Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Nghiên cứu các hình thức liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nhựa thông trên địa bàn xã Đình Lập, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.01 KB, 98 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ đều đã được cảm ơn và các thông tin
trích dẫn trong khóa luận đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

Sinh viên thực hiện

Hoàng Thị Ngọc Hiệp

i


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại
học, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ
tận tình của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài trường.
Trước hết, tôi xin cảm ơn đến Ban giám hiệu trường Học viện Nông nghiệp
Việt Nam, các thầy cô giáo trong Khoa KT & PTNT đã trang bị cho tôi những kiến
thức cơ bản, những định hướng đúng đắn trong học tập cũng như tu dưỡng đạo đức
để tôi có được một nền tảng vững chắc trong học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn trực
tiếp TS. Nguyễn Hữu Nhuần, người đã dành nhiều thời gian, tâm huyết, tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài và hoàn thành


khóa luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Đảng ủy, UBND, các ban ngành,
đoàn thể cùng bà con nhân dân xã Đình Lập đã cung cấp những số liệu cần thiết và
tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tại địa bàn.
Tôi xin đặc biệt cảm ơn ông Hoàng Văn Hội, Chủ tịch UBND xã Đình Lập
đã có những gợi ý vô cùng quý báu và tạo những điều kiện tốt nhất để tôi hoàn
thành nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, người thân, bạn bè đã
khích lệ, động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

Sinh viên thực hiện

Hoàng Thị Ngọc Hiệp

TÓM TẮT ĐỀ TÀI

ii


Đình Lập là xã có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và con người rất thuận lợi
cho sản xuất lâm nghiệp, đặc biệt là sản xuất nhựa thông. Với thế mạnh này, những
năm gần đây, Đảng và Chính quyền địa phương cũng đã tạo điều kiện về mặt môi
trường chính sách giúp cho việc sản xuất nhựa diễn ra thuận lợi hơn. Tuy nhiên tại

địa phương, mối quan hệ giữa sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nhựa thông còn nhiều vấn
đề đặt ra như: đã có mối liên kết giữa người sản xuất với người thu gom, Chính
quyền địa phương, khuyến nông, doanh nghiệp,... những mối liên kết này cũng đã
đem lại một số lợi ích cho các bên tham gia, nhưng quá trình liên kết vẫn chưa thực
sự hiệu quả và còn tồn tại nhiều bất cập. Thêm vào đó là những khó khăn về giá cả
thị trường, thiên tai, dịch bệnh dễ gặp phải trong quá trình sản xuất dẫn đến tình
trạng sản xuất không ổn định, các bên tự ý phá vỡ hợp đồng trong sản xuất, tiêu thụ
nhựa thông.
Vì thế, đề tài “Nghiên cứu các hình thức liên kết trong sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm nhựa thông trên địa bàn xã Đình Lập, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng
Sơn” là cần thiết để tìm hiểu thực trạng hình thức liên kết giữa các tác nhân tham
gia trong quá trình sản xuất – tiêu thụ nhựa thông, thông qua đó, phân tích các yếu
tố ảnh hưởng đến liên kết và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường liên kết trong
sản xuất, tiêu thụ nhựa thông trên địa bàn xã Đình Lập trong thời gian tới.
Để làm nền tảng cho những phân tích của mình, tôi đã tìm hiểu và góp phần
hệ thống hóa cơ sở lý luận, thực tiễn về liên kết trong sản xuất, tiêu thụ nhựa thông.
Thực tiễn liên kết trong sản xuất – tiêu thụ nhựa thông ở một số nước trên thế giới
như Trung Quốc, Indonesia,... Những lý luận về nguyên tắc, nội dung và lợi ích của
quá trình liên kết cũng được lồng ghép nhằm tạo sự logic cho những phân tích của
đề tài.
Qua nghiên cứu thực tế, liên kết giữa các tác nhân tham gia vào quá trình sản
xuất – tiêu thụ nhựa thông thông qua 2 hình thức chính, liên kết ngang và liên kết
dọc. Mối liên kết ngang giữa các tác nhân còn đơn giản, chủ yếu theo kiểu thỏa
thuận miệng, mua bán tự do. Liên kết dọc được thể hiện trong mối liên kết giữa
người sản xuất với người thu gom, khuyến nông, doanh nghiệp và các nhân tố khác
tham gia vào quá trình sản xuất, tiêu thụ. Phân tích kết quả cho thấy, các hộ có liên

iii



kết đạt hiệu quả sản xuất cao hơn so với hộ không liên kết, nghiên cứu cũng cho
thấy, các hộ tham gia liên kết nhận được nhiều lợi ích hơn so với các hộ không liên
kết. Mặc dù liên kết đem lại nhiều lợi ích, nhưng quá trình liên kết vẫn còn một số
tồn tại như liên kết còn lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ, thể hiện ở số hộ vi phạm liên kết
còn cao, chủ yếu liên kết qua thỏa thuận miệng nên chưa mang tính pháp lý cao.
Qua phân tích thực trạng, cho thấy một số yếu tố ảnh hưởng đến liên kết
trong sản xuất và tiêu thụ nhựa thông gồm yếu tố nhận thức của người dân, yếu tố
chính sách của Nhà nước, giá cả thị trường và hộ thu gom, doanh nghiệp.
Nghiên cứu cũng đưa ra các giải pháp cụ thể với Chính quyền địa phương
như đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền, nâng cao hiểu biết về hiệu quả của
mối liên kết bốn nhà cho người dân và các tác nhân; Chính quyền địa phương cần
đảm nhiệm vai trò là cầu nối trong hoạt động liên kết thông qua việc ban hành các
chính sách thu hút, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp về tham gia liên kết.
Với hộ sản xuất nhựa thông, chính các hộ cần phải tự tìm tòi, nâng cao kiến thức
cho mình, áp dụng vào thực tế một cách hiệu quả, những người sản xuất có thể
thành lập ra các tổ, nhóm liên kết để cùng hỗ trợ, giám sát nhau trong quá trình sản
xuất và cử đại diện đứng ra ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp, thương lái. Với
các doanh nghiệp và hộ thu gom cần chủ động phối hợp liên kết với nhau và phối
hợp với chính quyền địa phương trong hoạt động liên kết để giải quyết bất cập và
nâng cao hiệu quả mối liên kết.

