ý nghĩa riêng, có một cách viết hóm hỉnh
và duyên dáng riêng, mỗi tác phẩm đều có sức hấp dẫn riêng” [21, tr.6].
Năm 1998, trong lời nói đầu cuốn Ngựa hoang lột xác (Tủ sách thiếu nhi,
NXB Văn hóa dân tộc), Ban Biên tập đã nhận xét: “Một cây bút khá quen thuộc
với lứa tuổi thiếu nhi, nhất là ở vùng miền núi dân tộc phía Bắc, đó là Đoàn Lư
- một bác sĩ nhi khoa. Với tấm lòng nhân hậu của người thầy thuốc và sự nhạy
cảm của người cầm bút, những trang viết của anh thấm đẫm tình yêu, sự đồng
cảm với bao số phận của trẻ em miền núi. Đọc văn anh, ta cảm nhận được sự
nồng ấm tình người, ngọt ngào trong trẻo như nắng ấm ban mai” [22, tr.5].
Năm 1998, trong Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi, tập 7, NXB
Giáo dục (tái bản năm 2007, tập 2), tác giả Trần Hòa Bình đã viết lời bình về
Con Mốc của bác Luồng - một truyện ngắn của ông. Tác giả nhận
định:“những trang viết của Đoàn Lư quây quần ấm áp một tình người nhưng
vẫn lôi cuốn bởi những chi tiết giản dị mà thú vị”. Tác giả chỉ ra “chất miền

núi” trên trang viết của Đoàn Lư và thấy “một niềm day dứt chân thành” trong
mạch cảm hứng nhân đạo của nhà văn. Về cách viết, Trần Hòa Bình khẳng
Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu

/>

định: “Anh viết văn mà như không làm văn chương, các chi tiết đời sống được
tái hiện bằng một giọng kể hồn nhiên, giản dị, phảng phất đây đó là một chút
hóm hỉnh theo lối nói dân gian” [14, tr.88].
Năm 2010, chương trình “Mỗi ngày một cuốn sách” (13/01/2010) - kênh
VTV1 Đài truyền hình Việt Nam - đã đánh giá cao cuốn tiểu thuyết khoa học
viễn tưởng Lêna-Kítti - cô bé siêu nhân của Đoàn Lư: “Truyện không chỉ hấp
dẫn ở những tình tiết siêu tưởng, kích thích trí sáng tạo của các bé, giúp các bé
sảng khoái hơn, giải tỏa được căng thẳng của bài vở mà còn góp phần giáo
dục đức tính sống vì người khác cho trẻ từ những hành động cao đẹp của cô bé
Lêna-Kítti” [56].
Cũng năm 2010, một bạn văn dân tộc Tày cùng quê hương Cao Bằng là
nhà thơ, dịch giả Triệu Lam Châu đặc biệt quan tâm đến cuốn Lêna-Kítti cô bé
siêu nhân của Đoàn Lư. Trong bài viết Đôi điều cảm nhận về cuốn tiểu thuyết
Lêna-Kitti cô bé siêu nhân của nhà văn Đoàn Lư (Tạp chí “Non nước Cao
Bằng”, số 2/2010) Triệu Lam Châu nhận định: “Nhà văn Đoàn Lư đã tuân
theo đúng lời dạy của Bác Hồ với văn nghệ sĩ: Viết cho ai? Viết cái gì? Viết để
làm gì? Viết như thế nào?” [4, tr.30]. Tác giả bài viết đã trân trọng khẳng định
những thành công của tác phẩm và kết luận: Đoàn Lư là “nhà văn dân tộc thiểu
số đầu tiên dám xông pha dũng cảm vào mảng truyện khoa học viễn tưởng
này” [4, tr.32]. Bài viết của Triệu Lam Châu thể hiện rõ sự tâm đắc với cuốn
tiểu thuyết viễn tưởng của Đoàn Lư.
Cũng năm 2010, Triệu Lam Châu viết tiếp bài Ý tưởng khoa học táo bạo
hay là phẩm chất ưu tú của công dân toàn cầu (tạp chí “Non nước Cao

