Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và thực tiễn thi hành tại tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN BẢO NGỌC

ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƢỜI TIÊU DÙNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN BẢO NGỌC

ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƢỜI TIÊU DÙNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI TỈNH LẠNG SƠN


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN

HÀ NỘI - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
HỌC VIÊN

Trần Bảo Ngọc


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BVQLNTD : Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
NTD

: Người tiêu dùng

UBND


: Ủy ban nhân dân

VSATTP

: Vệ sinh an toàn thực phẩm


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG ............................................................. 6
1.1. Khái quát về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng................................. 6
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng ............................................................ 6
1.1.2. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và sự cần thiết phải bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng ................................................................................ 8
1.2. Khái quát về pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng ............... 9
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng ........................................................................................................... 9
1.2.2. Vai trò của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ............ 11
1.2.3. Nguồn của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ............ 13
Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 20
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI
TIÊU DÙNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH LẠNG SƠN ..... 22
2.1. Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng ................ 22
2.1.1. Các nguyên tắc trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .............. 23
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng .................................... 23
2.1.3. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh ......................... 25
2.1.4. Trách nhiệm của các tổ chức xã hội ........................................... 28
2.1.5. Trách nhiệm của Nhà nước......................................................... 29
2.1.6. Các hành vi bị cấm trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng ......................................................................................................................... 32
2.1.7. Giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng ................................ 33
2.1.8. Chế tài xử lý đối với vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng .............................................................................................. 36
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
tại tỉnh Lạng Sơn ........................................................................................... 40
2.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh lạng sơn có ảnh hưởng
đến thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ...............40


2.2.2. Thực trạng thực thi quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng .... 42
2.2.3. Thực trạng thực thi trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh
doanh .............................................................................................................. 45
2.2.4. Thực trạng thực thi trách nhiệm của các tổ chức xã hội .......... 51
2.2.5. Thực trạng giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng ............. 55
2.2.6. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng ......................................................................................................... 57
2.2.7. Đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng tại tỉnh Lạng Sơn ................................................................ 69
Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 74
Chƣơng 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN
LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH LẠNG SƠN ........... 76
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu
dùng ................................................................................................................ 76
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng tại Việt Nam nói chung và tại tỉnh Lạng
Sơn nói riêng .................................................................................................. 84
Kết luận Chƣơng 3 ........................................................................................ 88
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ quyền con người trong đó có quyền của người tiêu dùng là mục
tiêu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân ở nước ta. Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế thị trường càng
phát triển thì càng làm nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến người tiêu dùng.
Với chính sách hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế toàn cầu hóa thế giới, bên
cạnh việc tạo nhiều cơ hội trong tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ có
chất lượng và giá cả thích hợp, cũng đặt người tiêu dùng Việt Nam trước
nguy cơ mới. Thị trường ngày càng xuất hiện nhiều hành vi gây ảnh hưởng
đến quyền lợi của người tiêu dùng như buôn bán hàng giả, hàng nhái, hàng
kém chất lượng, sản xuất và kinh doanh thực phẩm không đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm. Hành vi xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng ngày càng
tinh vi và phức tạp, với phạm vi rộng không chỉ gây thiệt hại cho người tiêu
dùng, mà còn tác động tiêu cực đối với sự phát triển ổn định, bền vững của
nền kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, hiện nay bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
là vấn đề mang tính thời sự, nhận được nhiều sự quan tâm của xã hội.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, biên giới phía Bắc Việt Nam, có đường
biên giới tiếp giáp với Trung Quốc trên 231 km, có 02 cửa khẩu quốc tế, 01 cửa
khẩu chính, 08 cửa khẩu phụ, 01 điểm thông quan hàng hóa và rất nhiều đường
mòn, lối mở qua lại dọc theo biên giới của cư dân các địa phương hai nước. Cơ
sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu, trình độ sản xuất của Lạng Sơn so với
các tỉnh thành trong cả nước còn thấp kém nhiều mặt. Với xu thế hoà nhập
vào nền kinh tế khu vực và thế giới, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
chống buôn lậu và gian lận thương mại qua biên giới,... có ý nghĩa to lớn

không chỉ riêng đối với tỉnh Lạng Sơn, mà còn có ý nghĩa lớn đối với cả
nước.
Những hành vi nhập lậu hàng qua biên giới, gian lận trong nhập khẩu,
bán phá giá đã bóp nghẹt hàng sản xuất trong nước, làm cho hàng ngoại
chiếm lĩnh thị trường. Đối với sản xuất trong nước, những hành vi hàng giả,
hàng kém chất lượng, hàng thiếu định lượng, hàng giả nhãn mác các nhà sản


2

xuất có uy tín, trốn thuế trong sản xuất và tiêu thụ, quảng cáo không đúng
thực tế đánh lừa các cơ quan quản lý nhà nước và người tiêu dùng đang xuất
hiện ngày càng nhiều. Thực tế này đã và đang gây những hậu quả nghiêm
trọng, có thể làm chệch hướng chiến lược phát triển kinh tế, rối loạn thị
trường, đầu tư không có hiệu quả và có thể làm cho nhiều doanh nghiệp bị
phá sản. Người tiêu dùng dùng phải hàng giả, hàng kém chất lượng bị thiệt
hại nặng về kinh tế, thậm chí còn ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng, phá
vỡ kế hoạch phát triển kinh tế gia đình. Nguy hại hơn, buôn lậu và gian lận
thương mại còn làm mất công bằng xã hội, gia tăng tệ nạn xã hội, thất thu
ngân sách, có thể dẫn đến đất nước mất ổn định về chính trị, văn hoá - xã hội.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, với mong muốn góp phần đánh giá
đúng thực tiễn công tác thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
tại địa phương, từ đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tình hình hiện nay,
tôi đã chọn đề tài “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và thực tiễn
thi hành tại tỉnh Lạng Sơn” để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là một trong những nội
dung quan trọng trong pháp luật của nhiều quốc gia. Trên thế giới, pháp luật
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ra đời từ khá sớm nên đã có nhiều công

trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này. Tại Việt Nam, trong những năm gần
đây, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được quan tâm rộng rãi nên đã
có những công trình khoa học, đề tài các cấp, luận án, luận văn, các bài viết
tạp chí có nội dung liên quan đến nội dung này, như: “Pháp luật bảo vệ người
tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ luật học của Bùi Thị Long,
năm 2007; “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở việt
nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ luật học của Nguyễn Thị Thư, Học viện Khoa
học xã hội năm 2013; “Trách nhiệm của thương nhân trong việc bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ luật học
của Nguyễn Thị Thu Hiền, năm 2014; “Thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng của hệ thống các cơ quan nhà nước tại Việt Nam”, Luận văn


3

Thạc sĩ luật học của Nguyễn Hoàng Mỹ Linh, năm 2014; "Nhận diện thiết chế
thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và vai trò của những thiết
chế này trong việc bảo vệ người tiêu dùng" của tác giả Nguyễn Văn Cương,
Chuyên đề Đề tài cấp Bộ, Viện Khoa học Pháp lý, Hà Nội, 2014; “Luật Bảo
vệ người tiêu dùng trong hệ thống pháp luật ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Như Phát, Kỷ yếu Hội thảo Pháp ngữ khu vực: "Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng: Từ hai góc nhìn Á - Âu", Hà Nội, 2010, tr. 10-18; “Trách nhiệm sản
phẩm và việc bảo vệ người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam” của tác giả
Lê Hồng Hạnh; Kỷ yếu Hội thảo Pháp ngữ khu vực “Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng: Từ hai góc nhìn Á - Âu”, Hà Nội, 2010, tr. 72-92; Ngô Vĩnh Bạch
Dương, “Các tiêu chí xác định năng lực của các thiết chế thực thi pháp luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực của
các thiết chế đó”, Chuyên đề Đề tài cấp Bộ, Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư
pháp, năm 2014… Ngoài ra, còn có các bài viết như: “Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong pháp luật cạnh tranh” của ThS. Ngô Vĩnh Bạch Dương, Tạp

chí Nhà nước và Pháp luật; “Pháp luật và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng” của TS. Đặng Vũ Huân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11/2000.
Năm 2007, tác giả Đào Tuyết Vân đã có công trình nghiên cứu: “Pháp luật
quảng cáo với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”; “Hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, của Đinh Thị
Hồng Trang, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 273, năm 2014; “Bồi thường
thiệt hại trong pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” của Nguyễn Trọng
Điệp, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Số 2, năm 2013, tr. 44 – 49;
“Phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân ở
Việt Nam hiện nay” - Hiện thực và triển vọng”, của Bùi Nguyên Khánh, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật (Số 11), năm 2013, tr. 44-52…
Tuy nhiên, việc đề cập vấn đề thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Lạng Sơn - một tỉnh miền núi biên giới
phía Bắc của nước ta thì đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên ở
trình độ thạc sĩ luật học.


4

3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp
luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và góc nhìn từ thực tiễn thi hành tại tỉnh
Lạng Sơn.
Công tác thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là lĩnh
vực rất rộng và phức tạp, có thể được phân tích ở nhiều mức độ, nhiều góc độ
khác nhau. Tuy nhiên, với phạm vi một luận văn thạc sĩ và khả năng của học
viên không thể bao quát và nghiên cứu sâu sắc hết được các vấn đề liên quan. Vì
vậy, tác giả xin tập trung khảo sát, phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành pháp
luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2012 2016.
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn đặt ra là trên cơ sở những vấn đề lý
luận về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam, đánh giá thực
tiễn thi hành pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại tỉnh Lạng Sơn, từ
đó, đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giai đoạn hiện
nay.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nói trên, luận văn đặt ra các nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ vấn đề lý luận về người tiêu dùng, sự cần thiết
phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và tổng quan về pháp luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng (bao gồm khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật).
Thứ hai, trên cơ sở những vấn đề lý luận chung, luận văn tập trung
phân tích, đánh giá, nhận xét về thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng tại tỉnh Lạng Sơn, nêu rõ những thành tựu, những hạn chế,
bất cập và nguyên nhân của những bất cập đó dựa trên tình hình thực tế của
địa phương.
Thứ ba, đề xuất được các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật,
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng từ thực
tiễn tỉnh Lạng Sơn.


5

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về thực hiện quyền con người nói chung
và quyền của NTD nói riêng.
Để giải quyết các vấn đề nghiên cứu cụ thể, luận văn có sử dụng một số

phương pháp nghiên cứu khoa học như: Phương pháp lịch sử, phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, thống kê, số liệu hóa và đặc biệt là phương
pháp so sánh luật học kết hợp với vận dụng lý luận để làm sáng tỏ vấn đề
nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Về mặt khoa học: Luận văn đã khái quát được một cách khá tổng quan
về bảo vệ người tiêu dùng và pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn đã phác họa được khá tổng thể về thực
trạng thi hành pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hiện nay tại tỉnh Lạng
Sơn - một tỉnh miền núi biên giới phía Bắc, có vị trí địa lý đặc biệt, công tác bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng còn gặp nhiều khó khăn. Luận văn cũng có thể
được sử dụng là tài liệu tham khảo bổ ích cho các cấp ủy, chính quyền, các đơn
vị chức năng tại địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng kế hoạch và tổ
chức thực hiện các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên địa bàn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được bố cục gồm ba chương như sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng.
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và
thực tiễn thi hành tại tỉnh Lạng Sơn.
Chƣơng 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng từ thực tiễn thi hành tại
tỉnh Lạng Sơn.


