Tải bản đầy đủ (.doc) (172 trang)

Nhân tố cản trở tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 172 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Luận án
Những năm gần đây, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra sâu, rộng và trải khắp mọi
lĩnh vực kể từ khi Việt Nam kết thúc đàm phán và tiến hành triển khai nhiều hiệp định
thương mại tự do quan trọng với Hàn Quốc; Liên minh Châu Âu (EU); liên minh thuế
quan Nga - Bêlarut - Kazắctan; Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP)... Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được kỳ vọng sẽ mang lại
rất nhiều lợi ích đối với thương mại Việt Nam: tác động tích cực đến việc tăng thêm
khối lượng trao đổi thương mại với các nước trong khu vực; thay đổi cơ cấu sản phẩm
xuất khẩu theo chiều hướng tích cực, nâng cao cả về chất lượng và giá trị; gia tăng năng
lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu; tác động tích cực đến việc mở rộng thị phần của
hàng hóa Việt Nam trên các thị trường có liên quan, thể hiện rõ nhất là tại các nước
ASEAN thành viên, Hàn Quốc và Nhật Bản. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội mang lại
thì việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng đặt ra không ít thách
thức đối với Việt Nam như việc các doanh nghiệp Việt Nam dễ bị thua thiệt trong kinh
doanh, Việt Nam trở nên lệ thuộc vào các nước phát triển về thị trường, thiết bị máy
móc và công nghệ.
Trong khi đó, ngành công nghiệp chế biến và chế tạo được cho rằng là một trong các
trụ cột phát triển của cả nền kinh tế. Phát triển ngành công nghiệp chế biến và chế tạo sẽ
giúp các quốc gia phát triển bền vững trong tương lai. Công nghiệp chế biến và chế tạo phát
triển sẽ giúp quốc gia tăng trưởng sản xuất, xuất khẩu hàng hóa, tăng trưởng GDP, tăng
cường phát triển kinh tế nhờ tăng trưởng thặng dư thương mại, giúp các quốc gia thực hiện
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhanh và mạnh hơn. Tính chung cả năm 2017, chỉ
số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 9,4% so với năm 2016, cao hơn nhiều so với mức
tăng 7,4% của năm 2016. Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến và chế tạo tăng
14,5% (mức tăng trưởng cao nhất trong 6 năm trở lại đây), đóng góp lớn nhất vào tăng
trưởng chung toàn ngành công nghiệp với 10,2 điểm phần trăm.

Trong thời gian qua, mặc dù ngành công nghiệp chế biến và chế tạo Việt Nam đã
đạt được những thành tựu đáng khích lệ kể trên nhưng thực tế chúng ta vẫn chỉ đảm
nhận những khâu công việc đơn giản, chủ yếu sử dụng lao động có tay nghề thấp nên lợi


nhuận không cao, bị lệ thuộc nhiều vào bên ngoài. Theo số liệu của Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), sự tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam trong
chuỗi cung ứng toàn cầu còn thấp so với các nền kinh tế có quy mô tương tự trong khu
vực Đông Nam Á. Cụ thể, mới chỉ 36% doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào
1


mạng lưới sản xuất, bao gồm cả xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp, trong khi tỷ lệ này ở
Malaysia, Thái Lan là khoảng 60%. Thực trạng trên cho thấy chuỗi cung ứng ở nền kinh
tế Việt Nam bị phân tán và ít khả năng được hưởng lợi từ hiệu ứng lan tỏa vốn đầu tư
nước ngoài, chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và nâng cao năng suất. Theo
VCCI, nguyên nhân chính của thực trạng trên là do Việt Nam chỉ có khoảng 4% doanh
nghiệp lớn và vừa trong tổng số doanh nghiệp nên năng lực cạnh tranh, tham gia vào
chuỗi cung ứng thấp và chỉ hướng vào thị trường trong nước.
Bên cạnh đó, rất nhiều doanh nghiệp FDI lớn hiện đang đổ vốn đầu tư lớn vào các
nhà máy sản xuất tại Việt Nam và tiến hành tìm kiếm các nhà cung ứng nội địa nhằm
mục đích cắt giảm chi phí sản xuất, giảm thời gian lưu kho và tăng tỉ lệ nội địa hóa của
sản phẩm để hạ giá thành, tăng cường khả năng cạnh tranh và tận dụng lợi thế của các
hiệp định thương mại tự do (CPTPP, AEC,…). Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất đối với các
tập đoàn này vẫn là việc tìm được đơn vị cung ứng trong nước đủ năng lực về sản
lượng, chất lượng cũng như tiến độ để trở thành nhà cung ứng cấp một cho các tập đoàn
nước ngoài này. Một ví dụ điển hình là trường hợp của công ty Fuji Xerox Hải Phòng
đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất máy in, máy in màu và máy in phức hợp tại Khu
công nghiệp Việt Nam - Singapore tại Hải Phòng với số vốn 9 tỷ Yên cho rằng không
thể có cách nào tìm được một nhà cung ứng nội địa đạt tiêu chuẩn. Hay một trường hợp
khác là Tập đoàn hàng đầu thế giới về lĩnh vực điện tử Samsung tìm kiếm doanh nghiệp
Việt Nam sản xuất vỏ điện thoại, ốc vít, xạc điện thoại - những bộ phận rất cơ bản của
sản phẩm - cho hai nhà máy lắp ráp điện thoại nhưng hầu hết các doanh nghiệp nội địa
đều thừa nhận chưa thể đáp ứng đầy đủ các điều kiện cung cấp khắt khe do tập đoàn đặt
ra, vì vậy Samsung đang có kế hoạch đưa thêm 200 nhà cung ứng nước ngoài vào Việt

Nam để hỗ trợ cho công ty này.
Trong khi đó, theo nhận định của nhiều chuyên gia thì Việt Nam đang được xem là có
triển vọng cao trong việc trở thành trung tâm chế biến, chế tạo mới của thế giới. Nhận định
này xuất phát từ các lý do sau: Thứ nhất, Việt Nam nằm trên trục giao thương quốc tế, thuận
lợi để phục vụ sản xuất và xuất khẩu hàng hóa quy mô lớn. Thứ hai, Việt Nam đã và đang
tích cực, chủ động hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới và khu vực. Thứ ba, hoạt động
sản xuất công nghiệp của Việt Nam luôn tăng trưởng ổn định so với các trung tâm chế tạo
khác trong khu vực. Thứ tư, hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài tăng trưởng rất khả quan. Thứ năm, Việt Nam đang ở ngưỡng dân số vàng
với một lực lượng lao động dồi dào, trẻ và chi phí thấp trong mối tương quan với các nước
trong khu vực. Cuối cùng, dòng vốn đầu tư

2


quốc tế đang có sự dịch chuyển từ Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á, trong đó có
Việt Nam.
Song, cho tới nay, mặc dù ở Việt Nam đã có nhiều các nghiên cứu về chuỗi cung
ứng như Huỳnh Thị Thu Sương (2013) tìm hiểu về những yếu tố tác động đến việc phối
hợp trong chuỗi đồ gỗ ở vùng Đông Nam Bộ; Đoàn Thị Hồng Vân và cộng sự (2011) đi
sâu vào chuỗi cung ứng của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực (đồ gỗ, cà phê, dệt
may); Đỗ Thị Đông (2011) phân tích chuỗi giá trị và tổ chức quan hệ liên kết của các
doanh nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam; Nguyễn Thành Hiếu và cộng sự (2015)
nghiên cứu sự hợp tác của các bộ phận cung ứng nội bộ nhằm nâng cao hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp… nhưng chưa có một nghiên cứu nào đánh giá mức độ tác
động của những nhân tố cản trở sự tham gia của các doanh nghiệp ngành công nghiệp
chế biến và chế tạo Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu, để trên cơ sở đó sẽ giúp các
cơ quan nhà nước có cái nhìn thấu đáo hơn và có những định hướng, quyết sách thuận
lợi hơn nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng; cũng như
giúp các doanh nghiệp Việt Nam trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo nhìn nhận

lại được chính bản thân mình, nhận ra và khắc phục được những thiếu sót, hạn chế mà
mình đang mắc phải và tăng cường những lợi thế mình đang có nhằm mục tiêu giành
được thế chủ động trong kinh doanh, tham gia được vào chuỗi cung ứng toàn cầu, thu
được lợi nhuận cao, giúp cho ngành công nghiệp chế biến và chế tạo Việt Nam phát
triển bền vững, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên thương trường quốc tế… Góp
phần giải quyết vấn đề này, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nhân tố cản trở tham gia vào
chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và
chế tạo ở Việt Nam” để nghiên cứu.

2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên thế giới, có rất nhiều công trình nghiên cứu đã làm rõ lý luận về những nhân
tố ảnh hưởng đến việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, đồng thời cũng đã minh chứng
cho các luận giải đó bằng các nghiên cứu thực nghiệm cho nhiều trường hợp của nhiều
nước khác nhau. Khi nghiên cứu về các yếu tố tác động đến việc tham gia chuỗi cung
ứng toàn cầu của các doanh nghiệp trên quốc tế nói chung và Việt Nam nói riêng, đa
phần các tác giả đều có tiếp cận xem xét các yếu tố này trên cả 2 mặt (thuận và nghịch)
bao gồm mặt thúc đẩy và mặt cản trở. Từ đó xem xét tác động tích cực của mặt thúc đẩy
và tác động tiêu cực của mặt cản trở. Tuy nhiên, dù một yếu tố nào đó có thể được xem
xét ở cả hai mặt nhưng rõ ràng ở mỗi một yếu tố đó sẽ có một khía cạnh ảnh hưởng
mang tính thúc đẩy hoặc mang tính cản trở nổi trội hơn khía cạnh còn lại.

