Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.97 KB, 31 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ..................................................................................................4
1.1. Lý luận chung về chứng cứ trong tố tụng dân sự...........................................4
1.1.1. Định nghĩa về chứng cứ...........................................................................4
1.1.2. Đặc điểm của chứng cứ...........................................................................4
1.1.3. Phân loại chứng cứ..................................................................................5
1.1.4. Nguồn của chứng cứ................................................................................6
1.2. Lý luận chung về chứng minh........................................................................6
1.2.1. Khái niệm chứng minh............................................................................6
1.2.2. Chủ thể của hoạt động chứng minh.........................................................7
1.2.3. Quá trình chứng minh..............................................................................8
1.2.4. Đối tượng chứng minh trong tố tụng dân sự...........................................8
1.2.5. Các phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự.................................9
CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ CHỨNG CỨ
VÀ CHỨNG MINH................................................................................................11
2.1. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ và chứng
minh.....................................................................................................................11
2.1.1. Nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ........................................11
2.1.2. Thu thập, giao nộp và bảo vệ chứng cứ.................................................12
2.2. Trách nhiệm của tòa án nhân dân.................................................................15
2.2.1. Xác định chứng cứ.................................................................................15
2.2.2. Thu thập chứng cứ.................................................................................17
2.2.3. Bảo quản chứng cứ................................................................................19
2.2.4. Đánh giá chứng cứ.................................................................................19
2.2.5. Bảo vệ chứng cứ....................................................................................20
2.3. Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp chứng cứ. 21
CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
CHẾ ĐỊNH CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG


DÂN SỰ..................................................................................................................22
3.1 Thực trạng pháp luật về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.......22
3.1.1 Điểm mới................................................................................................22
3.1.2 Một số bất cập, hạn chế..........................................................................24
3.2 Thực tiễn xét xử.............................................................................................25
3.3 Một số kiến nghị hoàn thiện..........................................................................28
KẾT LUẬN.............................................................................................................30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................31

1


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay nước ta đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp và nền kinh tế được
chuyển đổi sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập
với các nước trên tất cả các lĩnh vực của đồi sống xã hội. Điều này tạo ra nhiều cơ hội
nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Đòi hỏi hệ thống pháp luật, bao gồm cả luật nội
dung và luật tố tụng, cần được hoàn thiện nhằm đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của
xã hội. Trong bối cảnh đó, dự đoán số lượng tranh chấp dân sự sẽ ngày càng tăng với
tính chất tranh chấp đa dạng và phức tạp hơn. Trước những yêu cầu của thực tiễn đặt ra,
nước ta đã và đang từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật của mình để điều
chỉnh tất cả các mặt của đồi sống xã hội, trong đó có luật tố tụng dân sự.
Kế thừa có chọn lọc các quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự (1989), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994), Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các tranh chấp lao động (1996) và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi,
bổ sung một số điều được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 3
năm 2011 đã từng bước thể hiện được tính hoàn thiện và phát triển đúng đắn của ngành
luật này. Mặc dù vậy, khi các quan hệ xã hội lại phát sinh và thay đổi một cách nhanh
chóng, nên qua một thời gian áp dụng Bộ luật đã dần đã lộ rõ hạn chế, mâu thuẫn. Đặc

biệt, trong vấn đề chứng cứ và chứng minh đã có nhiều cách hiểu khác nhau thậm chí
trái ngược nhau gây khó khăn trong sử dụng, đánh giá chứng cứ làm ảnh hưởng không
nhỏ trong việc giải quyết vụ án. Trong công tác xét xử ở mỗi Tòa án, Viện kiểm sát,
luật sư... có cách vận dụng khác nhau, đánh giá về nguồn và xác định chứng cứ và
vấn đề chứng minh còn khác nhau. Điều đó đã dẫn đến cùng một vụ án, cùng một
loại chứng cứ, có chung cơ sở chứng minh mà mỗi Tòa án lại xử một kiểu, mỗi
Viện kiểm sát, Luật sư có quan điểm, nhìn nhận trái ngược nhau.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, với mong muốn nghiên cứu và làm sáng tỏ
thêm các lý luận và thực tiễn về chứng minh và chứng cứ trong các vụ việc dân sự, tác giả
chọn đề tài: “Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự” làm tiểu luận
tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản nhất, giúp cho việc nhận thức rõ hơn về
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự hiện nay. Từ việc nghiên cứu những hạn
chế, bất cập, vướng mắc trong thực tiễn đề xuất những kiến nghị trong việc hoàn thiện
các quy định về chứng cứ.
3. Phạm vi nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu của bài tiểu luận thì không thể trình bày hết tất cả các vấn
đề có liên quan đến đề tài, vì thế bài Tiểu luận chỉ tập trung đề cấp đến một số vấn đề cơ
2


bản liên quan đến vấn đề chứng cứ và chứng minh trong phạm vi các vụ án dân sự truyền
thống (dân sự và hôn nhân gia đình), từ đó tìm nêu lên một vài kiến nghị của tác giả góp
phần hoàn thiện hơn chế định này trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự,
người viết nghiên cứu theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và một số
phương pháp cụ thể như:
- Phương pháp phân tích

- Phương pháp so sánh
- Phương pháp chứng minh.
5. Bố cục tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bài tiểu luận có kết
cấu như sau:
Chương 1 : Lý luận chung về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự.
Chương 2 : Quy định của bộ luật tố tụng dân sự về chứng cứ và chứng minh.
Chương 3 : Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện chế định chứng cứ và
chứng minh trong bộ luật tố tụng dân sự.
Qua quá trình nghiên cứu đề tài, người viết xin gởi lời cảm ơn chân thành và sự tri
ân sâu sắc đối với các thầy cô của trường Đại học Cần Thơ, đặc biệt là các thầy cô khoa
Luật của trường đã truyền đạt những kiến thức quan trọng trong quá trình học tập, làm
nền tảng cho việc học tập, rèn luyện cho người viết, giúp người viết bổ sung kiến thức
cho bản thân để trong quá trình công tác được thuận lợi. Và em cũng xin chân thành cám
ơn cô Thân Thị Ngọc Bích đã nhiệt tình hướng dẫn hướng dẫn người viết hoàn thành tốt
tiểu luận của mình. Trong quá trình làm tiểu luận khó tránh khỏi sai sót, rất mong các
Thầy, Cô bỏ qua. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn
chế nên bài tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến
đóng góp Thầy, Cô.
Người viết xin chân thành cảm ơn!

3


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Lý luận chung về chứng cứ trong tố tụng dân sự
1.1.1. Định nghĩa về chứng cứ
Theo Bộ luật Tố tụng dân sự thì “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có

thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa
án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn
cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay
không cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
Do vậy, nếu đương sự muốn chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm hại, phải cung cấp cho Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền
những chứng cứ mà Bộ luật Tố tụng dân sự coi đó là một trong các nguồn của chứng
cứ. Để làm rõ sự thật khách quan khi thụ lý vụ việc dân sự, Tòa án phải làm sáng tỏ
những tình tiết liên quan đến vụ kiện như: Việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự trên cơ
sở nào? Các đương sự đã cung cấp được các chứng cứ gì? Và có khả năng thu thập
thêm được một số chứng cứ gì khác? Từ đó, Tòa án sẽ tiếp nhận vụ việc và thực hiện tất
cả các biện pháp để nhằm thu thập đầy đủ, toàn diện, chính xác, đúng đắn các loại
nguồn của chứng cứ mà pháp luật có quy định để có cơ sở giải quyết khách quan, đúng
đắn vụ việc dân sự.
Có thể hiểu chung: chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo đúng quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự dùng để làm căn cứ giải quyết đúng đắn vụ án.
1.1.2. Đặc điểm của chứng cứ
1.1.2.1. Tính khách quan của chứng cứ
Chứng cứ trước hết là những gì có thật tồn tại khách quan không phụ thuộc vào
ý thức chủ quan của con người. Đương sự và các cơ quan tiến hành tố tụng không được
tạo ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ không còn; do đó không thể coi là chứng cứ.
Con người phát hiện tìm kiếm và thu thập chứng cứ, con người nghiên cứu và đánh giá
để sử dụng nó.
1.1.2.2. Tính liên quan của chứng cứ
Tính liên quan1 trong vụ việc dân sự được hiểu là các tình tiết, sự kiện có liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vụ việc dân sự mà Tòa án đang giải quyết.
Chứng cứ là những sự kiện, tình tiết, tài liệu tồn tại khách quan và có liên quan
đến vụ việc mà Tòa án cần giải quyết. Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam quy định cụ thể
các loại nguồn của chứng cứ, tuy nhiên Tòa án phải chọn lọc và đánh giá những gì có
thật liên quan đến vụ việc mà thôi. Tính liên quan của chứng cứ có thể là trực tiếp hoặc

1

Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo dục, 1998: "Tính liên quan là sự liên hệ, dính dáng nhau ở một hay một số
tính chất".