6

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ

QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
1.1. Khái quát về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
Người tiêu dùng (consumer) là khái niệm rộng được hiểu dưới nhiều
góc độ khác nhau. Dưới góc độ kinh tế, NTD là phạm trù chỉ những chủ thể
tiêu thụ của cải được tạo ra bởi nền kinh tế. NTD là người mua nhưng khác
với mua nguyên liệu (materials) hoặc mua hàng để bán lại, họ là những người
sử dụng hàng hóa, dịch vụ cuối cùng (consumer goods/services hoặc final
goods/services) và làm chúng tiêu hao hoặc biến mất qua việc sử dụng đó1.
Có thể nói, trong mọi nền sản xuất của tất cả các quốc gia, NTD là đối tượng
được hướng tới của mọi doanh nghiệp. NTD quyết định nhóm ngành, hàng
được sản xuất, định hướng đầu tư và phát triển cho các doanh nghiệp trong thị
trường. Dưới góc độ pháp lý, NTD là đối tượng được bảo vệ theo pháp luật về
BVQLNTD.
NTD là khái niệm cơ bản và rất quan trọng, là chủ thể của quan hệ
pháp luật BVQLNTD, là đối tượng trọng tâm được bảo vệ của pháp luật
BVQLNTD, vì vậy, nội hàm của khái niệm này cần được xác định một cách
rõ ràng, chính xác làm cơ sở cho việc quy định các nội dung liên quan khác
trong pháp luật BVQLNTD. Đặc biệt, xuất phát từ đặc điểm của pháp luật
BVQLNTD là thiết lập các ngoại lệ so với những nguyên tắc dân luật truyền
thống nhằm khắc phục những bất lợi của NTD trong quan hệ với nhà cung
cấp hàng hóa, dịch vụ, tạo sự công bằng và bảo vệ kẻ yếu. Chính vì vậy, NTD
là kẻ yếu, cần được pháp luật bảo vệ.
Xuất phát từ yêu cầu nói trên, việc xác định các đối tượng nào được gọi
là NTD là một vấn đề hết sức quan trọng, tránh sự lạm dụng của những kẻ
“không yếu” giành lợi thế bất chính với bên kia dưới danh nghĩa NTD. Hơn
1

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, tr.7.



7

nữa, điều này làm mất ý nghĩa cũng như lãng phí nguồn lực cho chính sách
bảo vệ NTD của Nhà nước ta2, tránh sự can thiệp quá sâu và không cần thiết
của nhà nước vào các quan hệ dân sự. Ngoài ra, việc xác định nội hàm NTD
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc xác định đối tượng và phạm vi điều
chỉnh của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Hàng hóa, dịch vụ đến
được tay NTD luôn được thực hiện thông qua các hợp đồng một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp. Họ có thể được tổ chức cấp phát sau khi tổ chức đó đã kí hợp
đồng với nhà cung cấp (ví dụ: Doanh nghiệp mua nước uống phục vụ cho
công nhân của họ); có thể được tặng cho bởi người khác hoặc bởi chính nhà
cung cấp; cũng có thể mua trực tiếp từ nhà cung cấp. Trong tất cả những
trường hợp này, NTD được bảo vệ với tư cách là một bên trong quan hệ hợp
đồng dân sự hoặc lao động.
Xác định đối tượng được bảo vệ theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng không chỉ là vấn đề lý luận, mà còn có ý nghĩa quan trọng trong thực
tiễn áp dụng pháp luật bởi NTD được hưởng sự ưu tiên hơn so với những chủ
thể luật dân sự khác trong các giao dịch cũng như trong giải quyết tranh chấp.
Chính bởi sự ưu tiên này, nhằm đảm bảo hiệu quả điều chỉnh và tính công
bằng trong áp dụng các ưu đãi, pháp luật không thể sử dụng nguyên vẹn khái
niệm NTD trong kinh tế học hoặc với tính cách là người mua hàng hóa, dịch
vụ trong luật dân sự mà cần được phân biệt. NTD không thể là đối tượng
chung chung mà luôn là các chủ thể cụ thể. Thông thường, pháp luật bảo vệ
NTD các nước giới hạn NTD là các cá nhân mua hàng hóa, dịch vụ không
nhằm mục đích hoạt động kinh doanh, thương mại hoặc hoạt động nghề
nghiệp chuyên nghiệp. Ở Việt Nam, khái niệm NTD đã được thừa nhận trong
Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 và Luật Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng năm 2010. Hai văn bản quy phạm pháp luật này đều quy

định: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục
đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”3. Tuy vậy, định nghĩa
về NTD quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
2

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dung, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội, tr.14
3
Khoản 1, Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010


8

năm 2010 lại đưa thêm “mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của.... tổ chức” là chưa
được rõ ràng. Bởi lẽ, hoạt động tiêu dùng, sinh hoạt của tổ chức không thể xác
định được.
1.1.2. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và sự cần thiết phải bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng
NTD là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, là động lực thúc đẩy
việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Tiêu dùng là một khâu của quá trình tái
sản xuất, có tiêu dùng mới có sản xuất, hoạt động tiêu dùng của NTD là mục
đích cuối cùng của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
Chính vì vậy, quyết định tiêu dùng của NTD ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ được cung ứng trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, NTD quyết định hàng hóa, dịch vụ mà tổ
chức, cá nhân sẽ sản xuất, kinh doanh vì NTD góp phần quyết định giá cả, số
lượng, chất lượng hàng hoá. Có thể nói, NTD có ảnh hưởng lớn đến những
quyết sách về kinh tế, dù là của khu vực nhà nước hay của khu vực tư nhân,
NTD tạo ra nền kinh tế thị trường và quyết định sự phát triển của nó. Tuy
nhiên, đây là mối quan hệ hai mặt của một vấn đề, nên NTD cũng bị ảnh