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

iv


SXNN

Sản xuất nông nghiệp


HTX

Hợp tác xã

TBKT

Tiến bộ kĩ thuật

KHKT

Khoa học kĩ thuật

UBND

Ủy ban Nhân dân

LSNG

Lâm sản ngoài gỗ

FSC

Hệ thống các tiêu chuẩn về chứng nhận nguồn
gốc gỗ cho các nhà khai thác

WWF

Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên

SDC


Tổ chức phát triển thế hệ trẻ

v


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Thông nhựa là một loại lâm sản có giá trị kinh tế cao, được trồng để lấy nhựa
và gỗ, phân bố nhiều ở các tỉnh trung du và miền núi nước ta. Theo quyết định số
3135/QĐ-BNN-TCLN ngày 6/8/2015 của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn
công bố số liệu hiện trạng rừng toàn quốc với diện tích rừng trồng thông các loại là
khoảng 400.000 ha cho sản lượng nhựa gần 70.000 tấn/năm. Việc trồng thông giúp
làm xanh những vùng đất trống, đồi trọc, tạo việc làm và thu nhập cho hàng vạn lao
động nông thôn. Với mức giá trung bình khoảng 30.000 đồng/kg nhựa thông (năm
2016), người dân có nguồn thu nhập ổn định, nhiều hộ gia đình đã thoát nghèo và
trở nên giàu có nhờ cây thông. Ngoài tạo việc làm tăng thêm thu nhập cho người
dân, cây thông nhựa cũng góp phần đảm bảo, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở
địa phương, thúc đẩy xây dựng nông thông mới, bảo vệ môi trường tại khu vực
nông thôn.
Đình Lập là một xã vùng cao thuộc huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn, có điều
kiện tự nhiên, vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển thông nhựa. Xã có diện tích trồng
thông khá lớn, với 840 ha rừng thông lấy nhựa, mỗi năm cho thu hoạch gần 150 tấn
nhựa. Những năm gần đây, việc trồng thông ở xã Đình Lập đã đạt được nhiều kết
quả khả quan, trở thành một hướng phát triển kinh tế hàng hóa cho bà con địa
phương. Trồng thông không những đóng góp vào cải thiện điều kiện môi trường tự
nhiên mà còn đóng góp đáng kể vào thu nhập của người dân địa phương. Với nhận
thức trên, Đảng và chính quyền địa phương cũng đã đưa ra các chính sách tạo điều
kiện thuận lợi để phát triển sản xuất nhựa thông.
Tuy nhiên, do trình độ nhận thức của người dân trên địa bàn xã chưa cao, do

điều kiện tự nhiên cũng như một số các yếu tố khách quan khác mà việc trồng và
phát triển thông nhựa còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Trong sản xuất, hiện tượng khai thác, chăm sóc thông không đúng quy trình còn xảy
ra nhiều, phổ biến làm giảm đáng kể năng suất nhựa, chất lượng gỗ cũng như thời

1


gian thu hoạch của cây. Tình hình tiêu thụ nhựa thông trên địa bàn xã phụ thuộc
nhiều vào thương lái bên ngoài, giá đầu ra bấp bênh. Đặc biệt chưa có sự liên kết
chặt chẽ, hiệu quả trong sản xuất và tiêu thụ nhựa thông giữa các tác nhân trên địa
bàn làm giảm hiệu quả kinh tế sản xuất nhựa thông. Vì vậy, vấn đề đặt ra là làm thế
nào để tăng cường hiệu quả liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhựa thông,
giúp người dân tăng thu nhập, yên tâm sản xuất, gắn bó với rừng.
Để tìm hiểu vấn đề trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu các
hình thức liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhựa thông trên địa bàn
xã Đình Lập, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
nhựa thông trên địa xã Đình Lập, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Từ đó đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm nhựa thông tại địa phương trong thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về liên kết trong sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm nhựa thông.
- Đánh giá thực trạng liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhựa thông
tại địa bàn xã Đình Lập, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm nhựa thông tại địa bàn xã Đình Lập, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường hiệu quả liên kết trong
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhựa thông tại địa bàn xã Đình Lập, huyện Đình Lập,
tỉnh Lạng Sơn trong thời gian tới.

2


1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn về liên kết trong
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhựa thông.
Đối tượng khảo sát là các hộ nông dân sản xuất thông nhựa, các tác nhân
tham gia mua bán, cán bộ có liên quan đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhựa
thông trên địa bàn xã.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian:
+ Đề tài được thực hiện từ ngày 16/6/2017 đến ngày 17/12/2017.
+ Thời gian thu thập số liệu: các số liệu và thông tin thứ cấp được thu thập
trong 3 năm từ 2014-2016. Số liệu, thông tin sơ cấp được thu thập chủ yếu trong
năm 2016.
- Phạm vi không gian: Đề tài được thực hiện trên địa bàn xã Đình Lập, huyện
Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.
- Phạm vi nội dung: Đề tài tập chung nghiên cứu những mối liên kết chủ yếu
trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhựa thông tại địa phương.

