Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Nghiên cứu và vận dụng phương pháp cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng môn học những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (956.48 KB, 74 trang )

Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

Môc lôc
LÒI NÓI ĐẦU……………………………………………………………………….........3
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………........................4
CHƯƠNG1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÂY KIẾN
THỨC……………………………………………………………………………………....7

1.1. Các khái niệm cơ bản…………………………………………………….7
1.1.1. Phương pháp dạy học…………………………………………………..7
1.1.2. Đặc điểm của quá trình dạy học………………………………………..9
1.1.3. Phương pháp dạy học tích cực………………………………………..11
1.2. Phương pháp dạy học Cây kiến thức……………………………………15
1.2.1. Đặc điểm của phương pháp dạy học Cây kiến thức…………………..15
1.2.2. Các bước tiến hành phương pháp giảng dạy Cây kiến thức…………..18
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC VÀ VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP CÂY KIẾN THỨC TRONG GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG NGUYÊN
LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LÊNIN…………………………………………20

2.1. Thực trạng dạy và học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin hệ cao đẳng khóa 5……………………………………………………20
2.1.1. Quá trình dạy………………………………………………………….20
2.1.2. Quá trình học………………………………………………………….21
2.2. Tổ chức thực nghiệm phương pháp Cây kiến thức vào giảng dạy môn
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin …………………..……23
2.2.1. Đặc điểm môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin…………………………………………………………………………23
2.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình vận dụng phương pháp Cây kiến
thức vào giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin…………………………………………………………………………25
2.2.3. Tổ chức thực nghiệm………………………………………………….27
2.2.4. Đánh giá chung và vấn đề đặt ra……………………………………...38


CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP CÂY KIẾN THỨC VÀO GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ
CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN……………………………………………...39

3.1. Nhóm giải pháp đối với giáo viên………………………………………39
1


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

3.2. Nhóm giải pháp đối với sinh viên………………………………………41
Kết luận và khuyến nghị…………………………………………………….43
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………...44

2


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

LỜI NÓI ĐẦU.
Qua thực tế giảng dạy môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin, chúng tôi có thể nói rằng việc gây được hứng thú cho học sinh
đối với môn học là vô cùng quan trọng vì: Nếu như các em có được hứng thú
đối với môn học thì các em mới nỗ lực phấn đấu hết mình để đạt được kết
quả cao trong học tập. Để làm được điều này thì việc đổi mới phương pháp
giảng dạy là vấn đề mấu chốt. Vì thế, chúng tôi đã sử dụng phương pháp cây

kiến thức- phương pháp dạy học tích cực trong quá trình giảng dạy của mình.
Đây là phương pháp dạy học phù hợp với hình thức dào tạo tín chỉ và có
nhiều điểm tương đồng với môn học. Đó là lý do chúng tôi mạnh dạn đưa ra
đề tài này để cùng thảo luận, chia sẻ và rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất
lượng giảng dạy. Với kinh nghiệm còn non nớt, chắc chắn đề tài còn nhiều
thiếu sót. Vì vậy, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý từ quý thầy cô để đề
tài được hoàn thiện hơn.
Nhóm tác giả

3


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Đại hội Đảng lần thứ VII xác định chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động. Theo chủ
trương đó, Bộ Giáo dục và đào tạo đã quy định môn Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin là môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo cao
đẳng, đại học. Đây là môn học quan trọng nhằm trang bị cho sinh viên thế
giới quan đúng đắn, nhân sinh quan khoa học và phương pháp luận biện
chứng. Song lượng kiến thức rất lớn, thời lượng môn học ít (7,5 đơn vị học
trình) đòi hỏi sinh viên phải có sự chú ý và đầu óc tư duy cao nên việc học,
hiểu và nhớ các nguyên lý, quy luật, phạm trù, học thuyêt là rất khó khăn. Từ
đó đòi hỏi người giảng viên khi giảng dạy phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng trong
việc lựa chọn phương pháp giảng dạy cho phù hợp, hiệu quả, thu hút sự chú ý
của sinh viên. Đây là yếu tố quyết định chất lượng dạy và học của các môn

học lý luận nói chung và môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin nói riêng.
Ở trường Đại học Sao Đỏ, công tác giáo dục chính trị cho học sinh,
sinh viên luôn được nhà trường chú trọng. Tuy nhiên, với đặc thù của một
trường kỹ thuật, đa số sinh viên học khối tự nhiên nên thường có tâm lý ngại
học các môn lý thuyết dẫn đến chất lượng và kết quả học tập của một số sinh
viên chưa cao. Một trong những điểm yếu hiện nay của việc dạy và học môn
học này đó là việc sử dụng và lựa chọn phương pháp còn nặng về truyền thụ
một chiều, ít phát huy tính chủ động, sáng tạo của sinh viên. Người thầy vẫn
giữ vị trí trung tâm trong các giờ học. Các phương pháp giảng dạy phát huy
tính tích cực của người học cũng đã được áp dụng như phương pháp thảo luận
nhóm, nêu vấn đề, đàm thoại, tự học... Tuy nhiên hiệu quả của việc sử dụng
các phương pháp này chưa cao, quá trình thực hiện chưa được như mong
muốn. Vấn đề cấp thiết là phải tìm ra một phương pháp mới vừa phát huy
được sự chủ động, tính tích cực của người học vừa phù hợp với đặc thù của
môn học lý luận chính trị. Đặc biệt trong thời gian tới chuyển sang hình thức
đào tạo tín chỉ, các phương pháp giảng dạy mới cũng đang được khuyến khích
đưa vào áp dụng. Để đáp ứng những đòi hỏi đó, chúng tôi đã đi khảo cứu

