Tải bản đầy đủ (.doc) (168 trang)

Củng cố và phát triển năng lực viết phần mở bài của học sinh lớp 12 trong bài văn nghị luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 168 trang )

ĐẠI HỌC THÁI
NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ THU
THUỶ

CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
VIẾT PHẦN MỞ BÀI CỦA HỌC SINH LỚP
12
TRONG BÀI VĂN NGHỊ
LUẬN

Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Văn – Tiếng
Việt
Mã số: 60.14.01.11

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO
DỤC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê A


Thái Nguyên - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các nội dung nêu trong
luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một công trình
nào khác. Luận văn đã được chỉnh sửa theo ý kiến của hội Đồng bảo vệ.
Thái Nguyên, ngày 4 tháng 6 năm
2014
Tác giả luận


văn

Nguyễn Thị Thu Thuỷ


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến Thầy giáo ,
GS. TS. LÊ A - người Thầy hướng dẫn luận văn của em. Thầy đã tạo mọi điều kiện
động viên và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Khoa Ngữ văn; Khoa Sau Đại học - Trường
Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho em có một môi trường học tập và
nghiên cứu thuận lợi để em hoàn thành tốt luận văn của mình.
Em xin chân thành cảm ơn các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ đã tham gia giảng
dạy tận tình lớp Cao học Lý luận và Phương pháp dạy học Văn - Tiếng Việt K20 ĐHSP Thái Nguyên.
Xin chân thành cảm ơn các bạn đồng nghiệp, các em học sinh lớp thực nghiệm
và tất cả các bạn bè, người thân đã ủng hộ và tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện luận văn. Trong điều kiện hạn hẹp về thời gian và khả năng có hạn, luận văn
này không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của Quý thầy, cô và các bạn đồng nghiệp.
Trân trọng cảm ơn !
Thái Nguyên, ngày 4 tháng 6 năm 2014
Tác giả luận
văn

Nguyễn Thị Thu Thuỷ


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
THCS
sở SGK


: Trung học cơ
: Sách giáo

khoa SGV

: Sách giáo

viên HS

: Học sinh

GV

: Giáo viên

NL

: Nghị luận

NXB

: Nhà xuất

bản G.S
T.S

: Giáo Sư
: Tiến sĩ



MỤC LỤC

Trang
Trang phụ
bìa
Lời

cam

đoan

.......................................................................................................................ii Lời cảm ơn
..........................................................................................................................iii Danh mục
các ký hiệu, chữ viết tắt...................................................................................iv Mục
lục.................................................................................................................................v MỞ
ĐẦU .............................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................
4
3. Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................................... 4
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................
7
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 7
6. Giả thuyết khoa học.................................................................................................... 8
7. Đóng góp của luận văn .............................................................................................. 8
8. Cấu trúc của luận văn ................................................................................................. 8
NỘI
.........................................................................................................................9


DUNG

Chương 1. MỞ BÀI VÀ NĂNG LỰC VIẾT PHẦN MỞ BÀI VĂN BẢN NGHỊ
LUẬN...................................................................................................................................9
1.1. Phần mở bài trong văn bản nghị luận ....................................................................
9
1.1.1. Đặc trưng của phần mở bài .................................................................................
9
1.1.2. Chức năng của phần mở bài..............................................................................
10
1.1.3. Yêu cầu của phần mở bài ..................................................................................
13
1.1.4. Các phương pháp mở bài trong bài văn nghị luận ..........................................
17


1.2. Năng lực viết phần mở bài trong văn bản nghị luận ..........................................
21
1.2.1. Về khái niệm năng lực....................................................................................... 21
1.2.2. Năng lực viết phần mở bài nghị luận ...............................................................
22
1.2.3. Tinh thần thái độ khi viết phần mở bài trong văn bản nghị luận
................... 28
Chương 2. TỔ CHỨC CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC MỞ BÀI
TRONG

VĂN

BẢN


................................................30

NGHỊ

LUẬN

CỦA

HỌC

SINH


2.1. Thực trạng dạy học phần mở bài trong văn bản nghị luận
................................ 30
2.1.1. Tài liệu dạy học .................................................................................................. 30
2.1.2. Năng lực viết phần mở bài của học sinh ..........................................................
32
2.1.3. Việc tổ chức dạy học của giáo viên..................................................................
34
2.2. Tổ chức dạy học lý thuyết phần mở bài ..............................................................
35
2.2.1. Những tri thức học sinh cần chiếm lĩnh ...........................................................
35
2.2.2. Các phương pháp dạy học .................................................................................
36
2.3. Rèn luyện viết phần mở bài qua các bài tập .......................................................
41
2.3.1. Giới thiệu chung về hệ thống bài tập................................................................
41