3


PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận về liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nhựa thông

2.1.1 Một số khái niệm có liên quan
2.1.1.1 Khái niệm sản xuất, tiêu thụ
* Khái niệm sản xuất
Sản xuất là quá trình tái tạo ra của cải, vật chất và dịch vụ. Trong sản xuất
con người đấu tranh với thiên nhiên làm thay đổi những vật chất có sẵn nhằm tạo ra
lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà ở và những của cải khác phục vụ cuộc sống.
Sản xuất là điều kiện tồn tại của mỗi xã hội, việc khai thác và tận dụng các nguồn
tài nguyên thiên nhiên phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Trong sản xuất, con người là lực lượng sản xuất chủ yếu đóng vai
trò quyết định.
Thống kê tài sản quốc gia năm 1993 của Liên Hợp Quốc đã đưa ra khái niệm
về sản xuất như sau: “Sản xuất là quá trình sử dụng máy móc, thiết bị của các đơn
vị thể chế để chuyển những chi phí là vật chất và dịch vụ thành sản phẩm là vật chất
và dịch vụ khác. Tất cả hàng hóa và dịch vụ sản xuất ra phải có khả năng bán ra thị
trường hay ít ra cũng có khả năng cũng cấp cho một đơn vị thể chế khác có thu tiền
hoặc không thu tiền” ( Mục 1.20, Tài khoản quốc gia 1993). Về thực chất, sản xuất
là quá trình phối hợp và điều hòa các yếu tố đầu vào ( tài nguyên hoặc các yếu tố
sản xuất) để tạo ra sản phẩm hàng hóa dịch vụ ( Vũ Đức Hạnh, 2015)
Có 2 phương thức sản xuất là:
- Sản xuất mang tính tự cung tự cấp, quá trình này thể hiện trình độ còn thấp
của các chủ thể sản xuất, sản phẩm sản xuất ra chỉ nhằm mục đích đảm bảo chủ yếu
cho các nhu cầu của chính họ, không có sản phẩm dư thừa cung cấp cho thị trường.
- Sản xuất cho thị trường tức là phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, sản
phẩm sản xuất ra chủ yếu trao đổi trên thị trường, thường được sản xuất trên quy

4


mô lớn, khối lượng sản phẩm nhiều. Sản xuất này mang tính tập trung chuyên canh
và tỷ lệ sản phẩm hàng hóa cao.

Phát triển kinh tế thị trường phải hướng theo phương thức thứ hai. Nhưng
cho dù sản xuất theo mục đích nào thì người sản xuất cũng phải trả lời được ba câu
hỏi cơ bản là: Sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào?
Tóm lại sản xuất là quá trình tác động của con người vào các đối tượng sản
xuất, thông qua các hoạt động để tạo ra các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ phục vụ
đời sống.
* Tiêu thụ sản phẩm
-Tiêu thụ sản phẩm
Theo nghĩa hẹp, tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển sang hình thái giá trị
của sản phẩm. Sản phẩm được coi là tiêu thụ khi khách hàng chấp nhận thanh toán.
Theo quan điểm này, quá trình tiêu thụ sản phẩm bắt đầu khi đưa sản phẩm vào lưu
thông và kết thúc khi bán hàng xong.
Theo nghĩa rộng, tiêu thụ sản phẩm là quá trình bao gồm nhiều khâu từ việc
tổ chức nghiên cứu thị trường đến định hướng tổ chức sản xuất ra sản phẩm, tạo ra
sản phẩm hàng hóa và đưa ra thị trường tiêu thụ.
Tiêu thụ là khâu quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của các chủ
thể tái hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bởi tiêu thụ là khâu cuối
cùng của quá trình sản xuất kinh doanh bởi tiêu thụ là khâu cuối cùng của quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, có tiêu thụ được sản phẩm thì doanh nghiệp
mới thu hồi vốn đề tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng, mặt khác trong cơ chế thị
trường tiêu thụ sản phẩm còn quyết định toàn bộ quá trình sản xuất của một cơ sở
hay một doanh nghiệp từ khi bắt đầu quá trình sản xuất đến khi bán được sản phẩm
và thu hồi vốn.

5


-Kênh tiêu thụ sản phẩm
Kênh tiêu thụ sản phẩm hay kênh phân phối sản phẩm là sự kết hợp giữa người
sản xuất, người tiêu dùng và giới trung gian để chuyển giao quyền sở hữu đối với một

hàng hoá cụ thể hay một dịch vụ nào đó từ người sản xuất đến người tiêu dùng.
Kênh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp: Việt Nam là nước có nhiều loại hàng
nông sản đáp ứng thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, chất lượng nông sản
của nước ta hiện nay còn thấp, giá thành sản xuất cao, công nghệ bảo quản chế biến
chưa đáp ứng được yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu…dẫn đến hiện tượng
ứ đọng, không tiêu thụ được, giá cả bấp bênh và bị ép giá gây thiệt hại không nhỏ cho
người sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp. Để tạo dựng vị thế trên thị trường
trong nước và thế giới cần có nhiều giải pháp, các giải pháp này phải được giải quyết
đồng bộ có lựa chọn, có mục tiêu, có bước đi vững chắc, trong đó lựa chọn kênh tiêu
thụ nông sản phẩm trong thị trường tiêu thụ đóng vai trò rất quan trọng.
- Chức năng của kênh tiêu thụ sản phẩm
Nhờ có mạng lưới kênh tiêu thụ mà người sản xuất khắc phục được những
khó khăn về thời gian, địa điểm, khoảng cách trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Các
thành viên của kênh phải thực hiện các chức năng chủ yếu sau:
+ Nghiên cứu thu thập thông tin cần thiết để lập kế hoạch và tạo ra những
điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ.
+ Thiết lập mối quan hệ với khách hàng mới
+ Hoàn thiện hàng hóa về chất lượng, chủng loại, mẫu mã
+ Thoả thuận giá cả với người mua
+ Tổ chức lưu thông, vận chuyển, bảo quản và dự trữ hàng hoá
+ Nghiên cứu và đề ra những biện pháp phòng chống nhằm giảm bớt rủi ro
về mọi hoạt động của kênh tiêu thụ.
- Phân loại kênh tiêu thụ
Trên thực tế có nhiều loại kênh tiêu thụ khác nhau. Các kênh tiêu thụ của sản
phẩm do tính chất của sản phẩm đó quy định và tình hình phát triển thị trường ở
mỗi vùng, mỗi quốc gia quy định. Căn cứ vào mối quan hệ giữa doanh nghiệp với
người tiêu dùng cuối cùng, có hai hình thức tiêu thụ như sau:

