Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Bài tập môn Tư pháp quốc tế (9 điểm) Đề bài số 03: “Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.79 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Trang:


MỞ ĐẦU
Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là một vấn đề vô
cùng phong phú, quan hệ này xảy ra vượt ra ngoài phạm vi
của một quốc gia Trong điều kiện giao lưu và hợp tác quốc tế
ngày càng phát triển như hiện nay thì vấn đề kết hôn có yếu
tố nước ngoài hay có tài sản tồn tại ở nước ngoài ngày càng
phổ biến, chính vì vậy mà vấn đề thừa kế cũng đã vượt ra
khỏi phạm vi biên giới quốc gia và được điều chỉnh bởi tư
pháp quốc tế . Ngày nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau,
các vụ việc về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài phát
sinh trong đời sống quốc tế ngày càng phát triển đa dạng,
phong phú và phức tạp. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin
đi vào tìm hiểu đề bài tập số 3: “Bình luận quy định của pháp
luật Việt Nam (Bộ luật Dân sự năm 2015) trong việc giải
quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo di chúc có yếu tố
nước ngoài” để làm đề tài nghiên cứu cho bài tập học kỳ môn
Tư pháp quốc tế của mình.


NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận cơ bản
1. Khái quát về xung đột pháp luật
Xung đột pháp luật là hiện tượng ha hay nhiều hệ thống
pháp luật cùng có thể được áp dụng để điều hcinhr một quan
hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
Nguyên nhân phát sinh xung đột pháp luật xuất phát từ
nhiều khía cạnh: Thứ nhất, do pháp luật các ước quy định


khác nhau trong giải quyết một quan hệ của Tư pháp quốc tế
cụ thể. Thứ hai, do đặc điểm của các quan hệ xã hội thuộc Tư
pháp quốc tế điều chỉnh. Ngoài ra còn có các nguyên nhân
khác như do cách áp dụng và giải thích pháp luật của các
nước khác nhau.1
2. Thừa kế trong tư pháp quốc tế
Thừa kế trong tư pháp quốc tế là thừa kế có yếu tố nước
ngoài. Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài được căn cứ vào
các yếu tố sau:
- Các bên tham gia quan hệ thừa kế (có thể một hoặc hai
bên) là người nước ngoài, cơ quan hoặc tổ chức, pháp nhân
nước ngoài.
- Đối tương của quan hệ thừa kế là di sản ở nước ngoài.
- Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ
thừa kế xảy ra ở nước ngoài, theo pháp luật nước ngoài.
Thừa kế có yếu tố nước ngoài là một loại quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài, đã xuất hiện từ lâu và được xem như là
một hiện tất yếu khách quan của giao lưu dân sự quốc tế.
Hiện nay, trong cũng như các văn bản pháp luật dân sự khác,
không có quy định cụ thể nào về thừa kế có yếu tố nước
ngoài.
Từ đó, có thể hiểu thừa kế có yếu tố nước ngoài dựa trên
quy định tại Điều 663 Bộ luật dân sự 2015: “Thừa kế có yếu
1 Giáo trình tư pháp quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội – NXB Công an nhân dân – Hà Nội 2017

3


tố nước ngoài là quan hệ có ít nhất một bên chủ thể là cá
nhân người nước ngoài hoặc căn cứ xác lập, thay đổi, chấm

dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài hoặc tài sản thừa kế ở
nước ngoài.”
II. Pháp luật Việt Nam trong việc giải quyết xung
đột pháp luật về thừa kế theo di chúc có yếu tố nước
ngoài
1. Thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài theo
quy định tại Điều 680 Bộ luật dân sự 2015
Khoản 1 Điều 680 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Thừa kế
được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản
thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết”. Đây là một quy
phạm xung đột, quy phạm này điều chỉnh quan hệ thừa kế
theo pháp luật và thừa kế theo di chúc. Đối với việc thừa kế
theo di chúc thì như vậy các vấn đề về nội dung của di chúc,
thời điểm mở thừa kế, di sản thừa kế,... đều được xác định
theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có
quốc tịch ngay trước khi chết. 2
Ví dụ: một người nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, người đó
có nhiều loại tài sản ở Việt Nam, gồm cả động sản và bất
động sản, người này có vợ và một con là người nước ngoài
hiện đang sống tại nước ngoài. Người này trước khi chết đã
lập di chúc và để lại di sản cho vợ và con của mình. Theo đó,
tất cả các vấn đề về về thời điểm mở thừa kế, người hưởng di
sản,... đều được áp dụng theo pháp luật của nước người để lại
di sản thừa kế là công dân. Tức là trường hợp này cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam sẽ áp dụng luật nội dung của nước
ngoài, nhưng các quy định liên quan đến thủ tục (luật hình
thức) sẽ tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam.
2 Luận văn thạc sĩ luật học – Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế - Lý luận và thực tiễn tại Việt Nam –
Trịnh Thị Ngọc Dự - Trường Đại học Luật Hà Nội – Hà Nội 2012


