Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn sử dụng dịch vụ đào tạo tiếng anh trực tuyến của sinh viên trên địa bàn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.18 KB, 97 trang )

1

MỤC LỤC


2

DANH MỤC HÌNH

DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC VIẾT TẮT
UTAUT:

Unified Theory of Acceptance and Use of Technology

TAM:

Technology Acceptance Model

TPB:

Theory of Planned Behavior

TRA:

Theory of Reasoned Action

SPSS:



Statistical Package for the Social Science

EFA:

Exploratory Factor Analysis

ĐH:

Đại học

HV:

Học viện

ĐHQGHN: Đại học Quốc gia Hà Nội


3

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hóa là một xu hướng tất yếu với mọi quốc gia trên thế giới.Việt Nam
cũng đang ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế toàn cầu, tiêu biểu
là sự tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007. Chính xu
hướng toàn cầu hóa này đã đòi hỏi một ngôn ngữ chung để giao tiếp, trao đổi
giữa các nước, các nền văn hóa khác nhau và tiếng Anh đã được chọn trở thành
ngôn ngữ chung trên toàn thế giới. Việt Nam phải hòa nhập quốc tế để phát triển
nhiều mặt, nhất là kinh tế và khoa học công nghệ, vì vậy thành thạo tiếng Anh
dần trở thành yêu cầu bắt buộc đối với mỗi người lao động để nhanh chóng bắt

kịp các xu hướng và trình độ với các quốc gia khác.
Đầu tiên, phải kể đến một số lý do cơ bản nhất tại sao Tiếng Anh lại được chọn
là một trong những ngôn ngữ quốc tế thông dụng nhất trên toàn thế giới. Một
trong những yếu tố quan trọng bậc nhất tạo nên sự phổ biến của Tiếng Anh
chính là nhờ vào ảnh hưởng sâu rộng của Mỹ và Anh trên các lĩnh vực quân sự,
kinh tế, khoa học, tin học, chính trị và văn hóa. Ở nhiều nước, người ta bắt buộc
phải học tiếng Anh. Số người sử dụng tiếng Anh đã được ước lượng vào khoảng
từ 500 triệu đến 1 tỉ người ở khắp nơi trên toàn cầu. Bên cạnh đó, Tiếng Anh
được đứng trong danh sách các thứ tiếng dễ học nhất, thường mất khoảng 3 năm
để thành thạo các kĩ năng cơ bản nhất như nghe, nói, đọc, viết.
Ở góc độ vĩ mô, nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã hội như kinh tế, chính trị,
khoa học, du lịch, vv... đều rất cần những người có trình độ Tiếng Anh giỏi.
Dưới cái nhìn của mỗi cá nhân, mỗi người học và sử dụng Tiếng Anh với nhiều
mục đích khác nhau, như để đáp ứng nhu cầu giao tiếp ngày càng lớn trong xã
hội, để kiếm được công việc tốt với mức lương cao hơn, để được thăng chức,
hay để giành được cơ hội đi du học và làm việc ở nước ngoài, không thể không


4

kể đến khi tiếp xúc với Tiếng Anh, chúng ta còn học hỏi được nhiều điều về văn
hóa và lối sống của người Mĩ, Anh thông qua các phương tiện truyền thông của
họ. Từ đó, làm khai mở rộng tầm hiểu biết, có cái nhìn thực tế, mục tiêu rõ ràng
và chắc chắn là cả những trải nghiệm thú vị hơn trong cuộc sống.
Bên cạnh đó, sự ra đời của máy tính và internet như chất xúc tác mạnh để quá
trình toàn cầu hóa được diễn ra nhanh và dễ dàng hơn, điển hình là việc phổ cập
internet ở Việt Nam đang đứng đầu Đông Nam Á và đứng thứ 18 thế giới với
tốc độ tăng trưởng hàng năm là 14%, trong đó 42% người sử dụng internet tại
Việt Nam ở độ tuổi 15 – 24 tuổi. Hiểu và bắt kịp xu hướng đó, các nhà cung cấp
dịch vụ đã cho ra đời hàng loạt các chương trình học tiếng Anh trực tuyến để

phù hợp với các điều kiện, hoàn cảnh khác nhau của từng đối tượng, và tăng
tính linh hoạt của dịch vụ về chi phí, thời gian, địa điểm so với các dịch vụ
giảng dạy tiếng Anh truyền thống.
Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều quan ngại về chương trình dạy tiếng Anh trực
tuyến vì các lý do khác nhau. Trên thực tế đã có những nghiên cứu và đánh giá
về các tác động và lợi ích mà việc sử dụng các trang mạng học tiếng Anh trực
tuyến mang lại tại các nước trên thế giới như Trung Quốc, Mỹ… nhưng ở Việt
Nam lại chưa có những thống kê hoặc nghiên cứu chính thức đánh giá về mức
độ sử dụng các trang mạng tiếng Anh trực tuyến như vậy. Do nguồn lực có hạn,
chúng tôi chọn chương trình cho sinh viên vì đây là đối tượng cần tiếng Anh
cho cả việc học tập cũng như làm việc và là đối tượng có kiến thức, kỹ năng sử
dụng máy tính và internet khá tốt. Hơn nữa, Hà Nội là nơi tập trung nhiều
trường Đại học có chất lượng cao và là một trong những thị trường lao động có
lượng lớn nhu cầu về lao động có trình độ tiếng Anh trong cả nước.
Với các lý do nêu trên, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài: “Các nhân tố ảnh
hưởng đến sự lựa chọn sử dụng dịch vụ đào tạo tiếng Anh trực tuyến của sinh
viên trên địa bàn Hà Nội” để nghiên cứu.


5

1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm vào các mục tiêu cơ bản sau:


Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn học tiếng Anh trực



tuyến của sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội

Phân tích sự tác động của các nhân tố đó lên sự lựa chọn học tiếng Anh



trực tuyến của sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội
Đưa ra một số đề xuất cho các nhà cung cấp dịch vụ học tiếng Anh trực
tuyến

1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu trên đây, các câu hỏi nghiên cứu cần phải
trả lời bao gồm:


Sự lựa chọn học tiếng Anh trực tuyến của sinh viên trên địa bàn thành



phố Hà Nội bị ảnh hưởng bởi những nhân tố nào?
Các nhân tố đó ảnh hưởng như thế nào đến sự lựa chọn học tiếng Anh



trực tuyến của sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội?
Có những kiến nghị gì về đào tạo tiếng Anh cho các nhà cung cấp dịch vụ
học tiếng Anh trực tuyến?