6



Kênh tiêu thụ trực tiếp: Nhà sản xuất trực tiếp phân phối hay bán các sản
phẩm làm ra cho tận tay người tiêu dùng, không qua trung gian. Kênh tiêu thụ trực
tiếp thường xảy ra ở quy mô sản xuất nhỏ, người sản xuất gần người tiêu thụ và sản
phẩm tươi sống khó bảo quản
Kênh tiêu thụ gián tiếp: là kênh có trung gian tham gia. Trung gian là cầu nối
giữa người sản xuất và người tiêu dùng, các loại trung gian bao gồm: Người thu
gom; Đại lý; Hợp tác xã tiêu thụ; Các cửa hàng, người bán lẻ; Người bán buôn; Siêu
thị, Các công ty, các tổng công ty, các công ty và các tổng công ty xuyên quốc gia.
Thông qua vai trò của các trung gian phân phối, người sản xuất và doanh nghiệp có
thể đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, rút ngắn chu kỳ sản xuất, có điều kiện tập trung
vào sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Sơ đồ 2.1 Một số kênh tiêu thụ sản phẩm chủ yếu

7


2.1.1.2 Khái niệm về liên kết kinh tế
Khái niệm liên kết xuất phát từ tiếng anh “intergration” mà trong hệ thống
thuật ngữ kinh tế có nghĩa là sự hợp nhất, sự phối hợp hay sáp nhập của nhiều bộ
phận thành một chỉnh thể. Trước đây, khái niệm này được biết đến với tên gọi “nhất
thể hóa” và gần đây mới được gọi là liên kết. Sau đây là một số quan điểm về liên
kết kinh tế:
Theo từ điển Thuật ngữ kinh tế học của Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức
bách khoa thì: “Liên kết kinh tế là hình thức hợp tác phối hợp hoạt động do các đơn
vị kinh tế tự nguyện tiến hành nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển theo
hướng có lợi nhất trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Mục tiêu của liên kết
kinh tế là tạo ra sự ổn định của các hoạt động kinh tế thông qua các quy chế hoạt
động để tiến hành phân công sản xuất, khai thác tốt các tiềm năng của các đơn vị
tham gia liên kết để tạo ra thị trường chung, bảo vệ lợi ích cho nhau.”

Trong các văn bản Nhà nước mà cụ thể là trong quy định ban hành theo
quyết định số 38 –HĐBT ngày 10/4/1989 thì liên kết kinh tế là những hình thức
phối hợp hoạt động do các đơn vị kinh tế tiến hành để cùng nhau bàn bạc và đề ra
các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất kinh doanh của mình
nhằm thúc đẩy sản xuất theo hướng có lợi nhất. Sau khi bàn bạc thống nhất, các đơn
vị thành viên trong tổ chức liên kết kinh tế cùng nhau ký hợp đồng về những vấn đề
có liên quan đến phần hoạt động của mình để thực hiện.
Trong từ điển kinh tế học hiện đại (David.Wpearce) năm 1999 cho rằng, liên
kết kinh tế chỉ tình huống khi mà các khu vực khác nhau của một nền kinh tế
thường là khu vực công nghiệp và nông nghiệp hoạt động phối hợp với nhau một
cách có hiệu quả và phụ thuộc lẫn nhau, là một yếu tố của quá trình phát triển. Điều
này thường đi kèm với sự tăng trưởng bền vững.
Theo tác giả Phạm Thị Minh Nguyệt (2006) cho rằng: “Liên kết kinh tế
chính là những phương thức hoạt động của các hình thức hợp tác kinh tế, liên kết
kinh tế phát triển ngày càng phong phú, đa dạng theo sự phát triển của hợp tác kinh

8


tế. Tất cả các mối quan hệ được hình thành giữa hai hay nhiều đối tác với nhau dựa
trên những hợp đồng đã ký kết với những thỏa thuận nhất định được gọi là liên kết
kinh tế.”
Như vậy, có thể rằng liên kết kinh tế thực chất là sự hợp tác trong phát triển
của hai hay nhiều bên, không kể quy mô hoặc loại hình sở hữu với mục tiêu là các
bên tìm cách bù đắp sự thiếu hụt của mình, từ sự phối hợp hoạt động với các đối tác
nhằm đem lại lợi ích cho các bên tham gia.
Từ các khái niệm trên, có thể đưa ra khái niệm về liên kết trong sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm nhựa thông là sự hợp tác và phối hợp thường xuyên các hoạt động
do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng đề ra và thực hiện các chủ
trương, biện pháp liên quan đến công việc sản xuất, kinh doanh nhựa thông theo