Bằng”, số 6/2010) khẳng định thành công của Đoàn Lư trong cuốn tiểu thuyết
Lêna-Kítti, Thiên thần của tình yêu. Ông đánh giá những điểm nổi bật của
Đoàn Lư trong cách viết truyện khoa học viễn tưởng. Từ giọng văn: “đầy hăm
hở, giàu nội lực khoa học nhằm chuyên chở một ý tưởng khoa học vô cùng táo
bạo” [5, tr.27]; đến cách viết: “không đi sâu vào việc mô tả tỉ mỉ các vấn đề
Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu

/>

khoa học cơ bản, mà chỉ gợi lên những vấn đề lớn cần giải quyết” [5, tr.28].
Kết hợp với việc phân tích cặn kẽ “lộ trình khoa học” cùng những điều kì thú
mà cô bé siêu nhân cùng các bạn đồng hành đã trải qua, tác giả bài viết cũng
khẳng định “sự công phu tích lũy kiến thức” của Đoàn Lư trong tác phẩm này..
Những ý kiến của Triệu Lam Châu gợi ý cho chúng tôi đi sâu tìm hiểu truyện
khoa học viễn tưởng của Đoàn Lư trong quá trình nghiên cứu.
Qua những tài liệu thu thập được, chúng tôi nhận thấy sáng tác của Đoàn Lư
được chú ý từ những tác phẩm đầu tay. Tác phẩm viết cho thiếu nhi của nhà văn
đã nhận được sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, số lượng các
bài viết chưa nhiều, kết quả nghiên cứu còn hạn hẹp: có công trình điểm tên
Đoàn Lư và một số tác phẩm tiêu biểu của ông trong nền văn học dân tộc thiểu
số Việt Nam; có bài viết mang tính chất giới thiệu hoặc thẩm bình một số tác
phẩm tiêu biểu; chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn xuôi viết cho
thiếu nhi của Đoàn Lư, mặc dù đây là mảng sáng tác có nhiều thành công và
đóng góp của tác giả. Từ thực tế trên, chúng tôi mạnh dạn tập trung nghiên cứu
toàn bộ mảng văn xuôi viết cho thiếu nhi của Đoàn
Lư.
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các tác phẩm văn xuôi viết cho thiếu
nhi của Đoàn Lư.

3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu là các tác phẩm viết cho thiếu nhi
của Đoàn Lư từ năm 1995 đến 2013, cụ thể:
- Miếng hiểm cuối cùng, (tập truyện), NXB Kim Đồng (1995);
- Tướng cướp hoàn lương, (tập truyện), NXB Kim Đồng (1997);
- Kỉ niệm về một dòng sông, (truyện kí), NXB Trẻ (1997);
- Ngựa hoang lột xác, (tập truyện), NXB Văn hóa dân tộc (1998);
- Quái cẩu Pi-tơ-chun (truyện dài), NXB Kim Đồng (1999);
Số hóa bởi Trung tâm Học
/>liệu


- Bên dòng Quây Sơn (truyện dài), NXB Kim Đồng (2000);
- Những giấc mơ thời thơ ấu, (tập truyện), NXB Thanh Hóa (2001);
- Lêna- Kítti - bộ tiểu thuyết khoa học viễn tưởng gồm ba tập:
+ Tập 1: Lêna-Kítti- Cô bé siêu nhân, NXB Văn học, (2009);
+ Tập 2: Thiên thần của tình yêu, NXB Thanh niên, (2010);
+ Tập 3: Ảo thuật gia của sự hồi sinh, NXB Dân Trí, (2012);
- Li kì Xuyên Sơn, (tập truyện), NXB Kim Đồng (2013);
Riêng với tác phẩm Kỉ niệm về một dòng sông, chúng tôi sử dụng văn bản
của NXB Hội nhà văn (2007).
4.1. Mục đích nghiên cứu:
- Chọn đề tài này, trước hết, chúng tôi muốn làm rõ các phương diện cơ
bản, nổi trội trong các tác phẩm văn xuôi viết cho thiếu nhi của Đoàn Lư; từ đó
khẳng định những đóng góp của nhà văn đối với văn học thiếu nhi và văn xuôi
dân tộc thiểu số Việt Nam.
- Khẳng định giá trị nhiều mặt mang tính “tích hợp” trong văn xuôi viết
cho thiếu nhi của Đoàn Lư; khẳng định giá trị của văn học đối với công tác giáo
dục kiến thức đời sống và bồi dưỡng tâm hồn đối với các em thiếu nhi.
- Tiếp tục quảng bá, khích lệ Đoàn Lư và các tác giả viết cho thiếu nhi trên