hưởng theo hai chiều tích cực và tiêu cực từ nền kinh tế thị trường. Ngoài ra,
NTD quyết định “số phận” của doanh nghiệp bằng “lá phiếu” đồng tiền của
mình4; NTD là mục tiêu phấn đấu của các doanh nghiệp trong cạnh tranh. Bởi
lẽ, việc giành giật thị trường trong đó có bao hàm cả giành giật NTD. Theo
nghĩa đó, NTD là một trong những yếu tố thúc đẩy phát triển sản xuất, phát
triển kinh tế. Vì vậy, chính sách kinh tế vĩ mô của các quốc gia khi khuyến
khích phát triển và tăng trưởng kinh tế thường bao hàm cả chính sách kích
cầu, tăng “cường độ” và mức độ tiêu dùng trong dân chúng tức là tăng tính
cách và chức năng “người tiêu dùng” trong xã hội.

4

Nguyễn Như Phát (2010), Một số vấn đề lý luận xung quanh Luật bảo vệ quyền lợi NTD, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật , tháng 2/2010;


9

NTD, theo định nghĩa, là tất cả chúng ta5, đó là những con người. Là
trung tâm của những mối quan tâm về sự phát triển toàn diện và lâu dài, con
người có quyền được hưởng một cuộc sống hạnh phúc và lành mạnh, có
quyền được hưởng các sản phẩm an toàn, phù hợp với khả năng và nhu cầu
của mình. Trong xã hội công nghiệp và nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa
như hiện nay, NTD được sử dụng những hàng hoá, dịch vụ tinh vi, hiện đại
nhưng cũng phức tạp hơn. Nhưng nếu chỉ với kinh nghiệm và sự cảm nhận
không thông qua sự trợ giúp của các phương tiện kỹ thuật, NTD tự mình khó
có thể đánh giá đúng được giá trị, chất lượng, xuất xứ của hàng hóa, dịch vụ,
khó nhận biết, phát hiện được những khuyết tật của chúng. Thiết lập cơ chế
bảo đảm sự an toàn đối với NTD trong việc thực tế sử dụng hàng hóa, dịch vụ
cũng như trong tâm lý của họ là nhiệm vụ quan trọng của các quốc gia hiện

đại trong việc bảo vệ và phát triển các giá trị nhân quyền, nhân văn.
Để phát triển kinh tế bền vững, bất kì Nhà nước nào cũng đều phải
quan tâm bảo vệ các thành tố thị trường và NTD là nhân vật trung tâm. Bên
cạnh những hỗ trợ mang tính kĩ thuật như hướng dẫn, đào tạo, tuyên truyền,
cần thiết có một công cụ mạnh hơn đó là chính sách bảo vệ NTD để bảo đảm
cho NTD có thể dựa vào đó để tự mình bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ
trước những vi phạm, lạm dụng của các doanh nghiệp
1.2. Khái quát về pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng
1.2.1.1. Khái niệm
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành (hoặc
thừa nhận) và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã
hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định
trong xã hội. Vì vậy, pháp luật BVQLNTD là tổng hợp các biện pháp được
Nhà nước quy định và đảm bảo thực hiện để bảo đảm quyền lợi của NTD khi
5

John F. Kenedy (2005) "Special message to the Congress on Protection Consumer Interest", in trong tuyển
tập "Public Papers of the Presidents of the United States" Office of the Federal Register, National Archives
and Records Administration, USA 2005, trích trong tài liệu: “Nguyễn Thị Thư (2013), Hoàn thiện pháp luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dung ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội,
Hà Nội, tr. 38.


10

sử dụng dịch vụ hàng hoá; ngăn chặn những nhà sản xuất có hành vi gian lận,
lừa dối để thu lợi bất chính. Nói cách khác, bảo vệ NTD là ghi nhận và làm
cho các lợi ích chính đáng của NTD được thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên

trong số các công cụ chủ yếu Nhà nước sử dụng để BVQLNTD thì pháp luật
là công cụ hữu hiệu hơn cả vì nó là phương thức thực hiện hoá các công cụ
BVQLNTD khác trong điều kiện Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đều coi luật pháp là một trong
những phương tiện chủ yếu bảo vệ NTD, là một hệ thống các quy tắc xử sự
liên quan đến nhiều mặt như quan hệ xã hội dân sự, kinh tế, hành chính, hình
sự, trình tự tố tụng có liên quan đến đời sống tiêu dùng của cá nhân. Vì thế,
yêu cầu BVQLNTD là trách nhiệm chung của toàn xã hội với sự phối hợp của
nhiều biện pháp, mà chủ yếu trong đó là biện pháp pháp luật. Như vậy, pháp
luật BVQLNTD là biện pháp bảo vệ NTD bằng pháp lý thông qua việc Nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm thực
hiện các mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTD từ giai đoạn tìm
kiếm, mua hàng hoá, dịch vụ trên thị trường đến giai đoạn tiêu dùng sản phẩm
cũng như hậu quả phát sinh (nếu có).
Từ các phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm: “Pháp luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng là hệ thống các nguyên tắc và các quy phạm pháp
luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”.
1.2.1.2. Đặc điểm
Đặc điểm của pháp luật BVQLNTD được thể hiện như sau:
Thứ nhất, áp đặt những điều kiện bắt buộc thương nhân phải tuân thủ
để khắc phục những bất lợi của NTD trong quan hệ với nhà cung cấp hàng
hóa dịch vụ. Cụ thể, pháp luật BVQLNTD tập trung quy định các vấn đề kiểm
soát điều kiện giao dịch chung; cấm các điều khoản không công bằng; trình tự
thực hiện giao dịch từ xa, giao dịch điện tử. Việc can thiệp này làm cho
nguyên tắc tự do khế ước chỉ còn có ý nghĩa tương đối trong các giao dịch
giữa NTD và thương nhân.