hướng có lợi nhất. Liên kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ nhựa thông có thể diễn
ra và thu hút sự tham gia của tất cả các chủ thể kinh tế có nhu cầu thuộc mọi thành
phần kinh tế và không bị giới hạn bởi phạm vi địa lý.
2.1.2 Nội dung của liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nhựa thông
2.1.2.1 Phương thức và hình thức liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nhựa thông
* Phương thức liên kết
- Mua bán tự do trên thị trường
Mua bán tự do trên thị trường là hình thức giao dịch trực tiếp giữa người
mua và người bán. Người mua thấy được số lượng, chất lượng hàng hóa mình cần,
còn người bán sau khi thỏa thuận được giá bán và thu được tiền để đáp ứng yêu cầu
của người sản xuất và đời sống. Việc mua bán được thực hiện trên thị trường theo
quan hệ cung cầu. Bất kỳ bên mua hoặc bên bán hàng hóa nào, nếu thỏa thuận được
với nhau thì hoạt động giao dịch sẽ được diễn ra và khi đó thị trường có vai trò định
giá sản phẩm (Viện chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp Nông thôn,
2006).

9


Đặc điểm của hình thức giao dịch này là mỗi tác nhân độc lập và tự do trao
đổi hàng hóa của mình với các tác nhân khác. Giá cả được định đoạt tại mỗi thời
điểm giao dịch. Thị trường tự do phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường, do đó
trong một số trường hợp thương mại thị trường tự do không cho hiệu quả khi nó gây
ra các khó khăn trong điều hành hoạt động của thị trường và giữa các tác nhân.
Chẳn hạn khi thị trường khủng hoảng thiếu nguyên liệu, giá cả nguyên liệu tăng cao
có thể gây đình trệ sản xuất của doanh nghiệp. Trong trường hợp này hiệu quả của
thị trường tự do bị nghi ngờ và các mối liên kết chủ động có thể giúp các hạn chế
của thị trường tự do.
Mặc dù các tác nhân trao đổi với nhau trên thị trường tự do không phả không
có các mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa các tác nhân trong một ngành hàng.

Ngược lại, quan hệ liên kết có thể tồn tại và diễn ra khi hoạt động sản xuất của một
tác nhân phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của một tác nhân khác..
Những nhu cầu về sự khác biệt sản phẩm từ cấp độ sản xuất đã đặt áp lực lên các
mối quan hệ thị trường tự do và có thể dẫn đến hình thức liên kết hợp đồng giữa các
giai đoạn chủ chốt trong hệ thống thị trường hoặc hình thức liên kết dọc.
- Thỏa thuận miệng
Thỏa thuận miệng là các thỏa thuận không được thể hiện bằng văn bản giữa
các tác nhân cam kết cùng nhau thực hiện một số hoạt động, công việc nào đó. Thỏa
thuận miệng cũng được hai bên thống nhất về số lượng, chất lượng, giá cả, thời hạn,
điểm nhận hàng, Cơ sở của thỏa thuận miệng là niềm tin, độ tín nhiệm, trách nhiệm
cam kết thực hiện giữa các tác nhân có quan hệ mật thiết, giữa các tác nhân đã có
quá trình hợp tác, liên kết sản xuất và tiêu thụ với nhau mà trong suốt thời gian hợp
tác luôn thể hiện được nguồn lực tài chính, khả năng tổ chức và trách nhiệm giữ gìn
với các đối tác ( Đặng Kim Sơn, 2004).
Tuy nhiên, thỏa thuận miệng thường chỉ là các thỏa thuận miệng trên nguyên
tắc về số lượng, giá cả, điều kiện giao nhận hàng hóa. Thỏa thuận miện cũng có thể
có hoặc không có đầu tư ứng trước về vốn, vật tư cũng như các hỗ trợ giám sát kỹ

10


thuật. So với họp đồng bằng văn bản thì hợp đồng miện lỏng lẻo và có tính chất
pháp lý thấp.
- Hợp đồng văn bản
Charles and Anddrew (2001) định nghĩa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo
hợp đồng là thỏa thuận giữa những người nông dân với doanh nghiệp chế biến hoặc
doanh nghiệp kinh doanh trong việc sản xuất và cung cấp các sản phẩm nông
nghiệp dựa trên thỏa thuận giao hàng trong tương lai, giá cả đã được định trước.
Sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo hợp đồng trong nông nghiệp đưa ra
những luật lệ cho việc giao dịch nông sản qua việc phân bổ thật rõ 3 yếu tố chính:

lợi ích, rủi ro và quyền quyết định. Liến kết thông qua hợp đồng là hình thức một
công ty cam kết mua hàng hóa từ một nhà máy sản xuất với một mức giá được xác
định trước khi mua. Mối quan hệ hợp đồng giữa nhà sản xuất và nhà chế biến chỉ sự
điều chỉnh của những văn bản thỏa thuận cá nhân mang tính pháp lý, những giao
dịch này có thể là về giá mua bán, thị trường, chất lượng và số lượng nguyện liệu
đầu vào, các dịch vụ kỹ thuật, cung cấp tài chính… được thỏa thuận trước khi bán.
Liên kết thông qua hợp đồng tạo ra sự linh hoạt trong việc chia sẻ rủi ro và quyền
kiểm soát giữa các chủ thể tham gia hợp đồng (Vũ Đức Hạnh, 2015).
Hợp đồng được ký kết giữa các doanh nghiệp, tổ chức, ngân hàng, tín dụng,
trung tâm khoa học kỹ thuật,.. và hộ theo các hình thức:
+ Ứng trước vốn, vật tư, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ và mua lại nông sản hàng hóa.
+ Bán vật tư mua lại sản phẩm.
+ Trực tiếp tiêu thụ sản phẩm, thuê mướn tư vấn kỹ thuật, mua vật tư, thiết
bị, nguyên liệu đầu vào, vay vốn,…
+ Liên kết sản xuất bằng việc góp vốn cổ phần, liên doanh liên kết với các
doanh nghiệp hoặc cho doanh nghiệp thuê đất, diện tích mặt nước, sau đó hộ được