4


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau và nhận thấy Cây kiến thức là một
phương pháp rất phù hợp và hữu hiệu. Phương pháp này có nhiều ưu điểm là
làm cho kiến thức, thái độ, hành vi của học sinh được hình thành một cách tự
nhiên, vững chắc, khiến cho các bài học lý thuyết không trở thành những bài
thuyết giáo cứng nhắc, khô khan. Việc đánh giá kết quả học tập, lượng giá

kiến thức của sinh viên cũng chính xác hơn.
Trên cơ sở đó, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Nghiên cứu và vận dụng
phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng
môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin” làm đề tài
nghiên cứu khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Đổi mới phương pháp dạy học là nhiệm vụ cơ bản để nâng cao chất
lượng giảng dạy. Vì thế vấn đề nghiên cứu, vận dụng các phương pháp giảng
dạy tích cực đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Tuy nhiên, các
công trình chỉ dừng lại ở việc hệ thống hóa các phương pháp hoặc nghiên cứu
với tính cách là một phương pháp bộ phận mà ít đi sâu vào từng phương pháp
giảng dạy.
Đối với phương pháp Cây kiến thức, trong nước mới có PGS.TS
Nguyễn Đăng Hải - Học viện Quản lý giáo dục nghiên cứu từ những tài liệu
tiếng Pháp nhưng chỉ dừng lại ở việc xem xét Cây kiến thức với tư cách là
một phương pháp giảng dạy cơ bản trong quá trình đào tạo theo học chế tín
chỉ, chưa đi sâu vào việc áp dụng vào một môn học nào.
Kế thừa những thành tựu đó chúng tôi tiếp tục phát triển theo hướng đi
sâu vào việc vận dụng phương pháp cây kiến thức vào giảng dạy môn học
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Ở trường Đại học Sao Đỏ chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập
đến vấn đề này.
3. Mục tiêu của đề tài.
- Làm rõ cơ sở lý luận về phương pháp giảng dạy cây kiến thức
- Đưa ra cách thức xây dựng và vận dụng hợp lý phương pháp cây
kiến thức trong giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực của sinh viên, nâng cao
chất lượng dạy và học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin.

5



Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp cây kiến thức và việc vận dụng phương pháp cây kiến
thức vào giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu về phương pháp Cây kiến thức và quá trình vận dụng
phương pháp cây kiến thức vào giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tại Trường Đại học Sao Đỏ.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
5.1.Ý nghĩa lý luận của đề tài.
Đề tài góp phần bổ sung, phát triển lý luận về phương pháp Cây kiến
thức, làm phong phú thêm lý luận về phương pháp giảng dạy. Xây dựng kỹ
năng sử dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy của giảng viên.
Đề tài hoàn thành là nguồn tài liệu thiết thực cho những ai quan tâm
đến vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục, dạy học hiện nay.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn.
Đề tài góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin ở trường Đại học Sao Đỏ nói
riêng và các trường cao đẳng, đại học nói chung.
6. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp khảo sát
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp thực nghiệm
7. Kết cấu đề tài

Đề tài gồm: Lời nói đầu, mở đầu, ba chương: Chương 1- Cơ sở
lý luận về phương pháp dạy học Cây kiến thức; chương 2- Thực trạng quá
trình dạy học và việc vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy
môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin; chương 3- Một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp Cây kiến thức vào
giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và phần
kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo.

6


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CÂY KIẾN THỨC

1.1. Các khái niệm cơ bản.
1.1.1. Phương pháp dạy học.
Phương pháp dạy học là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình
dạy học. Các yếu tố này tương tác với nhau tạo thành một chỉnh thể không
tách rời trong quá trình giáo dục, đào tạo. Trong đó mối quan hệ giữa mục
tiêu, nội dung và phương pháp dạy học là quan trọng nhất. Phương pháp dạy
học không những phải phù hợp với mục tiêu, nội dung mà còn ảnh hưởng rất
nhiều đến việc thực hiện nội dung và mục tiêu chương trình dạy học.
Trước khi đề cập đến khái niệm phương pháp dạy học, chúng ta cần
hiểu thế nào là phương pháp? Trong tác phẩm “ Bút kí triết học”, Lênin đã
nêu lại định nghĩa của Hêghen về phương pháp: “ Phương pháp là ý thức về
hình thức của sự tự vận động bên trong của nội dung”. Định nghĩa đó đã
khẳng định giữa nội dung dạy học và phương pháp có sự thống nhất với nhau,

không thể tách rời. Thuật ngữ phương pháp theo tiếng Hi Lạp là “ Methodos”,
có nghĩa là con đường, cách thức hoạt động, nhằm đạt được mục đích nhất
định. Vì vậy, phương pháp là hệ thống những hành động tự giác, tuần tự nhằm
đạt được những kết quả nhất định. Từ đó phương pháp là cấu trúc bao gồm
mục đích được đề ra, hệ thống những hành động (hoạt động), những phương
tiện cần thiết (phương tiện vật chất, phương tiện thực hành, phương tiện trí
tuệ), quá trình làm biến đổi đối tượng, kết quả sử dụng phương pháp (mục
đích đạt được).
Theo các nhà lý luận dạy học, phương pháp dạy học là cách thức, là
con đường đi tới nhận thức sự vật hiện tượng khách quan hay là sự tập hợp
các phương tiện để đạt đến mục đích đề ra. Cũng có các ý kiến cho rằng
“phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức phối hợp hoạt động thống nhất
của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học được tiến hành dưới vai trò
chủ đạo của giáo viên nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học”. Như vậy,
khi bàn đến phương pháp dạy học, tuy có nhiều cách hiểu khác nhau song tất
cả đều hướng đến tính mục tiêu của quá trình dạy học và vai trò của giáo viên
và học sinh trong quá trình dạy học.