11


Thứ hai, xác định trách nhiệm sản phẩm một cách nghiêm khắc và mở
rộng về chủ thể chịu trách nhiệm. Theo đó những người chịu trách nhiệm đối
vối khuyết tật của sản phẩm tiêu dùng có thể không phải là người gây ra
khuyết tật đó nhưng có tham gia vào chuỗi hoạt động đưa sản phẩm đến tay
NTD. Hầu hết các nước trên thế giới đều có luật trách nhiệm sản phẩm nằm
trong hoặc độc lập với luật bảo vệ người tiêu dùng. Chẳng hạn ở Thái Lan,
Luật trách nhiệm sản phẩm được ban hành 2008 trong khi Luật bảo vệ người
tiêu dùng của họ có từ năm 1979. Ở Anh, luật trách nhiệm sản phẩm được biết
đến sớm hơn luật bảo vệ người tiêu dùng. Án lệ Donoghue kiện Stevennson
năm 1932 được coi là mốc quan trọng của quy định về trách nhiệm sản phẩm
thì tới tận những năm 1970, họ mới có các quy định riêng về bảo vệ người
tiêu dùng như Sale of Goods Act 1979 (luật bán hàng), Unfair Contract Terms
Act 1977 (Luật về các điều khoản không công bằng) và đến Consumer
Protection Act 1987 (Luật bảo vệ người tiêu dùng) thì trách nhiệm sản phẩm
được quy định chung với luật bảo vệ người tiêu dùng theo hướng dẫn của chỉ
thị 85/374/EEC năm 1985 của Hội đồng Châu Âu về trách nhiệm sản phẩm.
Ở Việt Nam, quy định về trách nhiệm sản phẩm được quy định trong Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.
Thứ ba, thiết lập những ngoại lệ so với những nguyên tắc tố tụng dân
sự truyền thống nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho NTD tham gia giải quyết
tranh chấp liên quan đến việc quyền lợi của mình bị vi phạm. Đây là những
ngoại lệ về điều kiện hình thức khi khởi kiện hoặc giảm nhẹ nghĩa vụ chứng
minh. Chẳng hạn như khởi kiện tập thể (class action ở Hoa Kỳ, Sammelklage
ở Đức) hoặc đảo nghĩa vụ chứng minh (Beweislastumkehr – Đức). Theo Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 của Việt Nam, NTD cũng được
giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh, họ chỉ phải chứng minh sự thiệt hại còn nhà
cung cấp hàng hóa, dịch vụ sẽ phải chứng minh về việc không tồn tại mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ với
những thiệt hại của NTD hay chứng minh mình không có lỗi.

1.2.2. Vai trò của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Pháp luật BVQLNTD là một dạng pháp luật “phi truyền thống” và có


12

nhiều đặc điểm riêng biệt, xuất phát từ tính đặc thù về tính chất và đặc điểm
của quan hệ tiêu dùng. Hiểu theo nghĩa rộng nhất thì để bảo vệ NTD, người ta
cần phải “huy động” đến tất cả hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, với tính cách là
một chế định khá độc lập, pháp luật BVQLNTD là loại pháp luật mang tính
can thiệp vào quyền tự do (do không nhận thức được quy luật) của các nhà
cung cấp sản phẩm, hàng hóa dịch vụ và như thế, không có sự tự do và bình
đẳng trong quan hệ pháp luật về bảo vệ NTD. Cũng cần lưu ý rằng, các lĩnh
vực pháp luật khác như pháp luật cạnh tranh, pháp luật về vệ sinh, an toàn
thực phẩm, pháp luật về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng sản phẩm và rộng ra
là cả pháp luật dân sự, hình sự đều có thêm mục đích là bảo vệ NTD. Tuy
nhiên, nếu như những pháp luật này BVQLNTD theo phương pháp can thiệp
vào hành vi của nhà sản xuất, kinh doanh, cung cấp sản phẩm hàng hóa dịch
vụ thông qua những hạn chế hoặc cấm đoán hành vi thì pháp luật BVQLNTD
(với tính cách là một chế định pháp luật độc lập) lại xuất hiện ở phía NTD.
Theo đó, pháp luật BVQLNTD sẽ tạo cho NTD những khả năng và cơ hội
thuận lợi hơn trong cơ chế điều chỉnh pháp luật quan hệ mua bán (theo luật
dân sự) mà một chủ thể pháp luật dân sự thông thường sẽ không có được.
Trong hệ thống pháp luật BVQLNTD thì Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng có vai trò quan trọng đặc biệt. Hiện nay, để xây dựng hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật BVQLNTD nói riêng có ba mô hình chủ đạo mà
thông qua đó Nhà nước có thể can thiệp để bảo vệ quyền lợi của NTD: (i)
Xây dựng một hệ thống các quy phạm trong đó quy định trách nhiệm pháp lý
của các bên đối với thiệt hại sau khi đã xảy ra vi phạm; (ii) Xây dựng một hệ
thống các tiêu chuẩn pháp lý cần đạt được để điều chỉnh, ngăn chặn trước các

hành vi vi phạm, phòng ngừa thiệt hại, giảm thiểu vi phạm; (iii) Xây dựng
một hệ thống pháp lý bao gồm các quy phạm pháp luật mang tính tiêu chuẩn
nhằm ngăn chặn, phòng ngừa và cả các quy phạm quy định trách nhiệm pháp
lý đối với thiệt hại sau khi xảy ra hành vi vi phạm.
Nhìn chung, mô hình (i) và (ii) đều có những nhược điểm nhất định.
Với mô hình (i) khả năng phòng ngừa các hành vi vi phạm không cao, hậu
quả của hành vi vi phạm rất lớn, gây tốn kém và thiệt hại nặng nề cho xã hội.