3


Nhiều nghiên cứu và thực tiễn ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển đã chỉ ra có
rất nhiều những nhân tố cản trở đối với doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh nói
chung. Đi sâu vào phân tích thị trường Đông Á, Harvie (2010) đã tổng hợp từ các
nghiên cứu trước đó và đưa ra danh sách các nhân tố gây nhiều cản trở đến hoạt động
sản xuất và kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp đó là: Khả năng tiếp cận đất đai;
Khả năng tiếp cận vốn; Chi phí theo quy định; Khuôn khổ pháp lý; Khả năng tiếp cận

công nghệ, thông tin, thị trường và các dịch vụ trợ giúp doanh nghiệp; Cạnh tranh quốc
tế; Chi phí vận chuyển tương đối cao; Chi phí kiểm định; Thất bại của thị trường; Các
vấn đề liên quan đến thuế của công ty tư nhân; Nguồn nhân lực trình độ cao; Huấn
luyện và đào tạo cấp độ công ty; Quan điểm của xã hội; Cơ sở hạ tầng; Chi phí của việc
trở thành chính thức chứ không còn là duy trì không chính thức; Sự phân biệt.
Tập trung vào phân tích sự tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp, nhiều
nhà nghiên cứu trong thời gian qua dành nhiều thời gian và công sức trong việc phân
tích và nhận định các nhân tố tác động. Tuy nhiên, theo Kamal và Irani (2014) thì tính
đến nay, dường như chưa có sự thống nhất về việc khẳng định những nhân tố tác động
(tích cực và tiêu cực) đến sự tham gia vào chuỗi cung ứng bởi sự không đồng nhất của
các nền kinh tế. Alfalla – Luque và cộng sự (2013) đã đưa ra một khung khái niệm dựa
trên việc tổng quan lý thuyết các nghiên cứu về sự tham gia chuỗi cung ứng và đã hỗ trợ
cho các nhà nghiên cứu chuỗi cung ứng hiểu rõ hơn các biến số và nhân tố khác nhau
của chuỗi cung ứng thông qua các nghiên cứu định lượng. Tuy nhiên, các biến số và
phạm vi trong khung nghiên cứu của họ đã được nghiên cứu bởi rất nhiều tác giả trước
đấy (Swink và cộng sự, 2007) và có hạn chế là có ít biến số tích cực. Phân tích của
Kamal và Irani (2014) đã phân chia các nhân tố tác động thành bảy nhóm đó là Chiến
lược, Quản lý, Tổ chức, Điều hành; Kỹ thuật; Tài chính và Môi trường kinh doanh.
Trong khi đó, theo quan điểm và nghiên cứu của Kamal và Irani (2014), bốn nhân tố gây
cản trở nhiều đến sự tham gia chuỗi cung ứng có thể là Hạn chế về hạ tầng công nghệ
thông tin; Hạn chế về nguồn lực kỹ thuật, kỹ năng và kiến thức; Ngại thay đổi; Thiếu
hụt về nguồn nhân lực có kinh nghiệm.
Nhiều nhà khoa học đã tập trung vào việc xác định và phân tích các nhân tố tác
động đến sự tham gia chuỗi cung ứng của doanh nghiệp, ví dụ: quy mô doanh nghiệp
(Pagell, 2004), đối tác chiến lược (Ramanathana và Gunasekaran, 2012), sự phụ thuộc
lẫn nhau trong chuỗi cung ứng (Vachon và Klassen, 2006), sự phối hợp và liên lạc hiệu
quả (Paulraj và cộng sự, 2008). Tuy nhiên có rất ít nghiên cứu liệt kê được một danh
sách hoàn chỉnh những nhân tố. Một trong số rất ít các nghiên cứu hiện có đó là của
Bernon và cộng sự (2013) đã đưa ra một danh sách các lợi ích tập trung xoay quanh mối
4



liên hệ giữa việc tham gia chuỗi cung ứng và hiệu quả trong quá trình sản xuất – kinh
doanh của đơn vị tham gia chuỗi, ví dụ: cho phép các bên tham gia chuỗi nâng cao quy
trình liên kết sản xuất, tiết kiệm thời gian, giảm lượng hàng tồn kho, nâng cao chất
lượng dịch vụ khách hàng, đầu ra của sản phẩm và tăng cường thông tin. Sau đấy, Pagell
(2004) cung cấp và làm rõ hơn những nhân tố gây ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến sự
tham gia chuỗi cung ứng (trong hoạt động vận hành, mua sắm, hậu cần), ví dụ như hiệu
quả hoạt động được cải thiện, sự hỗ trợ của ban quản lý cấp cao, phát triển sản phẩm và
thông tin liên lạc được nâng cao. Một số nghiên cứu đã làm rõ các nhân tố khác nhau
thúc đẩy tham gia chuỗi cung ứng. Chen và cộng sự (2013) khẳng định rằng trong số rất
nhiều những nhân tố đã được chỉ ra thì nổi bật lên là ba nhân tố: trình độ công nghệ
thông tin (IT), sự trao đổi kiến thức và niềm tin giữa các thành viên trong chuỗi cung
ứng. Hầu hết các nghiên cứu đều tập trung vào nghiên cứu các nhân tố tác động tích cực
đến việc tham gia vào chuỗi cung ứng, cũng có một số nghiên cứu tập trung vào những
nhân tố gây trở ngại đến sự tham gia chuỗi cung ứng, chẳng hạn như sự thiếu vắng cơ sở
hạ tầng về công nghệ thông tin thống nhất (Khare và cộng sự, 2012), hiệu ứng bullwhip

1

(Vanpoucke và cộng sự, 2009) và trở ngại sự thay đổi (Hertz, 2006). Những nhân tố gây
ảnh hưởng tích cực nhất đến sự tham gia chuỗi cung ứng đó là hiệu suất doanh nghiệp
cải thiện, chia sẻ thông tin, lợi thế cạnh tranh, sự nâng cao giao tiếp và sự thuận tiện và
hiệu quả của các nguồn lực.
Có rất ít các công trình nghiên cứu khai thác một cách trực diện vào mối liên hệ
giữa các doanh nghiệp và chuỗi cung ứng toàn cầu (Harvie và cộng sự, 2010; Rasiah và
cộng sự, 2010). Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các điểm đặc trưng của doanh nghiệp
trong các ngành công nghiệp chế biến và chế tạo khác nhau là rất không giống nhau.
Những doanh nghiệp liên quan đến xuất khẩu hay mạng lưới sản xuất thường lớn hơn,
hiệu quả hơn và có các kĩ năng khác tốt hơn so với các doanh nghiệp khác. Những

nghiên cứu liên quan sẽ được thảo luận dưới đây nhằm hình thành nên các giả thuyết
cho luận án.
trong nước, đã có nhiều nghiên cứu về chuỗi cung ứng của nhiều mặt hàng, lĩnh
vực, ngành nghề khác nhau như chuỗi dệt may, chuỗi cá ba sa, chuỗi cung ứng điện tử,


chuỗi cung ứng cà phê, chuỗi cung ứng đồ gỗ… (Huỳnh Thị Thu Sương, 2013; Đoàn
Thị Hồng Vân và cộng sự, 2011; Đỗ Thị Đông, 2011; Nguyễn Thành Hiếu và cộng sự,
2015;…). Các nghiên cứu này đã làm sâu sắc thêm lý luận và thực tiễn về chuỗi cung
1 Hiện tượng này xuất hiện trong quá trình dự đoán nhu cầu của các kênh phân phối trong Chuỗi cung ứng.
Biểu hiện cụ thể là thông tin về nhu cầu thị trường cho một sản phẩm bị bóp méo hay khuếch đại lên qua các
khâu. Điều này dẫn đến sự dư thừa tồn kho, ảnh hưởng đến chính sách giá và tạo ra các phản ánh không chính
xác trong nhu cầu thị trường.

5


ứng cũng như sự tham gia của doanh nghiệp vào chuỗi cung ứng trên nhiều khía cạnh.
Nghiên cứu về chuỗi cung ứng như Huỳnh Thị Thu Sương (2013) tìm hiểu về những yếu tố
tác động đến việc phối hợp trong chuỗi đồ gỗ ở vùng Đông Nam Bộ. Đoàn Thị Hồng Vân
và cộng sự (2011) đi sâu vào chuỗi cung ứng của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực (đồ gỗ,
cà phê, dệt may). Đỗ Thị Đông (2011) phân tích chuỗi giá trị và tổ chức quan hệ liên kết của
các doanh nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam. Nguyễn Thành Hiếu và cộng sự (2015)
nghiên cứu sự hợp tác của các bộ phận cung ứng nội bộ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp. Tác giả đã nghiên cứu mối quan hệ phức tạp giữa quản trị chuỗi cung
ứng nội bộ, tiền đề và kết quả của quản trị chuỗi cung ứng nội bộ.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế như hiện nay, có thể thấy bức tranh chung là các
doanh nghiệp của Việt Nam đang rất khó khăn trong tiếp cận các chuỗi cung ứng quốc
tế cũng như năng lực đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của doanh nghiệp dẫn dắt

chuỗi cung ứng (tỷ lệ doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng thấp, chỉ khoảng trên dưới
20%). Vì vậy, trong nghiên cứu này tác giả chỉ xem xét các yếu tố tác động đến việc
tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp chế biến và chế tạo của Việt
Nam trên phương diện cản trở của hai nhóm nhân tố bao gồm nhóm nhân tố bên trong
và nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. Tác giả đã so sánh, đối chiếu các mô hình
nghiên cứu về các nhân tố tác động đến việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của
doanh nghiệp Việt Nam ở một số ngành nghề kinh doanh để phân tích, chọn lựa các yếu
tố tác động chủ yếu để đưa vào mô hình nghiên cứu của luận án này để đáp ứng mục
tiêu nghiên cứu và tính thực tiễn của vấn đề này ở Việt Nam. Sau quá trình phỏng vấn
sâu các chuyên gia, thảo luận nhóm, phân tích ý kiến trả lời trong các câu hỏi mở,
nghiên cứu tư liệu (phân tích, tổng hợp các tài liệu)…, tác giả đã phát hiện ra các đặc
trưng (chỉ báo) biểu thị cho các nhân tố đưa ra xem xét. Bên cạnh đó, sự hạn chế tham
gia chuỗi cần thiết phải xem xét ở cả hai nhóm: nhóm doanh nghiệp chưa tham gia và
nhóm doanh nghiệp đang tham gia chuỗi bởi vì cần phải đánh giá được mức độ khó
khăn trong tiếp cận tham gia chuỗi của các doanh nghiệp chưa tham gia còn đối với các
doanh nghiệp đang tham gia thì cần đánh giá mức độ khó khăn, bất lợi của họ khi hoạt
động trong chuỗi, vì mức độ này càng lớn thì càng nhiều khả năng các doanh nghiệp sẽ
cân nhắc rút lui khỏi chuỗi để tránh rủi ro, bất lợi.
Như vậy, có thể khẳng định các nghiên cứu ngoài nước và trong nước về tham gia
chuỗi cung ứng toàn cầu là khá nhiều và khá đa dạng. Tuy nhiên, vẫn chưa có nghiên
cứu tập trung vào phân tích, đánh giá và ước lượng sâu sắc, toàn diện các yếu tố cản trở
việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp chế biến và chế tạo của
Việt Nam trên phương diện cản trở, đặc biệt là chưa làm rõ đầy đủ các cơ chế hay các
6