7


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

Phương pháp dạy học có những đặc trưng riêng, khác với các phương
pháp nói chung: trong phương pháp dạy học, chủ thể tác động - người thầy
giáo và đối tượng bị tác động của mình - học sinh, còn học sinh lại là chủ thể
tác động vào đối tượng của mình là nội dung dạy học. Vì vậy, người thầy giáo
phải nắm vững những quy luật khách quan chi phối đối tượng tác động của

mình vào học sinh và nội dung dạy học thì mới đề ra những biện pháp tác
động phối hợp. Từ đó có thể nhận thấy đặc trưng của phương pháp dạy học,
đó là người học là đối tượng tác động của giáo viên đồng thời là chủ thể, là
nhân cách mà hoạt động của họ tương ứng với sự tác động của giáo viên phụ
thuộc vào hứng thú, nhu cầu, ý chí của họ. Nếu giáo viên không gây cho học
sinh có mục đích tương ứng với mục đích của mình thì không diễn ra hoạt
động dạy và hoạt động học và phương pháp tác động không đạt kết quả mong
muốn.
Về cấu trúc của phương pháp dạy học: trước tiên là mục đích của người
giáo viên đề ra và tiến hành một hệ thống hành động với những phương tiện
mà họ có. Dưới tác động của người giáo viên làm cho người học đề ra mục
đích của mình và thực hiện hệ thống hành động với những phương tiện mà họ
có nhằm lĩnh hội nội dung học tập.
Mỗi phương pháp dạy học luôn cấu thành từ 3 thành phần:
- Phương pháp luận dạy học - tức là lý thuyết phương pháp dạy học,
mô hình lý thuyết của phương pháp dạy học, triết lý hay nguyên tắc lý luận
nào đó, được mô tả, giải thích trong sách báo khoa học. Đây là mô hình lý
luận của phương pháp dạy học, nó xác định bản chất của phương pháp dạy
học, làm cho phương pháp dạy học này khác phương pháp dạy học kia.
- Hệ thống khái niệm phù hợp để thực hiện phương pháp luận này trong
bài học với nội dung học vấn đặc trưng của lĩnh vực học tập đó (bài học Toán,
Khoa học, Thể dục,… khác nhau thì phương pháp luận đó đòi hỏi những khái
niệm khác nhau) – chúng xác định với khả năng hành động thế nào và bằng
cách nào giáo viên có thể biến phương pháp luận đã chọn thành phương thức
tác động thật sự đến người học và quá trình học tập.
- Những kỹ thuật, công cụ, phương tiện,… được sử dụng để thực hiện
các khái niệm (thiếu chúng thì các khái niệm không được thực thi) và được tổ

8



Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

chức theo phương pháp luận đã chọn – phương pháp dạy học có thực sự là
phương pháp dạy học hay không là do phần vật chất này quyết định, vì chỉ có
phần này của phương pháp dạy học mới tác động đến người học và quá trình
học tập. Đây là hình thức vật chất của phương pháp dạy học, chẳng hạn lời
nói, chữ viết, tranh, ảnh, dụng cụ thí nghiệm, tài liệu media, hành vi giao
tiếp,...
Sự tổ chức thống nhất của 3 phần này trong tư duy và trong hoạt động
vật chất mới tạo nên một phương pháp dạy học cụ thể. Riêng phần 1 chỉ là
phương pháp luận, phần 2 chỉ là khái niệm dạy học, còn phần 3 chỉ là phương
tiện và kĩ thuật dạy học. Gộp cả 3 phàn lại một cách tùy tiện thì không thành
phương pháp dạy học nào rõ ràng, mà phải tổ chức chúng theo một logic nhất
định, trước hết là logic trình bày nội dung bài học.
Trên cơ sở đó, có thể hiểu phương pháp dạy học là cách thức hoạt động có
trình tự, phối hợp, tương tác với nhau của giáo viên và của học sinh nhằm đạt
được mục đích dạy học. Nói cách khác, phương pháp dạy học là hệ thống
những hành động có chủ đích theo một trình tự nhất định của giáo viên nhằm
tổ chức hoạt động nhận thức và hoạt động thực hành của học sinh nhằm đảm
bảo cho họ lĩnh hội nội dung dạy học và chính như vậy mà đạt được mục đích
dạy học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học
với sự tương tác lẫn nhau. Trong đó phương pháp dạy đóng vai trò chủ đạo
còn phương pháp học có tính chất độc lập tương đối, chịu sự chi phối của
phương pháp dạy. Song nó cũng ảnh hưởng trở lại phương pháp dạy. Đương
nhiên phải thừa nhận phương pháp dạy học tồn tại hiện thực trên lớp học,
trong quá trình dạy học thực tế, chứ không phải trên giấy, trên sách báo và bài

giảng ở trường sư phạm. Các phương pháp dạy học xuất hiện ở mỗi bài học,
trong sự tương tác giữa giáo viên và người học, giữa họ và các yếu tố của môi
trường dạy học lúc đó.
1.1.2. Đặc điểm của quá trình dạy học.
Quá trình dạy học là quá trình truyền thụ và lĩnh hội những kĩ năng, kĩ
xảo và phương pháp nhận thức của con người. Dạy học là quá trình hoạt động

9


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

kép có hai hoạt động chức năng khác nhau đan xen, tương tác lẫn nhau, trong
đó giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy, học sinh là chủ thể của hoạt động
học thực hiện các mục đích dạy học. Nhiệm vụ dạy học trong nhà trường
không chỉ đảm bảo một trình độ học vấn nhất định mà còn góp phần hình
thành nhân cách con người của xã hội. Quá trình dạy học phản ánh tính chất
hai mặt của quá trình dạy học: Quá trình dạy của giáo viên và quá trình học
của học sinh. Hai quá trình này không tách rời nhau mà là một quá trình hoạt
động chung nhằm hình thành nhân cách của con người mới đáp ứng yêu cầu
của thời đại.
Quá trình dạy học có những đặc điểm cơ bản sau:
- Mục đích của quá trình dạy học:
Mục đích của quá trình dạy học là giáo dục thế hệ trẻ một cách toàn diện và
hài hòa, chuẩn bị cho học sinh những phẩm chất và năng lực cần thiết để đáp
ứng nhu cầu của xã hội trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Như vậy dạy
học, lao động sư phạm có giá trị như là một nhân tố xã hội quan trọng góp
phần “sáng tạo ra con người”, góp phần tái sản xuất sức lao động xã hội.