4


Khoản 2 Điều 680 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Việc
thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản được xác định
theo pháp luật của nước nới có bất động sản”. Bất động sản là
một lọa tài sản đặc biệt, do đặc tính gắn liền với đất đai, mà
đất đai là một phần lãnh thổ của quốc gia, không thể sinh sôi,
vì vậy việc thực hiện quyền thừa kế với loại tài sản này sẽ có
những điểm khác biệt.
Việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản được
hiểu là người hưởng di sản thừa kế hay người còn sống có
được sở hữu bất động sản hay không hoàn toàn do pháp luật
của nước nơi có bất động sản quy định.3
Ví dụ: Việt Nam thừa nhận quyền hưởng di sản theo di
chúc của người được hưởng di sản nhưng nếu họ không thuộc
diện mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì họ không thể đứng
tên là chủ sở hữu của ngôi nhà đó, họ chỉ được hưởng giá trị
của ngôi nhà đó mà thôi.
2. Thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài theo
quy định tại Điều 681 Bộ luật dân sự 2015
Khoản 1 Điều 681 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Năng
lực lập di chúc, thay đổi hoặc hủy bỏ được xác định theo pháp
luật của nước mà người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm
lập, thay đổi hoặc hủy bỏ di chúc”.
Có thể thấy, việc chuyển dịch di sản cho người thừa kế
theo di chúc là thừa kế dựa trên cơ sở ý chí định đoạt của
người lập di chúc khi còn sống. Di chúc là sự thể hiện ý chí cá
nhân nhằm chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho người
khác sau khi chết. Quan hệ thừa kế theo di chúc được đặt ra

trong trường hợp người chết để lại di chúc và di chúc đó là

3 PGS.TS Nguyễn Văn Cừ và PGS.TS Trần Thị Huệ (Chủ biên)- “Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2015”,
tr1074

5


hợp pháp. Di chúc có thể định đoạt một phần hoặc toàn bộ di
sản.
Bộ luật dân sự 2015 đã đưa ra những nguyên tắc áp dụng
luật đối với các nội dung liên quan đến tính hợp pháp của di
chúc. Khoản 1 Điều 681 Bộ luật dân sự 2015 xác định hệ
thuộc luật quốc tịch (lex nationalis) để giải quyết xung đột
pháp luật về ăng lực lập di chúc. Quy định này phù hợp với
việc xác định pháp luật áp dụng đối với năng lực hành vi dân
sự của cá nhân và phù hợp với các Hiệp định tương trợ tư
pháp mà Việt Nam đã ký kết. Trong trường hợp người Việt
Nam lập di chúc ở nước ngoài thì năng lực lập di chúc, thay
đổi và hủy bỏ di chúc tuân theo quy định pháp luật Việt Nam. 4
Khoản 2 Điều 681 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Hình
thức của di chúc được xác định theo pháp luật của nước nơi di
chúc được lập. Hình thức của di chúc cũng được công nhận tại
Việt Nam nếu phù hợp với pháp luật của một trong các nước
sau đây:
a. Nước nơi gười lập di chúc cư trú tại thời điểm lập dic
húc hoặc tại thười điểm người lập di chúc chết.
b. Nước nơi người lập di chúc có quốc tịch tại thời điểm
lập di chúc hoặc tại thời điểm người lập di chúc chết.
c. Nước nơi có bất động sản nếu di sản thừa kế là bất

động sản”.
Khoản 2 Điều 681 Bộ luật dân sự 2015 sử dụng hệ thuộc
luật nước nơi lập di chúc để xác định tính hợp pháp hình thức
của di chúc (locus regin actum). Khác với nguyên tắc áp dụng
luật đối với việc xác định năng lực lập, thay đổi, hủy bỏ di
chúc, hình thức của di chúc trong trường hợp có yếu tố nước
ngoài không căn cứ vào quốc tịch của người lập di chúc mà
4 PGS.TS Nguyễn Văn Cừ và PGS.TS Trần Thị Huệ (Chủ biên)- “Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2015”,
tr1074