kênh tác động cản trở cũng như chi tiết về các thành tốt cấu thành nên các nhân tố gây
tác động cản trở. Chính vì vậy, cách tiếp cận trong nghiên cứu này sẽ phù hợp hơn trong
bối cảnh Việt Nam hiện nay khi mà các doanh nghiệp của chúng ta đang đứng trước
nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức trước cánh cửa hội nhập. Và với

cách tiếp cận này, nghiên cứu sẽ giúp chính phủ, các cơ quan quản lý có liên quan và
các doanh nghiệp nhận diện chính xác và đánh giá lại một cách toàn diện những khía
cạnh rào cản đang thực sự kìm hãm sự tham gia của doanh nghiệp chế biến và chế tạo
của Việt Nam vào chuỗi cung ứng quốc tế.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu chung của Luận án là nhằm đánh giá các nhân tố gây trở ngại
tới sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp Việt Nam trong ngành
công nghiệp chế biến và chế tạo. Cụ thể, Luận án xem xét tác động của các yếu tố Hạn
chế nguồn nhân lực có tay nghề, Hạn chế về công nghệ, Hạn chế về vốn, Hạn chế, bất
cập các chính sách hỗ trợ của Chính phủ, Hạn chế, bất cập chính sách và văn hoá quốc
tế, Hạn chế từ phía doanh nghiệp chủ chuỗi cung ứng đối với sự tham gia chuỗi cung
ứng toàn cầu của các doanh nghiệp Việt Nam trong ngành công nghiệp chế biến và chế
tạo trên phương diện cản trở.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất các giải pháp và đưa ra các kiến
nghị nhằm giúp các doanh nghiệp trong ngành tham khảo và ứng dụng trong thực tiễn
sản xuất kinh doanh để tự mình khắc phục các trở ngại và vững vàng tham gia vào chuỗi
cung ứng toàn cầu của ngành công nghiệp chế biến và chế tạo.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu, Luận án thực hiện các nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể như sau:
Tổng quan các nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý luận và mô hình nghiên cứu về các
nhân tố cản trở đến sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
-

- Phân tích thực trạng chuỗi cung ứng ngành công nghiệp chế biến và chế tạo Việt Nam.

Nghiên cứu các nhân tố gây cản trở đến sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của

các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam.
-

Lập luận và đưa ra các giải pháp phù hợp với thực tiễn nhằm giúp các doanh
nghiệp trong ngành tham khảo và ứng dụng trong thực tiễn sản xuất kinh doanh.
-

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
7


Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn về các
nhân tố gây cản trở đến sự tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp
trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam, bao gồm doanh nghiệp chưa
tham gia chuỗi và doanh nghiệp đang tham gia chuỗi.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến và chế tạo thuộc cả 3 khu vực
kinh tế (Nhà nước, tư nhân, nước ngoài) đa dạng về ngành nghề, quy mô, loại hình
-

doanh nghiệp…
Phạm vi không gian: Mô hình phân tích các nhân tố cản trở sự tham gia chuỗi
cung ứng toàn cầu của Luận án được thực hiện dựa trên bộ số liệu khảo sát trực tiếp đối
-

với các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo trên toàn quốc, bao
gồm 7 nhóm ngành chính và các nhóm ngành còn lại theo phân ngành Hệ thống ngành
kinh tế Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01

năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ (Xem Phụ lục 1).
-

Phạm vi thời gian: Trong giai đoạn 2015-2018.

5. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm thực hiện mục đích nghiên cứu, Luận án sử dụng kết hợp một số phương
pháp nghiên cứu khoa học, bao gồm:
Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: Được sử dụng để thu thập dữ liệu thứ
cấp từ các nguồn như: sách báo; niên giám thống kê; tạp chí chuyên ngành; kỷ yếu hội
-

thảo khoa học; các báo cáo của các tổ chức nghiên cứu; số liệu trên các trang website
của các doanh nghiệp, các bộ, ban, ngành, các cơ quan báo chí trong và ngoài nước.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Từ việc phân tích thực trạng cản trở tham gia

chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo
ở Việt Nam, Luận án đánh giá khái quát các kết quả nghiên cứu đạt được. Trên cơ sở đó,
Luận án đề xuất các giải pháp nhằm giúp doanh nghiệp vượt qua cản trở, tăng cường sự
tham gia chuỗi cung ứng trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam.

Phương pháp nghiên cứu định lượng: Trên cơ sở hệ thống hóa lý thuyết và tổng
quan nghiên cứu các mô hình đánh giá tác động trước đó, Luận án xây dựng mô hình
-

kinh tế lượng nhằm ước lượng và kiểm định tác động cản trở đến sự tham gia chuỗi
cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở
Việt Nam. Các phương pháp phân tích nhân tố, phân tích hồi quy – tương quan, phân
tích ANOVA… đều được sử dụng trong Luận án.


8


-

Phương pháp nghiên cứu định tính: Tham vấn ý kiến của các chuyên gia, thựuc

hiện thảo luận, phỏng vấn sâu đối với các đối tượng trong lĩnh vực chuyên môn, các nhà
nghiên cứu, các nhà quản lý trong lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo từ Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương và một số trường đại
học như Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Ngoại thương, Đại học Thương mại và một
số doanh nghiệp, tập đoàn lớn của Việt Nam.
Phương pháp điều tra thống kê: Các số liệu sơ cấp được thu thập dựa trên khảo
sát đối với 594 doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam.
-

6. Đóng góp mới của Luận án
Nghiên cứu này đóng góp thêm về mặt lý thuyết, giúp hiểu hơn mối quan hệ cản
trở phức tạp giữa “Hạn chế về nguồn nhân lực có tay nghề”, “Hạn chế về công nghệ”,
“Hạn chế về vốn”, “Hạn chế, bất cập các chính sách hỗ trợ của Chính phủ”, “Hạn chế,
bất cập chính sách và văn hoá quốc tế”, “Hạn chế từ phía doanh nghiệp chủ chuỗi” và
“Sự hạn chế tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp trong ngành công
nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam”. Nghiên cứu ủng hộ mối quan hệ giữa biến
“Hạn chế về nguồn nhân lực có tay nghề” và “Hạn chế, bất cập các chính sách hỗ trợ
của Chính phủ” đến “Sự hạn chế tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu của doanh nghiệp
trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam”. Trong khi đó các nhân tố
khác có tác động cản trở dưới những góc nhìn khác nhau. Đặc biệt, nhân tố “Hạn chế từ
phía doanh nghiệp chủ chuỗi” dường như không có tác động cản trở đối với doanh
nghiệp chưa tham gia chuỗi nhưng lại có tác động cản trở tương đối lớn đối với doanh
nghiệp đang tham gia chuỗi dưới góc độ thách thức.


7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận án được chia làm 5 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chuỗi cung ứng và các nhân tố cản trở sự tham gia
chuỗi cung ứng toàn cầu
Chương 2: Thực trạng tham gia vào chuỗi cung ứng và những nhân tố cản trở tham gia
vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và mô hình phân tích những nhân tố cản trở tham
gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các doanh nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam
Chương 4: Kết quả phân tích những nhân tố cản trở tham gia vào chuỗi cung ứng
toàn cầu của các doanh nghiệp chế biến và chế tạo ở Việt Nam
Chương 5: Đánh giá kết quả nghiên cứu và một số kiến nghị, đề xuất
9


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUỖI CUNG ỨNG VÀ CÁC NHÂN TỐ CẢN
TRỞ SỰ THAM GIA CHUỖI CUNG ỨNG TOÀN CẦU

1.1. Tổng quan về chuỗi cung ứng
1.1.1. Chuỗi cung ứng
Thuật ngữ “chuỗi cung ứng” xuất hiện cuối những năm 80 và trở nên phổ biến
trong những năm 90. Có rất nhiều nhà khoa học đã dành thời gian nghiên cứu và định
nghĩa chuỗi cung ứng. Khái niệm chuỗi cung ứng được phát triển dựa trên nhiều lĩnh
vực khác nhau (Paulraj và cộng sự, 2008) như quản trị nguyên vật liệu và logistics
(Carter và Price, 1993), quản trị mạng lưới và kết nối các thị trường (Ford, 1990)… Do
đó có nhiều khái niệm tương tự khái niệm chuỗi cung ứng như “chuỗi cầu”, “chuỗi giá
trị” và “chuỗi hỗ trợ”.
Theo Akkermans và cộng sự (2003), có thể xem chuỗi cung ứng như là một mạng

lưới đồng nhất với ba thành tố cơ bản là cấp thực hiện (bao gồm dòng vốn (giải quyết
các hoạt động như kế hoạch thanh toán, điều khoản tín dụng và các thỏa thuận quyền sở
hữu doanh nghiệp), dòng thông tin (bao gồm theo dõi đặt hàng; truyền lệnh đặt hàng, và
sự phối hợp với dòng nguyên vật liệu) và dòng nguyên vật liệu (quá trình hàng dịch
chuyển từ người bán đến người mua và ngược lại như đổi trả hàng, dịch vụ và tái chế));
thành viên (đơn vị cung ứng, đơn vị sản xuất, đơn vị phân phối và người tiêu dùng) và
các trụ cột hỗ trợ: quy trình gắn các năng lực của công ty vào trong quản lý tri thức, hậu
cần và phát triển sản phẩm mới; cấu trúc tổ chức bao gồm phương pháp quản lý và đo
lường hiệu suất; công nghệ để tự động hóa các quy trình kinh doanh và để thúc đẩy
dòng chảy thông tin giữa các đơn vị thuộc mạng lưới.
Chuỗi cung ứng có thể được xem như một hệ thống các chi nhánh lựa chọn cách
thức phân phối để tiến hành việc thu mua và biến đổi nguyên vật liệu thành sản phẩm và
phân phối đến nơi tiêu thụ (Ganesham và cộng sự, 1995). Ganesham và cộng sự (1995)
nhìn nhận chuỗi cung ứng dưới góc độ các liên kết giữa các đơn vị trong luồng xuôi và
ngược chiều của sản phẩm từ nguyên vật liệu đầu vào tới người dùng cuối. Nagurney
(2006) định nghĩa chuỗi cung ứng là một tập hợp các đơn vị, nhân lực, kỹ thuật, các
nguồn lực tham gia vào việc phân phối sản phẩm từ đơn vị cung ứng tới khách hàng.
Chuỗi cung ứng làm biến đổi nguồn lực tự nhiên hoặc các bán thành phẩm thành sản
phẩm để phân phối tới khách hàng. Theo quan điểm phát triển bền vững, việc tái chế sản
phẩm đã được chính thức coi như một giai đoạn của các chuỗi cung ứng và được
10