- Đối tượng của quá trình dạy học:
Ứng với mục đích nêu trên, quá trình dạy học có đối tượng tác động là
con người (chủ yếu là thế hệ trẻ) mang trong mình những nhân cách xác định,
tồn tại và phát triển như một thực thể xã hội, có ý thức chủ động tiếp thu sự
giáo dục. Với một đối tượng như vậy, kết quả lao động của người giáo viên
không chỉ phụ thuộc vào năng lực, tài năng sư phạm của bản thân giáo viên
mà còn phụ thuộc vào đặc điểm nhân cách của học sinh, vào thái độ của học
sinh trong việc tiếp thu sự giáo dục và quan hệ của học sinh với giáo viên.
Việc nắm bắt đối tượng giáo dục của mình một cách cụ thể, toàn diện làm cơ
sở cho sự thành công trong quá trình lao động sư phạm của người giáo viên.
K.Đ. Usinxki đã khẳng định: “Muốn giáo dục con người về mọi phương diện
thì trước hết phải hiểu con người về mọi phương diện”.
- Công cụ thực hiện quá trình dạy học:

10


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

Với đối tượng lao động đặc biệt là những con người, công cụ lao động
của quá trình dạy học cũng cần thiết phải được tương ứng một cách đặc biệt,
đó là:
+ Hệ thống tri thức mà giáo viên sẽ truyền đạt cho học sinh.
+ Hệ thống các dạng hoạt động được tổ chức theo những mục đích sư
phạm nhất định.
+ Nhân cách của chính bản thân người giáo viên.
+ Những phương tiện và đồ dùng dạy học.
Có thể nói rằng, nếu trong lĩnh vực sản xuất vật chất, công cụ lao động

là những đồ vật cụ thể mà người lao động dùng chúng tác động lên đối tượng
lao động của mình, thì trong nghề dạy học phần lớn công cụ của giáo viên lại
chính là bộ phận hữu cơ gắn bó với bản thân họ.
- Sản phẩm của quá trình dạy học:
Sản phẩm chính của quá trình dạy học là những con người được trang
bị một cách toàn diện để đi vào cuộc sống theo những chuẩn mực xã hội quy
định. Đó là những sự biến đổi về chất so với thời điểm xuất xứ của học sinh
tính về mặt nhân cách. Với sản phẩm quý báu này, với quan điểm kinh tế, nó
đứng hàng thứ hai sau lao động khoa học, nó là một dạng lao động sản xuất
đặc thù- lao động sản xuất phi vật chất.
1.1.3. Phương pháp dạy học tích cực.
Trong các yếu tố cấu thành quá trình giáo dục, dạy học thì phương
pháp bao giờ cũng là yếu tố năng động và trực tiếp quyết định kết quả của quá
trình. Sự lựa chọn, ra đời của mỗi phương pháp giáo dục, dạy học phụ thuộc
vào mục đích giáo dục của mỗi thời đại, vào trình độ, phương thức của mỗi
nền sản xuất. Mục tiêu của phương pháp dạy học tích cực do thời đại đòi hỏi
thì đã rõ. Song, nội dung cụ thể và đặc biệt là lộ trình của phương pháp đó
như thế nào thì các nhà lý luận dạy học hiện nay, kể cả trong và ngoài nước
chưa khám phá được đầy đủ, chưa xây dựng được.

11


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

Trong thực tiễn lập kế hoạch và tiến hành dạy học, người thầy giáo
thường xuyên đối diện với câu hỏi: làm thế nào để lựa chọn phương pháp dạy
học phù hợp và có hiệu quả ? Các nhà lí luận dạy học, các nhà giáo học pháp

bộ môn thường đưa ra lời khuyên: Mỗi phương pháp dạy học có một giá trị
riêng, không có phương pháp dạy học nào là vạn năng, giữ vị trí độc tôn trong
dạy học, cần phối hợp sử dụng các phương pháp dạy học…Lời khuyên này
không sai nhưng gần như không có tác dụng thao tác hoá; giá trị giúp đỡ đối
với giáo viên quá ít nếu như không chỉ ra được các yếu tố ảnh hưởng đến việc
lựa chọn phương pháp dạy học. Đặc biệt trong bối cảnh đang có sự đấu tranh
(lúc công khai, lúc ngấm ngầm) giữa xu hướng muốn giữ nguyên trạng thái
dạy học truyền thụ một chiều hiện hành, với xu hướng chủ trương đổi mới thì
lời khuyên chung chung ở trên là một vị thuốc an thần, an ủi những người giữ
nguyên lối dạy học truyền thống. Như vậy, cần phải góp phần trả lời câu hỏi:
Việc lựa chọn phương pháp dạy học được tiến hành một cách tuỳ tiện, bất kì,
hay bị ràng buộc bởi những tiêu chuẩn khoa học nào?
Câu trả lời cần được tìm kiếm ở các mối quan hệ của phương pháp dạy
học (hiểu theo cả 3 tầng nghĩa của nó) với các yếu tố liên quan, đó là: Với
mục tiêu dạy học; với nội dung dạy học; với nhu cầu, hứng thú, thói quen học
tập của học sinh; năng lực, sở trường, kinh nghiệm sư phạm của giáo viên;
với điều kiện giảng dạy và học tập.
Tạo hứng thú cho người học luôn là một vấn đề quan trọng trong hoạt
động dạy- học. Bởi vì, như chúng ta biết, dạy - học là một hoạt động phức tạp,
trong đó chất lượng, hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào chủ thể nhận thức - người
học. Và điều này lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: năng lực nhận thức,
động cơ học tập, sự quyết tâm, môi trường học tập, người tổ chức quá trình
dạy học và phụ thuộc rất lớn vào sự hứng thú trong học tập. Vì vậy, trong hoạt
động dạy học cần phải lưu ý một cách nghiêm túc với vấn đề taọ hứng thú học
tập của học sinh nhằm kích thích tư duy độc lập của học sinh, thúc đẩy các em
tìm tòi chân lý, là cơ sở vững chắc để việc học tập của học sinh có hiệu quả.
Trước hết, để hiểu về phương pháp dạy học tích cực, chúng ta cần tìm
hiểu thế nào là tính tích cực học tập? Tính tích cực là một phẩm chất vốn có
của con người, bởi vì để tồn tại và phát triển con người luôn phải chủ động,
12



Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

tích cực cải biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và
phát triển tính tích cực xã hội là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo
dục.
Tính tích cực học tập - về thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc
trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình
chiếm lĩnh tri thức. Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan
trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền
đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính
tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng
tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự
giác, hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực học tập biểu hiện ở
những dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các
câu trả lời của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay
nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động
vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý
vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản trước những
tình huống khó khăn…
Tính tích cực học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp lên cao như:
- Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn…
- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết
khác nhau về một số vấn đề.
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
Từ việc nghiên cứu tính tích cực học tập, chúng ta có thể đưa ra khái
niệm về phương pháp dạy học tích cực như sau:

Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở
nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực
hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính
tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực
của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên
phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.