2.3.2. Miêu tả các bài tập ............................................................................................. 43
2.3.3. Hướng dẫn sử dụng hệ thống bài tập vào thực tiễn ........................................
68
Chương 3. THIẾT KẾ VÀ DẠY THỰC
NGHIỆM.....................................................71
3.1. Mục đích và yêu cầu thực nghiệm.......................................................................
71
3.1.1. Mục đích thực nghiệm....................................................................................... 71
3.1.2. Yêu cầu thực nghiệm .........................................................................................
71
3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm ......................................................................
72
3.2.1. Đối tượng thực nghiệm...................................................................................... 72
3.2.2. Địa bàn thực nghiệm.......................................................................................... 72
3.3. Nội dung và cách thức tiến hành thực nghiệm ...................................................
72
3.3.1. Nội dung thực nghiệm .......................................................................................
72


3.3.2. Cách thức tiến hành thực nghiệm .....................................................................
73
3.4. Phân tích và đánh giá kết quả thực nghiệm ........................................................
91
3.4.1. Tiêu chí đánh giá thực nghiệm..........................................................................
91
3.4.2. Kết quả thực nghiệm và đối chứng...................................................................
91
3.5. Kết luận chung về dạy học thực nghiệm.............................................................
92

KẾT LUẬN .......................................................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
...............................................................................................96
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn nghị luận là một trong những kiểu văn bản quan trọng và phổ biến trong đời
sống xã hội cũng như trong trường học, đặc biệt là ở trường Trung học phổ thông. Viết
văn nghị luận nhằm rèn luyện tư duy, năng lực biểu đạt những quan điểm, những tư
tưởng sâu sắc trong đời sống xã hội. Tuy nhiên viết văn nghị luận lại không phải là
chuyện dễ dàng. Để viết cho hay, cho đúng, cho có sức thuyết phục thì lại càng khó.
Chính vì vậy có rất nhiều em yêu thích văn chương nhưng khi bắt tay vào làm bài văn
lại rất lúng túng, không biết bắt đầu từ đâu và làm cho các em ngày càng xa lánh văn
chương. Đối với học sinh, một trong những vấn đề bối rối khi viết văn nghị luận là
phần mở bài.
1.1. Phần mở đầu định hướng triển khai cho toàn bộ bài viết
Macxim Gorki đã từng kết luận: "Khó hơn cả là phần mở đầu, cụ thể là câu đầu,
cũng như trong âm nhạc, nó chi phối giọng điệu của tác phẩm và người ta thường tìm
nó rất lâu". [8, 45] Làm việc gì cũng vậy, sự khởi đầu luôn khiến chúng ta phải cân
nhắc kĩ lưỡng trước khi bắt tay thực hiện công việc ấy đến kết quả cuối cùng. Muốn có
một bài văn nghị luận hay hoàn toàn không nằm ngoài quỹ đạo của quá trình làm việc
thông thường như đã nêu ở trên.
Sự khởi đầu của việc làm văn nghị luận là viết phần mở bài, còn được gọi dưới cái
tên như đặt vấn đề hay nêu vấn đề. Không phải không có lí khi có ý kiến cho rằng:
"Văn hay chỉ cần đọc mở bài". Tất nhiên nếu chỉ đọc mở bài thì không thể đánh giá
được toàn bộ bài văn. Nhưng quả thật, mở bài có tầm quan trọng thực sự đối với người
viết. Người ta thường nói: "vạn sự khởi đầu nan", khi viết bài văn có được một mở bài
hay, tự nhiên dòng văn như được khơi chảy, tuôn trào. Mở bài lúng túng, trục trặc… sẽ

khiến bài viết thiếu sinh khí, văn phong không liền mạch, ý tứ sẽ trở nên rời rạc…
Nhưng quả thực, viết phần mở bài là việc làm khó khăn và gian nan nhất. Vì phần
mở bài là căn cứ để đánh giá bài làm có thu hút, sáng tạo và độc đáo hay không. Nằm
ở vị trí đầu tiên trong bố cục ba phần (mở bài, thân bài, kết bài) của một bài văn nói
chung cũng như nghị luận nói riêng, phần mở bài thường tạo ấn tượng ban đầu về bài
viết và giúp người đọc cảm nhận trọn vẹn âm hưởng của toàn bài. Một mở bài gọn
gàng, mạch lạc sẽ thu hút được sự quan tâm của đông đảo người đọc. Bên cạnh đó, nó


còn tạo thêm hứng thú cho người viết. Ngược lại, người đọc mất cảm tình khi tiếp xúc
với một bài văn có phần mở bài mang