hành trình sáng tác.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu khái quát về nhà văn Đoàn Lư, nhận diện được chân dung văn
học của tác giả;
- Khảo sát, phân tích các tác phẩm văn xuôi viết cho thiếu nhi của Đoàn
Lư trên các phương diện: cảm hứng sáng tác; những đặc sắc về nội dung và
nghệ thuật;
- Đánh giá về ý nghĩa, tác dụng của những tác phẩm văn xuôi viết cho
thiếu nhi của Đoàn Lư; đánh giá những đóng góp của nhà văn đối với văn học
thiếu nhi và văn học dân tộc thiểu số Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu

/>

Để đạt được mục đích nghiên cứu và thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu
đã xác định, chúng tôi lựa chọn các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp nghiên cứu tác giả, tác phẩm văn học: nhằm xác định ảnh
hưởng của thiên hướng bản thân, gia đình, truyền thống và văn hóa quê hương
tới sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
- Phương pháp thống kê phân loại: sử dụng để khảo sát toàn bộ sáng tác
văn xuôi cho thiếu nhi; nhận diện các phương diện có tính ổn định, thống nhất
trong các tác phẩm; từ đó hình thành hệ thống luận điểm làm sáng tỏ đặc sắc
văn xuôi thiếu nhi của Đoàn Lư.
- Phương pháp so sánh văn học: sử dụng nhằm so sánh các sáng tác cho
thiếu nhi của Đoàn Lư với các nhà văn viết cho thiếu nhi và nhà văn dân tộc
thiểu số khác để có được những đánh giá chính xác và thấu đáo.
- Phương pháp phân tích: đây là phương pháp cơ bản được sử dụng trong
suốt quá trình nghiên cứu; ở từng luận điểm khoa học và nội dung chi tiết của
mỗi vấn đề; khi xem xét từng tác phẩm, từng dẫn chứng cũng như đánh giá

khái quát kết quả nghiên cứu đã thu nhận được.
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu toàn bộ sáng tác văn xuôi viết
cho thiếu nhi của Đoàn Lư; đưa ra những nhận xét khách quan, khoa học về
mảng sáng tác này của tác giả. Từ kết quả đạt được, luận văn khẳng định những
đóng góp có ý nghĩa của ngòi bút Đoàn Lư đối với văn học thiếu nhi cũng như
văn chương dân tộ
.
- Luận văn góp phần vào kết quả nghiên cứu văn học thiếu nhi. Ở nước ta
hiện nay, những công trình nghiên cứu về mảng văn học thiếu nhi chưa nhiều;
(đặc biệt là công trình nghiên cứu sâu về các tác giả dân tộc thiểu số viết cho
thiếu nhi thì hầu như vắng bóng). Vì vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn góp
Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu

/>

phần vào kết quả nghiên cứu văn học thiếu nhi; đặc biệt là văn học thiếu nhi ở
địa bàn miền núi; đồng thời góp phần đưa lại cái nhìn toàn diện hơn về diện
mạo của văn học dân tộc thiểu số nước nhà.
- Đoàn Lư là tác giả có tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương
trình ngữ văn Trung học cơ sở (lớp 7) tại quê hương Cao Bằng. Do đó, luận
văn cũng là tài liệu tham khảo hữu ích đối với việc dạy - học văn ở địa phương.
.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo luận văn gồm có ba
chương như sau:
Chương 1: Nhà văn Đoàn Lư và cảm hứng sáng tác trong văn xuôi vi
.
.
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật tiêu biểu.


Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu

/>

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
NHÀ VĂN ĐOÀN LƯ VÀ CẢM HỨNG SÁNG TÁC
TRONG VĂN XUÔI VIẾT CHO THIẾU NHI
1.1. Giới thiệu nhà văn Đoàn Lư
1.1.1. Người con của mảnh đất đầu nguồn cách mạng, giàu truyền thống văn
hoá, văn học
Nhà văn Đoàn Lư dân tộc Tày, sinh 1959 tại Bản Lằng, xã Đề Thám, huyện
Hòa An, tỉnh Cao Bằng - một tỉnh miền núi có truyền thống cách mạng và văn
chương thật đáng tự hào. Huyện Hòa An quê hương ông là một vùng đất thiêng
nơi địa đầu Tổ quốc. Lịch sử đã chạm khắc vào đây những trang vàng. Theo
truyền thuyết dân tộc Tày, từ thế kỉ thứ III trước Công nguyên, Hòa An là trung
tâm văn hóa chính trị ngay từ thời lập quốc. Đến thế kỉ XI, vùng đất này tiếp tục
trở thành trung tâm quốc gia tự trị Trường Sinh của cha con thủ lĩnh Nùng Tồn
Phúc, Nùng Trí Cao. Cuối thế kỉ XVI, vùng đất thêm một lần rộng tay chào đón
nhà Mạc khi dòng họ này thất thế dạt lên Cao Bằng - một vương triều mới được
thiết lập với lịch sử gần một trăm năm. Nhà nghiên cứu, phê bình văn học Lâm
Tiến trong cuốn Về một mảng văn học dân tộc (NXB Văn hóa dân tộc, 1999)
đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của vùng đất Hòa An trong mối quan hệ với
tộc người Tày: “Người Tày có một trung tâm văn hóa, theo lịch sử tộc người
thì vùng Hòa An, Cao Bằng đã từng là thủ phủ của người Tày qua nhiều triều
đại. (…) Đây có thể coi như một cái mốc giao lưu văn hóa Kinh - Tày quan
trọng nhất để văn hóa Tày phát triển sang một giai đoạn mới ” [52, tr.8].
Vùng đất Hòa An có những người con ưu tú. Họ là những quan văn, tướng
võ có tài làm giàu thêm truyền thống quê hương. Nhân kiệt về hàng “võ” từ thuở

xa xưa là các tướng trấn thủ biên thùy như Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao (biệt
hiệu Khâu Sầm Đại Vương), là những anh hùng võ hiệp giết giặc, trừ gian bảo

Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu

/>

vệ bản làng. Sau này là những anh hùng cách mạng đã có công lớn trong công
cuộc

Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu

/>

dựng nước và giữ nước của dân tộc. Về chính trị, phải kể đến Hoàng Đình
Giong, bí danh Võ Đức, nguyên chỉ huy bộ đội Nam tiến, nguyên tư lệnh Quân
khu 7. Ông là người chiến sĩ cộng sản đầu tiên của Cao Bằng - Ủy viên ban
thường vụ Trung Ương Đảng khóa I, là nhà chính trị quân sự ngoại giao xuất sắc
của Đảng và nhà nước. Đó là đồng chí Hoàng Như (Hoàng Văn Nọn), nguyên là
Bí thư xứ ủy Bắc Kì; Hoàng Đức Nghi, nguyên Bộ trưởng Bộ Vật tư. Về quân
sự, trong hai cuộc kháng chiến Hoà An có nhiều tướng lĩnh tài giỏi của quân đội
nhân dân Việt Nam: thượng tướng Vũ Lập được Bác Hồ đặt tên; trung tướng
Nam Long (tên thật Đoàn Văn Ưu); thiếu tướng Lê Thùy; thiếu tướng Chu
Phương Đới. Hiện tại có chuẩn đô đốc Bế Hùng; trung tướng Bế Xuân
Trường;… Bởi thế, nhà thơ Y Phương trong bài viết Đoàn Lư - một sự lạ cũng
đã chú ý đến yếu tố quê hương tác giả: “Anh sinh ra và lớn lên trong một vùng
quê có nhiều người tham gia làm cách mạng ngay từ những ngày đầu thế kỉ XX
(…). Một huyện nhỏ mà có đến hàng chục người đeo lon tướng, hàng vài chục