1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Sự lựa chọn của sinh viên đối với việc học tiếng Anh trực tuyến
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu



Về mặt không gian: Sinh viên các trường Đại học trên địa bàn thành phố
Hà Nội, các trường Đại học đa dạng các ngành, khối như Đại học Kinh tế
Quốc dân, Đại học Hà Nội, Đại học Ngoại Thương, Học viện ngân hàng,
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Y Hà Nội, Học viện quân



Y…
Về mặt thời gian: Số liệu được thu thập từ tháng 12 năm 2014 đến tháng
2 năm 2015


6

1.5 Cấu trúc báo cáo



Chương 1: Giới thiệu chung về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về học trực tuyến, đào tạo trực tuyến và




chương trình đào tạo tiếng Anh
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn học tiếng




Anh trực tuyến của sinh viên trên địa bàn Hà Nội
Chương 5: Một số kiến nghị và giải pháp

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ HỌC TRỰC TUYẾN, ĐÀO TẠO
TRỰC TUYẾN VÀ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TIẾNG ANH
2.1 Học trực tuyến và đào tạo trực tuyến
2.1.1 Các khái niệm cơ bản
Các loại hình của giáo dục-đào tạo trực tuyến:
Đào tạo dựa trên máy
tính
Học tập trực tuyến
Giáo dục-đào tạo trực
tuyến

Hình 2.1: Các loại hình giáo dục - đào tạo trực tuyến
Các khái niệm về giáo dục trực tuyến đã được khởi xướng từ đầu những năm
1990 và là một trong những phát triển quan trọng nhất của ngành công nghệ
thông tin (IT) trong việc đóng góp cho ngành công nghiệp giáo dục (Selim,
2007). Đề cập đến định nghĩa của hệ thống học trực tuyến được đưa ra bởi Ủy
ban Tiêu chuẩn Học Công nghệ của Viện Kỹ sư Điện và Điện tử (IEEE), Ngai et


7

al. (2007) cho rằng một hệ thống giáo dục trực tuyến là: “Một hệ thống công
nghệ học tập mà sử dụng các trình duyệt web như là phương tiện chính của sự
tương tác với người học; cùng với đó, Internet và một mạng nội bộ là phương
tiện chính của giao tiếp trong hệ thống của chính mình cũng như với các hệ

thống khác. Những hệ thống này làm việc như là nền tảng chính để tạo điều
kiện dễ dàng hơn cho việc giảng dạy và học tập”. Không thể không kể tới định
nghĩa của Sun Microsystem, Inc.: “Giáo dục trực tuyến là việc học tập được
phân phối hoặc hỗ trợ qua công nghệ điện tử như internet, ti vi, các hệ thống
giảng dạy thông minh, và việc đào tạo dựa trên máy tính (CBT)”.
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng theo nhóm nghiên cứu, giáo dục
trực tuyến có ba điểm cơ bản sau: Đầu tiên chính là việc dựa trên công nghệ
thông tin và truyền thông. Thứ hai chính là hiệu quả của giáo dục trực tuyến nếu
được đầu tư và sử dụng thích hợp sẽ cao hơn so với cách học truyền thống do nó
có tính tương tác cao, tạo điều kiện cho người học trao đổi thông tin dễ dàng
hơn, cũng như đưa ra nội dung học tập phù hợp với khả năng và sở thích của
từng người. Cuối cũng nhưng cũng không kém phần quan trọng chính là giáo
dục trực tuyến sẽ trở thành xu thế tất yếu trong nền kinh tế tri thức. Hiện nay, nó
đang thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nước trên thế giới với rất nhiều
tổ chức, công ty đang đầu tư vào lĩnh vực này.
Học tập trực tuyến chỉ chiếm một phần của việc học tập dựa trên công nghệ
(hay còn gọi là giáo dục trực tuyến) và mô tả việc học hỏi qua Internet, mạng
nội bộvà mạng nội bộ mở rộng. Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào việc sử
dụng các trang mạng học tiếng Anh trực tuyến của sinh viên trên địa bàn thành
phố Hà Nội, hay chính là học tập trực tuyến, một tập hợp con của giáo dục trực
tuyến.
Dựa theo kết quả nghiên cứu và tình hình tại Việt Nam hiện nay, nhóm nghiên
cứu cho rằng: Học tiếng Anh trực tuyến là việc ứng dụng công nghệ thông tin


8

vào việc giảng dạy tiếng Anh để đạt được thuận lợi và hiệu quả như đã đề cập ở
trên và các trang web học Tiếng Anh trực tuyến là các trang web cung cấp các
chương trình giảng dạy cho người học tiếng Anh phù hợp với trình độ sẵn có và

mục tiêu của từng người học.
2.1.2 Vai trò của đào tạo trực tuyến
Ngày nay, các doanh nghiệp đang áp dụng hệ thống đào tạo trực tuyến như là
một trong những phương thức chính để đào tạo cho nhân viên của chính họ
(Simmons, 2002). Cũng trong giai đoạn hội nhập kinh tế như hiện nay, các tổ
chức giáo dục đang tăng cường sự sử dụng trang mạng và các phương tiện
truyền thông công nghệ cao cho việc giảng dạy ở cả ở trong các trường đại học
và hệ thống giáo dục từ xa. Đối với việc sử dụng hệ thống tương đối là đắt đỏ
này của các tổ chức kinh tế và giáo dục, chắc chắn là hệ thống giáo dục – đào
tạo trực tuyến phải mang đến những lợi ích nhất định.
Xét về góc độ của giáo viên, việc giảng dạy bây giờ đã có thể thực hiện ở mọi
nơi, mọi lúc.Các tài liệu giảng dạy có thể được cập nhật và sửa đổi, và người
học có thể thấy sự thay đổi này ngay lập tức. Khi mà người học có quyền tiếp
cận các tài liệu ở trên Internet, thì điều này sẽ dễ dàng hơn cho giáo viên để
hướng họ tới thông tin phù hợp dựa trên nhu cầu và khả năng học tập. Nếu các
tài liệu và phương tiện giảng dạy được thiết kế một cách hợp lý, hệ thống học
tập trực tuyến có thể được sử dụng để xác định nhu cầu của người học cũng như
đánh giá trình độ hiện tại của họ, cũng như giao những bài tập phù hợp cho sinh
viên, để đạt được kết quả học tập mà họ mong ước.
Xét về góc độ người học, học tập trực tuyến có nghĩa là những giới hạn về thời
gian, địa điểm và khoảng cách đang từng bước bị xóa nhòa. Đối với hệ thống
học tập trực tuyến không đồng bộ, các sinh viên có thể dễ dàng truy cập tài liệu
học tập bất cứ lúc nào, trong khi đối với hệ thống học tập trực tuyến đồng bộ
cho phép việc tương tác thực tế giữa sinh viên và giảng viên. Người học có thể