13


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách
học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy
của thầy. Có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng
giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp giáo viên hăng hái áp dụng
phương pháp dạy học tích cực nhưng không thành công vì học sinh chưa thích
ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy, giáo viên phải kiên trì dùng
cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập
chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy
học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng hoạt động
dạy với hoạt động học thì mới thành công. Như vậy, việc dùng thuật ngữ
"Dạy và học tích cực" để phân biệt với "Dạy và học thụ động".
Có thể so sánh đặc trưng của dạy học cổ truyền và dạy học mới như sau:
Dạy học truyền thống
Các mô hình dạy học mới

Quan niệm
Học là qúa trình tiếp thu
Học là qúa trình kiến tạo;
và lĩnh hội, qua đó hình thànhhọc sinh tìm tòi, khám phá, phát
kiến thức, kĩ năng, tư tưởng, tình hiện, luyện tập, khai thác và xử
cảm.
lý thông tin,… tự hình thành
hiểu biết, năng lực và phẩm chất.
Bản chất
Truyền thụ tri thức, truyền
Tổ chức hoạt động nhận
thụ và chứng minh chân lí củathức cho học sinh. Dạy học sinh
giáo viên.
cách tìm ra chân lí.
Mục tiêu
Chú trọng cung cấp tri
Chú trọng hình thành các
thức, kĩ năng, kĩ xảo. Học để đốinăng lực (sáng tạo, hợp tác,…)
phó với thi cử. Sau khi thi xongdạy phương pháp và kĩ thuật lao
những điều đã học thường bị bỏđộng khoa học, dạy cách học.
quên hoặc ít dùng đến.
Học để đáp ứng những yêu cầu
của cuộc sống hiện tại và tương
lai. Những điều đã học cần thiết,
bổ ích cho bản thân học sinh và
cho sự phát triển xã hội.
Nội dung Từ sách giáo khoa và giáo viên Từ nhiều nguồn khác nhau: Sách
giáo khoa, giáo viên, các tài liệu
khoa học phù hợp, thí nghiệm,
bảo tàng, thực tế… gắn với:

14


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

- Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và
nhu cầu của học sinh.
- Tình huống thực tế, bối cảnh và
môi trường địa phương
- Những vấn đề học sinh quan
tâm.
Phương
Các phương pháp diễn giảng,Các phương pháp tìm tòi, điều
pháp
truyền thụ kiến thức một chiều. tra, giải quyết vấn đề; dạy học
tương tác.
Cơ động, linh hoạt: Học ở lớp, ở
Hình thức Cố định: Giới hạn trong 4 bứcphòng thí nghiệm, ở hiện trường,
tổ chức
tường của lớp học, giáo viên đốitrong thực tế…, học cá nhân, học
diện với cả lớp.
đôi bạn, học theo cả nhóm, cả
lớp đối diện với giáo viên.

1.2. Phương pháp dạy học Cây kiến thức
1.2.1. Đặc điểm của phương pháp dạy học Cây kiến thức
* Khái niệm: Cây kiến thức là phương pháp dạy học tích cực trong đó
người học giữ vị trí trung tâm còn người dạy có vai trò là người chỉ đường,

hướng dẫn người học tự tạo ra cho mình sản phẩm trí tuệ, chủ động thiết kế
kiến thức lý thuyết về dạng mô hình, sơ đồ.
* Đặc điểm:
- Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Trong phương pháp dạy học Cây kiến thức, người học - đối tượng của
hoạt động "dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" được cuốn hút vào
các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực
khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những
tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời
sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải
quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ
năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không

15


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

rập theo những khuôn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng
tạo.
Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức
mà còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học
sinh biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của
cộng đồng.
- Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Phương pháp dạy học Cây kiến thức xem việc rèn luyện phương pháp
học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học
mà còn là một mục tiêu dạy học.

Trong điều kiện xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh với sự bùng nổ
thông tin, khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão thì không thể
nhồi nhét vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải
quan tâm dạy cho học sinh phương pháp học tự học. Nếu rèn luyện cho người
học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ
lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập
sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt
động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ
động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường
phổ thông, không chỉ tự học ở nhà, mà tự học cả trong tiết học có sự hướng
dẫn của giáo viên.
- Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể
đồng đều tuyệt đối nên khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp
nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là
khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập. Áp dụng phương
pháp tích cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc sử dụng
các phương tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá
thể hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh. Tuy
nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình
thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp
thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con
đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập

16


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”


thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học
nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và kinh
nghiệm sống của người thầy giáo.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp
nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động
hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học
tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự
nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt
động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của
mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh
thần tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ
làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã
hội. Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc
gia, liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà
nhà trường phải chuẩn bị cho học sinh.
- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều
kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trước đây,
giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp Cây kiến
thức, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự
điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận
lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều
chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống
mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con
người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh
giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã
học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết

những tình huống thực tế. Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra
đánh giá sẽ không còn là một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại
cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ
đạo hoạt động học.