13

Đặc biệt là các bên liên quan có thể không đủ khả năng bồi thường thiệt hại,
hoặc cơ quan phân xử không thể buộc tội họ do bằng chứng không thuyết
phục hoặc các thủ tục pháp lý phức tạp. Trái lại, với mô hình (ii) cần phải quy
định hệ thống tiêu chuẩn và đảm bảo thực thi. Nhưng khó có thể làm được
điều này, do các cơ quan chức năng không có đủ thông tin về các hành vi vi
phạm quy định của các doanh nghiệp, cũng như chi phí thực thi cao, v.v.. Tuy
nhiên, nếu sử dụng mô hình (iii) có thể kết hợp được ưu điểm và khắc phục
nhược điểm của mô hình (i) và (ii), hệ thống pháp lý này bảo vệ NTD tối ưu
hơn, có tính chất phòng ngừa các hành vi vi phạm và giảm thiểu tối đa nguy
cơ thiệt hại cho NTD, đồng thời bù đắp được lợi ích đã mất của NTD.
1.2.3. Nguồn của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Pháp luật về BVQLNTD xuất hiện khá muộn ở Việt Nam do chúng ta
triển khai xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tương đối muộn.
Từ năm 1986, Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa, xóa bỏ bao
cấp và từng bước chuyển dịch sang nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự thay
đổi này đã khuyến khích các thành phần kinh tế tự chủ trong sản xuất, kinh
doanh được mở rộng và đa dạng hóa các loại hàng hóa, dịch vụ, hội nhập kinh
tế thế giới… đã tạo cho người mua có điều kiện tốt hơn trong việc lựa chọn,

mua và sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Sự xuất hiện nền kinh tế thị trường, sự
phát triển của sản xuất công nghiệp đại trà là điều kiện để các điều kiện
thương mại chung hình thành, đặt người mua hàng hoá, dịch vụ (chủ yếu là
NTD) vào vị trí yếu thế. Chính vì vậy, sự xuất hiện các quy định pháp luật về
BVQLNTD là tất yếu khách quan. Có thể nhận thấy, các quy định của pháp
luật về BVQLNTD được thể hiện ở nhiều văn bản khác nhau, bao gồm:
- Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: Nhận thấy hệ thống văn bản
pháp luật về BVQLNTD và những văn bản pháp luật khác có liên quan như
Luật Đo lường, Bộ luật Hình sự, Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật Bảo vệ
môi trường, Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại… Mặc dù có quy định để
BVQLNTD nhưng chưa có cơ chế cụ thể để thực thi các quyền đó nên từ năm
1999, Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã ra đời đánh dấu bước


14

phát triển mới trong việc thiết lập và hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo hành
lang pháp lý quan trọng đối với hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực
bảo vệ NTD. Pháp lệnh dành 4 điều (từ Điều 8 đến Điều 11) quy định các
quyền cụ thể của NTD, như: quyền lựa chọn hàng hoá, dịch vụ; được cung
cấp các thông tin trung thực về chất lượng, giá cả, phương pháp sử dụng hàng
hoá, dịch vụ; được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ và môi trường khi
sử dụng hàng hoá, dịch vụ; được hướng dẫn những hiểu biết cần thiết về tiêu
dùng; đòi bồi hoàn, bồi thường thiệt hại khi hàng hoá, dịch vụ không đúng
tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đã công bố hoặc hợp đồng đã giao
kết; khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật đối với việc sản
xuất, kinh doanh hàng cấm, hàng giả, hàng hoá, dịch vụ không đúng tiêu
chuẩn, chất lượng, số lượng và việc thông tin, quảng cáo sai sự thật... Để
hướng dẫn Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Chính phủ ban hành
Nghị định số 69/2001/NĐ-CP ngày 02/10/2001 để quy định chi tiết thi hành

Pháp lệnh BVQLNTD. Theo quy định của Nghị định này các tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm (Điều 4): Bảo đảm
cung cấp hàng hóa, dịch vụ để NTD tự do lựa chọn; tạo điều kiện để NTD
thực hiện việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ với chất lượng đảm bảo, giá cả
phù hợp và có các biện pháp bảo hành, sửa chữa theo quy định; công bố tiêu
chuẩn chất lượng và bảo đảm đúng tiêu chuẩn, chất lượng đã công bố đối với
hàng hóa thuộc danh mục phải công bố phù hợp tiêu chuẩn (thực hiện quy
định về ghi nhãn hàng hóa, kiểm tra vệ sinh an toàn, chất lượng; cân đong, đo
đếm chính xác); cung cấp các thông tin chính xác, trung thực về xuất xứ, nhãn
hiệu hàng hóa, nơi sản xuất, công dụng, đặc tính, tiêu chuẩn, cấp hàng, các
thành phần chính, ngày sản xuất, chứng chỉ đã được kiểm tra, kiểm soát về
chất lượng; hướng dẫn sử dụng, bảo quản hàng hóa; niêm yết giá...; cung cấp
hàng hóa, dịch vụ đảm bảo an toàn, không gây ảnh hướng xấu đến môi
trường, sức khỏe của NTD (đối với hàng hóa, dịch vụ khi sử dụng có thể gây
tác hại về sức khỏe, ảnh hưởng xấu đến môi trường thì tổ chức, cá nhân sản
xuất phải cảnh báo trước cho NTD và các biện pháp phòng tránh tác hại có
thể xảy ra).