9

sử dụng Internet để truy cập vào các tài liệu học tập cập nhật và liên quan đến
nội dung mà mình quan tâm, cũng như nói chuyện với các chuyên gia trong lĩnh

vực mà mình đang học hay tiến hành các nghiên cứu. Không thể không kể đến
phương pháp học tập theo ngữ cảnh, hay còn gọi là sự áp dụng các kiến thức và
kĩ năng trong một ngữ cảnh cụ thể, từ khi người học có thể hoàn thành các khóa
học trực tuyến ngay cả khi đang đi làm hay ở nhà của học, và họ có thể đặt việc
học trong một ngữ cảnh nhất định.
Cụ thể là, các hệ thống này có thể được sử dụng để tích hợp các tài liệu giảng
dạy (qua các dữ liệu âm thanh, video, và các văn bản), e-mail, các buổi trò
chuyện trực tiếp, các cuộc thảo luận trực tuyến, diễn đàn, câu đố và bài tập. Với
hệ thống học tập trực tuyến, sự giảng dạy và giao tiếp giữa giáo viên và sinh
viên có thể được tiến hành cùng một lúc (đồng bộ) hoặc vào các thời điểm khác
nhau (không đồng bộ).Hệ thống này cung cấp một loạt các công cụ trợ giảng và
phương pháp giao tiếp, phục vụ người học một cách linh hoạt tuyệt vời như về
thời gian và địa điểm giảng dạy.Kết quả là, các hệ thống học tập trực tuyến có
thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người học đã được phân tán về mặt địa lý và có
kế hoạch mâu thuẫn.
Với những lợi thế đó, không phải là điều đáng ngạc nhiên khi mà các tổ chức
kinh doanh và giáo dục đang có những khoản đầu tư đáng kể trong các hệ thống
giáo dục – đào tạo trực tuyến. Ví dụ, trong năm 2000, đầu tư vào thị trường giáo
dục-đào tạo trực tuyến tại Hoa Kỳ được thống kê là 2,2 tỷ USD theo báo cáo
của Tập đoàn Dữ liệu quốc tế (International Data Corporation) và ước tính
khoản đầu tư này sẽ vượt quá 23 tỷ USD năm 2004 (Anderson, Dankens,
&Julian, 2000). Các cơ sở giáo dục sau trung học cũng đã trải qua sự tăng
trưởng đáng kể trong việc sử dụng hệ thống giáo dục trực tuyến, với một số tổ
chức cung cấp toàn bộ các chương trình học tập thông qua giáo dục từ xa. Như
một ví dụ của sự tăng trưởng này, trong năm 1993, Cẩm nang hướng dẫn của
Trường Cao đẳng Peterson (Peterson’s College Guide) chỉ ra rằng 93 trường cao


10


đẳng cung cấp hệ thông giáo dục trực tuyến, và đến năm 1997, con số này đã
tăng lên gần 800 (Gubernick & Ebeling, 1997). Hơn nữa, trong năm 2001,
WebCT báo cáo rằng hơn 2200 tổ chức sau trung học đã sử dụng sản phẩm của
mình để cung cấp giáo dục trực tuyến.
2.1.3 Một số mô hình về chấp nhận sử dụng công nghệ trực tuyến
Học tiếng Anh trực tuyến là một phương pháp học mới xuất hiện trên thế giới và
cả ở Việt Nam sau sự ra đời của Internet.Nhiều trang mạng học tiếng Anh trực
tuyến nở rộ và được nhiều người dùng tham gia.Vì vậy, cũng xuất hiện những
nghiên cứu về sự chấp nhận của học sinh, sinh viên đối với các trang mạng học
tiếng Anh trực tuyến.Tuy nhiên, học tiếng Anh trực tuyến là một loại hình học
mới nên Việt Nam chưa có một nghiên cứu nào về vấn đề này.Số lượng bài
nghiên cứu trên thế giới rất hạn chế, hầu hết chỉ ở các nước phát triển về công
nghệ. Trong mỗi một nghiên cứu, những nghiên cứu sinh hay những nhà nghiên
cứu lại có những mô hình áp dụng khác nhau như TAM, UTAUT, …


Mô hình TAM

Mô hình chấp nhận công nghệ TAM được xây dựng bởi Fred Davis năm 1989
và Richard Bagozzi năm 1992, dựa trên sự phát triển từ thuyết TRA và TPB.
Thuyết hành động hợp lý TRA được phát triển bởi Martin Fishbein năm 1975 và
Ajzen năm 1980. TRA đi sâu vào nghiên cứu thái độ và hành vi. Nhân tố quan
trọng nhất trong dự đoán hành động tiêu dùng là dự định hành vi. Thái độ và
chuẩn chủ quan của khách hàng là hai yếu tố ảnh hưởng đến dự định hành vi
mạnh mẽ nhất.
Niềm tin và sự
Niềm tinđánh
và sgiá
ự đánh giá


Thái độ
độ
Thái
Dự định hành vi

Niềm tin theo chuẩn mực và động cơ thúc
đầẩyn chủ quan
Chu

Hành động thực sự


11

Hình 2.1.3a: Thuyết hành động hợp lý (TRA)
Thuyết hành vi có kế hoạch TPB, ngoài hai nhân tố thái độ và chuẩn chủ quan,
dự định còn bị tác động bởi nhân tố thứ ba là sự kiểm soát hành vi cảm nhận,
nghĩa là các nguồn lực bao gồm những kiến thức, kĩ năng sẵn có, những cơ hội
và nhận thức riêng của mỗi người để thực hiện một công việc nào đó. Nhờ sự
phát hiện nhân tố thứ ba, mô hình TPB được nhận định là tối ưu hơn mô hình
TRA trong việc dự đoán và giải thích hành vi người tiêu dùng.
Thái độ
Chuẩn chủ quan

Dự định hành vi

Hành động thực sự

Sự kiểm soát hành vi cảm nhận


Hình 2.1.3b: Thuyết hành vi có kế hoạch (TPB)
Mô hình TAM đi sâu vào giải thích hành vi chấp nhận và sử dụng công nghệ
của người tiêu dùng. Ngoài những nhân tố mà mô hình TRA và TPB đã đề cập,
mô hình TAM còn có thêm sự xuất hiện của hai nhân tố tác động trực tiếp đến
thái độ người tiêu dùng là ích lợi cảm nhận và sự dễ sử dụng cảm nhận.
Ích lợi
cảm nhận
Thái độ