6


căn cứ vào lãnh thổ nơi người để lại di sản lập di chúc. Như
vậy, nếu công dân Việt Nam lập di chúc ở Pháp thì phải tuân
thủ những quy định của pháp luật Pháp về hình thức di chúc.
Và nếu công dân nước ngoài lập di chúc ở Việt Nam thì phải
tuân thủ những quy định của Việt Nam về hình thức di chúc.
Điều này hoàn toàn hợp lý. Bởi lẽ, nhiều quốc gia quy định di
chúc có hiệu lực khi được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền, do đó, cần phải tuân theo các quy định của quốc
gia nơi lập di chúc về hình thức của di chúc. 5
Việc thừa kế của công dân Việt Nam đối với tài sản ở nước
ngoài, pháp luật của nước ta không có các quy định cấm mà
trên thực tê Nhà nước cho phép và bảo hộ công dân Việt Nam
hiện dang cư trú trong nước được nhận các di sản thừa kế mà
người thân của họ để lại ở nước ngoài. Đối với việc thừa kế
theo di chúc của công dân Việt Nam ở nước ngoài. Điều 638
Bộ luật dân sự 2015 quy định những di chúc bằng văn bản
dưới đay cũng có giá trị như di chúc được công chứng nhà

nước chứng nhân hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
chứng thực: “Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy
bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó; Di chúc
của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của
cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước đó”.
Đối với những trường hợp nếu công dân Việt Nam lập di
chúc ở nước ngoài theo pháp luật của nước ngoài thì các di
chúc này được coi là hợp pháp

nếu pháp luật nước ngoài

được áp dụng để lập di chúc không trái với các nguyên tắc cơ

5 PGS.TS Nguyễn Văn Cừ và PGS.TS Trần Thị Huệ (Chủ biên)- “Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2015”,
tr1075

7


bản của pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(Khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự 2015).
Nếu căn cứ vào pháp luật nước nơi di chúc được lập thì di
chúc đó không phù hợp về hình thức, trường hợp này các cơ
quan có thẩm quyền sẽ xem xét đến các hệ thống pháp luật
có liên quan khác, ví dụ pháp luật của nước nơi cư trú, hoặc
pháp luật của nước người lập di chúc có quốc tịch vào thười
điểm lập di chúc hoặc tại thười điểm người đó chết; hoặc pháp
luật của nước nơi có bất động sản nếu di sản thừa kế là bất
động sản. Chỉ cần thỏa mãn một trong các hệ thống pháp luật
nêu trên thì hình thức của di chúc được coi là hợp pháp.

Cùng với sự phát triển nhanh chóng và dạng của hợp tác
quốc tế, bên cạnh áp dụng các quy phạm xung đột thực chất
hay quy phạm xung đột đơn phương trong luật quốc nội, các
quốc gia đã ký kết nhiều điều ước quốc tế để điều chỉnh các
mối quan hệ tế. Trên thực tế, ở một số lĩnh vực và trong
những mối quan hệ nhất định, các quy phạm của các điều ước
quốc tế đóng vai trò chủ đạo trong việc điều chỉnh các mối
quan hệ của tư pháp quốc tế nói chung và quan hệ thừa kế
có yếu tố nước ngoài nói riêng.
III. Một số điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 trong
vấn đề thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài so
với Bộ luật dân sự 2005
Trên cơ sở kế thừa các quy định của Bộ luật dân sự 2005,
có thể thấy Bộ luật dân sự 2015 đã có thêm những bổ sung
quan trọng góp phần giải quyết được các vấn đề phát sinh về
thừa kế theo di chức có yếu tố nước ngoài. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, so với quy định tương ứng của Điều 767 năm
2005 thì Điều 680 Bộ luật dân sự 2015 thiếu 2 khoản 3 và 4
đây là quy định về trường hợp di sản không có người thừa kế.
8