4


gián tiếp. Mối quan hệ trực tiếp là mối quan hệ dựa vào đó có thể xác định được ngay
những tình tiết, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự xem đây là tình tiết, sự kiện
không cần phải chứng minh. Mối liên hệ gián tiếp là qua khâu trung gian mới tìm được
tình tiết, sự kiện. Tuy nhiên, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp thì cũng phải có mối quan
hệ nội tại, có mối quan hệ nhân quả. Từ việc đánh giá rõ tình tiết liên quan, Tòa án
có thể xác định đúng chứng cứ cần sử dụng để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự mà
không để xảy ra trường hợp thừa, hoặc không đầy đủ chứng cứ.
1.1.2.3. Tính hợp pháp của chứng cứ
Các tình tiết, sự kiện phải được thu thập, bảo quản, xem xét, đánh giá, nghiên
cứu theo thủ tục luật định, có như vậy mới bảo đảm giá trị của chứng cứ. Trước hết,
chứng cứ phải được pháp luật thừa nhận, các tình tiết, sự kiện chỉ được coi là chứng cứ
khi mà pháp luật dân sự quy định nó là một trong các loại nguồn của chứng cứ. Vật
chứng phải luôn là vật gốc có tính đặc định, liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá
trị pháp lý, nếu sao chép, tái hiện lại vật chứng thì không được coi là vật chứng. Vì vậy:
Tòa án không chỉ thu thập đúng trình tự mà phải bảo quản, giữ gìn, đánh giá
chứng cứ một cách đầy đủ, toàn diện để đảm bảo đúng đắn tính hợp pháp của chứng cứ.
Tính hợp pháp của chứng cứ được xác định cụ thể:
- Phải là một trong các nguồn hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.
- Phải từ phương tiện chứng minh hợp pháp mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.
- Phải được giao nộp trong một thời hạn hợp pháp (Bộ luật Tố tụng dân sự
đang để trống quy định này).
- Phải được công bố công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Phải được thu thập, cung cấp đúng pháp luật tố tụng dân sự.
1.1.3. Phân loại chứng cứ
Trên thực tế, chứng cứ thường được phân thành các loại khác nhau. Những tình
tiết, sự kiện tồn tại trong thế giới vật chất chung quy lại tồn tại dưới hai dạng sau:
- Các dấu vết phi vật chất liên quan đến các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự
được phản ánh vào đầu óc con người, từ đó con người ghi lại, chụp lại và phản ánh có ý
thức lại chính nó.
- Các dấu vết, vật chứng là vật chất.
Dựa vào hai dạng cơ bản trên mà có các cách gọi khác nhau như: chứng cứ gián
tiết, chứng cứ thuật lại, chứng cứ gốc, chứng cứ miệng, chứng cứ phủ định, chứng cứ
khẳng định, chứng cứ viết...; nhưng dù có gọi như thế nào thì cũng không làm thay đổi
giá trị của nó. Việc phân loại có giá trị trong việc nghiên cứu và ban hành các quy định
về chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự có hệ thống và minh bạch.
- Chứng cứ theo người: Là chứng cứ được rút ra từ lời khai của đương sự, người
làm chứng.
5


- Chứng cứ theo vật: Là chứng cứ được rút ra từ những vật như vật chứng, tài
liệu, giấy tờ.
1.1.4. Nguồn của chứng cứ
Nguồn chứng cứ là nơi chứa đựng chứng cứ. Tòa án chỉ có thể thu thập các
nguồn chứng cứ để từ đó rút ra các chứng cứ cần thiết để sử dụng vào việc tìm ra sự thật
vụ án và đưa ra quyết định đúng đắn để giải quyết vụ việc dân sự đó.
Theo quy định tại điều 82 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì nguồn chứng cứ
được quy định thì nguồn của chứng cứ bao gồm: “Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn
được; các vật chứng; lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; kết luận giám
định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; tập quán; kết quả định giá tài sản, thẩm
định giá tài sản; các nguồn khác mà pháp luật có quy định”.
Với quy định này thì nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự chỉ được quy định

trong 8 nguồn chính. Ngoài 8 nguồn chứng cứ này Tòa án không được sử dụng thêm bất
cứ nguồn nào khác để thu thập làm chứng cứ cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Tại
khoản 9 điều 82 của Bộ luật tố tụng tố tụng quy định: “Các nguồn khác mà pháp luật có
quy định” cần được hiểu đây là một quy định dự phòng của pháp luật chứ không phải là
một quy định mở để Tòa án áp dụng trong quá trình thu thập chứng cứ giải quyết vụ án.
Do vậy, cho đến khi pháp luật có quy định thêm một nguồn chứng cứ nào đó thì Tòa án
chỉ được phép thu thập chứng cứ theo qui định trên.
Tuy nhiên, không phải bất cứ tài liệu, dữ kiện nào được thu thập từ các nguồn
chứng cứ cũng đều được xem là chứng cứ và được sử dụng vào việc giải quyết vụ án mà
các tài liệu, dữ kiện này phải đảm bảo được các thuộc tính cơ bản của chứng cứ, đồng
thời phải phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng dân sự về xác định chứng cứ.
Ví dụ: biên bản ghi lời khai của đương sự là một nguồn chứng cứ nhưng có
những trường hợp toàn bộ lời khai đó là gian dối, bịa đặt thì lời khai đó không được coi
là chứng cứ của vụ án.
Với những quy định về chứng cứ, nguồn chứng cứ và xác định chứng cứ trong
Bộ luật tố tụng dân sự cho thấy vai trò rất quan trọng trong việc tìm ra sự thật khách
quan của vụ án và để xác định chứng cứ nào là có thật giúp cho việc giải quyết đúng đắn
vụ việc dân sự đòi hỏi người Thẩm phán phải có trình độ nghiệp vụ, kiến thức xã hội và
khả năng nhạy bén trong quá trình xác định, thu thập chứng cứ.
1.2. Lý luận chung về chứng minh
1.2.1. Khái niệm chứng minh
Chứng minh dùng để chỉ dạng hoạt động phổ biến của con người trong đời
thường nhằm “làm cho thấy rõ là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ hoặc dùng
suy luận logic vạch rõ một điều gì đó là đúng” 2 Trong thế giới khách quan luôn tồn tại
2

Từ điển tiếng Việt (2003), Nxb. Đà Nẵng, tr. 192.

6



nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau đòi hỏi con người phải nhận thức và đánh giá. Ở mỗi
sự vật, hiện tượng lại có nhiều đặc tính khác nhau, có những đặc tính có thể nhận biết
một cách nhanh chóng, rõ ràng bằng các giác quan, nhưng thực tiễn cũng tồn tại những
đặc tính không thể nhận biết ngay mà phải trải qua một quá trình tư duy, giải thích, móc
nối các sự kiện để đi đến được kết luận và việc đầu tiên là phải đưa ra những giả thuvết
để định hướng tư duy, sau đó tổng hợp các sự kiện khách quan để có thể đi đến kết luận
cuối cùng. Quá trình giải quyết giả thuyết bằng cách tư duy, logic các sự kiện đó chính là
chứng minh.
Trong tố tụng dân sự, chứng minh cũng là một dạng hoạt động, nhưng không
phải là hoạt động trong đời thường mà là hoạt động tố tụng, cụ thể là hoạt động sử dụng
chứng cứ với mục đích tái hiện lại trước Tòa án vụ việc dân sự đã xảy ra trong quá khứ
một cách chính xác và tỉ mỉ nhất có thể có, qua đó, Tòa án có thể khẳng định có hay
không có các sự kiện, tình tiết khách quan làm cơ sở cho yêu cầu hay phản đối của các
bên đương sự trong vụ, việc dân sự.
1.2.2. Chủ thể của hoạt động chứng minh
Chủ thể chứng minh là chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự tham gia
vào hoạt động chứng minh nhằm xác định có hay không có những sự kiện, tình tiết làm
cơ sở cho yêu cầu hay phản đối của các bên đương sự trong vụ việc dân sự. Các chủ thể
chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm: Các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan), người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự; các cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và
lợi ích của người khác... Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia tố tụng theo quy định
của pháp luật tố tụng dân sự thì Viện kiểm sát cũng trở thành chủ thể chứng minh.
Quyền chứng minh là khả năng của các chủ thể chứng minh, bằng hành vi tố
tụng của mình tham gia vào hoạt động chứng minh. Việc thực hiện quyền chứng minh do
các chủ thể chứng minh quyết định. Ngược lại, nghĩa vụ chứng minh bao gồm những
hành vi tố tụng nhất định trong hoạt động chứng minh mà các chủ thể chứng minh bắt
buộc phải tiến hành hoặc không được tiến hành theo quy định của pháp luật. Trong
trường hợp nghĩa vụ chứng minh bị vi phạm, chủ thể vi phạm phải gánh chịu những hậu

quả pháp lý bất lợi.
Chủ thể chứng minh có quyền, nghĩa vụ chứng minh, tham gia vào hoạt động
chứng minh, tuy nhiên, không phải tất cả các chủ thể chứng minh đều có quyền, nghĩa vụ
chứng minh như nhau. Tùy thuộc vào vai trò, địa vị tố tụng của các chủ thể và ở từng
giai đoạn tố tụng cụ thể mà có quyền, nghĩa vụ tham gia vào quá trình chứng minh các sự
kiện, tình tiết của vụ việc ở những phạm vi và mức độ khác nhau. Ví dụ, quyền, nghĩa vụ
chứng minh của đương sự khác với trách nhiệm chứng minh của Tòa án; quyền, nghĩa vụ
chứng minh của người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
7