quán triệt ngày càng triệt để trong thực tế, nhất là ở các quốc gia công nghiệp phát triển
châu Âu. Tương tự, Lambert và Stock (1993) cũng định nghĩa chuỗi cung ứng là việc
các doanh nghiệp phối hợp với nhau để cung ứng sản phẩm và dịch vụ đến tay người
tiêu dùng. Hay chuỗi cung ứng cũng có thể hiểu là mạng lưới liên kết các tổ chức, gồm
liên kết ngược và liên kết xuôi, thông qua các công đoạn tạo dựng giá trị cho các sản
phẩm cung cấp trên thị trường. Theo La Londe và Masters (1994), chuỗi cung ứng được
xem là hệ thống các thành viên trong một chuỗi từ nhà cung cấp đầu vào đến nhà sản

xuất sản phẩm và phân phối sản phẩm ra thị trường. Như vậy, trong nghiên cứu này,
chuỗi cung ứng có thể được hiểu là một hệ thống các mối liên kết giữa các đơn vị thành
viên, gồm liên kết thuận và liên kết ngược, thông qua các hoạt động để tạo ra các giá trị
cho sản phẩm và dịch vụ cung ứng trên thị trường.
Đã có rất nhiều nghiên cứu về vai trò của doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng toàn
cầu tại khu vực Châu Á. Harvie và cộng sự (2010) đã nghiên cứu về vai trò của các
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng trong mạng lưới sản xuất


một số nước Đông Á trong một số lĩnh vực. Rasiah (2004) nghiên cứu về vai trò của

các doanh nghiệp trong mạng lưới sản xuất của một lĩnh vực tại các quốc gia Đông Á.
Rasiah và cộng sự (2010) nghiên cứu về các doanh nghiệp trong các lĩnh vực điện, điện
tử, dệt may, gỗ, oto trong mạng lưới sản xuất của Malaysia. Hay Wignaraja (2013)
nghiên cứu khái quát toàn bộ 5 nền kinh tế ASEAN bao gồm Malaysia, Thái Lan,
Indonesia, Philipin và Việt Nam) bao phủ những lĩnh vực công nghiệp lớn.


trong nước, các nghiên cứu về chuỗi cung ứng hầu như mới chỉ dừng lại ở việc

tìm hiểu kỹ hơn cấu trúc của chuỗi, sự phối hợp và cộng tác của các bộ phận trong chuỗi
nhằm đưa ra giải pháp để hoàn thiện chuỗi của một số ngành nhất định. Chẳng hạn
Huỳnh Thị Thu Sương (2013) tìm hiểu về những nhân tố tác động đến việc phối hợp
trong chuỗi đồ gỗ ở vùng Đông Nam Bộ; Đoàn Thị Hồng Vân và cộng sự (2011) đi sâu
vào chuỗi cung ứng của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực (đồ gỗ, cà phê, dệt may); Đỗ
Thị Đông (2011) phân tích chuỗi giá trị và tổ chức quan hệ liên kết của các doanh
nghiệp may xuất khẩu ở Việt Nam; Nguyễn Thành Hiếu và cộng sự (2015) nghiên cứu
sự hợp tác của các bộ phận cung ứng nội bộ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp… Hầu hết các công trình và bài viết của những nhà nghiên cứu trong
nước chủ yếu đi sâu vào việc tìm cách hoàn thiện và quản trị chuỗi cung ứng hiện hữu

với mục tiêu cắt giảm chi phí ở một số khâu nhất định trong chuỗi như logistics hay tăng
giá bán sản phẩm đầu ra...

11


1.1.2. Chuỗi cung ứng toàn cầu
Từ khi chiến tranh lạnh chấm dứt và sự phát triển thần kỳ của cách mạng công nghệ
thông tin đã mang lại rất nhiều lợi ích cho hoạt động sản xuất và kinh doanh trên bình diện
quốc tế. Việc tiến hành sản xuất và kinh doanh ngày càng thuận lợi, thông suốt, việc sản
xuất chi tiết này và lắp ghép với chi tiết khác ở những địa điểm khác nhau, cách xa cả ngàn
cây số trở nên linh hoạt. Các tập đoàn lớn xuyên quốc gia tăng cường sắp xếp lại tổ chức và
hoạt động nhằm mục đích tối ưu hóa hoạt động sản xuất - kinh doanh nhằm tìm cách tiến
vào các thị trường khác. Mọi quốc gia bị cuốn hút vào guồng quay của toàn cầu hóa kinh tế.
Vì tối ưu hóa trên quy mô quốc gia không thể mang lại nhiều lợi ích bằng tối ưu hóa trên
bình diện quốc tế, nên việc tái cơ cấu toàn diện các hoạt động sản xuất - kinh doanh trên thị
trường toàn cầu diễn ra là một điều tất yếu. Trong thế giới phẳng, các chuỗi cung ứng được
tái tổ chức song hành cùng với công nghệ thông tin và với những cơ chế, định chế mới cho
kinh doanh quốc tế, đánh dấu sự ra đời của các chuỗi cung ứng toàn cầu.

Như vậy, khác với các chuỗi cung ứng nội địa, các chuỗi cung ứng toàn cầu được
xem xét trong nghiên cứu này là chuỗi cung ứng trải rộng trên phạm vi toàn cầu không
phân biệt địa giới hành chính (Đoàn Thị Hồng Vân và cộng sự, 2011). Việc các chuỗi
cung ứng toàn cầu mở rộng phần lớn là theo chiều ngang, không phát sinh quy trình mới
trong chuỗi giá trị mà tập trung vào việc xâm nhập thị trường mới, sử dụng các đơn vị
sản xuất mới, tăng cường đơn vị cung ứng, bổ sung thêm các cơ sở sản xuất nhằm tối đa
hoá nguồn thu và lợi nhuận, trên nguyên tắc người nào có khả năng đáp ứng đầy đủ và
tốt các yêu cầu của chuỗi cung ứng thì người đó sẽ được tham gia vào chuỗi cung ứng.
Ngày nay, các quốc gia cạnh tranh với nhau thông qua việc cạnh tranh giữa các
chuỗi cung ứng, chính vì vậy, chúng ta cần thay đổi tư duy từ việc tự sản xuất sản phẩm

hoàn chỉnh sang hướng tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, bắt đầu từ những công
đoạn, chi tiết giản đơn nhưng đảm bảo chất lượng với giá cả hợp lý và càng về sau càng
nâng cao dần về sự phức tạp.
Nhiều nhà nghiên cứu khác đã cố gắng phát triển các mô hình toán học để xác định sự
phối hợp trong chuỗi cung ứng. Nhiều mô hình đã cố gắng để giảm thiểu tối đa hàng tồn
kho trong chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, các phân tích này chỉ kiểm định sự tương tác của chỉ
hai thành viên trong chuỗi là nhà cung cấp và người mua. Vì vậy tổng thể chuỗi cung ứng
như các khái niệm trước đã đưa ra chưa được mô hình hóa thông qua các phương pháp phân
tích trên. Thêm vào đó, hàng tồn kho không phải chỉ là động lực duy nhất thúc đẩy sự phối
hợp trong chuỗi cung ứng. Thomas và Giffin (1996) đã khái quát tổng quan các công trình
sử dụng mô hình toán học để xác định vấn đề phối hợp trong chuỗi cung ứng. Một số tác giả
đã đề xuất một số khung lý thuyết cho việc thiết kế và kiểm soát chuỗi
12


cung ứng (Sengupta và Turnbull 1996). Tuy nhiên phần lớn các đề xuất này thiên về nhà
quản lý và chưa nêu ra được các nhân tố cản trở đến sự tham gia chuỗi cung ứng.

1.1.3. Các mô hình chuỗi cung ứng
Mô hình chuỗi cung ứng đơn giản
Đây là mô hình cơ bản nhất, với ba nhân tố cấu thành bao gồm: nhà cung cấp đầu
vào, doanh nghiệp và khách hàng. Sự liên kết trong chuỗi cung ứng ở mô hình này chỉ
dừng lại ở mức độ hai bên. Mô hình quản lý chuỗi cung ứng này thường được sử dụng
cho các doanh nghiệp có quy mô nhỏ.

Hình 1.1: Mô hình chuỗi cung ứng đơn giản
Nguồn: Michael, 2011
Mô hình chuỗi cung ứng mở rộng
Bên cạnh ba nhân tố của chuỗi cung ứng đơn giản, đối với mô hình chuỗi cung
ứng mở rộng sẽ bổ sung thêm các thành phần như nhà cung cấp của nhà cung cấp,

khách hàng của khách hàng, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hậu cần, dịch vụ tài chính,
tiếp thị và công nghệ thông tin…

Hình 1.2: Mô hình chuỗi cung ứng mở rộng
Nguồn: Michael, 2011
Mô hình chuỗi cung ứng điển hình
Theo Joe và cộng sự (2009), đối với mô hình chuỗi cung ứng điển hình, nguyên
vật liệu đầu vào của quá trình sản xuất được cung ứng từ một hoặc nhiều nhà cung cấp,
các bộ phận được sản xuất ở một hoặc nhiều nhà máy, sau đó được chuyển đến công ty
sản xuất. Thành phẩm sau đó được phân phối đến các nhà phân phối, nhà bán lẻ và đến
tay người dùng cuối. Các mối liên hệ này được liên kết với nhau thành một mạng lưới.
Các luồng sản phẩm, thông tin và dịch vụ được lưu chuyển liên tục trong toàn bộ chuỗi
cung ứng.