17


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

Trong phương pháp Cây kiến thức, giáo viên không còn đóng vai trò
đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ
chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự
lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng,
thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính,
giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã
phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ động mới
có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố
vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học
sinh. Giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có trình độ sư phạm
lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà nhiều
khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.
1.2.2. Các bước tiến hành phương pháp giảng dạy Cây kiến thức:
Bản chất của phương pháp dạy học Cây kiến thức là làm cho học sinh
chủ động tiếp thu, dễ hiểu, dễ nhớ kiến thức. Học sinh tiếp thu kiến thức
không phải chỉ thông qua kênh nghe, kênh nhìn mà còn phải được tham gia
thực hành ngay trên lớp hoặc được vận dụng, trao đổi thể hiện suy nghĩ, chính
kiến của mình. Từ xa xưa, người phương Đông đã có câu: “Tôi nghe thì tôi

quên, tôi nhìn thì tôi nhớ, tôi làm thì tôi hiểu”. Những kết quả nghiên cứu
khoa học hiện đại cũng đã cho thấy, học sinh chỉ có thể nhớ được 5% nội
dung kiến thức thông qua đọc tài liệu. Nếu ngồi thụ động nghe thầy giảng thì
nhớ được 15% nội dung kiến thức; nếu quan sát có thể nhớ 20%; kết hợp
nghe và nhìn thì nhớ được 25%. Thông qua thảo luận với nhau, học sinh có
thể nhớ được 55%. Nhưng nếu học sinh được trực tiếp tham gia vào các hoạt
động để qua đó tiếp thu kiến thức thì có khả năng nhớ tới 75%. Còn nếu giảng
lại cho người khác thì có thể nhớ tới được 90%. Trên cơ sở đó, phương pháp
dạy học Cây kiến thức mà chúng tôi xây dựng, áp dụng sẽ phát huy được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Trong đó,
sinh viên không những được thảo luận, được chủ động tham gia vào hoạt
động xây dựng kiến thức cho mình mà còn rèn luyện được khả năng diễn đạt,
giảng giải cho người khác hiểu được sản phẩm của mình. Qua đó, vừa củng
cố kiến thức cho bản thân vừa hình thành kĩ năng giao tiếp, diễn đạt. Đây
cũng là ưu điểm lớn nhất của phương pháp Cây kiến thức.

18


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

Phương pháp Cây kiến thức được tiến hành theo năm bước cơ bản:
Bước một, công tác chuẩn bị của giáo viên: Trước khi lên lớp, giáo viên
phải xác định kiến thức cần truyền đạt và cấu trúc hóa nội dung bài học, tức
phải xác định rõ trọng số của nội dung dạy học thành N1, N2, N3.
N1- Nội dung cốt lõi học sinh phải biết.
N2- Nội dung quan trọng mà học sinh nên biết.
N3- Nội dung mở rộng, học sinh có thể biết.

Trong công đoạn này đòi hỏi người giáo viên phải nắm thật chắc
các kiến thức của bài giảng và các kiến thức liên quan, đồng thời phải biết
lượng giá và xác định trọng số cho phù hợp với nội dung của từng bài và đối
tượng học sinh.
Bước hai, giáo viên khởi đầu hoạt động dạy học bằng việc chỉ
cho người học cách vẽ cây kiến thức.
Bước ba, tập trung thời lượng lên lớp để vẽ mẫu cho người học
thân, gốc sau đó người học hoàn thành.
Bước bốn, chỉ địa chỉ kiến thức “nhánh, lá” và yêu cầu người học
về nhà cùng thảo luận theo nhóm và vẽ tiếp cây kiến thức. Đầu buổi học sau
người học trình bày “sản phẩm trí tuệ” của mình.
Bước năm, Giáo viên đánh giá sản phẩm của từng nhóm. Sau
bước thứ tư, giáo viên có thể đánh giá được nhận thức của từng học sinh
thông qua cây kiến thức mà học sinh xây dựng “ tươi tốt, sum suê” hay “còi
cọc”. Từ đó đánh giá được khả năng tiếp thu kiến thức của học sinh, hơn nữa
sẽ phân hóa được đối tượng học sinh để có cách thức tác động, giảng dạy cho
phù hợp.

19


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC VÀ VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP CÂY KIẾN THỨC TRONG GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ
BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MAC- LÊNIN.

2.1. Thực trạng dạy và học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ

nghĩa Mác- Lênin hệ cao đẳng khóa 5
2.1.1. Quá trình dạy
Môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là môn học
lý luận chính trị, mang tính khái quát và trừu tượng cao nên đòi hỏi giáo viên
cần có nghệ thuật giảng dạy cho phù hợp, mà mấu chốt của nghệ thuật ấy là
vấn đề sử dụng phương pháp giảng dạy.
Đội ngũ giáo viên: Đội ngũ giáo viên giảng dạy môn Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin của khoa chiếm tới 50% số lượng giáo viên
trong khoa, các giáo viên đều có trình độ đại học và trên đại học; hầu hết các
giáo viên đều được đào tạo trong các trường sư phạm bước đầu đã có nền tảng
về phương pháp giảng dạy và nghiệp vụ sư phạm nên việc khai thác, sử dụng
và đổi mới phương pháp giảng dạy đã và đang được đặc biệt quan tâm.
Về phương pháp: Các phương pháp sử dụng chủ yếu trong giảng dạy
môn học là thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề, trực quan, thảo luận nhóm.
Đây là các phương pháp phổ biến và phù hợp với đặc thù của môn học, trong
thời gian qua đã được giáo viên sử dụng khá phổ biến. Tuy nhiên, hiệu quả
của một số phương pháp, đặc biệt là những phương pháp phát huy tính tích
cực của sinh viên chưa thực cao. Vì thế, khi được hỏi giáo viên đã thực sự hài
lòng với việc sử dụng phương pháp dạy học của mình chưa? Thì có tới 61%
(6/10) trả lời chưa thực sự hài lòng. Khi cho sinh viên đánh giá về việc sử
dụng phương pháp giảng dạy của giáo viên qua các tiết giảng có: 25% (8/113)
tiết giảng đánh giá ở mức độ tốt; 36,4%(41/113) đánh giá ở mức độ khá;
38,6%(44/113) ở mức độ trung bình. Từ đó cho thấy mặc dù giáo viên đã cố
gắng không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy song hiệu quả còn chưa
được cao. Khi được hỏi có cần thiết phải có một phương pháp mới vừa phát
huy được tính tích cực của sinh viên, vừa tăng cường khả năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, vừa kích thích phát triển tư duy thì có tới 98%(9/10) giáo
viên và 94% (517/550) sinh viên trả lời rất cần thiết.
20



Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

Về nội dung dạy học, đa số giáo viên đã giảng dạy cho học sinh đảm
bảo đầy đủ, chính xác về kiến thức, thể hiện đúng quan điểm, tư tưởng, lập
trường chính trị. Và chủ yếu giáo viên cho rằng truyền đạt đầy đủ nội dung,
kiến thức là đạt được yêu cầu. Tính lôgic và hệ thống các kiến thức chưa cao.
Về việc tổ chức đánh giá, giáo viên hầu như mới chỉ quan tâm đến kiến
thức sinh viên hiểu được và nhớ được nên chủ yếu yêu cầu sinh viên nêu,
trình bày và phân tích chưa chú trọng nhiều đến kĩ năng. Quá trình đánh giá
còn mất nhiều thời gian và chưa thực sự lượng giá được hết khả năng của sinh
viên; hình thức đánh giá chủ yếu là thông qua kiểm tra bài cũ và phát vấn
thường gây tâm lý căng thẳng và nặng nề, đặc biệt đối với đối tượng sinh viên
các chuyên ngành kĩ thuật. Như vậy, việc dạy học môn Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin tuy cơ bản đảm bảo được về mặt nội dung
như: tính chính xác, khoa học, nhưng vẫn còn hạn chế về phương pháp, kỹ
năng giảng dạy. Các tiết dạy học nhìn chung chưa phát huy được tính tích cực,
tự lực, chủ động sáng tạo của sinh viên trong học tập. Việc vận dụng các
phương pháp phát huy tính tích cực của sinh viên trong dạy học môn Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được giáo viên quan tâm,
nhưng còn nhiều lúng túng, chưa tìm ra được quy trình chung để áp dụng nên
hiệu quả không cao.
2.1.2. Quá trình học.
Đặc điểm sinh viên: Ở lứa tuổi này sinh viên đã hình thành khả năng tư
duy trừu tượng. Nếu biết phát huy sinh viên có thể chuyển hóa từ nhận thức
thành quá trình tự sáng tạo. Ở cấp độ xã hội, sinh viên là đại diện của một
nhóm xã hội đặc biệt gồm những người đang chuẩn bị cho hoạt động lao động
trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định, đang chuẩn bị để gia nhập vào đội

ngũ trí thức xã hội. Họ có khát vọng được cống hiến, mong muốn được xã hội
ghi nhận. Họ cũng muốn được khẳng định vai trò, vị trí của mình trong gia
đình, trong tập thể, trong công việc, trong các mối quan hệ. Ở cấp độ cá nhân,
sinh viên là người đang trưởng thành về mặt xã hội, chín muồi về thể lực,
định hình về nhân cách, đang học tập tiếp thu những tri thức, kỹ năng của một
lĩnh vực nghề nghiệp nhất định. Lứa tuổi này cũng có những đặc trưng nổi
bật, đó là thời kỳ phát triển tư duy trừu tượng, phát triển hứng thú nghề
nghiệp, ... đặc biệt là sự phát triển thế giới quan, nhân sinh quan, đạo lý, hoài

21


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

bão vươn tới lý tưởng cao đẹp. Về mặt tâm lý, đây là lứa tuổi hình thành và
phát triển mạnh mẽ những phẩm chất nhân cách bậc cao có ý nghĩa rất lớn đối
với việc tự giáo dục, tự hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực như khả năng
tự đánh giá, lòng tự trọng, tự tin, tự ý thức, v.v... .
Đặc thù đào tạo: Đại học Sao Đỏ là một trường kĩ thuật công nghiệp,
sinh viên chủ yếu chuyên sâu các môn khoa học tự nhiên và có tâm lý ngại
các môn lý luận. Tính chất đa ngành nghề của nhà trường đã tạo nên sự đa
dạng về đối tượng sinh viên, Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin lại là môn học bắt buộc với tất cả sinh viên nên đối tượng giảng dạy
cũng rất đa dạng đòi hỏi giáo viên phải có sự linh hoạt trong việc sử dụng
phương pháp giảng dạy cho phù hợp với từng đối tượng, từng chuyên ngành
khác nhau.
Thái độ học tập: Quá trình học cao đẳng, nội dung và tính chất học tập
của học sinh có nhiều sự thay đổi so với học phổ thông, đòi hỏi tính năng
động, sáng tạo và độc lập cao, đồng thời phát triển tư duy lý luận. Thái độ của

các em có sự lựa chọn hơn đối với các môn học. Ở các em hứng thú và sự cố
gắng học tập gắn liền với nghề nghiệp.
Thái độ học tập của học sinh được thúc đẩy bởi động cơ thực tiễn, động
cơ nhận thức sau đó là ý nghĩa xã hội của môn học rồi mới đến động cơ cụ thể
khác. Thực tiễn cho thấy có rất nhiều sinh viên có thái độ học tập nghiêm túc,
đúng đắn, xác định đúng mục đích, động cơ học tập: học vì ngày mai lập
nghiệp, học để trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, cũng không ít
sinh viên học để ứng phó với gia đình, thầy cô, thái độ học tập chưa nghiêm
túc thậm chí bỏ bê sa đà vào các tệ nạn xã hội. Đối với môn Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, sinh viên vẫn còn tư tưởng coi đây là một
môn phụ, không cần thiết, không phục vụ cho nghề nghiệp của mình, là môn
khó học, khó hiểu và khô cứng nên chưa có hứng thú, say mê với môn học.
Kết quả học tập: Nhóm đề tài đã tiến hành khảo sát đối với sinh viên
cao đẳng khóa 5, ở các chuyên ngành đào tạo cho thấy bên cạnh những kết
quả đạt được, việc dạy và học môn Những nguyên lý cơ bản của còn nhiều
hạn chế, cần được khắc phục. Kết quả khảo sát có 8%(16/200 sinh viên)
khẳng định không thích học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin, 6% (12/200 sinh viên)khẳng định không bao giờ chú ý nghe

22


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

giảng, 8%(16/200 sinh viên) khẳng định không bao giờ tích cực tham gia xây
dựng bài, 12%(24/200 sinh viên) khẳng định không có hứng thú với các tiết
học, 4% (8/200 sinh viên) khẳng định không bao giờ ghi nhớ những điều đã
học, 9%(18/200 sinh viên) không thường xuyên làm theo những điều đã học.