đương sự khác với trách nhiệm chứng minh của Viện kiểm sát...
1.2.3. Quá trình chứng minh
Chứng minh được diễn ra suốt trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Như
hoạt động cung cấp, thu thập, xác định, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ tại Tòa án.
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các chủ thể phải thực hiện đúng quyền và
nghĩa vụ của mình mà Bộ luật Tố tụng dân sự quy định trong quá trình tố tụng. Kết quả
giải quyết vụ việc dân sự phụ thuộc phần lớn vào việc chứng minh; vì vậy, trong quá
trình này đòi hỏi phải thận trọng, tỉ mỉ và có đủ thời gian để đạt kết quả tốt nhất.
Theo quy định tại Điều 165, 175 Bộ luật Tố tụng dân sự thì ngay khi khởi kiện,
đương sự đã thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh bằng việc nguyên đơn gửi kèm
theo đơn khởi kiện là các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình; bị
đơn, người có nghĩa vụ liên quan nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án phải gửi cho
Tòa án văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện và chứng cứ kèm theo. Trong quá
trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng
cứ cho Tòa án (Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự). Tại phiên tòa, các bên đương sự tham
gia tranh luận để chứng minh bảo vệ quyền lợi của mình, thời gian tranh luận của họ
không hạn chế (Điều 233 Bộ luật Tố tụng dân sự). Khi có kháng cáo, người kháng cáo
phải gửi cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh cho kháng
cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp (khoản 3 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự).

1.2.4. Đối tượng chứng minh trong tố tụng dân sự
Trong tố tụng dân sự, đối tượng chứng minh là một vấn đề hết sức quan trọng,
do đó khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án phải xác định được tất cả các tình tiết, sự
kiện liên quan, những tình tiết này là đối tượng chứng minh trong vụ việc dân sự.
Đối tượng chứng minh là tổng hợp những tình tiết sự kiện liên quan đến vụ
việc dân sự, dùng nó làm cơ sở giải quyết vụ kiện dân sự.
Các quan hệ cần giải quyết trong các vụ việc dân sự rất đa dạng nên các tình
tiết, sự kiện cần phải xác định trong các vụ việc dân sự cụ thể rất phong phú. Do vậy,
trong quá trình giải quyết, việc xác định những tình tiết, sự kiện nào cần phải chứng
minh. Để xác định được đối tượng chứng minh của mỗi vụ việc dân sự, Tòa án phải
dựa vào yêu cầu hay phản đối của đương sự. Đương sự dựa vào tình tiết, sự kiện nào
để có yêu cầu, hay phản đối yêu cầu. Nói tóm lại, đối tượng chứng minh bao gồm
những tình tiết, sự kiện khẳng định của bên có yêu cầu và tình tiết, sự kiện có tính phủ
định của bên phản lại yêu cầu liên quan đến vụ việc dân sự cần xác định trong việc giải
quyết vụ việc dân sự.
Để giải quyết đúng được các vụ việc dân sự theo quy định tại khoản 1, 2
Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự, đương sự phải đưa ra các chứng cứ để chứng minh
cho yêu cầu đó là hợp pháp. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với
8


mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng
minh. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước
hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác phải đưa ra
chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp. Bộ luật Tố tụng dân sự quy định tại Điều 80 về những tình tiết, sự kiện có
tính rõ ràng thì không phải chứng minh như: tình tiết sự kiện mọi người đều biết;
những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền; những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản
được công chứng, chứng thực hợp pháp. Đối với những tình tiết, sự kiện mọi người

đều biết thì không phải chứng minh. Tuy nhiên, tất cả các tình tiết, sự kiện không phải
chứng minh phải được Tòa án thừa nhận. Do đó, khi giải quyết các vụ việc dân sự,
trách nhiệm của Tòa án phải xem xét từng tình tiết, sự kiện trong các trường hợp cụ thể
và trên cơ sở yêu cầu phải công khai, minh bạch trong các hoạt động xét xử mà đồng ý,
thừa nhận hay không về các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh. Ví dụ, sự thừa
nhận của đương sự phía bên này đối với các chứng cứ mà đương sự phía bên kia có
yêu cầu đưa ra xem như có giá trị miễn nghĩa vụ chứng minh đối với bên có yêu cầu.
Một trong vấn đề thuộc bản chất của chứng minh là làm cho đương sự bên kia thấy
được sự tồn tại của tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự để họ thừa nhận
hay không thừa nhận.
1.2.5. Các phương tiện chứng minh trong tố tụng dân sự
Để làm rõ những tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự thì các chủ thể chứng minh
phải sử dụng những công cụ nhất định do pháp luật quy định như lời khai của đương sự,
lời khai của người làm chứng, kết luận của người giám định… Những công cụ này được
gọi là phương tiện chứng minh.
Phương tiện chứng minh là những công cụ được sử dụng để làm rõ các tình
tiết, sự kiện của vụ việc dân sự thông qua các chủ thể chứng minh thực hiện theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Các tình tiết, sự kiện thuộc đối tượng chứng minh trong các vụ việc dân sự rất đa
dạng đã dẫn đến sự đa dạng các phương tiện chứng minh được sử dụng để làm rõ các vấn
đề của vụ việc dân sự. Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội và thành tựu của lập
pháp, các phương tiện chứng minh được thừa nhận sử dụng làm rõ các tình tiết, sự
kiện của vụ việc dân sự ngày càng nhiều, càng phong phú.
Mỗi vụ việc dân sự có đối tượng chứng minh riêng. Việc sử dụng phương tiện
chứng minh nào trong mỗi vụ việc dân sự là tùy thuộc vào những tình tiết, sự kiện thuộc
đối tượng chứng minh của vụ việc dân sự cần giải quyết. Thông thường, mỗi phương tiện
chỉ có thể làm rõ một số tình tiết, sự kiện nhất định. Trong khi đó, các tình tiết, sự kiện
chứng minh trong mỗi vụ việc dân sự rất đa dạng. Do vậy, trong mỗi trường hợp cụ thể
9



các chủ thể chứng minh có thể phải sử dụng một hoặc nhiều phương tiện chứng minh.
Hoạt động chứng minh có tính chất quyết định kết quả giải quyết vụ việc dân sự.
Để đảm bảo việc phải giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, pháp luật quy định những
phương tiện chứng minh cụ thể mà các chủ thể chứng minh được sử dụng. Các chủ thể
chứng minh chỉ được sử dụng các phương tiện chứng minh do pháp luật quy định mà
không thể sử dụng bất kỳ phương tiện nào khác để chứng minh. Đồng thời, đối với
mỗi phương tiện cụ thể cũng chỉ được sử dụng để chứng minh khi đáp ứng được
những điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Chẳng hạn, các tài liệu đọc được phải
là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cung cấp; các tài liệu nghe được, nhìn được phải có văn bản
xác nhận xuất xứ của nó; các vật chứng phải là hiện vật gốc có liên quan đến vụ việc
dân sự; lời khai của đương sự, người làm chứng của pháp luật… Tuy vậy, trong Bộ luật
tố tụng dân sự chưa có quy định về các phương tiện chứng minh mà các chủ thể được sử
dụng để làm rõ vấn đề của vụ việc dân sự.

10


CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
VỀ CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH
2.1. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ và chứng
minh
2.1.1. Nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ
Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự đã khẳng định quyền quyết định và tự định đoạt
của đương sự. Tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân sự lại quy định về việc cung cấp chứng cứ
và chứng minh trong tố tụng dân sự, trong đó nêu:
Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho tòa án và chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi

kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.
Vậy, vì sao pháp luật tố tụng dân sự lại đặt ra nghĩa vụ chứng minh cho đương
sự? Sở dĩ như vậy do: ở quan hệ dân sự là quan hệ riêng tư của các bên, do các bên tự
quyết định, tự giải quyết là chủ yếu và chỉ khi các bên không tự giải quyết được thì họ
cũng tự quyết định có yêu cầu Nhà nước hỗ trợ hay không? Mặt khác, các bên đương sự
là người hiểu rõ vụ việc của mình nhất, thường biết rõ tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ
việc của mình có những gì, còn hay không còn, đúng hay không đúng và đang ở đâu. Do
đó, khi các bên đưa tranh chấp của họ ra Tòa án, thì tòa án là trọng tài giúp các bên giải
quyết tranh chấp một cách khách quan và đúng pháp luật, chứ tòa án không thể làm thay,
chứng minh cho đương sự với những yêu cầu của họ. Thời gian qua, trong một số vụ án
đương sự không hiểu về nghĩa vụ của mình về việc tự chứng minh nên đã không hợp tác
với Tòa án, gây ảnh hưởng và cản trở cho quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Có người
không đến tòa khi tòa triệu tập để lấy lời khai, không tham gia vào buổi định giá, hòa
giải, đối chất, không cho tòa xem xét đối tượng tranh chấp.
Ví dụ: Vụ án đòi nợ tại Tòa án nhân dân huyện Đông Anh - Hà Nội. Nguyên đơn
là anh Nguyễn Văn Lan thường trú tại thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh. Bị đơn là bà
Hoàng Thị Hải trú tại Nam Hồng - Đông Anh - Hà Nội. Sự việc bà Hải ký vay nợ
20.000.000đ và mua anh Lan chiếc xe máy; anh Lan đã làm đơn khởi kiện, Tòa án nhân
dân huyện Đông Anh thụ lý giải quyết, Tòa án làm giấy triệu tập lần đầu bà Hải có mặt
và phản đối giấy vay nợ trong việc mua xe, và bảo xe đang đi không phải của anh Lan và
khẳng định không phải chữ ký của bà. Tòa án nhân dân huyện đã làm giấy triệu tập rất
nhiều lần nhưng bà Hải đều vắng mặt không có lý do: Vì vậy, việc lấy lời khai, hòa giải
và đối chất đều không thực hiện được. Lý do bà Hải đưa ra là Tòa án phải có nhiệm vụ
chứng minh chữ ký của bà và chứng minh xe máy của anh Lan (xe máy không phải
chính chủ của anh Lan mà của người khác anh Lan đã mua chỉ viết giấy trao tay). Hiện
nay, bà Hải đã tẩu tán chiếc xe máy. Anh Lan đã đề nghị Tòa áp dụng biện pháp khẩn cấp
11



tạm thời, nhưng đối tượng vật - chiếc xe đã không còn. Anh Lan đề nghị giám định chữ
ký của bà Hải tại Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an nhưng bà Hải không cho lấy mẫu
chữ ký. Vụ án từ khi khởi kiện đến nay vẫn trong vòng bế tắc.
Tòa án muốn căn cứ vào các chứng cứ bên kia cung cấp và các tài liệu đã thu
thập được để xét xử trong một số vụ án cụ thể là không khả thi. Có quan điểm cho rằng,
nếu đương sự không cho xem xét, định giá, giám định thì cần có biện pháp cưỡng chế
đối với bên không hợp tác với tòa án, để bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ được đầy
đủ và việc xử lý đúng đắn. Đối với vấn đề này, pháp luật đã dành cho đương sự quyền
lựa chọn phương án hành động có lợi (đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của
mình hay phản đối yêu cầu của người khác) hoặc phương án hành động bất lợi cho mình
(không cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình...) thì họ phải gánh chịu
hậu quả tương ứng với phương án mà đương sự tự định đoạt, tự lựa chọn là quy định hợp
lý cả về quy phạm pháp luật và cả về thực tiễn xét xử. Có như vậy mới là biện pháp tác
động đến hành vi ứng xử của công dân phải sống theo hiến pháp và pháp luật mà không
cần sử dụng đến biện pháp mạnh là cưỡng chế.
Bởi vậy, việc quy định đương sự phải chịu hậu quả về việc chứng minh của mình
vừa bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự vừa nâng cao trách nhiệm cho đương sự.
2.1.2. Thu thập, giao nộp và bảo vệ chứng cứ
Xuất phát từ quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp chứng cứ cho
tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình (Điều 06, Điều 84 Bộ luật Tố tụng dân sự đã
quy định quyền và nghĩa vụ trong việc giao nộp chứng cứ cho Tòa án. Do đó, nếu bất kỳ
đương sự nào đang quản lý chứng cứ mà không giao nộp cho Tòa án hoặc không nộp đầy
đủ chứng cứ cho tòa án thì cũng phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không
đầy đủ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Giao nộp chứng cứ chỉ là một hành vi
cụ thể trong việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của
đương sự. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, ví dụ liên quan đến bí mật Nhà
nước, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư... mà pháp luật quy định đương sự không có nghĩa
vụ giao nộp chứng cứ thì việc họ không giao nộp không được coi là căn cứ để xét xử bất
lợi cho họ. Trong trường hợp này, dù đương sự không có nghĩa vụ giao nộp chứng cứ
cho tòa án. Do vậy không lưu trong hồ sơ chứng cứ này, các đương sự khác không được

biết cụ thể chứng cứ này nhưng để việc xét xử đúng đắn phải cho thẩm phán xét xử vụ án
biết được nội dung của chứng cứ đó.
Trước đây, pháp luật không có quy định cụ thể việc thu thập chứng cứ, nên khi
đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức giao nộp chứng cứ cho tòa án, các thẩm phán đưa
vào trong hồ sơ và không thể hiện rõ tài liệu hồ sơ đó từ đâu đến; do ai thu thập, do ai
nộp... Từ đó mà đã gây khó khăn cho việc sử dụng, đánh giá các tài liệu đó, có tài liệu đã
bị thất lạc mà không biết... Chính vì vậy tại khoản 2 Điều 84 Bộ luật Tố tụng dân sự đã
12


quy định rõ trách nhiệm của Tòa án khi tiếp nhận chứng cứ; khi đương sự giao nộp
chứng cứ. Tòa án phải lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ. Trong biên bản phải ghi
rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ, số bản, số hàng của tài liệu chứa
đựng chứng cứ, thời gian nhận, chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp; ký nhận và
đóng dấu của Tòa án. Biên bản phải lập thành 02 bản, một bản giao cho đương sự, một
bản lưu giữ trong hồ sơ vụ việc dân sự. Sở dĩ việc giao nộp chứng cứ phải làm theo đủ
thủ tục nêu trên là nhằm không bị đánh tráo, giả mạo, sửa chữa, thất lạc hoặc hành vi thủ
tiêu chứng cớ... Đồng thời, nó đảm bảo giá trị pháp lý trong quá trình sử dụng. Thực tế,
do thói quen áp dụng pháp luật cũ trước đây, trong một số vụ án cụ thể Tòa án đã quên
viết biên bản giao nộp chứng cứ, còn yêu cầu đương sự đã cung cấp chứng cứ gốc, giả sử
chẳng may Hồ sơ án bị mất cắp, bị hỏa hoạn thì quyền của đương sự coi như mất hết, ví
dụ như tài liệu đất đai có giá trị tranh chấp rất lớn thì gây tổn thất cho đương sự là quá
lớn, tòa không có cách khắc phục được. Chính vì vậy, tòa phải có nhiệm vụ làm biên
bản; nên chỉ yêu cầu đương sự nộp bản phô tô, hoặc công chứng khi cần tòa yêu cầu
đương sự cung cấp lại bản gốc. Có như vậy mới đảm bảo chắc chắn nhất để bảo vệ
chứng cứ. Đương sự phải tìm hiểu để biết được một số quy định pháp luật để bảo vệ
quyền và lợi ích của chính bản thân mình đồng thời góp phần bảo vệ pháp luật.
Trong quá trình thu thập chứng cứ để giao nộp cho tòa mà đương sự không thể
tự mình thu thập được; đương sự phải có văn bản đề nghị tòa án thu thập. Điều 94 Bộ
luật Tố tụng dân sự quy định về yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ:

Trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập
chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Tòa án tiến hành
thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn.
Đương sự yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ phải làm đơn ghi rõ vấn
đề cần chứng minh; chứng cứ cần thu thập; lý do vì sao tự mình không thu thập được;
họ, tên, địa chỉ của cá nhân và địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng
cứ cần thu thập.
Ví dụ: Nếu biết bị đơn có hành vi tẩu tán tài sản tranh chấp trong vụ án thì
nguyên đơn có thể yêu cầu với tòa án; nhưng nguyên đơn phải chứng minh bị đơn có
hành vi tẩu tán tài sản đó. Nhưng thực tế cụ thể có trường hợp lại mang tính hình thức.
Ví dụ trong vụ án ly hôn: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Kiều Nga, sinh năm 1962 - bị
đơn anh Văn Đức Hoàng, sinh năm 1965 trú tại Quỳnh Dị, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Tài
sản, con cái, tình cảm, nợ, cho nợ là những vấn đề quan tâm để đưa ra giải quyết. Chị
Nga là nạn nhân của bạo hành trong gia đình (vũ lực và tinh thần) lấy nhau có hai con
Văn Thu Hiền, sinh năm 1989, và Văn Thị Anh Dương, sinh năm 2003; khi sinh con gái
út anh Hoàng thường xuyên đánh đập vợ, bài bạc, rượu chè, trai gái. Tài sản vợ chồng từ
bàn tay trắng khi lấy nhau sau đó đã khấm khá. Thấy cảnh chồng đánh đập, dùng tài sản
13


tích lũy đánh bạc. Chị Nga làm đơn xin ly hôn, được Tòa án nhân dân Quỳnh Lưu thụ lý;
biết vợ nộp đơn ly hôn anh Hoàng đuổi vợ và con đi khỏi nhà, chị Nga phải đi nếu không
bị đánh đập.
Trong thời gian chị Nga nộp đơn xin ly hôn đến khi đưa ra xét xử gần 05 tháng;
thời gian này chị Nga đã làm đơn đề nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên
tài sản. Nhưng chị Nga không chứng minh được, Tòa án hướng dẫn chị Nga về nhờ
Công an xã giải quyết, nhưng công an xã đến lại bảo chỉ xử lý về an ninh còn kê biên tài
sản không có thẩm quyền. Khi vụ án đưa ra xét xử tài sản trong nhà anh Hoàng đã tẩu
tán gần hết (bởi trong các lần hòa giải, lấy lời khai anh Hoàng không thừa nhận). Đây là
một thực tế tồn tại đã gây thiệt hại cho nguyên đơn. Nên chăng, nếu việc tranh chấp tại