biểu hiện của nhận thức hạn chế và lối tư duy thiếu mạch lạc của người viết. Từ tâm lí
tiếp nhận không tốt, người đọc có thể mặc nhiên quy kết rằng nội dung bài văn này
kém chất lượng. Như vậy, phần mở bài là một trong những bộ phận quan trọng cấu
thành bài văn nghị luận. Phần mở bài định hướng triển khai cho toàn bộ bài viết.
1.2. Phần mở đầu có tính khái quát cao, không dễ viết nên học sinh gặp rất
nhiều lúng túng và khó khăn khi viết phần này
Phần mở bài chứa đựng vấn đề cần giải quyết một cách khái quát và thông báo
cho người đọc phương thức giải quyết hoặc giới hạn của vấn đề. Vậy khái quát là gì?
Theo Từ điển Từ Hán Việt khái quát là "nêu lên tính chất chung từ những cái lẻ tẻ (
sau khi loại trừ những tính chất riêng biệt". [7, 216] Như vậy, tính khái quát được hiểu
là những gì mang bản chất chung nhất, nổi bật, bao quát nhất của vấn đề. Tính khái
quát trong phần mở đầu của một bài văn nghị luận thể hiện ở việc người viết phải đưa
ra những lời dẫn, lời nhận xét, đánh giá chung nhất, tổng quát nhất về vấn đề nghị luận,
chứ không phải đi sâu vào những chi tiết, sự kiện riêng lẻ như ở phần thân bài. Ví dụ:
đứng trước một đề nghị luận văn học, nếu phần mở đầu đi từ giới thiệu vài nét về tác
giả, ta nên tập trung vào những điểm khái quát nhất của nhà văn, nhà thơ ấy như: phong
cách nghệ thuật, nét độc đáo khác biệt... hơn là giới thiệu một cách máy móc về năm

sinh, năm mất, tên thật, quê quán; giới thiệu vài nét về tác phẩm nên tập trung vào hoàn
cảnh sáng tác, vị trí của tác phẩm trong sự nghiệp của tác giả và trên văn đàn văn học
dân tộc. Để đưa ra được những nhận xét, đánh giá mang tính khái quát cao đòi hỏi
người viết phải có năng lực khái quát hoá - được xác định là một quá trình tư duy mà ở
đó con người dùng trí óc để liên kết nhiều đối tượng khác nhau nhưng có chung thuộc
tính, mối quan hệ nhất định vào một nhóm. Người viết phải có năng lực chọn lọc, tổng
hợp những thông tin, sự kiện, đưa ra những đánh giá mang tính khái quát nhất, bao quát
được hết vấn đề cần trình bày. Đây là một việc làm khó khăn, không phải ai cũng có
thể thực hiện được. Trên thực tế, năng lực khái quát hoá của học sinh còn kém. Đứng
trước một vấn đề nghị luận, các em gặp rất nhiều lúng túng và khó khăn khi viết phần
mở đầu. Mở bài không phải là phần nêu tóm tắt toàn bộ nội dung sẽ trình bày trong văn
bản, nhưng đa số các em biết gì đều đưa hết vào phần mở bài khiến cho phần thân bài
không có "đất" viết, hoặc bị lặp lại. Như vậy là phần mở đầu với yêu cầu có tính khái


quát cao không được đảm bảo, lời chào đầu tiên trong một buổi gặp gỡ vì thế cũng kém
đi sức thuyết phục và hấp dẫn.


1.3. Giáo viên chưa thật quan tâm và chưa có phương hướng hữu hiệu để luyện
tập cho học sinh kĩ năng viết phần này
Thực tế dạy học cho thấy, tuy thể loại văn nghị luận khá quen thuộc với giáo viên
và học sinh nhưng trong quá trình giảng dạy nhiều giáo viên chưa chú trọng, việc dạy
học còn bộc lộ nhiều hạn chế. Hạn chế dễ nhận thấy là trong giờ dạy học lý thuyết về
phần mở bài, một bộ phận giáo viên vẫn còn nhiều lúng túng. Biểu hiện rõ nhất của thái
độ trên là cách tổ chức hoạt động hình thành kiến thức, nhất là kiến thức về vị trí, vai
trò của phần mở bài; chức năng của phần mở bài; yêu cầu về nội dung và hình thức của
phần mở bài… Sự lý giải kiến thức, khái quát thành các bước thực hiện của giáo viên
chưa thoả đáng. Giáo viên chưa tạo được hứng thú cho học sinh trong quá trình học tập.
Mặt khác, việc rèn luyện kỹ năng viết phần mở bài cho các em chưa được quan