13


Hình 1.3: Mô hình chuỗi cung ứng điển hình
Nguồn: Joe và cộng sự, 2009

1.1.4. Các thành phần tham gia chuỗi cung ứng
Theo Hakanson và Snehota (1989), Huỳnh (2012)… có thể xem chuỗi cung ứng
bao gồm các thành phần tham gia như sau: Nhà cung cấp, Nhà sản xuất, Nhà phân phối,
Nhà bán lẻ, Khách hàng/người tiêu dùng và Nhà cung cấp dịch vụ. Cụ thể:
-

Nhà cung cấp: Nhà cung cấp được xem như là một thành viên bên ngoài chuỗi

cung ứng, có năng lực sản xuất không giới hạn. Nhà cung cấp có thể là doanh nghiệp
nội địa hoặc doanh nghiệp nước ngoài được nhà sản xuất lựa chọn để mua nguyên vật

liệu phục vụ quá trình sản xuất, việc lựa chọn tùy thuộc vào năng lực và kinh nghiệm
cung ứng của họ.
-

Nhà sản xuất: Nhà sản xuất là các tổ chức sản xuất ra sản phẩm. Bao gồm các

nàh chế biên nguyên liệu ra thành phẩm, sử dụng nguyên liệu và các sản phẩm gia công
của các nhà sản xuất khác để tạo ra thành phẩm. Trong luận án nghiên cứu này, nhà sản
xuất chính là các doanh nghiệp nhỏ và vừa và các doanh nghiệp là khách hàng của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa này.
- Nhà phân phối: Nhà phân phối là những công ty tồn trữ hàng với số lượng lớn từ

nhà sản xuất và phân phối sản phẩm đến khách hàng. Nhà phân phối cũng được xem là nhà
bán sỉ. Nhà phân phối bán sản phẩm cho những nhà kinh doanh khác với số lượng lớn hơn
so với khách hàng mua lẻ. Do sự biến động nhu cầu về sản phẩm, nhà phân phối tồn trữ
hàng hóa, thực hiện việc bán hàng và phục vụ khách hàng. Một nhà phân phối điển hình là
một tổ chức sở hữu nhiều sản phẩm tồn kho mua từ nhà sản xuất và bán lại cho người tiêu
dùng. Ngoài khuyến mãi sản phẩm và bán hàng, có những chức năng khác mà nhà phân
phối phải thực hiện là quản lý tồn kho, vận hành cửa hàng, vận chuyển sản phẩm cũng như
chăm sóc khách hàng. Nhà phân phối cũng là một tổ chức chỉ đại diện bán hàng giữa nhà
sản xuất và khách hàng, không bao giờ sở hữu sản phẩm đó. Loại nhà phân phối này thực
hiện chức năng chính yếu là khuyến mãi và bán sản phẩm.
14


-

Nhà bán lẻ: Nhà bán lẻ là những người chuyên trữ hàng và bán với số lượng nhỏ

hơn đến khách hàng. Họ luôn theo dõi nhu cầu và ý kiến của khách hàng. Do nỗ lực

chính là thu hút khách hàng đối với những sản phẩm mà mình bán nên nhà bán lẻ
thường quảng cáo, sử dụng một số kỹ thuật kết hợp về giá cả, sự lựa chọn và sự tiện
dụng của sản phẩm. Trong nghiên cứu này, họ là các cửa hàng bán lẻ, hệ thống siêu thị,
các cửa hàng giới thiệu sản phẩm…
-

Khách hàng/người tiêu dùng: Khách hàng/người tiêu dùng là bất kỳ cá nhân, tổ

chức nào mua và sử dụng sản phẩm. Khách hàng là tổ chức có thể mua một sản phẩm để
kết hợp với sản phẩm khác rồi bán chúng cho khách hàng là người sử dụng sản phẩm
sau/mua sản phẩm về tiêu dùng.
-

Nhà cung cấp dịch vụ: Nhà cung cấp dịch vụ là những tổ chức cung cấp dịch vụ

cho nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ và khách hàng. Nhà cung cấp dịch vụ có
những chuyên môn và kỹ năng đặc biệt ở một hoạt động riêng biệt trong chuỗi cung
ứng. Chính vì thế, họ có thể thực hiện những dịch vụ này hiệu quả hơn và với mức giá
tốt hơn so với chính các nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán lẻ hay người tiêu dùng
làm điều này.

1.1.5. Lợi ích của việc tham gia vào chuỗi cung ứng
Đối với nền kinh tế quốc dân: Chuỗi cung ứng là công cụ quan trọng giúp các nền
kinh tế phát triển bền vững và hiệu quả. Trong chuỗi cung ứng, các doanh nghiệp liên
kết với nhau theo những tiêu chuẩn nhất định, có sự cân đối cung-cầu giữa các mắt xích
của chuỗi từ đầu vào nguyên thủy đến đầu ra cuối cùng và ngược lại, đảm bảo cho sự
phát triển bền vững của mỗi chuỗi. Khi các chuỗi phát triển đến một mức độ nhất định,
thì cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp sẽ chuyển thành cuộc cạnh
tranh giữa các chuỗi, vì đầu mối cạnh tranh ít hơn, nên có thể điều phối, tích hợp hoạt
động của các chuỗi, đảm bảo cho nền kinh tế của các quốc gia và toàn cầu phát triển bền

vững. Bên cạnh đó, trong mỗi chuỗi cung ứng bằng hoạt động logistics, hoạt động tối ưu
hóa người ta sẽ không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của chuỗi, đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển hiệu quả.
Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa và nền kinh tế số, chuỗi cung ứng ngày
càng khẳng định rõ hơn vai trò trọng yếu của mình. Giờ đây, để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của người tiêu dùng, hầu như không còn một sản phẩm công nghiệp nào được
sản xuất hoàn toàn chỉ trong một quốc gia. Chuỗi cung ứng được thiết kế để có thể chia
ra các công đoạn nhỏ và chuyển đến thực hiện ở những nơi có chi phí thấp nhất. Các sản
phẩm không còn liên quan nhiều đến quốc gia, mà liên quan đến chuỗi cung ứng trải
khắp toàn cầu. Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần liên kết lại, xây dựng các chuỗi cung
15


ứng nội địa và chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để tham gia các chuỗi cung ứng khu vực
và toàn cầu.
Đối với doanh nghiệp: Tham gia vào chuỗi cung ứng có vị trí rất quan trọng đối
với hoạt động sản xuất - kinh doanh và đầu tư của các doanh nghiệp. Các hoạt động của
chuỗi cung ứng quyết định sự thành bại của các doanh nghiệp bởi nó giúp đánh giá hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp là chủ chuỗi cung ứng, việc
phân tích hoạt động của chuỗi giúp đánh giá được chỗ tốt, chỗ chưa tốt, trên cơ sở đó
tìm ra giải pháp hoàn thiện. Đồng thời so sánh chuỗi cung ứng của mình với chuỗi cung
ứng của đối thủ cạnh tranh, để tim ra giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh. Đối với
doanh nghiệp là thành viên của chuỗi, phân tích chuỗi giúp thấy được vị thế, tương quan
lực lượng với các thành viên trong chuỗi, từ đó có hướng vươn lên vị trí tốt hơn. Đối với
doanh nghiệp ngoài chuỗi, phân tích chuỗi giúp doanh nghiệp thấy được tác động của
chuỗi, trên cơ sở đó tim ra quyết định đúng đắn cho mình. Tham gia vào chuỗi cung ứng
giúp các doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh (Monczka và cộng sự, 1998). Việc
tham gia vào chuỗi cung ứng sẽ làm tăng mức dịch vụ khách hàng (tăng sự sẵn có của
sản phẩm, giao hàng nhanh hơn, chất lượng đảm bảo hơn với giá thành thấp) từ đó làm
tăng mức thỏa mãn của khách hàng, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh và lợi nhuận

của doanh nghiệp (La Londe và cộng sự, 1994). Tham gia chuỗi cung ứng để cải thiện
lợi nhuận, lợi thế cạnh tranh, sự thỏa mãn của khách hàng được đề xuất bởi nhiều tác
giả. Ví dụ, mục tiêu cơ bản của quản lý chuỗi cung ứng là làm giảm chi phí để đáp ứng
mức dịch vụ cho một thị phần cụ thể. Mục tiêu cơ bản khác là cải thiện dịch vụ khách
hàng qua việc tăng sự sẵn có của hàng tồn kho và giảm chu kỳ đơn hàng (Cooper và
Ellram, 1993). Cuối cùng, chi phí thấp và sự khác biệt về dịch vụ khách hàng sẽ làm
tăng lợi thế cạnh tranh cho toàn bộ chuỗi cung ứng (Cooper và Ellram, 1993). Như vậy,
quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả sẽ làm tăng kết quả (ví dụ, giảm chi phí) và hiệu quả
kinh doanh (ví dụ, tăng mức dịch vụ khách hàng), dẫn đến tăng sự thỏa mãn của khách
hàng và lợi thế cạnh tranh, cuối cùng làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.

1.2. Các nhân tố cản trở sự tham gia của doanh nghiệp vào chuỗi cung
ứng toàn cầu
Sự tham gia có thể được xem như là việc góp phần hoạt động của mình vào một hoạt
động, một tổ chức chung nào đó. Đối với các doanh nghiệp, việc tham gia vào chuỗi cung
ứng toàn cầu ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được thể hiện thông qua việc trở thành
một mắt xích trong dây chuyền cung ứng các sản phẩm phụ tùng thay thế, dịch vụ lắp ráp
gia công hay là các sản phẩm đối với các doanh nghiệp trong cùng chuỗi. Mỗi một chuỗi
cung ứng bao gồm các tổ chức độc lập, nhưng lại có liên đới đến các
16


dòng chu chuyển về hàng hóa, dịch vụ và thông tin liên quan cũng như dòng chảy về tài
chính từ điểm xuất phát đến khách hàng cuối cùng. Các thành viên tham gia vào chuỗi
cung ứng thường liên hệ với nhau trong hoạt động quản lý chuỗi cung ứng để liên kết kế
hoạch, thực hiện và kiểm soát các dòng chu chuyển hàng hoá, dịch vụ một cách hiệu
quả nhất để đáp ứng nhu cầu khách hàng nhanh chóng nhất. Sự tham gia và hợp tác
trong chuỗi là rất cần thiết bởi vì tham gia chuỗi cung ứng không những giải quyết được
vấn đề các thành viên trong chuỗi chia sẻ trách nhiệm và thu được những lợi ích tối đa
từ việc cải thiện dòng luân chuyển hàng hoá, mà còn giải quyết được tính kém linh hoạt