địa phương ở cách xa Tòa án, đương sự yêu cầu Tòa án bằng việc có công văn để tránh
việc tẩu tán vật tranh chấp trong vụ kiện dân sự? thực tế xét xử còn nhiều vấn đề cần
bàn.
Trong vụ kiện dân sự, việc cung cấp chứng cứ giữa các đương sự hoàn toàn bình
đẳng với nhau, bình đẳng ở đây được hiểu là:
Thứ nhất: Pháp luật tố tụng dân sự tạo các cơ hội như nhau cho các đương sự để
các chứng cứ của các đương sự được đến với Tòa án. Thẩm phán hoặc bất kỳ cá nhân, cơ
quan nào cũng không được cản trở các đương sự cung cấp chứng cứ hoặc không thu
nhận các chứng cứ do các đương sự cung cấp dưới bất kỳ hình thức nào. Các đương sự
có quyền đưa ra mọi chứng cứ theo ý chí của họ.
Thứ hai: Tất cả các hoạt động của Tòa án phải nhằm tạo điều kiện cho đương sự
bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình. Đương sự phải được hướng dẫn, giải thích từ phía
Tòa án để biết các quy định pháp luật liên quan.
Khi làm đơn khởi kiện, việc cung cấp chứng cứ kèm theo là nghĩa vụ của nguyên
đơn. Trước hết, nguyên đơn phải tự mình thu thập (hoặc đã có chứng cứ trong tay), chưa
có mà không thể tự mình thu thập được thì trình báo cho Tòa án, phải có đơn đề nghị Tòa
thu thập. Nguyên đơn phải xác định rõ nếu không cung cấp được, không thu thập được
hoặc có chứng cứ không đầy đủ thì có thể bị bác bỏ quyền yêu cầu.
Về phía bị đơn, là người bị kiện, có quyền cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền
lợi của mình trước tòa.
Phía bị đơn trong thực tế có thể nắm giữ một số tài sản, tài liệu là đối tượng
tranh chấp, cần hợp tác với Tòa án để giải quyết đúng đắn vụ án. Bị đơn có quyền bác
bỏ, chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn nhưng phải chứng minh được.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, họ có nghĩa vụ thu thập, cung cấp,
bảo vệ chứng cứ để giao nộp cho tòa án để chứng minh cho yêu cầu của mình. Ví dụ
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu là đối tượng tranh chấp không thuộc sở
hữu của nguyên đơn hay bị đơn thì họ phải chứng minh, trong trường hợp này thì quyền,
14



nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của họ cũng giống như quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn để
chứng minh cho yêu cầu của mình. Hoặc họ không có yêu cầu độc lập, nếu đứng về một
trong hai phía bị đơn, hay nguyên đơn thì họ cung cấp chứng cứ để làm sáng tỏ cho vụ
án.
Đương sự có quyền được dùng mọi biện pháp chứng minh, có quyền đề xuất và
xuất trình chứng cứ trong bất cứ giai đoạn nào. Đó có thể là giấy tờ, tài liệu liên quan
đến vụ kiện và các vật chứa đựng chứng cứ phải được trực tiếp giao nộp cho tòa án.
Trong quá trình cung cấp chứng cứ, đương sự có quyền yêu cầu tòa án áp dụng các biện
pháp cần thiết như xem xét tại chỗ, trưng cầu giám định, yêu cầu cơ quan cung cấp tài
liệu cần thiết, lấy lời khai, triệu tập thêm nhân chứng, đối chất để thu thập thêm chứng
cứ, xác minh cho lời khai và những chứng cứ của mình hoặc để xác định lại giá trị chứng
minh của chứng cứ mà phía bên kia cung cấp.
2.2. Trách nhiệm của tòa án nhân dân
2.2.1. Xác định chứng cứ
Căn cứ quy định tại Điều 81 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chứng cứ là phải được
đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu
thập theo trình tự thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định; do đó, việc giao nộp chứng
cứ và việc thu thập chứng cứ phải được thực hiện theo đúng quy định tại các điều luật
tương ứng của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn (Nghị quyết 04...).
Giai đoạn chuẩn bị xét xử là giai đoạn chuẩn bị chứng cứ để giúp tòa án có cơ sở
giải quyết đúng đắn vụ kiện. Đây là giai đoạn tòa án kiểm tra lại toàn bộ các chứng cứ
của vụ kiện đã có. Tại Điều 83 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định và Nghị quyết 04/2012NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về "chứng minh và chứng cứ" như sau:
Các tài liệu đọc được nội dung phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng,
chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thầm quyền cung cấp, xác nhận. Bản
chính có thể là bản gốc hoặc bản sao được dùng làm cơ sở lập ra các bản sao.
Ví dụ: Trong vụ án tranh chấp về thừa kế: bản di chúc phải là bản gốc, bản công
chứng nếu đương sự xuất trình bản phô tô coi như không có căn cứ để chia thừa kế theo
di chúc.
Các tài liệu nghe được, nhìn được phải được xuất trình kèm theo văn bản xác

nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu
hình đó. Các tài liệu này có thể là băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình,
phim, ảnh... Nếu đương sự không xuất trình được các văn bản nêu trên, thì tài liệu
nghe được, nhìn được mà đương sự giao nộp cho tòa không được coi là chứng cứ. Quy
định này để tránh xảy ra việc cắt, chụp, sao chép, ghép hình giả dối.
Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự; nếu không phải là
15


hiện vật gốc hoặc không liên quan đến vụ việc thì không phải là chứng cứ trong vụ
việc dân sự đó.
Ví dụ: Chiếc xe đạp bị xe ô tô cán hỏng, thì phải có chiếc xe đạp đó để xác định
thiệt hại, chiếc xe giao nộp phải là chính chiếc xe bị ô tô cán hỏng.
Vật chứng được tòa án bảo quản trong suốt quá trình xem xét và giải quyết vụ
kiện. Giá trị chứng minh của các vật chứng thể hiện ở tính đặc định của các vật đó
(phân biệt với vật cùng loại. Nếu tòa án không bảo quản tốt để giữ gìn tính đặc định của
vật thì vật chứng sẽ mất hết giá trị chứng minh. Khi được giao nộp các vật chứa đựng
chứng cứ, tòa phải lập biên bản miêu tả chi tiết hình thức và các đặc tính chất lý hóa của
vật.
Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng nếu được ghi bằng văn
bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình và được xuất trình theo
đúng thủ tục nhờ có bản xác nhận xuất xứ của tài liệu này kèm theo về việc không
trực tiếp khai báo cho tòa án.
Lời khai của đương sự thông thường gồm hai loại: Lời khai về những tình tiết,
sự kiện pháp lý mà dựa vào đó các đương sự đề xuất, các yêu cầu được bảo vệ; lời thừa
nhận của một bên đương sự - khẳng định có hay không có những sự kiện mà đáng
ra phía đương sự bên kia phải chứng minh. Bởi có một số trường hợp vì một số áp lực
làm lý nào đó dẫn đến việc thừa nhận không theo ý chí, không đúng sự thật khách quan
của vụ án. Biết rằng tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự; tuy vậy, với trách
nhiệm của mình - Tòa án nên làm rõ đánh giá lời thừa nhận đó.

Với người làm chứng là người biết được thông tin liên quan đến vụ kiện nhưng
lại không có quyền lợi trong vụ kiện đó, vì vậy lời khai của người làm chứng thường
thể hiện được yếu tố khách quan hơn. Mặc dù, trong lời khai của người làm chứng chứa
đựng nhiều thông tin về những tình tiết cần chứng minh nhằm giúp tòa án tìm ra sự thật
khách quan của vụ kiện.
Kết luận giám định, nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục
quy định tại Pháp luật Giám định tư pháp (ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI
thông qua 29 tháng 9 năm 2004 - Hiệu lực ngày 01/01/2005) và Nghị định số
67/2005/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của Pháp lệnh Giám định tư pháp.
Sự thỏa thuận lựa chọn hoặc yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định phải được thể
hiện bằng văn bản (có thể làm bằng văn bản riêng, có thể ghi trong bản khai, có thể ghi
trong biên bản ghi lời khai biên bản đối chất). Nếu thực hiện đầy đủ yêu cầu, quy định
của pháp luật quy định khi đó kết luận giám định mới được coi là chứng cứ.
Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ, nếu việc thẩm định tại chỗ được tiến
hành theo đúng thủ tục quy định tại Điều 89, thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án phải
16