Biến
bên ngoài
Sự dễ sử dụng
cảm nhận

Dự định
hành vi

Sử dụng
thực sự


12

Hình 2.1.3c: Mô hình chấp nhận công nghệ TAM
Những nghiên cứu đã có áp dụng mô hình TAM:
Nghiên cứu “Phát triển mô hình TAM để nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đế
ý định sử dụng hệ thống cộng đồng học trực tuyến” được thực hiện năm 2010
bởi nhóm nghiên cứu đến từ các trường đại học khác nhau ở Đài Loan (I-Fan
Liu, Meng Chang Chen, Yeali S. Sun, David Wible và Chin-Hwa Kuo). Đối
tượng nghiên cứu là những học sinh năm cuối các trường THPT có tài khoản

trên trang học trực tuyến IWILL, trang mạng tồn tại một khoảng thời gian dài
với nhiều thành viên Đài Loan. Với quy mô mẫu gần 500 học sinh, nghiên cứu
đã chỉ ra rằng người dùng càng cảm thấy hệ thống dễ sử dụng và hữu hiệu thì họ
càng có ý định tiếp tục sử dụng cộng đồng học trực tuyến lâu dài trong tương
lai. Dựa vào những kết quả rút ra được, nhóm tác giả đã đưa ra những lời
khuyên, đường lối chỉ đạo cho việc thành lập cộng đồng học trực tuyến như
thiết kế khóa học là ưu tiên hàng đầu, lấy người dùng là trung tâm. Người dùng
nên được khích lệ tích lũy nhiều kinh nghiệm học trực tuyến hơn và sử sụng
công nghệ thông tin để học tiếng Anh. Hơn thế nữa, sự hỗ trợ bổ sung nên được
chú ý tới khi thiết kế giao diện. Mặc dù đề xuất được những giải pháp hữu hiệu
nhưng nghiên cứu này còn rất nhiều hạn chế về đối tượng và quy mô mẫu bỏi
những học sinh phản hồi bảng hỏi phần lớn là học sinh chưa tốt nghiệp trường
THPT.Vì vậy mà khó có được những thông tin khách quan để so sánh sự khác
nhau giữa các độ tuổi, trình độ học vấn khác nhau.
Trong nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng tới sự chấp nhận môi trường học trực
tuyến của sinh viên ở các nước đang phát triển” (năm 2013), nhóm tác giả Ali
Tarhini, Kate Hone, Xiaohui Liu ở Đại học Brunel, nước Anh đã có sự linh hoạt
hơn trong việc lấy mẫu, khắc phục được hạn chế của nghiên cứu của nhóm đến
từ Đài Loan. Bài nghiên cứu được thực hiện với gần 600 người tham gia trong


13

độ tuổi từ 17 đến 35 với các trình độ tiếp cận công nghệ khác nhau trong phạm
vi quốc gia Li-băng. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc học trực tuyến được đón
nhận tích cực và ngày càng được chấp nhận ở Li-băng. Bằng việc kết hợp quan
niệm xã hội và chất lượng cuộc sống như hai yếu tố chủ đạo, nghiên cứu đã mô
tả và giải thích được cách sinh viên quyết định về việc chấp nhận và sử dụng hệ
thống học trực tuyến. Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn chưa đưa ra những giải pháp
thiết thực để giải quyết những vẫn đề còn tồn tại trong môi trường học trực

tuyến.
Một nghiên cứu khác “Những nhân tố ảnh hưởng đến sự chấp nhận hệ thống
học trực tuyến ở Gioóc-đa-ni” được thực hiện bởi nhóm tác giả đến từ nước Anh
bao gồm Muneer Mahmood Abbad, đại học Bahrain, Vương quốc Ba-rank;
David Morris và Carmel de Nahlik vào năm 2009. Tác giả đã thu thập thông tin
từ gần 500 sinh viên học tại các lớp kỹ năng máy tính cơ bản ở trường Đại học
mở Ả Rập. Bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng yếu tố dễ sử dụng, trình độ sử dụng
Internet và sự hỗ trợ công nghệ đều ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của sinh
viên. Mặc dù quy mô mẫu tương đối lớn nhưng phạm vi mẫu khá hẹp chỉ ở một
chuyên ngành của một trường Đại học nên bài nghiên cứu thiếu tính toàn diện
và khách quan.


Mô hình UTAUT

Năm 2003, lý thuyết thống nhất chấp nhận và sử dụng công nghệ UTAUT đã
được xây dựng bởi nhà nghiên cứu hàng đầu Venkatesh và các cộng sự M.G.
Morris, G.B. Davis, F.D. Davis để giải thích ý định hành vi và hành vi sử dụng
của người dùng đối với hệ thống thông tin. Mô hình UTAUT được phát triển
dựa trên tám lý thuyết: Thuyết hành động hợp lý (TRA- Ajzen và Fishben,
1980), Thuyết hành vi có kế hoạch (TPB- Ajzen, 1985), Mô hình chấp nhận
công nghệ (TAM- Davis 1989; TAM2- Venkatesh và Davis 2000), Mô hình
động cơ thúc đầy (MM- Davis, Bagozzi và Warshaw 1992), Mô hình chấp nhận


14

công nghệ kết hợp thuyết hành vi có kế hoạch (C-TAM-TPB, Taylor và Todd
1995), Mô hình sử dụng máy tính cá nhân (MPCU- Thompson, Higgins và
Howell 1991), Thuyết truyền bá sự đổi mới (IDT- Moore và Benbasat, 1991),

Thuyết nhận thức xã hội (SCT- Compeau và Higgins, 1995). Trong đó, ba
thuyết đáng chú ý và có ảnh hưởng mạnh nhất đến mô hình UTAUT là thuyết
TRA, TPB và TAM.

Hiệu quả
mong đợi
Dự định
hành vi

Nỗ lực
mong đợi

Hành vi
sử dụng

Hình 2.1.3d: Mô hình UTAUT

Ảnh hưởng

Trong
mô hình này, ba nhân tố tác động đến dự định hành vi là hiệu quả mong
xã hội
đợi, nỗ lực mong đợi và ảnh hưởng của xã hội.
Điều kiện
thuậnghiên
n lợi cứu đã có áp dụng mô hình UTAUT
Những

Năm 2013, tác giả Paul Juinn Bing Tan đã thực hiện nghiên cứu “Áp dụng mô
Kinh

Tự nguyện
hình UTAUT để hiểu các nhân tố ảnh hưởng
dụng
nghiđến
ệmviệc sửsử
dụngcác trang mạng
Giới tính

Tuổi tác

học tiếng Anh trực tuyến ở Đài Loan”. Ở trong nghiên cứu này, tác giả đã sử
dụng mô hình UTAUT để nghiên cứu về sự chấp nhận và sử dụng những trang
học tiếng Anh trực tuyến của những sinh viên học ở Đài Loan. Tác giả đã thu
thập thông tin từ 176 người dùng trang học tiếng Anh trực tuyến là sinh viên từ