Bộ luật dân sự 2005 quy định đối với di sản không có người
thừa kế sẽ thuộc về nhà nước, nếu là động sản thuộc về nhà
nước mà người để lại di sản thừa kế là công dân, nếu là bất
động sản sẽ thuộc về nhà nước nơi có bất động sản. Quy định
như vậy là cần thiết, dẫu biết rằng những trường hợp di sản
không có người thừa kế là hãn hữa nhưng với vai trò điều
chỉnh xã hội, pháp luật phải dự liệu các trường hợp có thể xảy
ra dù không phổ biến. Bộ luật dân sự không tiếp tục quy định

vấn đề này là bởi vì theo quy định tại Điều 680 nếu có quan
hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài nảy sinh và rơi vào trường
hợp di sản không có người thừa kế thì căn cứ vào khoản 1
Điều 680 vân hoàn toàn có thể giải quyết được. Cụ thể pháp
luật của nước mà người để lại thừa kế là công dân sẽ được áp
dụng.6
Thứ hai, so với điều 768 Bộ luật dân sự thì ở Điều 681 để
xác định tính hợp pháp về hình thức của di chúc bên cạnh
việc áp dụng hệ thuộc luật của nước nơi di chúc dược lập thì
còn có thể xác định tính hợp pháp về hình thức dựa trên các
hệ thuộc khác được quy định tại khoản 2 Điều 681 Bộ luật dân
sự 2015. Quy định này rõ ràng là mềm dẻo hơn, phù hợp hơn
so vứi quy định tại Điều 768 Bộ luật dân sự 2005 khi mà chỉ
xem xét tính hợp pháp về hình thức của di chúc theo duy nhất
một hệ thuộc luật là luật của nước nơi lập di chúc. Quy định
này vì thế gần hơn với quy định của pháp luật quốc tế cụ thể
là Công ước La Haey ngày 5/10/1961 về xung đột pháp luật
liên quan đến hình thức định đoạt tài sản bằng di chúc.

6 Những điểm mới của hệ thống quy phạm xung đột pháp luật trong Bộ luật dân sự 2015 - Bình Quốc
Tuấn – Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 18/2016

9


IV. Đánh giá chung về việc giải quyết xung đột
pháp luật trong quan hệ thừa kế di chúc có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam
1. Thực tiễn giải quyết xung đột pháp luật về thừa
kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam

Trong những năm qua, số lượng người nước ngoài sinh
sống và làm việc tại Việt Nam ngày càng nhiều và người Việt
Nam làm ăn tại nước ngoài cũng ngày càng tăng, do vậy vấn
đề thừa kế có yếu tố nước ngoài luôn được đặt ra đối với hệ
thống pháp luật nước ta. Mặc dù đã áp dụng Bộ luật Dân sự
2015 và nhiều nguồn luật khác nhưng thực tiễn vấn đề thừa
kế nói chung và thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài nói
riêng ở nước ta giải quyết chưa được triệt để, vấn đề ủy thác
tư pháp luôn được đặt ra. Các tòa án áp dụng pháp luật còn
nhiều thiếu sót và vướng mắc, số lượng vụ việc được giải
quyết ngày càng tăng, trong cùng một vụ việc nhưng phải giải
quyết nhiều lần và các bản án có hiệu lực pháp luật rồi nhưng
bị đình chỉ.
Về vấn đề ủy thác tư pháp, thực tế, những việc mà Tòa án
Việt Nam ủy thác tư pháp cho Tòa án nước ngoài kết quả trả
lời thường rất chậm, thậm chí nhiều trường hợp không nhận
được sự trả lời, ngay cả đối với các nước mà tòa án đã ký kết
và gia nhập Điều ước quốc tế. Chính vì vậy, việc lấy lời khai,
tống đạt các văn bản của Tòa án hoặc xác định tài sản ở nước
ngoài là không thực hiện được làm cho vụ án kéo dài, vi phạm
thời hạn xét xử. Trong quá trình tố tụng, đương sự chết, tòa
phải xác minh để đưa những người thừa kế ở nước ngoài vào
tham gia vụ án nhưng người trong nước không cung cấp đầy
đủ địa chỉ người thừa kế ở nước ngoài nên khó khăn khi làm
10


hồ sơ. Tất cả đều dẫn đến việc lấy lời khai, tống đạt các văn
bản, hoặc xác định tài sản ở nước ngoài của tòa Việt Nam
không thực hiện được, làm cho vụ án bị kéo dài.