tâm, chú trọng. Các giờ thực hành được giáo viên tổ chức theo tinh thần ôn tập kiến
thức và học sinh làm các bài tập có trong sách giáo khoa. Giáo viên chưa mạnh dạn lựa
chọn những bài tập bên ngoài sách để rèn luyện kỹ năng viết phần mở bài cho học sinh.
Chính điều đó dẫn tới kỹ năng viết phần mở bài của các em chưa tốt. Hơn nữa, một số
giáo viên còn coi nhẹ các giờ lập dàn ý, trả bài khiến cho học sinh không có thói quen
sửa chữa những lỗi còn hay mắc phải trong khi viết. Viết văn là quá trình luôn cần uốn
nắn, chỉ dẫn để nâng cao kỹ năng bởi "văn ôn võ luyện". Do cách nhìn nhận chủ quan,
phần đông giáo viên tự bằng lòng với tư tưởng rằng các em đã được học ở lớp dưới
những kiến thức về mở bài, giáo viên coi phần mở bài đơn giản chỉ là sự gợi mở vấn
đề, nên không chú trọng đến việc cung cấp lý thuyết và hướng dẫn thực hành cho học
sinh. Chính thế đã dẫn đến tình trạng có nhiều mở bài không đạt yêu cầu. Vậy làm thế
nào để nâng cao chất lượng viết phần mở bài cho học sinh phổ thông? Đó là những câu
hỏi của rất nhiều giáo viên dạy bộ môn Văn đang đặt ra và mong muốn tìm hướng giải
quyết.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn và nghiên cứu đề tài: "Củng
cố và phát triển năng lực viết phần mở bài của học sinh lớp 12 trong bài văn nghị
luận". Qua luận văn chúng tôi mong muốn giúp cho học sinh lớp 12 có thêm kỹ năng
làm văn nghị luận bên cạnh nhiều kỹ năng khác trong việc tổ chức bài nghị luận vốn
là rất khó đối với các em.


2. Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình dạy học phần mở bài trong văn nghị luận ở Trung học phổ thông
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Quá trình rèn luyện kĩ năng viết phần mở bài trong bài văn nghị luận lớp 12
3. Lịch sử nghiên
cứu
3.1. Tình hình nghiên cứu phần mở bài trong văn bản nói chung và văn nghị

luận
nói riêng
Làm văn là môn học ứng dụng, thực hành có tính chất tổng hợp nhất, đặc biệt với
văn nghị luận, trong đó văn bản nghị luận văn học không chỉ là loại văn bản thông
thường mà nó còn có tính nghệ thuật. Nghệ thuật thuyết phục người đọc của văn nghị
luận không chỉ nhờ lập luận chặt chẽ mà còn khéo léo trong dẫn dắt của người viết.
Chính vì vậy, việc xây dựng cơ sở lí luận cho việc dạy văn nghị luận vô cùng bức thiết.
Từ trước đến nay đã có nhiều quan điểm khác nhau của các tác giả về phần mở bài
trong văn bản nói chung và văn nghị luận nói riêng. Tiêu biểu là một vài cuốn sách
hướng dẫn giảng dạy Tập làm văn và hướng dẫn Làm văn như: Phương pháp làm văn
nghị luận (Thẩm Thệ Hà); Tài liệu hướng dẫn học môn Làm văn (Nguyễn Quang
Ninh); Giáo trình làm văn (Đình Cao, Lê A); Dàn bài Tập làm văn 12 (Trần Đình Sử,
Phan Huy Dũng); Kĩ năng làm văn nghị luận phổ thông (Nguyễn Quốc Siêu); 150 bài
tập rèn luyện kĩ năng dựng đoạn văn (Nguyễn Quang Ninh); Văn bồi dưỡng học sinh
giỏi Trung học phổ thông (Nguyễn Đăng Mạnh); Muốn viết được bài văn hay (Nguyễn
Đăng Mạnh chủ biên). Nhìn chung đa số các cuốn sách đều đã đề cập đến phần mở
bài, tuy nhiên kết quả nghiên cứu chưa được sâu sắc và trọn vẹn như khi bàn về phần
thân bài.
Cuốn sách tiêu biểu thứ nhất viết về phần mở bài là Tài liệu hướng dẫn học bộ
môn
làm văn (Nguyễn Quang Ninh). Tác giả xác định vị trí, yêu cầu của phần đặt vấn
đề:
" Trong phần đặt vấn đề phải làm sao nêu được vấn đề một cách ngắn gọn nhất, hấp
dẫn và gây hứng thú cho người đọc, người nghe. Hơn nữa, qua phần đặt vấn đề ngắn
gọn phải nêu lên hướng giải quyết, phạm vi giải quyết vấn đề, tầm quan trọng, ý nghĩa


của vấn đề để chuẩn bị tư tưởng cho người đọc theo dõi phần nội dung. Đó chưa kể
một bài có phần đặt vấn đề tốt sẽ gây ấn tượng đẹp ban đầu cho người đọc, người
chấm" [32, 20].