người giữ các trọng trách từ tỉnh đến trung ương Đảng” [50, tr.273].
Từ xa xưa, dân gian đã truyền tụng câu chuyện về Bế Văn Phụng (nhiều tài
liệu viết là Phủng) làm quan Tư thiên quản nhạc (trông coi về thiên văn và đội
ca nhạc của nhà vua) thời nhà Mạc; được nhân dân tôn là Trạng. Bế Văn Phụng
còn được coi là ông tổ hát Then Tày và là người góp phần đặt nền móng cho
thời kì sáng tác truyện thơ Tày ghi bằng chữ Nôm (chữ Nôm Tày). Ông có tác
phẩm nổi tiếng: Tam nguyên luận. Đầu thế kỉ XX có Hoàng Đức Hậu (18901945) - nhà thơ lớn của dân tộc Tày, quê xã Hồng Việt, Hòa An. Theo nhà
nghiên cứu phê bình văn học Lâm Tiến: “Hoàng Đức Hậu là một hiện tượng
văn hóa độc đáo của dân tộc Tày nói riêng và của văn hóa Việt Nam nói
chung” [52, tr.9]. Trong cuốn lịch sử văn học Việt Nam tập V. 1930-1945, ông
được xếp là nhà thơ hiện đại cùng với Bùi Huy Phồn và Tú Mỡ. “Toàn bộ thơ
của ông là tiếng nói, tư tưởng tình cảm của dân tộc Tày trong thời kì nhất định,
là tình yêu mãnh liệt đối với con người, cuộc sống và thiên nhiên miền núi.”
Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu

/>

[52, tr.80]. Thế hệ sau có Vi Hồng và Triều Ân đã để lại dấu ấn sâu đậm trong
dòng văn học thiểu số Việt Nam hiện đại. Các thế hệ nhà văn, nhà thơ tiếp
bước: Hữu Tiến - Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội văn học thiểu
số Việt Nam, Hội viên Hội văn học nghệ thuật Cao bằng; nhà thơ, dịch giả
Triệu Lam Châu - Hội viên Hội nhà văn Việt Nam…
Từ lịch sử phong phú của mình, Hòa An nói riêng và quê hương Cao Bằng
nói chung đã trở thành vùng đất sản sinh nhiều nhân tài góp công vào sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của dân tộc; đồng thời là vùng đất có truyền thống văn
hoá, văn học. Trong số những cây bút văn học của Hoà An góp phần tô đậm
truyền thống quê hương có nhà văn Đoàn Lư.
1.1.2. Một trí thức vùng cao tiêu biểu, một nghệ sĩ đa tài
Sinh ra trong một gia đình có cha là cán bộ lão thành cách mạng, lại sẵn có