2. Hoàn thiện pháp luật về thừa kế có yếu tố nước
ngoài nói chung tại Việt Nam
Thứ nhất, xây dựng thực thi phù hợp chế độ đãi ngộ như
công dân với người nước ngoài tại việt nam.Một trong những
yêu cầu của phương hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài là bảo
đảm cho người nước ngoài được hưởng các quyền và lợi ích
ngang bằng với công dân Việt Nam trên cơ sở chế độ đãi ngộ
như công dân, tiến tới xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa công
dân Việt Nam với người nước ngoài trong các quan hệ dân sự
nói chung. Như vậy, về nguyên tắc, trong quan hệ thừa kế,
người nước ngoài có quyền thừa kế bình đẳng như công dân
Việt Nam.Việc áp dụng cho người nước ngoài chế độ đãi ngộ
như công dân tạo cơ hội bình đẳng cho họ trong các giao lưu
dân sự tại Việt Nam với nhau hoặc với công dân Việt
Nam.Đồng thời hạn chế đc việc các nước có thể áp dụng sự
phân biệt đối xử với công dân Việt Nam khi tham gia quan hệ
dân sự với nhau hoặc với người nước ngoài tại nước đó.
Thứ hai, đơn giản hóa nhằm đảm bảo việc dễ dàng thực
hiện pháp luật. Chúng ta phải đẩy mạnh việc tạo ra một hành
lang pháp lý năng động, phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm
ổn định hóa và hỗ trợ, khuyến khích các quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài phát triển, tạo cơ sở để Tòa án và các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xem xét giải quyết các vụ việc
về thừa kế có yếu tố nước ngoài phát sinh. Để đáp ứng yêu
11


cầu này, cần tiến hành rà soát một cách tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ thừa kế có yếu tố

nước ngoài, tìm ra những tồn tại, bất cập trong cơ chế điều
chỉnh pháp luật.
Thứ ba, nâng các hiệu quả của việc áp dụng các quy định
của Điều ước quốc tế, Tập quán quốc tế và pháp luật nước
ngoài. Trình độ năng lực áp dụng pháp luật nước ngoài của
thẩm phán Tòa án còn nhiều hạn chế khi xét xử các tranh
chấp dân sự có yếu tố nước ngoài. Do không am hiểu về pháp
luât, nhất là về xung đột pháp luật, cũng như không hiểu được
nội dung pháp luật nước ngoài, cho nên thẩm phán không thể
áp dụng pháp luật nước ngoài trong khi xét xử. Điều này vô
hình chung đã làm cho các quy phạm xung đột dẫn chiếu đến
việc áp dụng pháp luật nước ngoài trở nên hình thức, không
được thực hiện được trong thực tiễn. Cần phải hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh các quan hệ thừa kế có yếu tố nước
ngoài để đáp ứng được yêu cầu nâng cao năng lực xét xử của
Tòa án trong việc áp dụng pháp luật và điều ước quốc tế, kể
cả pháp luật nước ngoài, để giải quyết tranh chấp về thừa kế
có yếu tố nước ngoài.
Thứ tư, tăng cường ký kết các Điều ước quốc tế, tham gia
đàm phán, trao đổi, thương lượng để ký kết các điều ước song
phương và đa phương. Việc ký kết các điều ước quốc tế tạo
điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết tranh chấp dễ dàng
và không tốn kém về thời gian.

KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên, có thể thấy Bộ luật dân sự 2015
đã quy định một cách khá chặt chẽ và phù hợp với thông lệ
12



quốc tế về vấn đề thừa kế theo di chúc có yếu tố nước ngoài.
Cũng từ đây, nâng cao giá trị pháp luật Việt Nam và góp phân
giải quyết hiệu quả các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
phát sinh trong đời sống xã hội hiện này.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Tư pháp quốc
tế, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Bộ môn Tư pháp quốc tế, TS.
Vũ Thị Phương Lan – TS. Nguyễn Thái Mai (Đồng chủ biên)
(2017), Hướng dẫn học Tư pháp quốc tế, NXB. Chính Trị
Quốc Gia Sự Thật, Hà Nội.
3. PGS. TS. Nguyễn Văn Cừ - PGS. TS. Trần Thị Huệ (Đồng chủ
biên)(2017), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015
của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội.
4. TS. Nguyễn Minh Tuấn (Chủ biên)(2016), Bình luận khoa
học Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam năm 2015, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
5. Các văn bản pháp luật:
- Bộ luật dân sự năm 2015;
- Bộ luật dân sự năm 2005.



×