Bên cạnh đó, tác giả còn nêu các bước tiến hành đặt vấn đề, gồm ba bước:


- Xác định vấn đề
- Xác định phần dẫn dắt, chuyển tiếp vấn đề
- Nêu tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề, phương hướng giải quyết vấn đề.
Cuốn sách tiếp theo dành sự quan tâm tới phần mở bài là Kĩ năng làm văn nghị
luận phổ thông của Nguyễn Quốc Siêu giới thiệu kĩ năng viết phần mở bài với các cách
sau: Từ một sự kiện tương đồng của vấn đề, từ việc trình bày bối cảnh mà xác định luận
đề, qua cách vấn thiết mà nêu vấn đề, dẫn danh ngôn đã nêu luận đề, qua đối chiếu phải
trái đã nêu vấn đề.
Một cuốn sách khác đã đóng góp không nhỏ trong việc hình thành kĩ năng viết
phần mở bài là 150 bài tập rèn kĩ năng dựng đoạn văn (Nguyễn Quang Ninh) qua việc
đưa ra hệ thống bài tập luyện dựng đoạn theo chức năng:
- Mở bài trực tiếp có hai cách: mở thẳng vấn đề và mở trực tiếp có thêm phần dẫn
dắt
(thời gian, không gian và hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm).
- Mở bài gián tiếp: mở bằng câu chuyện, mở bằng cách nêu câu hỏi, mở bằng
cách nêu sự kiện, con số.
Cuốn sách Văn bồi dưỡng học sinh giỏi Trung học phổ thông, Nguyễn Đăng Mạnh
đã bàn luận khá kĩ về việc viết phần mở bài hay: "Trước hết muốn mở bài hay cần hiểu
rõ mục đích và nhiệm vụ của mở bài. Mục đích của mở bài là giới thiệu với bạn đọc về
vấn đề mà mình sẽ viết, sẽ bàn bạc, trao đổi hay miêu tả, kể lại. Viết mở bài thực chất
là trả lời câu hỏi: ở bài viết này, mình định viết về điều gì ?"…"Các cách mở bài khác
nhau chủ yếu ở phần dẫn dắt. Phần nêu vấn đề và giới hạn vấn đề thường không thay
đổi vì mở bài theo kiểu gì thì ai cũng phải nêu được phần này. Như thế cũng có nghĩa
là, muốn viết được các mở bài khác nhau thì người viết chỉ cần xác định rõ ba phần
của đoạn mở bài, giữ lại hai phần sau và thay đổi phần đầu là có thể có một mở bài
khác. Nói gọn lại cứ thay đổi phần dẫn dắt ta sẽ có một mở bài mới." [28, 87]
Những tài liệu trên cơ bản đã hình thành những lí thuyết chung về phần mở bài.

Tuy nhiên, cách tìm hiểu về phần mở bài như vậy vẫn chưa thật toàn diện, chưa thật
sâu sắc. Nội dung của những cuốn sách này chủ yếu vẫn thiên về lí thuyết trừu tượng
chứ chưa thực sự chú trọng hình thành các thao tác cụ thể cho học sinh.


3.2. Tình hình nghiên cứu việc rèn luyện kỹ năng mở bài của học sinh trong bài
văn nghị luận
Với nhu cầu đổi mới việc dạy và học văn trên tất cả các bình diện, môn Làm văn
cũng có nhiều điểm chuyển biến. Các nhà nghiên cứu đã đi tìm và xác lập những cơ sở
lý luận và hình thành kỹ năng làm văn nghị luận cho học sinh. Song do đề tài nghiên
cứu, các công trình nghiên cứu về làm văn nói chung ít quan tâm đến vấn đề củng cố
và phát triển năng lực viết phần mở bài trong bài văn nghị luận cho các em. Tuy nhiên
cũng có thể kể ra đây một số tài liệu ít nhiều đề cập đến vấn đề này. Đầu tiên phải kể
đến sự đóng góp của Ngữ văn 12 (Sách học sinh và sách giáo viên). Bộ sách này đã
giới thiệu cho học sinh và giáo viên vai trò và mục đích của việc viết mở bài, các thành
phần của phần mở bài, những lưu ý khi viết phần mở bài, các cách mở bài…
Ngoài ra có thể kể đến các bài tập bổ sung trong các sách tham khảo cho giáo viên
và học sinh như: Bài tập Ngữ văn 12, Nguyễn Minh Hùng (chủ biên), nhà xuất bản Đại
học Sư phạm; Thiết kế dạy học Ngữ văn 12, Hoàng Hữu Bội, nhà xuất bản Giáo dục
2008; Các dạng đề và hướng dẫn làm bài nghị luận xã hội môn Ngữ văn 10, 11, 12, Lê
A, Nguyễn Thị Ngân Hoa (đồng chủ biên), nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2009;
Thực hành Làm văn
12, Phan Huy Dũng, Trần Đình Sử, Lê Quang Hưng, nhà xuất bản Giáo dục, 2001;
Cách làm bài tập làm văn nghị luận (dùng cho học sinh thi tốt nghiệp PTTH và tuyển
sinh Đại học, cao đẳng), Phan Huy Đông, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003;
Hướng dẫn học và làm bài Ngữ văn 12, PGS. TS Phan Mậu Cảnh (chủ biên), Lê Bảo,
Lê Đình Mai, nhà xuất bản Giáo dục; Những bài văn theo chuẩn kiến thức kỹ năng
Ngữ văn12, Th.s Phạm Ngọc Thấm, Phạm Thị Hồng Hoa, Đại học Quốc gia Hà Nội…
Rõ ràng, kỹ năng viết phần mở bài trong văn bản nghị luận đã được đề cập ở rất
nhiều tài liệu dạy học trong nhà trường. Tuy vậy, vẫn chưa có tài liệu nào bàn bạc riêng