11


sản xuất trên diện tích đó hoặc cho thuê và bán lại sản phẩm cho doanh nghiệp tạo
sự gắn kết bền vững giữa hộ và doanh nghiệp.
Tóm lại, nội dung liên kết kinh tế là sự thể hiện cụ thể mối quan hệ phân
công và hợp tác lao động giữa các chủ thể tham gia liên kết. Nó quy định những
hoạt động trách nhiệm, chức năng, việc làm cụ thể về kinh tế - kỹ thuật mà mỗi bên
phải thực hiện để cùng nhau hợp tác, tạo ra thành quả lao động chung của liên kết
kinh tế
* Hình thức liên kết
Hình thức là phạm trù chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật hiện
tượng, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật

hiện tượng đó.
Theo Hoàng Kim Giao (1989) thì hình thức liên kết kinh tế như là một phạm
trù kinh tế phản ánh các mối quan hệ kinh tế về hợp tác, liên doanh, liên hợp hóa
trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh của quá trình tái sản xuất xã hội.
Theo Dương Bá Phượng (1995) thì liên kết kinh tế là một quá trình làm xích
lại gần nhau và càng ngày càng cấu kết với nhau, trên tinh thần tự nguyện giữa các
bên tham gia liên kết. Quá trình này vận động, phát triển qua những nấc thang từ
quan hệ hợp tác, liên doanh đến liên hợp, liên minh, hợp nhất lại. Như vậy, phân
công lao động và chuyên môn hóa sản xuất kinh doanh là điều kiện hình thành các
liên kết kinh tế, còn hợp tác hóa, liên hợp hóa là những hình thức biểu hiện của
những nấc thang, những bước phát triển của liên kết kinh tế.
- Căn cứ vào cách thức biểu hiện liên kết ta có thể chia liên kết thành các
hình thức sau:
Liên kết theo chiều dọc: là liên kết được thực hiện theo trật tự các khâu của
quá trình sản xuất kinh doanh (theo dòng vận động của sản phẩm). Kiểu liên kết
theo chiều dọc toàn diện nhất bao gồm các giai đoạn từ sản xuất, chế biến nguyên
liệu đến phân phối thành phẩm. Trong mối liên kết này, thông thường mỗi tác nhân

12


tham gia vừa có vai trò là khách hàng của tác nhân trước đó đồng thời là người cung
cấp sản phẩm cho tác nhân tiếp theo của quá trình sản xuất kinh doanh. Kết quả của
liên kết dọc là hình thành nên chuỗi giá trị của một ngành hàng và có thể làm giảm
đáng kể chi phí vận chuyển, chi phí cho khâu trung gian (Lê Văn Lương, 2008). Trong
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhựa thông, hình thức liên kết dọc được thể hiện là liên
kết giữa hộ nông dân với nhà khoa học, giữa hộ nông dân với các hộ thu gom.
Liên kết theo chiều ngang: là hình thức liên kết mà trong đó mỗi tổ chức hay
cá nhân tham gia là một đơn vị hoạt động độc lập nhưng có quan hệ với nhau thông
qua một bộ máy kiểm soát chung. Trong liên kết này, mỗi thành viên tham gia có

sản phẩm hoặc dịch vụ cạnh tranh nhau nhưng họ liên kết lại để nâng cao khả năng
cạnh tranh cho từng thành viên nhờ phát huy tính lợi ích kinh tế nhờ quy mô của tổ
chức liên kết. Kết quả của liên kết theo chiều ngang là hình thành nên những tổ
chức liên kết như HTX, liên minh, hiệp hội,… và cũng có thể dẫn đến độc quyền
tỏng một thị trường nhất định. Với hình thức liên kết này, ngành nông nghiệp có thể
hạn chế được sự ép giá nông sản của các cơ sở chế biến nhờ làm chủ thị trường
nông sản ( Phạm Thị Minh Nguyệt, 2006). Hình thức liên kết ngang trong sản xuất
và tiêu thụ nhựa thông được thể hiện là liên kết giữa những hộ nông dân với nhau,
giữa những hộ thu gom, thương lái với nhau, các tác nhân trong liên kết này hợp tác
với nhau để hình thành nên các nhóm sở thích, hiệp hội,… cùng hợp tác với nhau
trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Liên kết hỗn hợp: Đây là hình thức liên kết trong đó có sự kết hợp cả liên kết
dọc và liên kết ngang. Hình thức này xuất hiện trong quá trình phát triển và hội
nhập khi mối quan hệ giữa các hộ, cơ sở và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là sự
đan xen giữa hợp tác và cạnh tranh. Các đơn vị này một mặt liên kết với nhau theo
chiều ngang để hình thành các nhóm, HTX,… nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh
cho từng thành viên, hạn chế tình trạng ép cấp, ép giá. Mặt khác, các nhóm, hay
HTX được hình thành đó lại có liên kết dọc với các doanh nghệp chế biến, hay các
nhóm hộ, HTX đó lại là người cung cấp sản phẩm cho tác nhân tiếp theo của quá
trình sản xuất kinh doanh.