trong quản lý. Việc tham gia và hợp tác chặt chẽ giúp các thành viên chuỗi cung ứng sẽ
cân đối cung cầu một cách hiệu quả và gia tăng lợi ích chung cho toàn bộ chuỗi. Tuy
nhiên các thành viên trong chuỗi, do xuất phát từ các tổ chức độc lập khác nhau và hoạt
động trước tiên vì lợi ích bản thân, nên luôn tồn tại mâu thuẫn trong chuỗi. Chính vì vậy
khi tham gia vào các chuỗi cung ứng cần phải quan tâm giải quyết các mâu thuẫn này
thì lúc đó mới đem lại được nhiều lợi ích cho doanh nghiệp như: giảm tồn kho, cải tiến
dịch vụ khách hàng, sử dụng nhân sự hiệu quả hơn, phân phối tốt hơn bằng cách giảm
số lần chu trình, tăng tốc thị trường sản phẩm mới nhanh hơn, tập trung mạnh hơn vào
các năng lực cốt lõi và cải tiến hình ảnh chung...
Để tham gia các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu cần cân nhắc lựa chọn chuỗi
một cách kỹ lưỡng và vị trí/công đoạn thực sự phù hợp trong chuỗi để tham gia. Nếu đủ
khả năng, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ lựa chọn các chuỗi của các nền kinh tế phát
triển cao như Mỹ, Nhật hay Châu Âu để tham gia, nhưng nếu chưa đủ khả năng thì các
doanh nghiệp cũng nên cân nhắc lựa chọn những chuỗi của các quốc gia đang phát triển
như Trung Quốc. Sẽ là có lợi khi chuyển từ thế cạnh tranh sang hợp tác, chấp nhận tham
gia vào các chuỗi cung ứng của Trung Quốc hoặc cùng tham gia vào các chuỗi cung ứng
toàn cầu. Bằng cách này có thể cải thiện được tình trạng nhập siêu, thay đổi vị thế của
Việt Nam từ thị trường tiêu thụ hàng hoá chất lượng thấp của Trung Quốc thành mắt
xích trong chuỗi cung ứng của Trung Quốc và thế giới. Có như thế Việt Nam mới tái cấu
trúc lại được cả mặt hàng lẫn thị trường xuất nhập khẩu.
Hiện nay, tỷ lệ tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc
biệt là các doanh nghiệp trong ngành chế biến, chế tạo vẫn còn thấp và tồn tại nhiều bất
cập. Do đó, việc xác định xem những nhân tố nào đang kìm hãm hay gây trở ngại đối
với các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng là rất cần thiết. Nhiều nghiên cứu và
thực tiễn ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển đã chỉ ra có rất nhiều những nhân tố
cản trở đối với doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh. Đi sâu vào phân tích thị trường
Đông Á, Harvie (2010) đã tổng hợp từ các nghiên cứu trước đó và đưa ra danh sách các
17



nhân tố gây nhiều cản trở đến hoạt động sản xuất và kinh doanh của hầu hết các doanh
nghiệp đó là: Khả năng tiếp cận đất đai; Khả năng tiếp cận vốn; Chi phí theo quy định;
Khuôn khổ pháp lý; Khả năng tiếp cận công nghệ, thông tin, thị trường và các dịch vụ
trợ giúp doanh nghiệp; Cạnh tranh quốc tế; Chi phí vận chuyển tương đối cao; Chi phí
kiểm định; Thất bại của thị trường; Các vấn đề liên quan đến thuế của công ty tư nhân;
Nguồn nhân lực trình độ cao; Huấn luyện và đào tạo cấp độ công ty; Quan điểm của xã
hội; Cơ sở hạ tầng; Chi phí của việc trở thành chính thức chứ không còn là duy trì
không chính thức; Sự phân biệt.
Tập trung vào phân tích sự tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp, đã có
rất nhiều nhà nghiên cứu trong thời gian qua dành nhiều thời gian và công sức trong
việc phân tích và nhận định các nhân tố tác động. Tuy nhiên, theo Kamal và Irani (2014)
thì tính đến nay, dường như chưa có sự thống nhất về việc khẳng định những nhân tố tác
động (tích cực và tiêu cực) đến sự tham gia vào chuỗi cung ứng bởi sự không đồng nhất
của các nền kinh tế, ngoại trừ Pagell (2004), Bernon và cộng sự (2013) và Chen và cộng
sự (2013) đã chỉ ra một số lợi ích bao gồm biến số tích cực và tiêu cực nhưng những
nghiên cứu này vẫn còn chưa mang tính toàn diện và khái quát. Alfalla – Luque và cộng
sự (2013) đã đưa ra một khung khái niệm dựa trên việc tổng quan lý thuyết các nghiên
cứu về sự tham gia chuỗi cung ứng và đã hỗ trợ cho các nhà nghiên cứu chuỗi cung ứng
hiểu rõ hơn các biến số và nhân tố khác nhau của chuỗi cung ứng thông qua các nghiên
cứu định lượng. Tuy nhiên, các biến số và phạm vi trong khung nghiên cứu của họ đã
được nghiên cứu bởi rất nhiều tác giả trước đấy (Swink và cộng sự, 2007) và có hạn chế
là có ít biến số tích cực. Kamal và Irani (2014) đã nhóm các nhân tố tác động thành bảy
nhóm đó là Chiến lược, Quản lý, Tổ chức, Điều hành; Kỹ thuật; Tài chính và Môi
trường kinh doanh. Theo Kamal và Irani (2014), bốn nhân tố gây cản trở nhất đến sự
tham gia chuỗi cung ứng có thể là Hạn chế về hạ tầng công nghệ thông tin; Hạn chế về
nguồn lực kỹ thuật, kỹ năng và kiến thức; Ngại thay đổi; Thiếu hụt về nguồn nhân lực
có kinh nghiệm.
Nhiều nhà khoa học đã tập trung vào việc xác định và phân tích các nhân tố tác
động đến sự tham gia chuỗi cung ứng của doanh nghiệp, ví dụ: quy mô doanh nghiệp
(Pagell, 2004), đối tác chiến lược (Ramanathana và Gunasekaran, 2012), sự phụ thuộc

lẫn nhau trong chuỗi cung ứng (Vachon và Klassen, 2006), sự phối hợp và liên lạc hiệu
quả (Paulraj và cộng sự, 2008). Tuy nhiên có rất ít nghiên cứu liệt kê được một danh
sách hoàn chỉnh những nhân tố. Một trong số rất ít các nghiên cứu hiện có đó là của
Bernon và cộng sự (2013) đã đưa ra một danh sách các lợi ích tập trung xoay quanh mối
liên hệ giữa việc tham gia chuỗi cung ứng và hiệu quả trong quá trình sản xuất – kinh
18


doanh của đơn vị tham gia chuỗi, ví dụ: cho phép các bên tham gia chuỗi nâng cao quy
trình liên kết sản xuất, tiết kiệm thời gian, giảm lượng hàng tồn kho, nâng cao chất
lượng dịch vụ khách hàng, đầu ra của sản phẩm và tăng cường thông tin. Sau đấy, Pagell
(2004) cung cấp và làm rõ hơn những nhân tố gây ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến sự
tham gia chuỗi cung ứng (trong hoạt động vận hành, mua sắm, hậu cần), ví dụ như hiệu
quả hoạt động được cải thiện, sự hỗ trợ của ban quản lý cấp cao, phát triển sản phẩm và
thông tin liên lạc được nâng cao. Một số nghiên cứu đã làm rõ các nhân tố khác nhau
thúc đẩy tham gia chuỗi cung ứng. Chen và cộng sự (2013) khẳng định rằng trong số rất
nhiều những nhân tố đã được chỉ ra thì nổi bật lên là ba nhân tố: trình độ công nghệ
thông tin (IT), sự trao đổi kiến thức và niềm tin giữa các thành viên trong chuỗi cung
ứng. Hầu hết các nghiên cứu đều tập trung vào nghiên cứu các nhân tố tác động tích cực
đến việc tham gia vào chuỗi cung ứng, cũng có một số nghiên cứu tập trung vào những
nhân tố gây trở ngại đến sự tham gia chuỗi cung ứng, chẳng hạn như sự thiếu vắng cơ sở
hạ tầng về công nghệ thông tin thống nhất (Khare và cộng sự, 2012), hiệu ứng bullwhip

2

(Vanpoucke và cộng sự, 2009) và trở ngại sự thay đổi (Hertz, 2006). Những nhân tố gây
ảnh hưởng tích cực nhất đến sự tham gia chuỗi cung ứng đó là hiệu suất doanh nghiệp
cải thiện, chia sẻ thông tin, lợi thế cạnh tranh, sự nâng cao giao tiếp và sự thuận tiện và
hiệu quả của các nguồn lực.
Có nhiều trường phái lý thuyết có thể sử dụng để lý giải cho mối quan hệ giữa hoạt

động thương mại và sự tham gia vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp. Mô hình của
Hecksher Ohlin và lý thuyết về vòng đời sản phẩm của Vernon là nền tảng cho những
nghiên cứu nhấn mạnh về tầm quan trọng của các lợi thế về kỹ năng, công nghệ và nhận
biết thị hiếu mà đơn vị sản xuất – kinh doanh có thể có trong hoạt động của các nhân tố
quyết định đến lợi thế so sánh trong ngành công nghiệp.
Phương pháp tiếp cận về “Sự phân mảnh sản xuất” đã được đề cập trong công
trình nghiên cứu của Jones và Kierzkowski (1990). Phương pháp này đã trở thành chuẩn
mực chung cho các nhà kinh tế học quốc tế nghiên cứu về chuỗi cung ứng. Phương pháp
chỉ ra cách thức mà việc gia tăng lợi nhuận và những lợi thế của việc chuyên môn hóa
các nhân tố trong các doanh nghiệp đã gây ảnh hưởng có lợi đến vị trí của các công
đoạn khác nhau của quá trình sản xuất xuyên không gian địa lý, kết nối với nhau bởi các
dịch vụ liên kết. Sản phẩm giao dịch giữa các doanh nghiệp ở những quốc gia khác nhau
là những bộ phận hơn là các sản phẩm cuối cùng.
2 Hiện tượng này xuất hiện trong quá trình dự đoán nhu cầu của các kênh phân phối trong Chuỗi cung ứng.
Biểu hiện cụ thể là thông tin về nhu cầu thị trường cho một sản phẩm bị bóp méo hay khuếch đại lên qua các
khâu. Điều này dẫn đến sự dư thừa tồn kho, ảnh hưởng đến chính sách giá và tạo ra các phản ánh không chính
xác trong nhu cầu thị trường.