về việc rèn luyện kỹ năng mở bài, và hệ thống bài tập rèn luyện kỹ năng mở bài trong
văn bản nghị luận một cách trọn vẹn. Cho nên có thể khẳng định rằng:
- Việc rèn luyện kỹ năng mở bài của học sinh trong bài văn nghị luận là việc làm
cần thiết, đã được nhiều tác giả chú ý, đề cập đến.
- Song, kỹ năng này hầu hết ở các tài liệu chưa có một hệ thống bài tập rèn luyện
hoàn chỉnh, chi tiết ở cấp vi mô để hình thành kỹ năng cho các em.


- Kỹ năng viết phần mở bài của học sinh có liên quan nhiều đến vấn đề của lý
thuyết làm văn nghị luận, nhưng vấn đề lý thuyết ấy cũng chưa được giải quyết toàn
diện, sâu sắc, việc hình thành các thao tác cụ thể cho học sinh chưa được chú trọng.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài này trên cơ sở kế thừa và sáng tạo tất cả những quan
điểm đi trước, nhằm đóng góp một phần nhỏ trong việc xây dựng lý thuyết Làm văn và
hướng dẫn học sinh làm một số bài tập vận dụng những lý thuyết đã đưa ra.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Chọn đề tài "Củng cố và phát triển năng lực viết phần mở bài trong bài văn
nghị luận cho học sinh lớp 12", trước hết chúng tôi muốn giúp học sinh hiểu rõ mục
đích và nhiệm vụ của phần mở bài để từ đó rèn luyện kĩ năng mở bài nhằm nâng cao
chất lượng của bài làm văn đồng thời tạo cho các em hứng thú viết văn.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn viết phần mở bài trong bài văn nghị luận
của học sinh lớp 12.
- Đề ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng viết phần mở bài trong bài văn
nghị luận cho học sinh.
- Thực nghiệm để kiểm tra khả năng thực thi và hiệu quả của các giải pháp đề xuất
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết trên cơ sở tập hợp, phân loại và phân
tích tài liệu; tổng hợp và tiếp thu các thành tựu nghiên cứu. Phương pháp này chủ yếu

được sử dụng trong việc phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc rèn kỹ
năng viết phần mở bài cho học sinh trong bài làm văn nghị luận mà luận văn đưa ra.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Điều tra khảo sát thực tiễn dạy và học viết phần mở bài trong bài làm văn nghị
luận ở trường THPT. Khảo sát hệ thống bài tập rèn kỹ năng viết phần mở bài của SGK
lớp 12 để nắm bắt được tình hình dạy học làm văn nghị luận trong nhà trường đặc biệt
là vấn đề rèn kỹ năng viết phần mở bài trong làm văn nghị luận. Từ đó có cơ sở để
nghiên cứu đề tài một cách tích cực.


5.3. Phương pháp thống kê
Sử dụng để tổng hợp, xử lý số liệu trong quá trình khảo sát thực tế và tiến hành
thực nghiệm.
5.4. Phương pháp thực nghiệm dạy học
Phương pháp này được thực hiện trên những phương diện đó là:
- Thiết kế nội dung dạy học theo hướng nghiên cứu của đề tài và tổ chức dạy học
ở nhà trường THPT cho học sinh lớp 12 trên địa bàn huyện Hoa Lư, huyện Kim Sơn,
tỉnh Ninh Bình.
- Rút ra nhận xét, kết luận về kết quả quá trình thực nghiệm nói riêng cũng như
quá trình nghiên cứu nói chung. Kết quả thực nghiệm là căn cứ để khẳng định mức độ
thành công của đề tài.
- Nêu ý kiến đề xuất của bản thân.
Phương pháp thực nghiệm mang tính khách quan khoa học, sẽ giúp mọi người
thấy vững tin hơn khi áp dụng đề tài vào thực tiễn giảng dạy.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu việc luyện cho học sinh cách viết phần mở bài trong văn nghị luận được tiến
hành thường xuyên và có cơ sở khoa học thì chắc chắn việc rèn kĩ năng đó sẽ góp phần
nâng cao chất lượng học phần Làm văn, đặc biệt là viết đoạn văn nói chung và phần mở
bài nói riêng trong chương trình Ngữ văn THPT, phát huy cao độ tính tích cực, chủ
động và sáng tạo của học sinh trong việc viết bài văn nghị luận hoàn chỉnh đảm bảo