15

hơn 10 trường cao đẳng, đại học ở Đài Loan. Qua đó, nghiên cứu đã chỉ ra rằng
các nhân tố Hiệu quả mong đợi, Nỗ lực mong đợi, Ảnh hưởng xã hội, Điều kiện
thuận lợi và Dự định hành vi đều tác động một cách tích cực đến sự chấp nhận
sử dụng trang học tiếng Anh trực tuyến. Khả năng chấp nhận sử dụng dịch vụ
của sinh viên càng tăng nếu họ hi vọng một trang học tiếng Anh trực tuyến nào
đó sẽ cải thiện trình độ của họ, nếu trang web đó dễ sử dụng hay khi giảng viên
của họ hay một nhân vật quan trọng nào đó với họ gợi ý việc học tiếng Anh trực
tuyến. Bên cạnh đó sinh viên sẽ thường xuyên truy cập vào các trang học trực
tuyến hơn nếu trang web tạo điều kiện thuận lợi để sử dụng và sinh viên càng có
ý định sử dụng sẽ càng ham dùng.Qua đó, tác đã đề xuất một vài giải pháp cho
các nhà quản lý trang mạng học tiếng Anh trực tuyến.Những nhà thiết kế trang
web nên cải thiện các tính năng quản lý kho kiến thức và giao diện để người

dùng có thể dễ dàng sử dụng hơn. Hơn thế nữa, sinh viên nên được thông báo
rằng các trang web có thể được hỗ trợ bởi những điều kiện thuận tiện. Tuy
nhiên, nghiên cứu mới thu thập thông tin từ phần trả lời của các phiếu hỏi mà
chưa đi vào phỏng vấn sâu. Thêm vào đó, nghiên cứu về sự chấp nhận sử dụng
trang mạng học tiếng Anh trực tuyến giữa những sinh viên cao đẳng, đại học ở
Đài Loan nên kết quả chưa thể đại diện cho hệ thống học tiếng Anh trực tuyến ở
các quốc gia khác.
Một nghiên cứu khác “Học tiếng Anh trực tuyến ở lớp học: Điều tra các nhân tố
ảnh hưởng tới sự chấp nhận và sử dụng việc học tiếng Anh trực tuyến của các
sinh viên đại học trong môi trường học tập năng động tập định hướng mục tiêu
(Moodle)” đã được thực hiện bởi Jing Liu từ đại học Iowa State University năm
2013. Đối tượng nghiên cứu ở đây là học viên của hai lớp ngữ pháp và đọc hiểu
ESL với quy mô mẫu là 13 sinh viên quốc tế đến từ các quốc gia khác nhau,
phần lớn là sinh viên năm nhất từ Trung Quốc và ngoài ra là tiểu vương quốc Ả
Rập và Hàn Quốc. Áp dụng mô hình UTAUT để nghiên cứu, tác giả đã chỉ ra
rằng những người dùng trước đây học tiếng Anh trực tuyến Moodle đã có những


16

phản hồi cả tốt và không tốt về trang học tiếng Anh trực tuyến và điều này đã
ảnh hưởng đến quan điểm, ấn tượng của những người dùng sau này về trang
mạng. Dựa vào thực trạng đó, tác giả đã đưa ra những kiến nghị để tăng khả
năng chấp nhận của sinh viên đối với hệ thống học trực tuyến Moodle. Ngoài
kiến nghị về cải thiện thiết kế của trang web như trong nghiên cứu của Paul Juin
Bing Tan, tác giả còn gợi ý rằng a giao diện đơn giản, rõ ràng và dễ hiểu sẽ
tránh được sự nhầm lẫn. Người hướng dẫn cần chú ý hơn đến việc giúp sinh
viên làm quen với hệ thống trực tuyến và những nhà quản trị nên đưa ra những
hỗ trợ cụ thể như một vài buổi định hướng. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ dựa trên
học viên của lớp học tiếng Anh ESL với quy mô mẫu khá nhỏ 13 và phạm vi

tương đối hẹp so với phạm vi lãnh thổ Đài Loan trong nghiên cứu trước. Những
người trả lời phiếu hỏi đều là tình nguyện tham gia, chưa phải chọn lựa ngẫu
nhiên nên kết quả nghiên cứu chưa được khách quan và có khả năng bỏ sót hành
vi chấp nhận. Những cuộc phỏng vấn sâu không được ghi âm lại mà được ghi
chép tay nên khó tránh khỏi thiếu sót ý kiến.


So sánh mô hình UTAUT và mô hình TAM

Trước đây, khi chưa có sự ra đời của UTAUT, mô hình TAM được xem là mô
hình được sử dụng nhiều nhất trong việc sử dụng hành vi sử dụng hệ thống, đặc
biệt là trong lĩnh vực e-banking. Tuy nhiên, mô hình TAM nguyên thủy có
nhược điểm là chỉ được xây dựng nhằm vào đối tượng là các tổ chức.Và sau
này, UTAUT với sự kết hợp từ tám lý thuyết đã khắc phục vấn đề này và có thể
cho phép nghiên cứu từng cá nhân riêng biệt. Theo nghiên cứu và nhận định của
Venkatesh (2003), lý thuyết UTAUT giải thích được 70% các trường hợp trong
ý định sử dụng, tốt hơn so với bất kỳ mô hình nào trước đây, khi mà chúng chỉ
có thể giải thích được từ 30-45%.
Trước thực tiễn đó, đề tài nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa
chọn sử dụng dịch vụ đào tạo tiếng Anh trực tuyến của sinh viên trên địa bàn


17

Hà Nội ” sẽ tìm ra những yếu tố ảnh hưởng sâu sắc nhất đến quyết định hành vi
người dùng về việc học tiếng Anh trực tuyến. Qua đó, nghiên cứu tìm ra nhu
cầu của người dùng và đưa ra những kiến nghị, giải pháp giúp các nhà quản lý
trang web hiểu được hành vi và tạo những điều kiện cần thiết để thu hút và đáp
ứng nhu cầu của người học.
2.2 Đặc điểm và vai trò của chương trình đào tạo tiếng Anh