19


Phương pháp cạnh tranh được sử dụng để định lượng mức độ phân mảnh thương
mại. Một số nhà nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu thương mại quốc gia từ hệ thống báo
cáo dữ liệu thương mại Liên hợp quốc để xác định/đánh giá thương mại trong các bộ
phận và thành phần sản phẩm (ví dụ: Athukorala, 2011), những thứ thường đại diện cho
chuỗi cung ứng. Nó chỉ ra rằng thương mại ở các quốc gia Đông Á đang tăng trưởng
nhờ vào việc tham gia chuỗi cung ứng, cho thấy tầm quan trọng của chuỗi cung ứng
toàn cầu ngày càng tăng ở châu Á. Trên góc độ của các nền kinh tế Đông Á, Trung Quốc
đã và đang trở thành động lực chính nhưng các nền kinh tế khu vực Đông Nam Á có tốc
độ tăng trưởng cao trong mối tương quan với trung bình của khu vực. Những nền kinh

tế công nghiệp phát triển như Thái Lan, Malaysia tham gia vào chuỗi cung ứng nhiều
hơn so với các quốc gia ASEAN còn lại.
Một phương pháp khác là phương pháp đổi mới sáng tạo, dựa vào bảng đầu vào đầu ra để theo dõi giá trị gia tăng trong mạng lưới sản xuất. Phương pháp này gợi ý rằng
giá trị gia tăng dường như là là một thước đo chuẩn xác hơn trong việc theo dõi hoạt
động chuỗi cung ứng ở Châu Á hơn là dữ liệu về thương mại (Koopman và cộng sự,
2010). Các phương pháp đều được sử dụng rộng rãi theo dõi xu hướng phát triển của
chuỗi cung ứng, nhưng các kết quả đòi hỏi phải được phân tích cẩn thận. Tuy nhiên,
chưa có phương pháp nào làm nổi bật lên những nhân tố tác động đến việc doanh
nghiệp tham gia chuỗi cung ứng. Các nghiên cứu tình huống chỉ ra những nhân tố ở
mức độ vi mô là có ảnh hưởng nhất định trong chuỗi cung ứng. Nghiên cứu tình huống
gợi ý rằng những công ty xuyên quốc gia thường tận dụng khu vực như một cơ sở sản
xuất quốc tế, thúc đẩy quá trình phân mảnh sản xuất (Kuroiwa và Heng, 2008).
Ngoài ra, cách tiếp cận thương mại “mới mới” của Melitz (2003) đã nhấn mạnh
đến sự không đồng nhất giữa các doanh nghiệp trong trao đổi thương mại quốc tế. Các
doanh nghiệp thường khác nhau về tính hiệu quả, chi phí cố định và chi phí biến đổi.
Theo đó, chỉ có một số doanh nghiệp có hiệu quả và năng suất cao mới có khả năng xuất
khẩu sản phẩm và đầu tư ra nước ngoài bởi vì những doanh nghiệp này có khả năng tạo
ra đủ lợi nhuận để trang trải các chi phí thương mại rất cao thường phát sinh trong quá
trình hoạt động ở nước ngoài.
Cách tiếp cận về trình độ khoa học công nghệ và hệ thống đổi mới quốc gia cho thấy
một khía cạnh khác mà qua đó hành vi của doanh nghiệp ảnh hưởng đến kết quả của hoạt
động xuất khẩu. Tập trung vào quá trình học hỏi và đổi mới ở những nền kinh tế mới nổi,
nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh đến việc chuyển giao, mua bản quyền công nghệ đóng
một vai trò quyết định trong việc gây dựng lợi thế xuất khẩu ở cấp độ doanh nghiệp (Bell và
Pavitt, 1993; Lall, 1992). Lý thuyết tiến hóa cơ bản của thay đổi kỹ thuật nhấn mạnh
20


đến các công đoạn khó khăn cấp công ty và sự tương tác với các tổ chức là cần thiết để
hấp thụ công nghệ nhập khẩu một cách có hiệu quả (Nelson và Winter, 1982).

Hàm ý của hầu hết các phương pháp trên cho rằng doanh nghiệp ở các nền kinh tế
đang phát triển đang ở thế bất lợi khi gia nhập vào chuỗi cung ứng trong mối tương
quan với các tập đoàn đa quốc gia. Những doanh nghiệp này gặp bất lợi hơn về hạn chế
nguồn lực (vốn, thông tin, lao động có tay nghề, khả năng quản lý, trình độ khoa học
công nghệ…) so với các doanh nghiệp khác. Thêm vào đó, những doanh nghiệp này còn
bị kiềm chế bởi sự không hoàn hảo của thị trường (các quy định, rào cản…). Do vậy,
khả năng các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng là thấp hơn các doanh nghiệp
ở những nền kinh tế phát triển. Thêm vào đó, đấy cũng chính là lý do tồn tại của những
chính sách công hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng. Những hỗ trợ
này hướng tới tạo ra một môi trường thuận lợi hơn để các doanh nghiệp có thể tiếp cận,
giảm những rào cản quan liêu đối với các doanh nghiệp và đồng thời cung cấp các dịch
vụ hỗ trợ thể chế đối với doanh nghiệp về công nghệ, tiếp thị và hỗ trợ tài chính.
Có rất ít các công trình nghiên cứu khai thác một cách trực diện vào mối liên hệ
giữa các doanh nghiệp và chuỗi cung ứng toàn cầu (Harvie và cộng sự, 2010; Rasiah và
cộng sự, 2010). Các điểm đặc trưng của doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp chế
biến và chế tạo khác nhau là rất không giống nhau. Những doanh nghiệp liên quan đến
xuất khẩu hay mạng lưới sản xuất thường lớn hơn, hiệu quả hơn và có các kĩ năng khác
tốt hơn so với các doanh nghiệp khác. Những nghiên cứu liên quan sẽ được thảo luận
dưới đây nhằm hình thành nên các giả thuyết cho luận án.
Thông qua kết quả các công trình nghiên cứu đã được công bố, có thể rút ra một số
nhóm nhân tố mà các nhà nghiên cứu đã phát hiện trong các công trình nghiên cứu tác
động chung (bao gồm cả tác động thuận lợi và tác động cản trở), bao gồm: nhóm nhân
tố liên quan đến nguồn nhân lực; nhân tố liên quan đến công nghệ; nhân tố liên quan
đến quy mô doanh nghiệp. Nhân tố liên quan đến hạn chế của những chính sách hỗ trợ
của Chính phủ được lập luận trong các bài viết học thuật liên quan đến tác động chung
mà chưa có công trình nghiên cứu cụ thể về tác động gây cản trở.
Mục đích trong luận án này là tập trung nghiên cứu về tác động cản trở đến sự
tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nghĩa là đi nghiên cứu đến những nhân tố nào
cản trở, làm cho doanh nghiệp không thể tham gia hay tham gia nhưng chưa đúng mức
vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Do vậy, nghiên cứu đã nghiên cứu mức độ cản trở của các

nhân tố đến sự tham gia vào chuỗi cung ứng thông qua một số nhóm nhân tố ở phần sau
và định nghĩa từng khái niệm theo các nghiên cứu đã có trên thế giới, đồng thời nghiên

21


cứu này có bổ sung, chỉnh sửa thang đo cho phù hợp với ngành công nghiệp chế biến và
chế tạo tại thị trường Việt Nam.

1.2.1. Nhóm các nhân tố đến từ bên trong doanh nghiệp
1.2.1.1. Nhân tố liên quan đến hạn chế về nguồn nhân lực có tay nghề
Trong cùng một hoạt động, một nguồn nhân lực trình độ cao, kỹ năng tốt và tay
nghề giỏi sẽ có đóng góp nhiều hơn đến hiệu quả và kết quả của hoạt động đó. Một
nguồn nhân lực trình độ cao và tay nghề tốt thường có sự liên quan đến việc phát triển
các chiến lược kinh doanh hiệu quả hơn, có tư duy và nhận thức hội nhập một cách chủ
động hơn cũng như tiếp cận nhanh hơn đối với những công nghệ và kỹ thuật mới; do đó
sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp (Van Dijk, 2002). Những doanh nghiệp mà
có đội ngũ nhân sự chất lượng cao thì được kỳ vọng tham gia sâu hơn và hoạt động tốt
hơn trong các mạng lưới sản xuất, cung ứng sản phẩm bởi vì đội ngũ nhân lực có tay
nghề là cần thiết để hình thành nên những mối quan hệ gắn kết và thân thiết đối với
những doanh nghiệp lớn và xử lý hiệu quả hoạt động sản xuất các đơn hàng theo yêu
cầu (Harvie và cộng sự, 2010). Mặc dù nhân sự ở bất kỳ trình độ nào cũng đều quan
trọng, tuy nhiên trình độ của công nhân và các nhà quản lý cũng như kinh nghiệm là đặc
biệt cần thiết đối với doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Một đội ngũ công
nhân đã tốt nghiệp cấp trung học phổ thông thì sẽ có năng suất cao hơn và có khả năng
thích ứng nhanh với công nghệ, kỹ thuật mới hơn so với những công nhân chưa qua đào
tạo. Thêm vào đó, một nhà quản lý đã qua đào tạo đại học hoặc qua kinh nghiệm làm
việc thực tiễn thì có thể sẽ có được những nhận định và triết lý kinh doanh tốt hơn (về
mặt quản trị rủi ro hoặc sẵn sàng thực hiện một ý tưởng kinh doanh mới mẻ). Ở những
công ty nhỏ, với một số lượng ít công nhân qua đào tạo thì nguồn nhân lực của công ty

có thể được phản ánh thông qua chất lượng đào tạo và kinh nghiệm của nhà quản lý
doanh nghiệp (Wignaraja, 2013). Những hạn chế về đội ngũ nhân lực được xem là một
trong những nhân tố gây trở ngại nhất đối với các doanh nghiệp ở các quốc gia Đông Á
(Harvie, 2010). Các doanh nghiệp với một nguồn nhân lực chưa phù hợp (ví dụ như
lãnh đạo doanh nghiệp không có tư duy, kỹ năng về xây dựng chiến lược để hội nhập
quốc tế, truyền đạt không hiệu quả do vậy không làm thay đổi được nhận thức về hội
nhập của đội ngũ cán bộ nhân viên…) thì rất khó có thể nắm bắt được cơ hội tham gia
chuỗi cung ứng toàn cầu và vô hình chung trở thành một lực cản cho phát triển.