đúng yêu cầu mà vẫn hay, thu hút và lôi cuốn người đọc, người nghe.
7. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần thực hiện nhiệm vụ của môn học: hình thành và rèn luyện
năng lực tạo lập văn bản, năng lực giao tiếp cho học sinh.
- Trên cơ sở phân tích cở sở lý thuyết và thực tiễn, luận văn góp phần hoàn thiện
hệ thống bài tập rèn kỹ năng viết phần mở bài trong văn nghị luận.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo bổ ích cho giáo viên và học sinh khi dạy và
học bài về rèn luyện kỹ năng mở bài trong văn bản nghị luận.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Mở bài và năng lực viết phần mở bài văn bản nghị luận
Chương 2: Tổ chức củng cố và phát triển năng lực mở bài trong văn bản nghị luận
của học sinh
Chương 3: Thiết kế và dạy thực nghiệm


NỘI DUNG
Chương 1
MỞ BÀI VÀ NĂNG LỰC VIẾT PHẦN MỞ BÀI VĂN BẢN NGHỊ
LUẬN
1.1. Phần mở bài trong văn bản nghị luận
1.1.1. Đặc trưng của phần mở bài
Phần mở bài trong văn nghị luận có đặc trưng đó là thống nhất với toàn bài về nội
dung và hình thức. Mặt khác, phần mở bài lại có tính hoàn chỉnh và độc lập tương đối
với các phần khác trong bài, cho phép nó tồn tại như một đoạn văn riêng, như một tiểu
hệ thống nằm trong hệ thống văn bản.
Phần mở bài có một số đặc trưng cơ bản như sau:
1.1.1.1. Nội dung
Về nội dung, phần mở bài phải tạo được tình huống có vấn đề tức là phải đề
xuất được vấn đề mà đề bài yêu cầu giải quyết. Phần mở bài nêu ra luận đề cho toàn

bài, như vậy, vấn đề đặt ra trong phần này ở dạng tổng quát, khái quát cần triển khai,
giải quyết. Do đó, người viết cần nắm vững yêu cầu của đề, từ đó, khái quát thành luận
đề lớn cần giải quyết ở thân bài.
Phần mở bài gồm những nội dung:
+ Dẫn dắt vấn đề: Nêu một vài vấn đề liên quan đến vấn đề cần bàn, chuẩn bị tư
tưởng dẫn người đọc vào vấn đề.
+ Nêu vấn đề: Nêu vấn đề một cách ngắn gọn, nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề
bài và phải nêu một cách khái quát.
+ Nêu nhận định về tầm quan trọng của vấn đề, ý nghĩa của vấn đề đối với
trước đó và đương thời (phần này không nhất thiết phải có, tuỳ thuộc vào từng vấn đề
cụ thể).
1.1.1.2. Hình thức
Về hình thức, phần mở bài luôn có sự tương ứng với đoạn kết bài về độ dài.
Trong trường hợp vấn đề quá phức tạp không thể nêu vấn đề trong một đoạn văn thì có
thể viết thành hai đoạn văn, khi đó, độ dài của phần mở bài được nới rộng hơn.
Phần mở bài có những đặc điểm về hình thức như sau:


+ Ngắn gọn: Từ khâu dẫn dắt vấn đề đến khâu nêu tầm quan trọng, ý nghĩa (nếu
có) chỉ ngắn gọn trong 6 – 8 câu. Nhưng vẫn cần đảm bảo được tính trọn vẹn của vấn
đề và tránh lan man không nêu được vấn đề trung tâm.


+ Đầy đủ: Khi đọc xong mở bài phải làm cho người đọc hiểu được vấn đề đặt ra ở
đây là gì, trong phạm vi nào và thao tác được vận dụng để giải quyết vấn đề đó như thế
nào… Phần này nhất thiết cần đầy đủ tất cả các nội dung, quan trọng nhất là phải nêu
đúng, đủ vấn đề của bài làm.
+ Độc đáo: phần mở bài cần phải gây được sự chú ý và gợi cho người đọc sự quan
tâm,
niềm hứng thú theo dõi sự trình bày ở các phần sau.