2.2.1 Dịch vụ đào tạo và đặc điểm của chương trình đào tạo tiếng Anh


Dịch vụ đào tạo

Theo truyền thống từ xa xưa, giáo dục đào tạo được hiểu là một hình thức học
tập mà ở đó, kiến thức và kinh nghiệm được truyền từ người này sang người
khác, từ nhóm người này sang nhóm người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác
bằng phương thức giảng dạy là chủ yếu. Nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển
của xã hội và sự hội nhập về kinh tế, chính trị, giáo dục đào tạo ngày càng lớn
mạnh; qua đó, quá trình dạy và học trở nên có mục đích, hệ thống, sáng tạo hơn
và được thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau. Giáo dục trong thời kì
hiện đại được xem là “dịch vụ, sản phẩm được tạo ra là những con người hoàn
toàn có thể chủ động tham gia vào quá trình đạo tạo” (theo Nguyễn Khánh
Trung, viện nghiên cứu phát triển giáo dục IRED năm 2011).Ngoài đặc điểm
giống như các dịch vụ khác là sản phẩm vô hình, có thể tiêu dùng ngay thì giáo
dục có một số đặc điểm mà các dịch vụ khác không có.Thứ nhất, nó có thể “tồn
kho” vào tri thức cá nhân và trở thành vốn tri thức.Thứ hai, nó mang thuộc tính
xã hội và được xếp vào loại hàng hóa có tính chất công.
Ở nhiều nước phát triển trên thế giới, giáo dục cấp cao được xem là một dịch vụ
vì nó có những đặc trưng kinh điển của dịch vụ, theo Cuthbert năm 1996. Còn
tại Việt Nam, việc xem giáo dục có phải là hàng hóa hay không luôn là vấn đề
nóng trong nhiều hội thảo, tranh luận. Không né tránh vấn đề này, các nhà
nghiên cứu giáo dục nêu ý kiến như “Giáo dục có phải là hàng hóa hay không,


18

cần phải tranh luận, nhưng không thể không tính đến các yếu tố tác động của cơ
chế thị trường. Tác động tích cực của nó là quy luật cung cầu, đòi hỏi chất

lượng sản phẩm, từ đó thúc đẩy cạnh tranh” được Nguyên Thứ trưởng Bành
Tiến Long, đại diện cho bộ Giáo dục và đào tạo phát biểu tại buổi tọa đàm
“Giáo dục trong cơ chế định hướng Xã hội Chủ nghĩa” năm 2004. Với chủ
trương xã hội hóa giáo dục hiện nay của Nhà nước, dịch vụ đào tạo trở nên đa
dạng từ phương thức, phương pháp học, môi trường cho đến hình thức học.
Giáo dục ngoài công lập đã có các dịch vụ đáp ứng nhu cầu khác nhau về chất
lượng của người học như học liên kết nước ngoài, học bằng tiếng Anh, học trực
tuyến… Nói chung, với phương châm lấy người học làm trung tâm, các nhà
cung cấp dịch vụ đào tạo coi học viên là đối tượng phục vụ, còn học viên coi
dịch vụ đào tạo là hàng hóa mà ở đó, các học viên là đối tượng cần được quan
tâm và chăm sóc. Người học có quyền tự lựa chọn cho mình một môi trường
học có chất lượng dịch vụ tốt và cung cấp các dịch vụ phù hợp với nhu cầu cần
thiết của họ.


Đặc điểm của chương trình đào tạo tiếng Anh

Như được khẳng định trên đây, trong tình hình giáo dục hiện đại ngày nay, việc
đào tạo tiếng Anh ngày càng trở nên thiết yếu và quan trọng.Tiến sĩ Nguyễn
Hữu Chí, vụ phó Vụ Giáo dục (Ban Khoa giáo trung ương) từng phát biểu
“trong thực tiễn có xu hướng thương mại hóa giáo dục tốt và không tiếc tiền đi
du học nước ngoài”.Các chương trình đào tạo tiếng Anh đa dạng về môi trường,
người dạy và phương pháp học. Hiện nay có ba môi trường học tiếng Anh chủ
yếu bao gồm học trên lớp tại các trường công lập từ Tiểu học, Trung học cơ sở,
Trung học phổ thông và Đại học chính quy. Tại các trường công lập, giáo trình
dạy tiếng Anh được sắp xếp bài bản và theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào
tạo. Các trường dân lập, đặc biệt là các trường Quốc tế thường tập trung đào tạo
tiếng Anh nhiều hơn trong điều kiện cơ sở vật chất tốt với chi phí cao, tùy vào
từng trường. Nhiều trường Đại học công lập mở thêm những khoa chính quy



19

đào tạo các môn chuyên ngành bằng tiếng Anh, khoa liên kết với các trường cao
đẳng, đại học ở nước ngoài. Với các khoa chính quy, sinh viên vẫn phải thi theo
quy định của Bộ và nhà trường, còn các khoa liên kết gần như độc lập với quy
định của Bộ. Môi trường học tiếng Anh thứ ba là các trung tâm đào tạo tiếng
Anh, tùy vào mỗi trung tâm mà có các khóa học tiếng Anh dành cho những mục
tiêu khác nhau như tiếng Anh giao tiếp, tiếng Anh tổng quát, hay các chứng chỉ
Quốc tế như TOEIC, IELTS, TOEFL IBT…Tại các môi trường khác nhau, với
những điều kiện và chi phí dịch vụ khác nhau mà người dạy cũng trở nên đa
dạng.Giáo viên Việt Nam được đào tạo trong nước hay nước ngoài thường dạy
ở các trường công lập là chủ yếu.Giáo viên nước ngoài gồm hai loại giáo viên
bản xứ và người thạo tiếng Anh nhưng không phải người Việt Nam hay bản
xứ.Các giáo viên nước ngoài thường dạy ở các trường dân lập hay các trung tâm
tiếng Anh. Đi cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin mà phương pháp
học cũng trở nên đa dạng bao gồm tự học thông qua sách đĩa,… tùy vào người
học; dạy và học trực tiếp hay học trực tuyến thông qua các trang học tiếng Anh
trực tuyến. Sự phát triển của công nghệ cũng làm đa dạng hóa phương pháp
giảng dạy của giáo viên khi áp dụng các giáo trình điện tử và các phần mền Elearning.
2.2.2 Vai trò của các chương trình đào tạo tiếng Anh
Theo tạp chí kinh tế danh tiếng “The Economist” (1996), tiếng Anh vẫn là ngôn
ngữ tiêu chuẩn quốc tế của thế giới và không có mối đe dọa lớn nào đối với
ngôn ngữ này hay đối với sự phổ biến toàn cầu của nó. Sự phổ biến toàn cầu của
tiếng Anh trong gần 50 năm qua quả là đáng ghi nhận. Đó là một cột mốc chưa
từng có theo nhiều cách: bằng số lượng ngày càng tăng của người sử dụng của
ngôn ngữ này; bởi chiều sâu của nó thâm nhập vào xã hội và sự đa dạng của
phạm vi của các chức năng của nó. Khi nói về sự phổ biến của tiếng Anh, có thể
lấy một số dẫn chứng sau: Hơn 70% các nhà khoa học trên thế giới đọc các tài
liệu bằng tiếng Anh. Khoảng 85% các thư điện tử trên thế giới được viết bằng