1.2.1.2. Nhân tố liên quan đến hạn chế về năng lực công nghệ
Mỗi doanh nghiệp có một số những nguồn lực riêng biệt để tạo ra một tập hợp
năng lực và thói quen có tổ chức khác biệt và độc nhất (Nelson và Winter, 1982). Các
doanh nghiệp cạnh tranh với nhau cơ bản dựa trên những khả năng này và những doanh
22


nghiệp mà có thể sử dụng vượt trội những năng lực này so với các doanh nghiệp khác
thì sẽ có khả năng cung cấp sản phẩm vượt trội (Afuah, 2002). Năng lực về công nghệ là
một trong những khả năng tổ chức cốt lõi, nó đề cập đến những năng lực dựa trên nhân
tố công nghệ làm nên sự khác biệt của doanh nghiệp (Prahalad và Hamel, 1990). Tóm
lại, khả năng công nghệ là năng lực của doanh nghiệp nhằm khai thác một các có hiệu
quả các kiến thức về kỹ thuật công nghệ (Westphal và cộng sự, 1985).
Năng lực về công nghệ có tác động trực tiếp lên hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp (Aw và Batra, 1998; Tsai, 2004). Các nhà nghiên cứu đã lập luận rằng năng lực
sáng tạo dựa trên khả năng về công nghệ (Tsai, 2004; Hseih và Tsai, 2007). Tập trung
vào khả năng công nghệ, doanh nghiệp sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến quá trình
sản xuất hoặc đổi mới sản phẩm, dẫn đến việc nâng cao hiệu quả của quá trình phát triển
sản phẩm mới (Manjary, 2010).
Năng lực về công nghệ thể hiện trên cả hai mặt, nguồn lực con người và nguồn lực
của doanh nghiệp (Westphal và cộng sự, 1985). Nó bao gồm kiến thức về kỹ thuật công

nghệ, bí mật thương mại, bí quyết được tạo ra từ bộ phận R&D, công nghệ liên quan
đến trí tuệ (Dollinger, 1995). Kiến thức và những hoạt động tạo ra tri thức là nền tảng
cho việc xây dựng khả năng về công nghệ (Prahalad và Hamel, 1990). Các doanh
nghiệp có khả năng duy trì năng lực cạnh tranh dựa trên tập trung vào bản chất ẩn và vô
hình của khả năng về công nghệ (McEvily và Chakravarthy, 2002).
Có một số cách phân loại năng lực về công nghệ. Westphal và cộng sự (1985)
phân thành ba loại chính: sản xuất, đầu tư và sáng tạo. Sự khác nhau giữa ba loại này
khá mờ nhạt và các loại này phụ thuộc vào quy mô và đặc tính của doanh nghiệp, ngành
công nghiệp, cách thức tổ chức sản xuất và hình thức sở hữu (Katz, 1985). Lall (1992)
xác định đầu tư, sản xuất và khả năng liên kết là những khả năng về công nghệ quan
trọng. Dựa trên những phân loại này, Figueiredo (2001) tập trung vào bốn khả năng về
công nghệ: khả năng đầu tư, khả năng tổ chức quy trình sản xuất, khả năng tập trung sản
xuất và khả năng về trang thiết bị. Tương tự, Isobe và cộng sự (2007) phân loại khả
năng về công nghệ thành hai loại: khả năng tinh gọn liên quan đến việc phát triển và
hoàn thiện danh mục tài sản hiện có và khả năng cấu trúc liên quan đến tổ chức lại danh
mục đầu tư tài sản thông qua mua bán các tài sản mới.
Bảng 1.1: Một số định nghĩa về năng lực công nghệ
Định nghĩa về năng lực công nghệ

Tác giả

Kiến thức và kỹ năng cần có để nhận biết, đánh giá, tận
dụng và phát triển những công nghệ liên quan đến ngành
công nghiệp dầu mỏ

Acha (2000) về ngành
công nghiệp dầu mỏ

23



Khả năng thích ứng hoặc đồng hóa công nghệ nhập khẩu
từ nước ngoài và kết hợp thêm với các nguồn lực riêng
biệt cần thiết để quản lý và đưa vào sử dụng một cách có
hiệu quả các công nghệ này
Khả năng về công nghệ bao hàm các kỹ năng của công
nhân song hành cùng quy trình sản xuất và trang thiết bị
Nó đề cập đến sự sẵn có của đội ngũ kỹ thuật, tình trạng
công nghệ sản xuất và các cơ sở R&D,…
Khả năng sử dụng các nguồn lực về kỹ thuật/công nghệ
để kết hợp/tái kết hợp các thành phần, liên kết giữa các
bộ phận, phương thức, quy trình và kỹ thuật và các khái
niệm cốt lõi làm nền tảng cung cấp sản phẩm
Nó bao gồm các nguồn lực cần thiết để tạo thành và quản
lý các thay đổi công nghệ mà các nguồn lực được thể
hiện trong các cá nhân và hệ thống tổ chức
Khả năng của một doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả các
kiến thức công nghệ
Sự đổi mới về công nghệ và nhận thức về những yêu cầu
công nghệ trong tương lai
Sự đồng hóa và áp dụng các kiến thức công nghệ từ các
hoạt động R&D vào sản xuất
Các nguồn lực cần thiết để tạo ra và quản lý những cải
tiến trong quy trình và tổ chức sản xuất, sản phẩm, trang
thiết bị và dự án kỹ thuật
Tập hợp những kỹ năng mà doanh nghiệp đã tạo ra và tận
dụng các công nghệ và hệ thống khác nhau

Aw và Batra (1998)
về ngành công nghiệp

chế biến và chế tạo
Wenger và Snyder
(2000)
Mandal và Deshmukh
(1994)
Afuah (2002) về lĩnh
vực công nghiệp dược
phẩm
Bell và Pavitt (1993)

Westphal và cộng sự
(1985) về các doanh
nghiệp Hàn Quốc
Reed và Walsh
(2002) về lĩnh vực
công nghiệp vũ trụ
Tsai (2004) về lĩnh
vực công nghiệp điện
tử
Figueiredo (2001) về
lĩnh vực công nghiệp
thép
Zahra và Nielsen
(2002)

Nguồn: Tổng hợp của tác giả
Từ các định nghĩa trên có thể nhận định rằng thành phần cốt lõi của năng lực về
công nghệ chính là sự nhấn mạnh vào việc phát triển và ứng dụng các kiến thức và kỹ
năng công nghệ của các doanh nghiệp để tăng cường năng lực cạnh tranh.
Trong những năm qua, các nhà nghiên cứu đã sử dụng nhiều cách đo lường khả

năng về công nghệ. Schoenecker và Swanson (2002) đo lường thông qua ba loại: đo
lường về tài chính, số liệu về sáng chế và số liệu về giới thiệu sản phảm mới. Cách đo
lường thường được sử dụng phổ biến nhất là chi phí R&D (ví dụ: Hseih và Tsai, 2007;
Schoenecker và Swanson, 2002) và số lượng sáng chế (ví dụ: Schoenecker và Swanson,
24


2002). Những đặc trưng của từng ngành sản xuất được phản ánh thông qua khung phân
loại và cách đo lường khả năng về công nghệ.
Các nghiên cứu trước đây chỉ ra trình độ khoa học công nghệ của doanh nghiệp có
đóng góp đến giá trị xuất khẩu của doanh nghiệp (Rasiah, 2004). Để có thể trang bị khả
năng công nghệ trong các doanh nghiệp ở những nước đang phát triển, đặc biệt là doanh
nghiệp nhỏ và vừa, không chỉ đơn thuần là số năm kinh nghiệm sản xuất. Mà hơn thế,
nó đòi hỏi sự đầu tư đúng đắn vào việc tạo ra năng lực, kỹ năng và thông tin để vận
hành một cách trơn tru các công nghệ được trang bị, nhập về doanh nghiệp. Những
khoản đầu tư này liên quan đến một loạt các hoạt động kỹ thuật/công nghệ như là công
nghệ tìm kiếm, quản lý chất lượng, máy móc và các hoạt động R&D (Kumar và
Siddarthan, 1994). Những công nghệ mới được nhập về sử dụng trong doanh nghiệp
thông qua chuyển giao của đối tác nước ngoài được xem như là một cơ chế quan trọng
cho việc thiết lập một trình độ khoa học công nghệ mới bên trong doanh nghiệp. Hơn
nữa, các doanh nghiệp hoặc các nhà thầu phụ nước ngoài coi trọng các chỉ tiêu đánh giá
nội bộ (chứng chỉ ISO) như là tiêu chí bắt buộc đối với các doanh nghiệp là đối tác cung
ứng sản phẩm tiềm năng. Phát triển sản phẩm mới hoặc cải tiến sản phẩm hiện thời và
đăng ký bản quyền để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng mang lại những điều kiện thuận
lợi nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu hàng hóa đối với các doanh nghiệp
(Wignaraja, 2013). Hạn chế trong việc tiếp cận công nghệ và kỹ thuật (ở phương diện
sẵn có, chi phí, trang thiết bị, thương mại điện tử…) được xem là một trong những trở
ngại của các doanh nghiệp ở các quốc gia Đông Á (Harvie, 2010).

1.2.1.3. Nhân tố liên quan đến hạn chế về vốn

Hạn chế về quy mô và khả năng tài chính có ảnh hưởng lớn tới khả năng đổi mới
công nghệ của các doanh nghiệp. Hầu hết trong các doanh nghiệp nội địa hiện nay đang
sử dụng công nghệ thấp, mức độ đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển chưa
cao. Hạn chế về vốn là một trong những vấn đề phổ biến nhất mà các doanh nghiệp phải
đối mặt ở các nước đang phát triển. Đây là một trong những hạn chế lớn có thể ảnh
hưởng đáng kể đến khả năng phát triển của một doanh nghiệp như nâng cấp công nghệ,
mở rộng thị trường, nâng cao năng lực quản lý, nâng cao năng suất hay đơn giản là để
tồn tại (Levitsky, 1996). Hạn chế về vốn hay cụ thể là khả năng tiếp cận tài chính của
doanh nghiệp nói chung là do sự không hoàn hảo của thị trường vốn dẫn đến việc các tổ
chức tài chính có ít kỹ năng trong việc phục vụ và đáp ứng đầy đủ các nhu cầu tài chính
của doanh nghiệp và việc thiếu các thị trường vốn phi ngân hàng mà doanh nghiệp có
thể sử dụng (Hawtrey, 1996).

25


×