báo trước cho đương sự việc xem xét thẩm định tại chỗ, phải lập thành văn bản và có
đủ thành phần tham gia.
Nếu đương sự viện dẫn chứng cứ là phong tục tập quán phải xác định rõ; tập
quán nếu được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận; nếu có đủ điều kiện thì tòa
mới chấp nhận đó là chứng cứ để bảo vệ yêu cầu của đương sự.
2.2.2. Thu thập chứng cứ
Trong tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đương sự trong vụ án,
Tòa án chỉ tiến hành trong những trường hợp đương sự không tự thực hiện được và có
yêu cầu hoặc trong những trường hợp rất hạn chế mà Bộ luật tố tụng dân sự, đã được sửa
đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi bổ sung có quy định. Đây là một trong những nguyên tắc
được quy định tại khoản 1 Điều 6 Bộ luật tố tụng dân sự về cung cấp chứng cứ và chứng

minh trong tố tụng dân sự: “Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho
Toà án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ
quan, tổ chức khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự”.
Về hoạt động thu thập chứng cứ, theo Từ điển tiếng Việt, thu thập là “góp nhặt
và tập hợp lại”3. Cho nên “thu thập chứng cứ là việc phát hiện, tìm ra các chứng cứ, tập
hợp đưa vào hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc
dân sự”4 và theo nguyên tắc được quy định tại khoản 2 Điều 6 thì “Toà án chỉ tiến hành
xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định”, cụ thể
nguyên tắc này được quy định tại khoản 1, 2 Điều 85 BLTTDS những trường hợp Tòa án
tiến hành thu thập chứng cứ và các biện pháp mà Tòa án được tiến hành.
Có thể một số vụ kiện cụ thể, tòa án không được máy móc cho rằng khi các
đương sự chưa đưa ra đủ yêu cầu hay chưa cung cấp đủ các chứng cứ thì tòa án không
giải quyết vụ kiện, tòa án có thể phải chủ động trong việc thu thập chứng cứ, lập hồ sơ
vụ kiện để giải quyết vụ kiện đúng đắn.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án sử dụng chứng cứ thu được từ nhiều
hoạt động khác nhau phục vụ việc giải quyết vụ án. Bên cạnh các biện pháp được
BLTTDS quy định là thu thập chứng cứ được quy định tại Điều 85, Tòa án còn sử dụng
chứng cứ thu được qua hoạt động hòa giải, xét xử tại phiên tòa dân sự sơ thẩm, phiên tòa
phúc thẩm để giải quyết vụ án cũng như hoạt động thu giữ chứng cứ do đương sự cung
cấp. Cụ thể:
- Hoạt động đầu tiên của Tòa án là hoạt động tiếp nhận tài liệu, chứng cứ do
nguyên đơn nộp kèm theo đơn khởi kiện (chưa thụ lý vụ án) theo quy định tại Điều 165
BLTTDS. Đó là việc “Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng
3

Viện ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng, tr.958.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.164.
4


17


cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Khi người
khởi kiện nộp đơn mà có nộp tài liệu, chứng cứ thì Tòa án phải tiến hành thu thập và lập
biên bản giao nhận chứng cứ như quy định tại các khoản 2,3 Điều 84 BLTTDS.
- Hoạt động thứ hai diễn ra trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Sau khi vụ án đã
được thụ lý và được Chánh án phân công giải quyết vụ án, Thẩm phán tiến hành lập hồ
sơ vụ án có nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 173 BLTTDS. Trong giai đoạn
này, chứng cứ dùng để giải quyết vụ án còn có được từ hoạt động hòa giải. Thực tiễn thể
hiện, đối với những vụ án đơn giản hay vì lý do bận nhiều việc hoặc nhằm giảm bớt thời
gian giải quyết vụ án, một số Thẩm phán đã bỏ qua một số hoạt động thu thập chứng cứ
được quy định tại Điều 85 BLTTDS (mà thông thường là ghi lời khai đương sự, đối
chất), có nghĩa, sau khi ban hành Thông báo thụ lý vụ án, Thẩm phán ra Thông báo hòa
giải và tiến hành ngay thủ tục hòa giải. Trong trường hợp này, biên bản hòa giải thể hiện
lời khai của đương sự về các nội dung cần chứng minh của vụ án (kể cả đối chất khi có
mâu thuẫn qua lời trình bày của đương sự trong biên bản hòa giải). Sau đó, khi xem xét
biên bản hòa giải thể hiện đầy đủ nội dung cần giải quyết hoặc trong trường hợp các
đương sự thống nhất nội dung chỉ không thống nhất về phương thức thanh toán, án phí,
Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và mở phiên tòa giải quyết vụ án. Trường hợp
này, Tòa án chỉ dựa vào biên bản hòa giải và diễn biến tại phiên tòa để giải quyết vụ án.
Thực tiễn còn có trường hợp, Tòa án tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ theo
Điều 85 và Điều 173 BLTTDS nhưng tại phiên hòa giải phát sinh tình tiết mới ảnh
hưởng đến việc giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành ghi nhận ý kiến của đương sự và tiến
hành đối chất trong biên bản hòa giải. Sau đó, Tòa án dùng kết quả này giải quyết vụ án.
- Hoạt động thứ ba là hoạt động xét xử tại phiên tòa sơ thẩm (đối với những vụ
án phải mở phiên tòa để giải quyết), khoản 1 Điều 197 BLTTDS quy định, Toà án phải
trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe lời trình bày của
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện

hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham
gia tố tụng khác; xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập được; nghe Kiểm sát
viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án, trong trường hợp có
Kiểm sát viên tham gia phiên toà. Và bản án đươc tuyên phải căn cứ vào kết quả tranh
tụng, việc hỏi tại phiên toà và các chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà.
Trong thực tế, có những trường hợp do trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế mà
đương sự không tự chứng minh được hoặc có nhưng việc mà đương sự không thể không
nhờ đến sự can thiệp của Tòa án. Ví dụ: Đương sự không thể yêu cầu Sở Tài nguyên và
môi trường, cơ quan lưu trữ, ủy ban nhân dân hay cơ quan hải quan cung cấp những văn
bản, giấy tờ, tài liệu cần thiết; hay lấy lời khai, trưng cầu giám định,... Với vai trò là cơ
quan bảo vệ, giữ gìn ổn định trật tự, kỷ cương, công lý xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích
18


hợp pháp cho công dân trong quá trình giải quyết vụ kiện, tòa án phải xem xét mọi
chứng cứ mà các bên đương sự giao nộp. Tòa án phải biết rõ để giải quyết từng vụ việc
dân sự cụ thể mà cần có những chứng cứ để chứng minh nào? Cần cài gì, cái gì thì
không? Vì vậy, tòa án có trách nhiệm hướng dẫn các bên đương sự cung cấp chứng cứ,
có nghĩa vụ xác minh chứng cứ mà các bên đưa ra. Khi giải quyết vụ kiện, nếu thấy cần
thiết tòa án nên chủ động thu thập thêm chứng cứ để làm sáng tỏ tình tiết của vụ kiện, để
hoàn thành thời hạn theo quy định của tố tụng dân sự và giải quyết đúng đắn vụ án.
Từ các phân tích trên có thể thấy, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án không
chỉ bao gồm các hoạt động quy định tại khoản 2 Điều 85 và Điều 173 Bộ luật tố tụng dân
sự mà còn thông qua nhiều hoạt động khác như nhận tài liệu, chứng cứ do đương sự giao
nộp; yêu cầu đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; hòa giải; xét xử tại phiên
tòa sơ thẩm và xét xử tại phiên tòa phúc thẩm.
2.2.3. Bảo quản chứng cứ
Bảo quản chứng cứ là giữ gìn giá trị chứng minh của chứng cứ. Việc bảo quản
chứng cứ trong tố tụng dân sự nếu đã được giao nộp cho tòa, hay tòa thu thập được phải
có trách nhiệm bảo quản chứng cứ đó. Trường hợp chứng cứ đang lưu giữ ở cá nhân, tổ

chức thì người đó có trách nhiệm bảo quản. Trong trường hợp cần giao cho người thứ ba
bảo quản thì thẩm phán ra quyết định và lập biên bản giao cho người đó bảo quản. Người
nhận bảo quản phải ký tên vào biên bản, được hưởng thù lao và phải chịu trách nhiệm về
việc bảo quản chứng cứ đó.
Chứng cứ phải được bảo quản lâu dài không để bị mất, thất lạc hoặc giảm giá trị
chứng minh. Chứng cứ có thể do đương sự hoặc tòa án lưu giữ. Trường hợp tòa án lưu
giữ thì tòa cần có biện pháp lưu giữ cẩn thận, chu đáo; Bởi, khi giao nhận chứng cứ tại
tòa, tòa án phải có biên bản giao nhận chứng cứ với các đương sự, nếu để mất, thất lạc,
làm giảm hoặc mất giá trị chứng minh thì trách nhiệm hoàn toàn thuộc về tòa án dù dưới
bất kỳ một nguyên nhân nào. Ví dụ trong vụ án tranh chấp về Hợp đồng vay tài sản;
đương sự cung cấp cho tòa bản gốc hợp đồng vay, nếu tòa chẳng may để nước làm nhàu
nát dẫn đến mất giá trị chứng minh, tòa án phải chịu trách nhiệm. Trong một số trường
hợp đương sự giao nộp cho tòa được ghi vào biên bản giao nhận chứng cứ không nói rõ
là bản gốc hay là bản phô tô, nếu chẳng may tòa làm hỏng chứng cứ điều này rất khó
phân định và giải quyết. Bởi vậy, tòa án phải thực hiện đầy đủ việc ghi rõ, tỉ mỉ các
thông số, cấu tạo, đặc điểm của chứng cứ để nếu xảy ra việc hư hỏng, mất giá trị chứng
minh, hoặc mất mát thì giải quyết được dễ dàng. Tránh tình trạng mất chứng cứ, mất
quyền yêu cầu, tòa vẫn nêu yêu cầu đương sự cung cấp bản phô tô có công chứng (nếu là
tài liệu) để tòa lưu vào hồ sơ, bản gốc đương sự cất giữ là tối ưu.
2.2.4. Đánh giá chứng cứ
Đây là yêu cầu khắt khe nhất mà tòa phải đảm nhiệm và trách nhiệm này là quan
19