20

tiếng Anh. Và 90% các thông tin trong các hệ thống truy cập điện tử của thế giới
được lưu trữ bằng tiếng Anh. Đến năm 2010, số lượng những người nói tiếng
Anh như một ngôn ngữ thứ hai hoặc nước ngoài đã vượt quá số lượng của người
bản ngữ. Trong đó, có ba yếu tố tiếp tục đóng góp cho sự phổ biến rộng rãi của
tiếng Anh, đó là: tiếng Anh được sử dụng trong khoa học, công nghệ và thương
mại; khả năng kết hợp từ vựng từ các ngôn ngữ khác, sự chấp nhận của các
giọng điệu và âm điệu tiếng Anh khác nhau.
Xét vế khía cạnh kinh tế, có hai nhân tố đang chi phối thị trường toàn cầu. Thứ
nhất, nhiều sản phẩm trên thế giới có một hoặc nhiều hơn các thành phần của
nước ngoài, ví dụ như là xe ô tô của hãng Ford và các linh kiện điện tử của hãng
IBM. Thứ hai, hơn một nửa các hàng nhập khẩu và kim ngạch xuất khẩu, các
chính phủ gắn nhãn cho thương mại nước ngoài, được giao dịch giữa các công
ty trong nước và những chi nhánh nước ngoài của họ.
Tại sao thảo luận về kinh tế cùng với các ngôn ngữ tiếng Anh?Bởi vì ngôn ngữ
tiếng Anh được liên kết chặt chẽ với hiện đại hóa kinh tế và phát triển công
nghiệp. Trong kỉ nguyên công nghệ số, thông tin được truyền tải với tốc độ ngày
càng tăng. Các nhu cầu cạnh tranh của các chính phủ, các ngành công nghiệp,
và các tổ chức ở cả trong nước và đa quốc gia, là nguyên nhân cơ bản của các
tiến bộ công nghệ và nó đòi hỏi một sự hiểu biết về tiếng Anh để có thể sử dụng
cho các mục đích thương mại.
Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu, khi đã tham gia vào một chương trình đào
tạo tiếng Anh, điều này sẽ cải thiện đáng kể cả động lực và kết quả học tập của
người học. Người học sẽ có động lực hơn khi tham gia vào việc học tiếng anh.
Bởi khác xa với phương pháp truyền thống, người học được tham gia vào các
hoạt động tương tác, các bài tập không mang tính gò bó nặng về mặt lý thuyết
mà có tính thực tiễn gây nên sự hứng thú cho người học (ví dụ để cải thiện kĩ

năng nói, chủ đề có thể là các bộ phim được công chiếu gần đây, hay một người


21

mà bạn ngưỡng mộ). Thêm vào đó, một khi người học tìm thấy mục tiêu và
động lực học tập, kết quả học tập sẽ được cải thiện một cách đáng kể, bởi sự
phân bổ thời gian hợp lý giữa việc học và các hoạt động khác của cuộc sống.
Bên cạnh đó, tính hiệu quả của chi phí là không thể không kể đến. Với sự phát
triển của Internet, hầu hết các lĩnh vực kinh doanh đều có lợi trong việc xây
dựng chính sách giá cho khách hàng của mình, và dịch vụ giáo dục trực tuyến
không phải là ngoại lệ. Theo đó, chi phí khóa học sẽ được giảm đến mức đáng
kể. Thông thường một học viên phải trả cho một khóa học dạy về “Quản lý
thương hiệu” trung bình khoảng năm triệu đồng, thì đối với một khóa học trực
tuyến chi phí chỉ vào khoảng 500,000 nghĩa là chỉ 1/10. Hay một khóa học tiếng
Anh có giá khoảng 3 triệu đồng thì nếu học theo kiểu đào tạo trực tuyến, học
viên chỉ phải tốn khoảng 300,000 đồng.
Đó là các lợi ích về ngắn hạn, về dài hạn, khả năng tiếng Anh tốt sẽ tăng cơ hội
kiếm được việc làm tốt cho bạn, cũng như khả năng tiếp cận và cập nhật những
nguồn tri thức từ khắp thế giới. Các nhà tuyển dụng sẽ muốn lựa chọn một ứng
viên có khả năng tiếng Anh tốt, thay vì một ứng viên không thể sử dụng hoặc sử
dụng rất tệ ngoại ngữ này. Khi bạn ra trường và mong muốn được làm việc ở
một công ty tốt, có mức lương khá và môi trường ổn định, nhà tuyển dụng sẽ
yêu cầu gì ở bạn: chắc chắn không thể bỏ qua yêu cầu: Biết sử dụng tiếng Anh.
Kể cả khi bạn làm cho một công ty Nhật hay đa quốc gia nào khác, nếu bạn biết
tiếng Anh, và tốt hơn là sử dụng thành thạo, bạn vẫn sẽ được ưu tiên. Có tới hơn
một tỷ trang mạng sử dụng tiếng Anh. Những phần mềm thông dụng nhất trên
thế giới, những mạng xã hội nổi tiếng nhất, những cổng thông tin phong phú
nhất, những ví điện tử được ưa chuộng nhất, tất cả đều được viết bằng tiếng
Anh. Chỉ có báo và tạp chí tiếng Anh là có thể mua được ở khắp mọi nơi trên

thế giới. Bạn không cần phải lùng sục tìm kiếm những tờ báo như Times ,
Newsweek hay International Herald Tribune.


22

2.2.3 Thực trạng đào tạo tiếng Anh và đào tạo tiếng Anh trực tuyến hiện
nay


Thực trạng đào tạo tiếng Anh

Với sự phát triển của xã hội hiện nay, việc sử dụng tiếng anh như ngôn ngữ giao
tiếp phổ biến tại Việt Nam ngày càng trở nên cần thiết, đặc biệt sau khi Việt
Nam gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới – WTO, ngày càng nhiều người
có mong muốn được học tiếng Anh. Nhu cầu cao trong việc học tiếng Anh dẫn
đến sự gia tăng về số lượng của dịch vụ đào tạo Tiếng Anh tại Việt Nam cũng
như trong địa bàn Hà Nội.
Dịch vụ đào tạo Tiếng Anh tại Hà Nội nhắm đến nhiều đối tượng khác nhau, từ
các bé vẫn còn học mẫu giáo cho đến những người đã đi làm. Các đối tượng học
tiếng Anh cũng học với nhiều mục đích khác nhau, có người học để giao tiếp,
người khác lại học để đi thi các chứng chỉ tiếng Anh quốc tế phục vụ mong
muốn du học hay nâng cao khả năng tìm được một công việc tốt. Do đó, nội
dung học tập của các chương trình đào tạo tiếng Anh cũng rất đa dạng, phù hợp
với mục tiêu của từng đối tượng.
Đi kèm với đó, các dịch vụ đào tạo tiếng Anh ra đời với nhiều hình thức, từ các
chương trình giảng dạy bắt buộc trong các trường Đại học, Cao Đẳng đến việc
học gia sư, học thêm tại các trung tâm Tiếng Anh tư nhân.
Với những nội dung, mục đích học khác nhau, đối tượng học tiếng Anh sẽ lựa
chọn các chương trình được giảng dạy bằng người Việt Nam hay người bản

ngữ. Vì vậy yêu cầu trong đào tạo tiếng anh về trình độ, phương pháp giảng dạy
cũng được nâng cao và thay đổi cho phù hợp với cách học tập của người Việt
Nam.
Tiếp thu sự phát triển của công nghê, các chương trình đào tạo tiếng Anh cũng
áp dụng nhiều hơn các trang thiết bị như: video, máy ghi âm hay tai nghe trong
chương trình đào tạo, nhằm tạo môi trường học tập tốt nhất cho người học.