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát kết quả học tập môn Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin của 550 sinh viên hệ cao đẳng khóa 05. Kết
quả như sau:
Điểm TB
Số học sinh

Khá , giỏi

TBK

TB

205

237

105

Y
3

K
0

Tỷ lệ
37,3%
41,5%
19%
0,6%
0%

Từ thực trạng phân tích trên, chúng tôi nhận thấy phương pháp giảng
dạy truyền thống với vai trò người thầy làm trung tâm phát thông tin và học
sinh bị động tiếp nhận thông tin đã trở nên lạc hậu trước yêu cầu của giáo
dục, đào tạo. Mặc dù trong thời gian gần đây, các giảng viên đã sử dụng các
phương pháp dạy học tích cực nhưng hiệu quả mang lại còn chưa thực cao.
Chính vì vậy, việc áp dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy môn
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin là rất cần thiết góp phần
quan trọng vào việc nâng cao chất lượng hiệu quả giảng dạy, phát huy năng
lực tư duy sáng tạo và khả năng tự tiếp thu cái mới, cao hơn nữa là khả năng
tự hoàn thiện của học sinh.
2.2. Tổ chức thực nghiệm phương pháp Cây kiến thức vào giảng dạy
môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin.
2.2.1.Đặc điểm của môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin
Với tư cách là một môn học lý luận chính trị, môn Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác- Lênin có những đặc điểm cơ bản sau:
- Tính khái quát: Những nội dung trong môn học Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác- Lênin là sự tích hợp của ba phần: Phần 1, thế giới quan
và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin; phần 2, học thuyết
kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin về phương thức sản xuất TBCN; phần 3, lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội. Bản thân những nội dung
này được rút ngắn từ ba môn học: Triết học Mác- Lênin; Kinh tế chính trị Mác23


Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

Lênin; Chủ nghĩa xã hội khoa học. Mặc dù được rút ngắn về thời lượng phân
bổ cho môn học nhưng những nội dung cơ bản vẫn được giữ nguyên nên khi
nghiên cứu môn học tính khái quát được thể hiện rõ nét.

- Tính trừu tượng: Hầu hết các nội dung của môn học được cho là có
tính trừu tượng, đặc biệt ở phần 1 và phần 2. Vì vậy, việc sử dụng các phương
pháp giáo dục giúp sinh viên có thể cụ thể hóa được các nội là điều mà các
giáo viên quan tâm do đó cần phải hiểu được nội dung bản chất của vấn đề mà
không phải là học thuộc một cách máy móc.
- Tính lý luận: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin là
môn học cơ bản nhất trong hệ thống các môn học lý luận chính trị, môn học
bao gồm cả mảng kiến thức về triết học, về kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã
hội khoa học. Vì vậy, để hiểu được môn học đòi hỏi phải có tư duy lý luận cao
- Tính logic: Hệ thống môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin được xây dựng một cách có hệ thống có sự gắn kết logic với
nhau trong từng phần, từng chương, từng bài cụ thể; phần 1 nghiên cứu những
quy luật vận động, phát triển chung nhất của thế giới. Phần 2 trên cơ sở phần
1, nghiên cứu về những quy luật của xã hội, đặc biệt quy luật ra đời, tồn tại và
diệt vong của CNTB. Phần 3 là kết quả vận dụng thế giới quan, phương pháp
luận triết học và kinh tế chính trị để làm sáng tỏ những quy luật khách quan
của quá rình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ba bộ phận tuy có đối tượng nghiên
cứu khác nhau nhưng đều nằm trong một hệ thống khoa học thống nhất- đó là
khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao
động khỏi chế độ áp bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người. Hiểu được
các nội dung trong môn học cũng chính là hiểu được chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Tính thực tiễn: Môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin có nguồn gốc từ hiện thực khách quan, tức là từ thực tiễn và được áp
dụng vào trong thực tiễn. Chỉ khi được áp dụng trong thực tiễn thì chủ nghĩa
Mác- Lênin mới phát huy hết giá trị khoa học của nó.
2.2.2. Những yếu tố tác động đến quá trình vận dụng phương pháp cây
kiến thức vào giảng dạy môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin.

24



Khoa GDCT&TC – Đề tài NCKH cấp cơ sở năm học 2010-2011.
“Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-lênin”

- Giảng viên: Giáo viên phải được đào tạo để thích ứng với những thay
đổi về chức năng, nhiệm vụ rất đa dạng và phức tạp của mình, nhiệt tình với
công cuộc đổi mới giáo dục. Giáo viên vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu
rộng, có trình độ sư phạm lành nghề, biết ứng xử tinh tế, biết sử dụng các
công nghệ thông tin vào dạy học, biết định hướng phát triển của học sinh theo
mục tiêu giáo dục nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt
động nhận thức.
- Sinh viên: Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, sinh viên phải dần dần có
được những phẩm chất và năng lực thích ứng với phương pháp dạy học cây
kiến thức, giác ngộ mục đích học tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách
nhiệm về kết quả học tập của mình và kết quả chung của lớp, biết tự học và
tranh thủ học ở mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi cách, phát triển các loại hình tư
duy biện chứng, lôgíc, hình tượng, tư duy kĩ thuật, tư duy kinh tế…
- Chương trình và sách giáo khoa: Phải giảm bớt khối lượng kiến thức
nhồi nhét, tạo điều kiện cho thầy trò tổ chức những hoạt động học tập tích
cực; giảm bớt những thông tin buộc học sinh phải thừa nhận và ghi nhớ máy
móc, giảm bớt những câu hỏi tái hiện, tăng cường loại câu hỏi phát triển trí
thông minh; giảm bớt những kết luận áp đặt, tăng cường những gợi ý để học
sinh tự nghiên cứu phát triển bài học.
- Thiết bị dạy học: Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được
cho việc triển khai chương trình, sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho
việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực,
chủ động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này phương tiện thiết bị dạy học
phải tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên thực hiện các hoạt động độc lập
hoặc các hoạt động nhóm. Cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần hỗ trợ đắc
lực cho việc tổ chức dạy học được thay đổi dễ dàng, linh hoạt, phù hợp với

dạy học cá thể, dạy học hợp tác.
- Đổi mới đánh giá kết quả học tập của sinh viên: Đánh giá là một khâu
quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo dục. Đánh giá thường
nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và sẽ trở thành khởi
điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn, chất lượng
mới hơn trong cả một qúa trình giáo dục.

25


×