Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

loét do đè ép và các biện pháp phòng ngừa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.42 KB, 3 trang )

loét do đè ép và các biện pháp phòng ngừa
Trả lời
1. Nguyên nhân
- Đè ép (áp lực): Khi được phân bố không đều, áp lực có thể trở nên lớn hơn áp lực bình
thường ở mao mạch (32 mmHg). áp lực càng lớn, và thời gian càng lâu thì tình trạng loét
tì sẽ càng tiến triển. Bất kì vật cứng (như giường, ghế) đều tạo áp lực lên da. Khi người
bệnh nằm hay ngồi, trọng lực tăng lên trên các vùng xương nhô ra. Những người mà
không có cảm giác, sự đè nén bị tăng, hay không thể tự xoay trở (người bệnh liệt nửa
người hay hôn mê) có nguy cơ cao dẫn đến loét tì.
- Tình trạng tri giác: Khi người bệnh bị lơ mơ, hôn mê, hay sử dụng các loại thuốc làm
thay đổi quá trình nhận thức bình thường, họ không thể tự xoay trở. Do vậy, cần phải
được phòng ngừa loét. Những thay đổi về tình trạng tri giác cũng có thể góp phần làm
tiêu tiểu không tự chủ, và thiếu khả năng tự chăm sóc, điều này càng làm tăng nguy cơ
hình thành loét.
- Sự ẩm ướt: Sự ẩm ướt có thể làm cho da dễ bị tổn thương. Da sẽ trở nên mềm khi được
tắm rửa liên tục, làm tăng tính nhạy cảm của da với tổn thương và sự nhiễm trùng. Da
tiếp xúc liên tục với sự ẩm ướt sẽ dễ bị tổn thương. Đại tiện, tiểu tiện không tự chủ có thể
làm người bệnh nằm trên nước tiểu hay phân. Sự toát mồ hôi hay thiếu sự khô ráo sau khi
vệ sinh, đặc biệt trong các nếp gấp da, có thể tăng sự ẩm ướt và làm tăng sự phát triển của
vi nấm.
- Sự cọ xát, trầy xước: Sự cọ xát, trầy xước xảy ra khi hai bề mặt cọ vào nhau. Khi da cọ
xát vào một bề mặt cứng, như một cái giường nhăn nheo, có thể gây một vết trầy xước
nhỏ, làm tăng khả năng hình thành loét. Sự bôi trơn da và sự chăm sóc đầy đủ khi nâng
đỡ, di chuyển và giữ khô ráo da cho người bệnh có thể làm giới hạn tác nhân gây cọ xát.
- Dinh dưỡng và chuyển hóa: Tình trạng dinh dưỡng bị suy giảm làm tăng nguy cơ tiến
triển loét tì. ở những người bệnh mà tình trạng dinh dưỡng bị suy yếu, và các mao mạch
trở nên dễ vỡ và khi chúng vỡ thì lưu lượng máu đến da có thể bị suy giảm. Những người
bệnh bị suy dinh dưỡng protein huyết tương bị giảm, và chức năng miễn dịch cũng bị
giảm. Việc mất mô và khối cơ dưới da có thể tác động đến lớp bảo vệ giữa da và xương,
làm tăng nguy cơ hình thành vết loét.
- Nhiệt độ: cứ tăng nhiệt độ cơ thể lên 1 oC, chuyển hóa cơ bản tăng 10%, làm tăng nguy


cơ hoại tử do thiếu máu
- Tuổi tác: tần suất loét tăng theo tuổi
- Các yếu tố khác: phù, thiếu máu, rối loạn nội tiết như đái tháo đường, giảm tiết
adrenalin ở vỏ thượng thận, cường hoặc thiểu năng giáp trạng đều làm rối loạn chuyển
hóa tế bào, cản trở quá trình làm lành vết thương.
2. Các giai đoạn của loét: 4 giai đoạn
- Loét độ 1: vùng đỏ da không mất, kéo dài trên 30 phút. Vết loét hiện diện dưới dạng tử
ban trên vùng da nhô xương hay vùng bị đè. Hầu hết giai đoạn 1 của loét tì có thể mất đi
nếu không còn sự tì. Có thể khó nhận định giai đoạn 1 của loét tì đối với những người da
sậm màu.
- Loét độ 2: da nổi phỏng nước, mất lớp biểu bì và da. Vết loét trên bề mặt và hiện diện
như một vết trầy, hố nông, hay phồng giộp. Da có thể bị mất phần biểu bì, bì, hay cả phần
bì và u mỡ. Các vết phồng giộp da thường gây cảm giác đau.
- Loét độ 3: phá hủy tổ chức dưới da. Vết hoại tử xuất hiện dưới dạng toàn bộ bề dày của
da bị hoại tử có liên quan đến sự tổn thương hay mất mô dưới da, có thể mở rộng xuống