13


Hình thức liên kết hỗn hợp này còn có tên gọi khác là mô hình liên kết 4 nhà.
Tham gia hình thức liên kết này bao gồm Nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa
học, hộ nông dân. Cơ chế hoạt động của hình thức này là sự liên kết và phối hợp
của nhiều chủ thể khác nhau trong việc vùng chia sẻ lợi ích, rủi ro và quyền quyết
định. Đặc điểm của hình thức liên kết này là các chủ thể khác nhau sẽ có trách
nhiệm, vai trò khác nhau. Trong đó, doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng gắn kết

nhà khoa học với nông dân, gắn kết nhà tài chính với nông dân và tiêu thụ sản phẩm
cho nông dân. Doanh nghiệp là tác nhân quyết định việc tiêu thụ sản phẩm cho
nông dân, họ biết được thị trường cần gì để đặt hàng cho hộ nông dân sản xuất. Họ
cũng chính là người đặt hàng cho các nhà khoa học, ngân hàng cung cấp dịch vụ
cho mình và cho hộ nông dân. Vai trò của Nhà nước là xử lý các mối quan hệ giữa
các bên ký kết hợp đồng, quy hoạch vùng sản xuất, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng,
giải quyết những vấn đề khó khăn nảy sinh do thị trường, thiên tai gây ra, vận động
giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức, kỹ năng cho các bên tham gia sản xuất
theo hợp đồng.
2.1.2.2 Vai trò của liên kết trong sản xuất và tiêu thụ
Liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có vai trò hết sức to lớn với tất
cả các tác nhân tham gia trong liên kết và đối với toàn bộ nền kinh tế quốc gia.
Liên kết là một hình thức đem lại lợi ích chắc chắn cho các bên liên quan.
Đối với hộ nông dân, thông qua liên kết hộ có thể khắc phục được những bất lợi về
quy mô sản xuất nhỏ lẻ, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường về số lượng sản
phẩm hàng hóa cung ứng. Có thể thấy rằng, cách duy nhất để những hộ sản xuất
nhỏ có thể tham gia và chuỗi giá trị một cách hiệu quả là phải phối hợp với nhau tạo
thành một khối tổ chức để tăng sức mạnh thương thảo trên thị trường, tăng khả năng
đàm phán để mua các yếu tố đầu vào và bán các sản phẩm đầu ra với giá hợp lý,
đảm bảo quyền lợi của họ. Sản xuất theo hướng phối hợp lẫn nhau, hay còn gọi là
nhóm sản xuất nông hộ, dược xem như là một trong những chiến lược trọng yếu để
nông dân nắm bắt và vận dụng các cơ hội kinh tế, cơ hội tham gia thị trường ở một

14


tư thế mạnh, ổn định và bền vững hơn. Việc hình thành các nhóm sản xuất này sẽ
làm tăng khả năng thương lượng khi giao dịch mua bán của hộ nông dân thông qua
sự tăng trưởng về quy mô kinh tế và ứng dụng những dịch vụ mang tính định hướng
thị trường như quản lý chất lượng sản phẩm, áp dụng TBKT, cấp giấy chứng nhận

hàng hóa, nhãn mác sản phẩm sản xuất ra (Nguyễn Thị Thu Trang, 2014).
Đối với các chủ thể tham gia liên kết với hộ nông dân: Nhờ có liên kết với
hộ nông dân, các doanh nghiệp tham gia thu mua chế biến sản phẩm có thể chủ
động được kế hoạch sản xuất với nguồn cung cấp đầu vào ổn định. Các doanh
nghiệp sẽ giảm được khá nhiều chi phí cho những khâu trung gian trong thu mua
hay phân phối. Thông qua liên kết với các hộ nông dân, các doanh nghiệp thể hiện
được vai trò dẫn dắt kinh tế hộ trong quá trình phát triển. Ngoài ra, hình ảnh thương
hiệu và phạm vi ảnh hưởng của doanh nghiệp cũng được nâng lên trong các khu vực
liên kết. Bên cạnh đó, thông qua liên kết với hộ, chất lượng sản phẩm đầu ra cảu
doanh nghiệp sẽ được đảm bảo do doanh nghiệp có thể mở rộng được quy mô hoạt
động, tăng chất lượng sản phẩm đầu ra. Đặc biệt, khi các doanh nghiệp phải cạnh
tranh gay gắt trên thị trường về chất lượng và giá cả sản phẩm, chỉ có gắn kết với hộ
nông dân thì doanh nghiệp mới quản lý tốt và có thể nâng cao chất lượng, hạ giá
thành sản phẩm để vượt qua các rào cản.
Đối với Nhà nước: Liên kết trong tiêu thụ sản phẩm nông sản sẽ góp phần
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tập thể. Liên kết trong tiêu thụ sản phẩm nông
sản của hộ cũng giúp cho việc củng cố liên minh công – nông, đẩy nhanh quá trình
chuyên môn hóa sản xuất và giúp hình thành nên một cộng đồng nông dân chuyên
nghiệp, thực hiện được định hướng đường lối kinh tế - chính trị của Đảng và Nhà
nước. Nó cũng tạo điều kiện để phát huy lợi thế của từng tác nhân trong tiêu thụ sản
phẩm, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, số lượng lớn đáp ứng nhu cầu của thị
trường, tạo ra sự chuyên môn hoá và hợp tác hóa trong quá trình sản xuất kinh
doanh của từng tác nhân trong liên kết cũng như trong nền sản xuất xã hội. Thông
qua liên kết, đặc biệt là liên kết dọc giúp hình thành chuỗi giá trị của một ngành
hàng mà ở đó, lợi ích xã hội được phân phối hài hòa hơn cho các tác nhân tham gia