+ Giản dị, tự nhiên: Đòi hỏi khi viết phải có giọng điệu tự nhiên, có khả năng tạo
ra cảm giác gần gũi, quen thuộc với người đọc (người nghe) và có sức gợi nghĩ (gợi
cảm).
Về ngôn ngữ diễn đạt, trong phần mở bài những câu dẫn vào đề nên viết ngắn
gọn, khéo kéo, lời văn tự nhiên, thoải mái sao cho tạo được ấn tượng, hứng thú cho
người nghe, người đọc. Do đặc thù riêng của phần mở bài nên chú ý khi viết cần tránh
lối viết cầu kì, dài dòng, lan man, xa rời trọng tâm đề bài yêu cầu. Các câu trong phần
mở bài thường là câu tường thuật, nhưng cũng có cả câu phủ định và câu nghi vấn. Tuy
nhiên, câu nghi vấn ở đây là câu hỏi tu từ nhằm kích thích suy nghĩ của người đọc mà
không yêu cầu có câu trả lời.
1.1.2. Chức năng của phần mở bài
Có thể nói, trong chỉnh thể một bài văn, phần mở bài đảm nhiệm những chức
năng riêng song vẫn có mối quan hệ chặt chẽ với các phần còn lại (thân bài, kết bài).
1.1.2.1. Chức năng nêu vấn đề
Đây là chức năng quan trọng nhất của mở bài. Xét về quan điểm giao tiếp, phần
mở bài phải đưa người đọc, người nghe vào vấn đề bàn luận (hay tình huống có vấn đề
đặt ra ở đề bài). Vấn đề mà mở bài nêu ra chính là vấn đề mà nội dung bài viết đề cập
tới. Vấn đề này được nêu ra ở dạng khái quát, nêu một cách ngắn gọn và gây được sự
chú ý của người đọc. Mở bài có nhiệm vụ thông báo chính xác, rõ ràng, đầy đủ vấn đề,
dẫn dắt sao cho việc tiếp cận đề tài được tự nhiên nhất.
Vậy muốn nêu được vấn đề trước hết phải xác định được vấn đề. Muốn xác định
được vấn đề thì phải tìm hiểu đề bài. Thông thường đề bài có hai dạng:
Dạng nổi: Là dạng đề mà các yêu cầu về nội dung, hình thức, cách thức, phương
hướng, phạm vi, mức độ nghị luận được nêu ra trực tiếp và rõ ràng trong đề bài. Ở đề
bài này vấn đề bàn luận đã có sẵn.


Ví dụ:
Đề bài: Phân tích hình ảnh Thuý Kiều qua đoạn thơ Chị em Thuý Kiều. Qua đó
nêu lên nhận xét của em về nghệ thuật tả người của thi hào Nguyễn Du qua Truyện

Kiều.
Phân tích: Ở đề bài trên đích phải đạt, phạm vi, cách thức triển khai đã được nêu
rất rõ ràng.
- Vấn đề nghị luận: nghệ thuật tả người của thi hào Nguyễn Du.
- Phạm vi nghị luận: đoạn thơ Chị em Thuý Kiều.
- Cách thức triển khai: phân tích hình ảnh Thuý Kiều.
Trên đây là dạng đề bài mà vấn đề đã "lộ thiên", tuy nhiên rất nhiều (nếu không
muốn nói là hầu hết) các đề bài thường ẩn vấn đề cần bàn bạc, người viết phải phân
tích thì mới thấy được.
Dạng chìm: Là dạng đề trong đó người ra đề không cho dữ kiện rõ về các yêu cầu
của nội dung cũng như cách thức, phạm vi... nghị luận. Bởi thế người viết phải phân
tích, tổng hợp, khái quát nội dung vấn đề từ chính nội dung của đoạn văn, đoạn thơ,
hoặc tác phẩm, câu trích…
Ví dụ:
Đề bài: Trẻ em lang thang cơ nhỡ với cộng đồng xã hội.
Phân tích: Ở đề bài trên vấn đề nghị luận, phạm vi, cách thức nghị luận không
được nêu ra một cách rõ ràng. Đề bài đưa ra một vấn đề "nóng" hiện nay của xã hội
nhưng để làm được buộc chúng ta phải đi vào phân tích sự suy thoái mái ấm gia đình
nên đã dẫn đến hiện tượng trẻ em lang thang cơ nhỡ đáng báo động; kêu gọi cộng đồng
quan tâm góp sức để tạo dựng cho các em những "ngôi nhà tình thương" thực sự.
Học sinh khi đọc đề cần xác định thật rõ ràng những yêu cầu của đề theo hướng:
về nội dung cần xem yêu cầu vấn đề cần nghị luận có giới hạn ở đâu? giai đoạn nào?
tác phẩm hay đoạn nào? đề tài gì? chủ đề gì? Về hình thức: quan tâm đến kiểu bài mà
đề yêu cầu: phân tích, bình luận, bình giảng… hay đi kèm hai kiểu bài hoặc tổng hợp
các kiểu?
1.1.2.2. Chức năng nêu hướng giải quyết vấn
đề


Nêu hướng giải quyết vấn đề là nêu lên cách thức mà người viết sẽ giải quyết vấn

đề đó. So sánh đối chiếu hay phân tích, bình giảng sâu vào một vấn đề trọng tâm nào
đó, một


×