tư chất thông minh nên đường học vấn của Đoàn Lư rộng mở. Học hết cấp hai
tại quê nhà, năm 1974 ông được chọn đi học trường vùng cao Việt Bắc. Đối với
nhiều bạn bè cùng trang lứa nơi vùng quê núi bấy giờ, việc một cậu học sinh từ
tỉnh nghèo miền núi tìm đường đến với “mẹ chữ” như vậy giống cánh chim nhỏ
được bay ra trời rộng. Hoàn cảnh và môi trường học tập mới đã giúp cho Đoàn
Lư sớm có được bản lĩnh và tính cách tự lập. Tiếp đó, từ 1979 – 1984, ông học
Đại học Y Bắc Thái, Đại học Y Hà Nội và trở thành bác sĩ chuyên khoa nhi.
Thời gian sau đó, Đoàn Lư đã từng “thử sức” ở nhiều lĩnh vực và đảm nhiệm
nhiều trọng trách khác nhau trong các ban ngành của tỉnh Cao Bằng. Ông làm
trong ngành y 13 năm và là Trưởng khoa Nhi bệnh viện Đa khoa tỉnh Cao
Bằng, Trưởng Bộ môn Nhi - Lây trường Trung cấp Y tế Cao Bằng; 5 năm là
Trưởng phòng Khoa giáo - Ban tuyên giáo tỉnh; Chủ tịch Hội Văn học Nghệ
thuật tỉnh Cao Bằng (từ 2003 đến 2013). Ngoài ra, từ năm 1998 đến nay, ông là
thành viên của Hội đồng khoa học tỉnh, trưởng ban Khoa học xã hội và nhân
văn. Hiện nay, ông giữ cương vị Chủ tịch Hội Nhà báo Cao Bằng. Những trọng
trách trên cho thấy, Đoàn Lư là một nhà quản lí có uy tín, một trí thức tiêu biểu
trong hoạt động khoa học, nghệ thuật và công tác xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu

/>

Xét riêng trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, Đoàn Lư là nghệ sĩ đa tài. Bút
danh của ông được kí dưới nhiều bức họa sơn dầu. Dù chỉ nhận mình là “người
vẽ” nghiệp dư nhưng sáng tác mĩ thuật cũng đem đến cho ông những thành công
nhất định. Tranh Đoàn Lư đã nhiều lần được tham gia triển lãm khu vực 3, tiêu
biểu là bức BigBang - tiểu vũ trụ; Tình mẹ; Sự diệu kì. Đoàn Lư cũng am hiểu
về nghệ thuật nhiếp ảnh. Dẫu chỉ là công việc được làm như một sự yêu thích và
ngẫu hứng nhưng ông đã có được nhiều tấm ảnh có giá trị ghi lại vẻ đẹp của quê
hương, đất nước và con người Việt Nam.

Về lĩnh vực sưu tầm, nghiên cứu: Đoàn Lư cũng có đóng góp. Công trình
lớn nhất của ông là cuốn: Văn học yêu nước và cách mạng ở Cao Bằng trước
năm 1945 (NXB Văn hóa dân tộc, 2008) viết chung với nhà văn, nhà nghiên
cứu văn học dân gian Hoàng Triều Ân được Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết lời
tựa. Ông cũng là tác giả của nhiều bài nghiên cứu về y học, lịch sử, văn hóa, ẩm
thực dân tộc,… đăng trên báo trung ương và địa phương. Đến nay, Đoàn Lư đã
có 27 đầu sách được xuất bản và có tác phẩm được in trong hơn 20 tuyển tập.
Về lĩnh vực sáng tác: ông viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, làm thơ.
Đến nay, Đoàn Lư đã xuất bản được năm tập thơ: Mùa khẩu lam, NXB Văn
hóa dân tộc (1997); Dòng sông nghiêng, NXB Văn hóa dân tộc (2003); Ổi trái
mùa, NXB Văn học (2013); Tiếng lạ, NXB Thanh Niên (2013); Dự cảm, NXB
Hội nhà văn (2013). Một số bài thơ hay được đăng trong các tuyển tập: Hoa giọt
nắng trong Đà Lạt thơ; Cối giã gạo trong Tuyển tập những bài thơ hay viết
cho thiếu nhi dân tộc miền núi và Tuyển tập văn học dân tộc và miền núi.
Đọc thơ Đoàn Lư, người ta có thể nhận thấy yếu tố truyền thống và hiện đại cùng
hòa quyện. Thơ ông chất chứa bao trăn trở và những “dự cảm” đầy ám ảnh về
những vấn đề con người ngày nay đang phải đối mặt. Những bài thơ còn đi vào
lòng người đọc bởi cảm hứng nhân văn, chất triết lí trải nghiệm và giọng điệu
trữ tình sâu lắng.
Trong văn xuôi, Đoàn Lư bắt đầu bằng tác phẩm Lão Lìm in trên báo
Thiếu niên Tiền phong (1995) và tập truyện thiếu nhi Miếng hiểm cuối cùng
(1995). Sau đó, những sáng tác “người lớn” cũng được nhà văn chú trọng: Ông
Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu

/>

thâm nhập vào mảng văn học này với những tác phẩm viết về tình yêu, tình đời,
ca ngợi cái đẹp của chân - thiện - mĩ trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn, tất bật.
Ngòi bút của Đoàn Lư còn đi sâu vào những “mảng tối” của đời sống hiện thực

hay những vấn đề nóng trên diễn đàn kinh tế chính trị. Ông phê phán, đấu tranh
vạch trần những tệ nạn xã hội, những tiêu cực, tha hóa, giả dối... như cơn sóng
ngầm, lốc dữ đã và đang diễn ra nơi vùng biên cương. Từ tập truyện ngắn
Trăng rừng (NXB Văn hóa dân tộc, 1996); đến nay Đoàn Lư đã xuất bản 8 tập
truyện ngắn và 1 tập tản văn.
Văn xuôi viết cho thiếu nhi là mảng sáng tác mà nhà văn say mê, bền bỉ
cống hiến và đạt được thành công hơn cả. Nhiều cuốn sách viết cho thiếu nhi
của ông được xuất bản với số lượng lớn. Có thể kể đến các tập truyện: Miếng
hiểm cuối cùng (1995) với 32.000 cuốn; Tướng cướp hoàn lương (1997) 24.200 cuốn; Quái cẩu Pi-tơ-chun (1999) - 12.500 cuốn; Bên dòng Quây Sơn
(2000) - 12.490 cuốn và gần đây nhất là Li kì Xuyên Sơn (2013) với 35.192
cuốn trong lần in đầu tiên. Từ tập truyện đầu tay xuất bản 1995 cho đến nay,
các sáng tác của Đoàn Lư đã trở thành món quà tinh thần quý giá theo bước
chân của các em thiếu nhi dân tộc cả nước trên hành trình gian nan đi tìm tri
thức. Cũng như vậy, biết bao nhiêu bài học, bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu
kiến thức thú vị của nhà văn quê núi đã đến được với trẻ em nhiều vùng quê
lam lũ, khó nghèo.
Với một bút lực dồi dào và sự “tham lam” sáng tạo của “ba nhà” trong một:
Nhà quản lí - nhà nghệ sĩ - nhà khoa học; với vốn kiến thức sâu rộng có được do
tích lũy qua nhiều ngành nghề và sự tự học không ngừng, Đoàn Lư và ngòi bút
nghệ thuật của ông đã thể hiện khát vọng: giữ gìn phát huy và quảng bá văn hóa
truyền thống; níu giữ và tôn vinh cái đẹp, cái thiện; khám phá những chân trời
mới.v.v…Đó là khát vọng chân chính của một trí thức vùng cao tiêu biểu, của
người nghệ sĩ đa tài hết lòng vì quê hương, đất nước, vì hạnh phúc trẻ thơ.

Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu

/>

1.1.3. Bước chuyển bất ngờ trong sự nghiệp từ ước muốn làm được “điều gì

đó” cho trẻ thơ
Đoàn Lư là một trong số ít bác sĩ trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Từ cương vị trưởng Khoa Nhi bệnh viện Đa khoa tỉnh Cao Bằng - một người tâm
huyết với nghề và cũng là người đầu tiên của tỉnh được trao tặng “Huy chương vì
sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc trẻ em”- ông chuyển sang viết văn rồi trở thành
một nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. Nhà thơ Y Phương thấy việc chuyển
hướng sang văn chương của Đoàn Lư là “sự lạ”. Nhà báo Hồng Cư thì: “không
rõ vì sao ông lại chuyển sang một lĩnh vực mới lạ đối với cái nghề mà ông được
đào tạo một cách bài bản, có phải chăng cái: Chân – Thiện – Mĩ có một ái lực
phi thường để cuốn hút một thầy thuốc có nhiều phẩm chất tốt đẹp như ông?”
[6, tr.33]. Tuy nhiên, “sự lạ” đó hoàn toàn có cơ sở; xuất phát từ tình yêu văn
chương, khả năng sáng tác và tình yêu với trẻ thơ của Đoàn Lư. Khi còn là sinh
viên, Đoàn Lư đã có nhiều bài viết chuyên ngành được thầy cô, bè bạn đánh giá
cao và được đăng trên nhiều tờ báo từ trung ương đến địa phương. Tác phẩm đầu
tay được giới thiệu trên báo Thiếu niên Tiền phong đã tiếp thêm tình yêu văn
chương vốn đã được nhen nhóm trong tâm hồn chàng trai miền núi giàu xúc cảm
với cuộc đời. Trong quá trình học tập, công tác, những câu chuyện nghe được
hay những sự việc tận mắt chứng kiến, những tri thức thu nhận được trong các
chuyến công tác ở vùng sâu đã để lại trong ông nhiều ấn tượng. Cái tâm của
người thầy thuốc cộng với khát khao được viết và sự trăn trở khôn nguôi về cuộc
sống, số phận của thiếu nhi miền núi cứ ám ảnh Đoàn Lư. Khi bắt đầu cầm bút,
ông muốn viết những câu chuyện để cho người đọc thấy được bức tranh đời sống
vùng cao - đời sống thiếu nhi miền núi; đồng thời cũng là những món quà tinh
thần mà nhà văn trao tặng cho các em. Trong một bài thơ có nhan đề Tự sự 1,
Đoàn Lư đã giãi bày tâm nguyện của mình:
“Tôi đã viết từ trong sâu thẳm
Muốn trẻ em đỡ đói tâm hồn
Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu


/>

Ở núi cao còn nhiều thiếu thốn Đói
tâm hồn chẳng khác đói cơm. Thơ,
truyện tôi chưa ngọt, chưa thơm
Nhưng cũng đỡ cho người đói khát
Truyện thơ tôi giờ chưa dào dạt
Cũng lẫn trong một khoảng xanh trời” [32, tr.25].
Bài thơ có thể coi là lời tâm nguyện chứa đựng câu trả lời cho việc chuyển
hướng từ nghề thầy thuốc sang làm văn chương của Đoàn Lư. Ẩn sau những câu
thơ khiêm nhường ấy, ta có thể thấy tấm lòng nhân hậu của người thầy thuốc yêu
bệnh nhi giờ nguyện dành trọn tâm sức sáng tạo những “món ăn tinh thần” cho
các độc giả nhỏ tuổi. Từ một bác sĩ Nhi Khoa, Đoàn Lư trở thành nhà văn thân
thuộc của thiếu nhi. Mang “chữ tâm” vào hành trình sáng tác, Đoàn Lư đã dùng
tình yêu thương của mình mở cửa thế giới tâm hồn trẻ thơ. Trong cuốn Nhà văn
dân tộc thiểu số, đời và văn, ông tự bạch: “Tôi là bác sĩ chuyên khoa nhi. Việc
sáng tác thơ, viết văn của tôi cũng giống như chuyên ngành đã chọn, rất đơn
giản, bình dị là làm điều gì đó tốt đẹp cho trẻ em mà thôi. Do vậy, cho dù có
sáng tác cho cả những đối tượng khác, nhưng mục tiêu sáng tác cho trẻ em luôn
là ưu tiên hàng đầu. Những tác phẩm đã có tuy còn điểm này điểm nọ nhưng tất
cả đã vì trẻ thơ. Tôi mong muốn làm được những gì nhiều hơn thế nữa cho con
trẻ vì “trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai” [50, tr.275]. Bằng những sáng tác
của mình, ông đã hành động thiết thực để những ước nguyện của trẻ thơ được
đền đáp, để “gieo hoài bão và nuôi hi vọng” cho các em.
Những giải thưởng văn học mà Đoàn Lư đã nhận được:
-



năm 1994 – 1995 do NXB


.

-



Số hóa bởi Trung tâm Học
liệu



.

/>

×