trọng. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Tòa án
phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định giá trị pháp
lý của từng chứng cứ. Tuy nhiên nếu các chủ thể khác vẫn có quyền đánh giá chứng cứ,
nhưng tựu chung tòa án vẫn là quan trọng nhất vì là chủ thể có quyền sử dụng chứng cứ
để giải quyết vụ việc dân sự.
Hoạt động đánh giá chứng cứ của tòa án có tính chất quyết định tới kết quả giải

quyết vụ việc dân sự. Vì vậy, ngoài việc tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về
đánh giá chứng cứ thì tòa phải hết sức thận trọng, tỷ mỷ trong việc đánh giá chứng cứ;
phải xem xét một cách đầy đủ, toàn diện các ý kiến về đánh giá chứng cứ của Luật sư và
những người khác tham gia tranh tụng tại phiên tòa.
Ví dụ: Kết luận giám định khẳng định chữ ký trên hợp đồng mua bán nhà là chữ
ký của ông D. Nội dung kết luận chữ ký của ông D là chứng cứ. Nhưng tòa án phải xem
xét liệu rằng kết luận có trung thực không, có thể giám định việc cố ý làm sai lệch kết
luận giám định? Nếu vậy có cần giám định lại hoặc giám định bổ sung không?
Những chứng cứ được rút ra từ những văn bản công chứng thì việc công chứng
có tuân thủ theo đúng các yêu cầu của thủ tục công chứng không? Còn giá trị chứng
minh của chứng cứ gốc và chứng cứ sao chép lại là như nhau. Nói đúng hơn, giá trị
chứng minh của chứng cứ được sao chép lại hoàn toàn phụ thuộc vào chứng cứ gốc mà
từ đó đã sao ra nó. Một đặc điểm của chứng cứ sao chép lại là do qua nhiều lần sao chép
lại xuất phát từ nguồn gốc không đầy đủ, không được nhận định một cách chính xác, mặt
khác việc sao chép, thuật lại được thực hiện thông qua con người, do con người, phụ
thuộc vào yếu tố chủ quan của con người nên tính khách quan, mức độ chính xác không
cao, dễ bị sai lệch. Vì vậy, khi đánh giá cần so sánh với chứng cứ gốc và các loại chứng
cứ khác khi đưa vào sử dụng.
Người làm chứng chứng tuy có cam đoan về những lời làm chứng của mình,
nhưng khi lấy lời khai, thẩm phán phải quan sát tất cả hành vi cử chỉ, ánh mắt, qua đó
thẩm phán có thể suy xét họ có khai thật hay không; xem họ có bị mua chuộc, hay bị ép
buộc hay không. Mặc dù họ tự khai, ký và khẳng định nhưng nếu quan sát kỹ thẩm phán
có thể bằng "linh cảm nghề nghiệp" để đưa ra phán quyết của mình dựa trên những
chứng cứ xác đáng khác.
2.2.5. Bảo vệ chứng cứ
Trong trường hợp chứng cứ được tòa quản lý thì tòa phải bảo vệ nó. Trường hợp
chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này có thể khó có thể thu
thập được thì Tòa án phải có quyết định áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời như
niêm phong, thu giữ chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phục chế, khám nghiệm, lập biên bản và
các biện pháp khác.

Trong trường hợp người làm chứng bị đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc để
20


không cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì tòa án có quyền quyết
định buộc người có hành vi đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc phải chấm dứt hành vi đe
dọa, khống chế hoặc mua chuộc người làm chứng. Trường hợp hành vi đe dọa, khống
chế hoặc mua chuộc có dấu hiệu tội phạm thì tòa án yêu cầu Viện Kiểm sát xem xét về
trách nhiệm hình sự.
Việc bảo vệ chống lại hành vi xâm phạm chứng cứ để giữ gìn giá trị chứng minh
của chứng cứ có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ việc dân sự; bởi vậy, tòa án
cần kịp thời, nhanh chóng áp dụng biện pháp bảo vệ chứng cứ khi có yêu cầu, tránh
trường hợp khi tòa áp dụng biện pháp bảo vệ thì chứng cứ đã bị tiêu hủy.
2.3. Trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp chứng cứ
Việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ là biện pháp thu thập
chứng cứ bảo đảm cho tòa án có đủ chứng cứ giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Tuy
vậy, do quy định của pháp luật tố tụng dân sự Tòa án cũng chỉ tiến hành biện pháp này
khi đương sự đã yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ chứng cứ nhưng không được
đáp ứng.
Trường hợp tòa án đang thụ lý hồ sơ vụ án, thực hiện yêu cầu cá nhân, cơ quan,
tổ chức cung cấp chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự sẽ
có hai khả năng xảy ra:
Thứ nhất: Là cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ trực tiếp
chuyển giao, cung cấp chứng cứ cho tòa án sẽ phải thực hiện bằng biên bản giao nhận,
cung cấp chứng cứ. Việc xem xét chấp nhận chứng cứ sẽ được thực hiện như đối với
trường hợp đương sự giao chứng cứ cho tòa án.
Thứ hai: Là cá nhân, cơ quan tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ gián tiếp
chuyển giao, cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của tòa án.
Ví dụ: Cần xác định tin tức của người đang ở nước ngoài, tòa án có thể yêu cầu
Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ Lao động Thương binh và xã hội, hoặc Bộ ngoại giao cung cấp

những tin tức liên quan. Hoặc trong trường hợp cần tính đúng lãi suất cho một khoản nợ
giữa các đương sự có tranh chấp về đòi tiền nợ, thẩm phán yêu cầu Ngân hàng Nhà nước
cho biết mức lãi suất tại thời điểm cụ thể. Hoặc có trường hợp thẩm phán yêu cầu Sở Tài
nguyên - Môi trường cho biết về nguồn gốc nhà - đất có chuyển dịch quyền sử dụng, sở
hữu được hay không? Các chủ thể được yêu cầu trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày nhận được yêu cầu phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời những chứng cứ
đang quản lý lưu giữ.

21


CHƯƠNG 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
CHẾ ĐỊNH CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH
TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
3.1 Thực trạng pháp luật về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
3.1.1 Điểm mới
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu Bộ luật Tố tụng dân sự, có thể nhận thấy các quy
định về chứng minh trong tố tụng dân sự có nhiều điểm tiến bộ, bảo đảm việc làm rõ các
tình tiết của vụ việc dân sự. Trước hết, so với quy định của các văn bản pháp luật tố tụng
dân sự được ban hành trước đây.
Mặt khác, các quy định cũng rõ ràng hơn, hợp lý hơn, từ đó đã đề cao được trách
nhiệm của các chủ thể trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của họ, tránh được sự ỷ
lại vào toà án. Đối với đối các sự kiện, tình tiết không phải chứng minh cũng được quy
định trong Bộ luật Tố tụng dân sự, điều này có tác dụng hướng các chủ thể chứng minh
vào việc chứng minh làm rõ những tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự cần chứng minh,
không chứng minh những tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự một cách không cần thiết,
nhờ đó tiết kiệm được thời gian, sức lực trong việc tham gia tố tụng của các chủ thể.
Ngoài ra, việc Bộ luật Tố tụng dân sự quy định tương đối rõ ràng trình tự, thủ tục
chứng minh như trình tự, thủ tục cung cấp, thu thập chứng cứ; trình tự, thủ tục trình bày,

tranh luận tại phiên toà v.v. đã tạo ra một cơ chế tố tụng mới cần thiết cho các chủ thể
chứng minh thực hiện được các quyền và nghĩa vụ chứng minh của họ. Mặt khác, thực
hiện việc công khai, dân chủ và minh bạch các hoạt động tố tụng, bảo đảm được việc bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và việc giải quyết đúng vụ việc dân sự của toà
án.
Bộ Luật Tố tụng dân sự 2004 được được sửa đổi bổ sung năm 2011 là cơ sở
pháp lý quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp và yêu cầu của các bên đương sự,
góp phần bảo vệ lợi ích nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cuộc sống đặt ra.
Về chứng minh và chứng cứ Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn dành 20 điều thuộc
chương VII của luật quy định về chứng minh và chứng cứ, trình tự thu thập, cung cấp, sử
dụng và đánh giá chứng cứ..., trong đó xác định rõ nghĩa vụ chứng minh của đương sự.
Tuy nhiên đã được bổ sung nhiều điểm mới và hoàn thiện hơn. Có thể chỉ ra các điều cơ
bản sau:
Điều 82. Nguồn chứng cứ: nguồn chứng cứ được mở rộng bổ sung thêm nguồn
từ kết quả định giá tài sản.
Điều 85. Thu thập chứng cứ: theo luật cũ thì trong trường hợp đương sự không
thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một
hoặc một số biện pháp để thu thập chứng cứ. Tuy nhiên ở luật hiện hành thì không cần
22