phía dưới nhưng không sâu đến phần cân. Trên lâm sàng, nó như một hố sâu có hiện diện
mô hoại tử. Loét giai đoạn 3 có thể cần đến nhiều tháng mới lành được.
- Loét độ 4: Phá hủy tổ chức sâu đến tận cân cơ, xương hoặc khớp. Vết loét giai đoạn 4
làm mất toàn bộ bề dày của da và có sự phá hủy rộng hơn, mô hoại tử, hay tổn thương
phần cơ, xương hay các cấu trúc nâng đỡ (gân hay bao khớp); nó có thể có sự ăn mòn,
hay các đường rò. Phải mất hàng tháng hay hàng năm vết loét giai đoạn 4 mới có thể
lành.
3. Các vị trí xảy ra loét
- Những vị trí xảy ra loét thường là các vị trí mà ở đó xương nhô ra chỉ có một lớp da
mỏng bao bọc. Những vị trí thường gặp là:
+ Xương cùng: vùng này dễ bị hoại tử khi bệnh nhân nằm ngửa 1 thời gian dài, vùng
tổn thương này sẽ rộng ra thêm vì có 1 vùng lướn xương cùng đè lên da
+ Vùng mấu chuyển lớn: thường xảy ra trên nhưng bệnh nhân nằm nghiêng 1 thời gian

lâu, chỗ loét sẽ tròn và nhỏ.
+ Vùng ụ ngồi: hoại tử xảy ra tại chỗ này khi bệnh nhân ngồi thời gian quá lâu
+ Xương gót chân: hoại tử ở vùng này gặp ở những bệnh nhân nằm ngửa với thời gian
dài.
+ Xương mắt cá: vùng này thường bị hoại tử khi bệnh nhân nằm nghiêng lâu
- Tiến triển da chỗ loét: trước hết da có màu đỏ và có thể phồng lên sau đó chuyển thành
màu sẫm, đen rồi cứng. Sau vài tuần chỗ da bị hoại tử bong dần để lại một lỗ sâu. Nếu
giải phóng đè ép thì chỗ loét đó sẽ lành dần, đóng vảy hình thành da mới. Nhưng nếu vẫn
tiếp tục bị đè ép thì loét ngày càng rộng.
4. Phòng ngừa loét
* Nguyên tắc: Phải thực hiện ba nguyên tắc sau để giúp máu dễ lưu thông:
- Giữ gìn da sạch và khô nhất là những vùng bị tỳ đè dễ có nguy cơ bị loét ép.
- Thường xuyên xoa bóp những vùng dễ bị loét ép.
- Thường xuyên thay đổi tư thế người bệnh, tối đa 2 giờ một lần.
4.1 Giữ gìn da khô sạch, phát hiện vùng dễ bị loét ép:
-

Hằng ngày quan sát vùng dễ bị loét ép.
Lau rửa bằng nước ấm những vùng bị ẩm ướt, vùng mông của những người đại, tiểu tiện
không tự chủ.
- Sau đó lau khô lại những vùng đó.
4.2 Thay đổi tư thế:
- Thay đổi tư thế người bệnh ít nhất là hai giờ một lần. Phải thay đổi càng nhiều vị trí càng
tốt,tuy nhiên khó thực hiện. Nằm sấp là một phương pháp có hiệu quả để giảm sức ép lên
khung xương của phần lưng, khi nằm sấp phải đảm bảo đường thông khí không bị cản trở
và nằm ở vị trí thoải mái. Ngồi cũng là phương pháp được áp dụng để thay đổi trọng
lượng và sức ép nếu người bệnh có thể ngồi được.
- Cho người bệnh nằm trên đệm nước là phương pháp tốt nhất hiện nay và đang áp dụng
rộng rãi để phòng chống loét. Khi người bệnh nằm trên đệm nước, sẽ không có vị trí nào
của cơ thể bị tì đè vào vật cứng, mà phân phối đều trên bề mặt của đệm nước nên tránh

được loét ép. Khi ta dùng tay ấn vào bất kỳ vị trí nào của đệm nước thì nước trong đệm sẽ
di chuyển mọi hướng làm cho người bệnh luôn ở tư thế vận động, có tác dụng như thay
đổi tư thế người bệnh.


-

Nếu không có đệm nước thì có thể dùng vòng hơi cao su. Đặt vòng hơi cao su dưới mông
của người bệnh. Lót gối ở vai nếu người bệnh nằm nghiêng. Đặt vòng bông ở những ụ
xương khác, như mắt cá, gót chân, …
- Ở tư thế đứng rất quan trọng nếu bệnh nhân không thể đứng một mình được, chúng ta có
thể dùng bàn nghiêng hoặc phương pháp khác cho bệnh nhân tập đứng.
4.3 Xoa bóp:
- Xoa bóp có tác dụng kích thích tuần hoàn có thể áp dụng ngay cả trường hợp trợt biểu bì
hoặc có hoại thư.
- Rửa sạch vùng định xoa bóp bằng xà phòng, lau khô sau đó xoa từ vùng có bắp cơ dày
đến vùng dễ bị loét ép.
- Xoa khoảng 15 phút mỗi ngày 1 đến 2 lần.
- Có thể kết hợp với tập cho người bệnh nhân cử động để tránh tư thế xấu cho người bệnh
về sau.
4.4. Tập vận động
- Tập chủ động (tự tập): áp dụng trong trường hợp sức cơ còn, bệnh nhân vận động chủ
động được
+ Ở BN yếu, cần tập bằng cách nghiêng bên này rồi đến bên kia, nằm ngửa, nằm sấp
hoặc ngồi dậy ở trên giường, ghế.
+ Khi sức mạnh cơ của người bệnh tăng lên thì tập chủ động càng gia tăng. Vì vậy phải
luôn nhắc nhở bệnh nhân phải chăm tập thường xuyên.
- Tập thụ động: tập có sự trợ giúp của gia đình, KTV, áp dụng đối với bệnh nhân không cử
động khớp xương được vì đau yếu, vì tê liệt, tập theo tầm vận động khớp.




×