23

Nói tóm lại, dịch vụ đào tạo tiếng Anh hiện nay vô cùng đa dạng, phù hợp với
nhiều loại đối tượng, đáp ứng được nhu cầu thực tế của xã hội và ít nhiều đã
nâng cao được khả năng tiếng Anh của mọi người.


Thực trạng đào tạo tiếng Anh trực tuyến

Với sự phát triển của khoa học công nghệ, chương trình đào tạo học tiếng Anh
trực tuyến ra đời là giải pháp cho những người có nhu cầu học tiếng Anh với
khoảng thời gian eo hẹp, là công cụ hỗ trợ đắc lực giúp mọi người có thể học
tiếng Anh mọi lúc nọi nơi.
Số lượng chương trình đào tạo Tiếng Anh trực tuyến hiện nay khá lớn, bao gồm
cả các chương trình được thiết kế bằng tiếng Anh và tiếng Việt.Chi phí cho các
chương trình học tiếng Anh khá hợp lý, phù hợp với với nhiều đối tượng học
khác nhau.
Chất lượng giữa các chương trình đào tạo tiếng Anh trực tuyến khá chênh lệch,
khá nhiều chương trình trực tuyến còn chưa tốt, nội dung chưa hay, đặc biệt
nhiều chương trình không giúp được học viên nâng cao khả năng giao tiếp.
Bên cạnh đó bởi đặc điểm của chương trình đào tạo tiếng Anh trực tuyến yêu
cầu tính tự giác, chủ động của người học nên chương trình khó phát huy toàn bộ

hiệu quả.
Kết luận lại, chương trình học tiếng Anh trực tuyến có những lợi thế nhất định
so với chương trình đào tạo tiếng Anh truyền thống, giải quyết được nguyện
vọng của người học với những thuận tiện lớn. Tuy nhiên, chương trình đào tạo
học tiếng Anh trực tuyến hiện nay vẫn còn nhiều thiếu xót, các nhà đào tạo cần
tìm hiểu rõ hơn về đặc điểm học tập của người Việt Nam để xây dựng được
chương trình đào tạo tiếng Anh trực tuyến phù hợp.


24

2.3 Mô hình UTAUT sau điều chỉnh: các nhân tố tác động đến hành vi lựa
chọn sử dụng dịch vụ đào tạo tiếng Anh trực tuyến

Hiệu quả mong đợi
Dự định hành vi

Nỗ lực mong đợi

Hành vi sử dụng

Ảnh hưởng xã hội
Điều kiện thuận lợi
Giới tính

Năm học đại học

Tự nguyện sử dụng
Kinh nghiệm


Hình 2.3: Mô hình sau điều chỉnh (Nguồn: Tổng hợp của nhóm nghiên cứu)
Nhìn chung, các thành phần được Venkatesh đề cập trong mô hình UTAUT
(2003) đều được giữ lại, nhóm sử dụng biến tác động “Năm học đại học” thay vì
biến “Tuổi tác”. Nguyên nhân của sự thay đổi là do đặc điểm của của đối tượng
được khảo sát (cùng độ tuổi từ 18 đến 25).
Cụ thể, theo Venkatesh, Morris, David, and David (2003):
- Hiệu quả mong đợi là mức độ người sử dụng tin rằng sử dụng hệ thống này có
thể giúp họ đạt được lợi ích về hiệu suất công việc.
- Nỗ lực mong đợi là mức độ dễ dàng trong việc sử dụng hệ thống.
- Ảnh hưởng xã hội là mức độ nhận thức cá nhân về sự ảnh hưởng của người
khác trong việc nên sử dụng hệ thống mới.
- Điều kiện thuận lợi là mức độ mà một cá nhân tin rằng cơ sở hạ tầng tổ chức
và kỹ thuật có thể hỗ trợ trong việc sử dụng hệ thống.
Trong đó, “Giới tính”, “năm học đại học”, “kinh nghiệm” và “tự nguyện sử
dụng” là các biến điều tiết tới bốn nhân tố ảnh hưởng ở trên. Trong đó:
- Năm học đại học liên quan đến điều kiện, cơ hội sử dụng các websites học
tiếng Anh trực tuyến, dựa vào đặc điểm chung của các nhóm sinh viên.
- Kinh nghiệm liên quan đến việc đã từng trải nghiệm/sử dụng bất kỳ các
websites họchọc tiếng Anh trực tuyến


25

- Tự nguyện sử dụng liên quan đến mức độ sẵn sàng tiếp cận/trải nghiệm các
websites học tiếng Anh trực tuyến để phù hợp với xu thế xã hội.
Trong mô hình này, tất cả các biến độc lập đều có tác động tích cực tới các biến
phụ thuộc.
Dựa trên mô hình đã đề xuất và các nghiên cứu trước đó, nhóm nghiên cứu đã
thiết kế phiếu điều tra, khảo sát bao gồm các yếu tố đo lường sau đây:
Các khía

cạnh đo

Các yếu tố đo lường

Tham khảo

lường
HQ1: Sử dụng websites học Venkatesh, Morris, Davis
tiếng Anh trực tuyến giúp tôi áp and Davis (2003), Paul
dụng tốt hơn trong giao tiếp Juinn Tan (2013)
bằng tiếng Anh
HQ2: Sử dụng websites học Venkatesh et al (2003),
Hiệu quả
mong đợi
(HQ)

tiếng Anh trực tuyến giúp tạo Pau Juinn Tan (2013)
động lực học tập
HQ3: Sử dụng websites học Venkatesh et al (2003)
tiếng Anh trực tuyến giúp tôi rút
ngắn thời gian học tiếng Anh so
với trước đây
HQ4: Sử dụng websites học Venkatesh et al (2003)
tiếng Anh trực tuyến làm tăng
điểm số trên lớp

Nỗ lực
mong đợi
(NL)


NL1: Tôi có thể tiếp cận Venkatesh et al (2003)
websites và tải chúng một cách
nhanh chóng
NL2: Tôi có thể tiếp cận Perceived Ease of Use
websites bằng các thiết bị khác (Davis 1989; Davis et


×