phải có yêu cầu của đương sự, nếu xét thấy cần thiết thì Thẩm phán có quyền tiến hành
một hoặc một số biện pháp để thu thập chứng cứ theo luật định.
Điều 90. Trưng cầu giám định: theo quy định cũ thì việc giám định lại có thể do
người đã tiến hành giám định trước đó thực hiện hoặc do tổ chức chuyên môn khác thực
hiện theo quy định của pháp luật. Nhằm tăng tính khách quan trong việc trưng cầu giám
định, tại đoạn 2 khoản 3 điều 90 quy định cụ thể “Người đã thực hiện việc giám định
trước đó không được thực hiện giám định lại. Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó,
người quy định tại các khoản 1,2 và 3 Điều 46 của Bộ luật này không được thực hiện

việc giám định.”
Điều 92. Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản: ta dễ dàng nhận thấy có nhiều
điểm mới được sửa đổi, bổ sung như sau:
Một là: Bổ sung vào khoản 1 Điều 92 nội dung “các bên có quyền tự thỏa thuận
về việc xác định giá tài sản, lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản”. Một trong những
nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự. Theo đó, khi có tranh chấp về
giá trị tài sản, nếu các bên tự quyết định về giá trị khối tài sản đang tranh chấp hoặc thuê
tổ chức dịch vụ có chức năng thẩm định giá tài sản, để thẩm định giá tài sản, thì Toà án
tôn trọng sự quyết định của các đương sự trong việc định giá tài sản.
Hai là: Trước đây, luật không quy định chủ tịch hội đồng định giá tài sản là
người đại diện của cơ quan tài chính, việc bổ sung lần này đã quy định cụ thể chủ tịch
hội đồng định giá tài sản là người đại diện của cơ quan tài chính, điều này là hoàn toàn
phù hợp với lý luận và thực tiễn trong việc định giá tài sản.
Ba là: Bổ sung vấn đề chế tài đối với “cơ quan tài chính và các cơ quan chuyên
môn có liên quan có trách nhiệm cử người tham gia hội đồng định giá và tạo điều kiện để
họ làm nhiệm vụ. Người được cử làm thành viên Hội đồng định giá có trách nhiệm tham
gia đầy đủ vào việc định giá. Trường hợp cơ quan tài chính, các cơ quan chuyên môn
không cử người tham gia hội đồng định giá; người được cử tham gia Hội đồng định giá
không tham gia mà không có lý do chính đáng, thì tùy theo mức độ vi phạm bị xử lý theo
quy định của pháp luật”. Quy định này là hết sức cần thiết, nhằm đảm bảo sự phối hợp và
tôn trọng Toà án trong việc giải quyết nhanh vụ án, tránh trường hợp các cơ quan này từ
chối cử người tham gia hội đồng định giá tài sản, cũng như cá nhân người được cử làm
thành viên hội đồng định giá tài sản nhưng không tham gia, gây khó khăn, tốn kém tiền
bạc cũng như thời gian của các đương sự và Toà án mà trước đây không có bất cứ một
chế tài nào đối với cơ quan, cá nhân đó.
Điều 94. Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ đã được bổ sung
và tại đoạn 2, Khoản 2 Điều 94 đã nhấn mạnh trách nhiệm cung cấp chứng cứ cũng như
chế tài nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ không chịu giao
nộp chứng cứ.
23



3.1.2 Một số bất cập, hạn chế
Để thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12
năm 2012 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất của bộ luật tố tụng
dân sự; và ngày 03/12/2012 Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị
quyết số 04/2012/NQ-HĐTP về Hướng dẫn thi hành một số quy định về “chứng minh và
chứng cứ” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy vậy, thực tiễn áp dụng các quy định về
chứng minh của Bộ luật Tố tụng dân sự trong thời gian qua cho thấy, đã bộc lộ những
vướng mắc nhất định, thể hiện ở các điểm sau:
Điều 85 “Thu thập chứng cứ” chưa đưa vào luật quy định về việc cung cấp
chứng cứ của một bên cho bên kia. Điều 58 quy định đương sự có quyền “ được biết và
ghi chép, sao chụp” chứng cứ do các đương sự khác cung cấp. Nhưng thực tế, hầu như
người dân không thể thực hiện quyền này do không biết có chứng cứ mới do đương sự
khác cung cấp. Cho đến nay vẫn chưa có quy định toà án hoặc các đương sự khác phải
có trách nhiệm thông báo cho đương sự “được biết” về chứng cứ mới cung cấp, thu thập.
Thực tế khác, khi cố tình thiên vị một bên, cơ quan Toà án sẽ không cho hoặc chỉ cho
một bên đương sự được biết và sao chụp chứng cứ một cách lẻ mẻ. Trong trường hợp
này, một bên đương sự hoàn toàn bị động cho đến khi có bản án và tất nhiên phải kháng
cáo, đề nghị giám đốc thẩm dẫn đến khiếu kiện không có điểm dừng.
Khoản 2 Điều 94 quy định người vi phạm, không cung cấp chứng cứ theo yêu
cầu toà án, viện kiểm sát sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật. Nhiều nhận định cho rằng
quy định chung chung này thiếu tính thực tiễn, không phù hợp với các quy định pháp
luật khác và sẽ không khả thi. Rõ ràng, toà án không thể có thẩm quyền xử phạt hành
chính các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội khác nhất là các cơ quan, tổ chức
cấp trên của Toà án.
Tương tự, Điều 92 “Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản” quy định trách
nhiệm của những người không tham gia Hội đồng định giá cũng không khả thi và công

tác định giá sẽ tiếp tục là một khó khăn cho người dân.
Bộ luật Tố tụng dân sự nên bổ sung quy định về phương tiện chứng minh để
thực hiện việc chứng minh, trong Tố tụng hình sự có quy định đầy đủ về các phương tiện
chứng minh (Khoản 2 Điều 64 Bộ luật hình sự), trong khi đó Bộ luật Tố tụng dân sự lại
không có quy định nào về phương tiện chứng minh. Vì vậy trong Tố tụng dân sự, các
chủ thể sẽ sử dụng những phương tiện nào để chứng minh và chứng minh như thế nào
được coi là hợp pháp. Do đó, nếu không giải thích rõ ràng, đầy đủ các chủ thể sẽ rất dễ
nhầm lẫn, thậm chí là đồng nhất giữa các khái niệm “nguồn chứng cứ”, “phương tiện
chứng minh” và “chứng cứ”. Lẽ đó, trong Bộ luật Tố tụng dân sự nên bổ sung quy định
24


phương tiện chứng minh, bên cạnh khái niệm chứng cứ và nguồn chứng cứ.
Cần biết thêm rằng, hiện ngay cả đối với đương sự, toà án cũng không có thẩm
quyền để xử lý trường hợp vắng mặt nơi cư trú, không hoạt động tại trụ sở đăng ký. Thực
tiễn, chỉ cần có xác nhận của công an địa phương rằng cá nhân “đã đi nơi khác cư trú”,
“đi đâu không rõ” hoặc doanh nghiệp “không thực tế hoạt động tại địa chỉ này” thì toà án
không thể triệu tập đương sự lấy lời khai, tham gia hoà giải và cũng không có phương án
nào để có thể giải quyết tiếp vụ việc (dù cá nhân còn hộ khẩu thường trú, còn tới lui với
gia đình sinh sống tại địa chỉ hộ khẩu, dù pháp nhân không đăng ký thay đổi địa chỉ trụ
sở)
3.2 Thực tiễn xét xử
Trong những năm gần đây, các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình có chiều
hướng ngày càng tăng, chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng số các vụ án mà Tòa án giải quyết.
Do tác động bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có mặt trái của cơ chế thị trường nên các
tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình ngày càng phức tạp, đặc biệt là các vụ tranh
chấp về quyền sử dụng đất, nhà đất, về thừa kế nhà đất, tài sản, về vay nợ, chia tài sản là
nhà đất trong các vụ án ly hôn, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày càng
xảy ra nhiều, kéo dài và phức tạp thường tốn nhiều công sức, thời gian xác minh, thu
thập, nghiên cứu, đánh giá, bảo vệ, bảo quản chứng cứ và giải quyết vụ việc dân sự.

Theo số liệu báo cáo tổng kết được công bố tại website của
Tòa án nhân dân tối cao một số năm gần đây trong công tác giải quyết các vụ án sơ thẩm,
phúc thẩm và giám đốc thẩm:

25


×