15

Sau 7 năm thực hiện Nghị định số 69/2001/NĐ-CP, tình hình kinh tế,
xã hội đã có nhiều thay đổi, đặc biệt Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ ngày 11/01/2007,
NTD có cơ hội được sử dụng nhiều hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từ nước
ngoài vào, có quyền được tự do lựa chọn hàng hóa, lựa chọn dịch vụ phù hợp
với nhu cầu chất lượng và đáp ứng điều kiện kinh tế của mình. Tuy nhiên,
NTD cũng phải đối mặt với hiện tượng hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất
lượng, nhiễu loạn thông tin, tăng giá bất hợp lý... diễn ra rất nhanh và ngày
càng phổ biến trên thị trường. Do vậy, ngày 24/4/2008, Chính phủ đã ban

hành Nghị định số 55/2008/NĐ-CP thay thế cho Nghị định số 69/2001/NĐCP đã không còn phù hợp trong tình hình mới hội nhập WTO. Nghị định số
55/2008/NĐ-CP quy định ba nguyên tắc cơ bản trong hoạt động BVQLNTD
phải đảm bảo là: (i) Mọi quyền và lợi ích hợp pháp của NTD đều phải được
tôn trọng và bảo vệ theo quy định của pháp luật; (ii) Mọi hành vi vi phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của NTD phải được xử lý kịp thời và nghiêm minh,
nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật; (iii)
BVQLNTD là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Mặc dù hệ thống pháp luật
về BVQLNTD đã có những bước phát triển đáng kể nhưng đối với các hợp
đồng giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với NTD do tổ chức, cá nhân kinh
doanh đơn phương soạn thảo, gây bất lợi cho NTD nhưng chưa có các quy
định điều chỉnh nhằm hạn chế vị trí yếu thế của NTD khi giao kết hợp đồng
với tổ chức, cá nhân kinh doanh. Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 1999 cũng như Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh lại chưa đề cập,
chưa có những quy định cụ thể điều chỉnh vấn đề này. Khắc phục điều đó,
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 đã quy định khá đầy đủ việc
đăng ký hợp đồng theo mẫu đối với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu do Thủ
tướng Chính phủ ban hành theo từng thời kỳ. Quy định này không chỉ giúp
bảo vệ NTD trong quá trình mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phục vụ
cuộc sống hàng ngày mà còn giúp cơ quan nhà nước về BVQLNTD. Có thể
khẳng định, chỉ cho đến khi Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010
và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này ra đời thì pháp luật về điều kiện


16

thương mại chung trong lĩnh vực tiêu dùng mới thực sự được đề cập một cách
rõ nét, đã tạo ra công cụ pháp lý đồng bộ để góp phần hạn chế việc lạm dụng
các điều kiện thương mại chung ảnh hưởng đến quyền lợi của NTD.
- Bộ luật Dân sự: Bộ luật Dân sự quy định khi thực hiện nghĩa vụ dân
sự, các bên trong quan hệ dân sự phải thực hiện nguyên tắc: “ Cá nhân, pháp

nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một
cách thiện chí, trung thực. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 3). Trong quan hệ giữa nhà
sản xuất, cung cấp dịch vụ với người mua phải thực hiện nghĩa vụ của mình
dựa trên những nguyên tắc trên. Người bán phải nói rõ cho người mua biết về
đặc tính, công dụng của sản phẩm, dịch vụ; không được che dấu khuyết điểm
của hàng hóa, tác dụng phụ xảy ra khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ; nếu người
bán che giấu khuyết tật của hàng hóa, cung cấp sản phẩm không đảm bảo chất
lượng, gian dối trong cân, đong, đo, đếm... nhằm mục đích tư lợi mà gây thiệt
hại cho người mua thì phải bồi thường. Đặc biệt là các quy định về hợp đồng
mua bán tài sản, bên bán phải chịu trách nhiệm giao sản phẩm đúng đối
tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại. Ngoài ra, bên bán còn phải thực hiện
các nghĩa vụ như: Cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng; đảm bảo
quyền sở hữu của bên mua đối với tài sản mua; bảo hành đối với tài sản đã
bán trong một thời gian nhất định… Cá nhân, pháp nhân, chủ thể sản xuất,
kinh doanh không bảo đảm chất lượng hàng hoá mà gây thiệt hại cho người
mua thì phải bồi thường theo quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt
hại do vi phạm quyền lợi của người mua. Bộ luật Dân sự cũng có những quy
định về hợp đồng theo mẫu, theo đó quy định việc giải thích hợp đồng theo
hướng bất lợi cho bên được soạn thảo hợp đồng đối với những điều khoản
không rõ ràng và không công nhận các điều khoản hợp đồng loại trừ trách
nhiệm của bên soạn thảo.
- Luật Cạnh tranh: Luật Cạnh tranh cũng là một công cụ pháp lý quan
trọng để bảo vệ NTD. Một trong những mục tiêu quan trọng của Luật Cạnh
tranh là chống lại các tác động tiêu cực của các hành vi hạn chế cạnh tranh và


17


cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường làm phương hại tới quyền và lợi
ích chính đáng, hợp pháp của doanh nghiệp và NTD. Cụ thể các doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường bị cấm: “Áp đặt giá mua,
giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây
thiệt hại cho khách hàng; hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới
hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho
khách hàng” hoặc “áp đặt các điều kiện bất lợi cho khách hàng; lợi dụng vị trí
độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà
không có lý do chính đáng”.
- Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá: Luật Chất lượng sản phẩm
hàng hóa được ban hành nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, sức
cạnh tranh của nền kinh tế, đảm bảo chất lượng hàng hóa xuất khẩu và kiểm
soát chất lượng cũng như độ an toàn đối với hàng hóa nhập khẩu, tăng cường
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của NTD, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước. Nhằm đảm
bảo an toàn sản phẩm, hàng hóa, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa quy
định 13 nhóm hành vi bị nghiêm cấm để BVQLNTD và quy định cụ thể về
nghĩa vụ của người sản xuất, người nhập khẩu, người bán hàng như: Thể hiện
các thông tin về chất lượng trên nhãn hàng hóa, bao bì, trong tài liệu kèm theo
hàng hóa theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa; thông tin trung thực
về chất lượng sản phẩm, hàng hoá; cảnh báo về khả năng gây mất an toàn của
sản phẩm và cách phòng ngừa; thông báo yêu cầu về vận chuyển, lưu giữ, bảo
quản, sử dụng sản phẩm, hàng hóa; cung cấp thông tin về bảo hành, vận chuyển,
bảo quản, sử dụng hàng hoá cho NTD; thu hồi, xử lý sản phẩm, hàng hóa
không bảo đảm chất lượng; bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật…
- Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật: Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ
thuật là công cụ và phương tiện quan trọng để duy trì các chuẩn mực trong
quan hệ kinh tế, thương mại; nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản
phẩm, hàng hóa, dịch vụ; đảm bảo an toàn, vệ sinh, sức khoẻ cho con người;
bảo vệ động vật, thực vật và môi trường. Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ

thuật quy định đối tượng của hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và quy


18

chuẩn kỹ thuật là sản phẩm, hàng hóa; dịch vụ, quá trình; môi trường và đối
tượng khác. Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật phải đáp ứng yêu cầu về an
toàn, an ninh quốc gia, vệ sinh, sức khỏe con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên có liên quan, bảo vệ động thực vật, môi trường và sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
- Luật Đo lường: Luật Đo lường được ban hành nhằm đảm bảo việc
đo lường được thống nhất, chính xác; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
NTD. Luật quy định cụ thể về hệ thống chuẩn đo lường quốc gia, chuẩn đo
lường chính, chuẩn đo lường công tác và yêu cầu cơ bản đối với từng chuẩn
đo lường đó. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phương tiện đo, chuẩn đo
lường sẽ lựa chọn tổ chức kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo,
chuẩn đo lường phù hợp để thực hiện biện pháp kiểm soát về đo lường đối với
phương tiện đo, yêu cầu về đo lường đối với chuẩn đo lường theo quy định;
đồng thời, khiếu nại kết quả kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện
đo, chuẩn đo lường; khởi kiện hành vi vi phạm hợp đồng đã giao kết với tổ
chức kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường;
khiếu nại, khởi kiện hành vi hành chính của cá nhân, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
- Luật An toàn thực phẩm: Luật An toàn thực phẩm quy định về quyền
và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong bảo đảm an toàn thực phẩm; điều kiện
bảo đảm an toàn đối với thực phẩm, sản xuất, kinh doanh thực phẩm và nhập
khẩu, xuất khẩu thực phẩm; quảng cáo, ghi nhãn thực phẩm; kiểm nghiệm
thực phẩm; phân tích nguy cơ đối với an toàn thực phẩm; phòng ngừa, ngăn
chặn và khắc phục sự cố về an toàn thực phẩm… Tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh thực phẩm vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm thì tùy theo

tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường và khắc phục hậu
quả theo quy định của pháp luật.
- Luật Quảng cáo: Quảng cáo là giới thiệu đến NTD về hoạt động kinh
doanh, hàng hoá, dịch vụ của người sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, để bảo
vệ quyền lợi NTD, Luật nghiêm cấm việc quảng cáo gian dối, gây nhầm lẫn,


19

lừa dối NTD. Người quảng cáo có nghĩa vụ đảm bảo nội dung quảng cáo phải
trung thực, chính xác, phản ánh đúng chất lượng, công năng, công dụng hàng
hóa, dịch vụ.
- Luật Giá: Liên quan đến việc BVQLNTD, Luật Giá quy định Nhà
nước thực hiện các chính sách, biện pháp bình ổn giá nhằm kiểm soát lạm
phát, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức cá nhân sản xuất, kinh doanh, của NTD… Nghiêm cấm các hành vi:
Cấu kết với tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác để liên kết độc quyền
về giá, gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh khác, của NTD và lợi ích của Nhà nước; bán phá giá hàng hóa, dịch vụ;
bịa đặt, loan tin không có căn cứ về việc tăng giá hoặc hạ giá gây thiệt hại đến
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh khác, của NTD và
lợi ích của Nhà nước; định giá sai để lừa dối NTD hoặc tổ chức, cá nhân hợp
tác sản xuất, kinh doanh với mình; tăng hoặc giảm giá giả tạo bằng cách thay
đổi số lượng, chất lượng, địa điểm giao nhận ; lợi dụng thiên tai, địch họa và
diễn biến bất thường khác để đầu cơ tăng giá, ép giá. Ngoài ra Luật còn quy
định tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh phải niêm yết giá hàng hóa, dịch
vụ tại cửa hàng, nơi giao dịch mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ; việc
niêm yết giá phải rõ ràng, không gây nhầm lẫn cho khách hàng.
- Luật Thương mại: Luật Thương mại áp dụng đối với thương nhân

hoạt động thương mại, theo đó, các thương nhân khi tiến hành các hoạt động
bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, xúc tiến thương mại... phải tuân thủ một
trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại, đó là “nguyên tắc
bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng”. Theo quy định này, thương
nhân thực hiện hoạt động thương mại có nghĩa vụ thông tin đầy đủ, trung thực
cho NTD về hàng hóa và dịch vụ mà mình kinh doanh và phải chịu trách
nhiệm về tính chính xác của các thông tin đó; thương nhân thực hiện hoạt
động thương mại phải chịu trách nhiệm về chất lượng, tính hợp pháp của hàng
hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh.
- Bộ luật Hình sự: Bộ luật Hình sự cũng có những quy định quan trọng
trong việc trừng trị các hành vi xâm phạm quyền lợi NTD ở mức độ gây nguy


×