15


nhất là các hộ nông dân vốn không có nhiều lợi thế trong giao dịch. Liên kết trong

sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cũng góp phần giúp cho Nhà nước dễ dàng trong việc
hỗ trợ, ban hành chính sách, xây dựng cơ sở hạ tầng,… thông qua các chính sách
khuyến khích đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng, quy hoạch cùng nguyên liệu,
chuyển giao tiến bộ KHKT, xúc tiến thương mại, đồng thời là người kiểm tra, giám
sát và bảo đảm tính pháp lý cho việc thực hiện hợp đồng giữa các bên.
Đối với nhà khoa học: Trong sản xuất, để tạo nên những sản phẩm vừa cs
năng suất chất lượng và có giá trị kinh tế cao, vừa đáp ứng được nhu cầu của người
tiêu dùng cũng như đơn đặt hàng của các doanh nghiệp, các nhà khoa học có vai trò
hết sức quan trọng. Nhà khoa học ở đây có thể là các nhà nghiên cứu, nhà khoa học
hay cán bộ khuyến nông, họ sẽ đóng góp công sức và chất xám của mình để thực
hiện các hợp đồng theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp cũng như nhà sản xuất.
Nhà khoa học không bó hẹp trong phòng nghiên cứu mà năng động, chuyên nghiệp
trong việc bắt tay với nhà nông, doanh nghiệp để hỗ trợ họ trong sản xuất, thu
hoạch, bảo quản nông sản, cần có tiếng nói tích cực để tham mưu cho các nhà quản
lý nhằm có những dự báo, tính toán, quy hoạch cụ thể và chủ động trong chỉ đạo
sản xuất, tiêu thụ (Nguyễn Thị Thu Trang, 2014).
2.1.2.3 Nguyên tắc của liên kết trong sản xuất và tiêu thụ
- Liên kết kinh tế đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của các chủ thể
tham gia không ngừng phát triển và đạt hiệu quả ngày càng cao. Đây vừa là nguyên
tắc nhưng cũng là mục tiêu xuyên suốt của mọi hình thức liên kết kinh tế. Dù được
tiến hành dưới hình thức và mức độ nào thì các quan hệ kinh tế cũng phải đáp ứng
được yêu cầu phát triển bền vững của các bên tham gia ( Trần Văn Hiếu, 2005).
- Liên kết kinh tế phải được hình thành trên tinh thần tự nguyện tham gia cảu
các bên. Các hình thức liên kết chỉ thành công và hiệu quả khi được xây dựng trên
cơ sở tự nguyện của các bên tham gia để giải quyết những khó khăn hoặc tìm kiếm
lợi ích cao hơn thông qua liên kết. Chỉ khi tự nguyện tham gia, các chủ thể liên kết
mới phát huy hết năng lực nội tại của mình xây dựng nên mối quan hệ hiệu quả, bền

16



vững, vì lợi ích chung đồng thời đem hết khả năng cùng chịu trách nhiệm về những
thất bạn hay rủi ro trong liên kết. Mọi liên kết kinh tế được thiết lập mang tính hình
thức hay là kết quả của những quyết định mang tính chủ quan, áp đặt sẽ không thể
tồn tại và không thể đem lại lợi ích của các bên tham gia ( Lê Văn Lương, 2008).
- Các bên tham gia dân chủ, bình đẳng trong các quyết định của liên kết: do
các nguồn lực của liên kết được hình thành dựa trên sự đóng góp của các chủ thể
tham gia, mặt khác các liên kết có liên quan chặt chẽ đến lợi ích của các chủ thể
tham gia nên hoạt động quản lý, điều hành, giám sát và phân phối lợi ích trong liên
kết phải được đảm bảo dân chủ và bình đẳng. Dân chủ và bình đẳng trong liên kết
không có nghĩa là phải cào bằng quyền lợi và trách nhiệm mà phải dựa trên cơ sở
đóng góp của mỗi bên. Để có sự bình đẳng và dân chủ, các quyết định liên kết phải
đảm bảo tính công khai, minh bạch và được thực hiện thông qua một cơ chế điều
phối chung được thống nhất giữa các bên ngay từ đầu ( Dương Bá Phượng, 1995).
- Kết hợp hài hòa lợi ích kinh tế giữa các bên tham gia. Trong các hình thức
liên kết thì lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy, là chất keo gắn kết lâu dài các bên
tham gia. Việc chia sẻ hài hòa lợi ích có tầm quan trọng đặc biệt quyết định đến sự
bền vững của các hình thức liên kết nên đòi hỏi phải tìm ra một cơ chế giải quyết
thích hợp. Cơ chế đó cần tập chung vào các yêu cầu cơ bản là cấp thiết nhất, trong
từng mối liên kết, từng mặt hàng mà có hình thức và phương pháp giải quyết lợi ích
khác nhau. Ngoài ra cần đảm bảo cho các bên tham gia được bình đẳng với nhau cả
về quyền lợi cũng như trách nhiệm ( Nguyễn Thị Bích Hồng, 2008).
- Các mối liên kết phải được pháp lý hóa. Trong cơ chế thị trường hiện nay,
nhiều quan hệ kinh tế được phát triển dựa trên cơ sở tin cậy lẫn nhau của các bên
tham gia. Liên kết giữa họ thường xuyên bền chặt vì các bên đều đạt được lợi ích
của mình khi tham gia. Tuy nhiên, với mục tiêu hướng đến một nền sản xuất hiện
đại thì mọi quan hệ kinh tế cần phải được thể chế hóa bằng luật pháp dưới hình thức
hợp đồng kinh tế, điều lệ, hiệp ước của tổ chức liên kết… Khi các mối liên kết đã
được pháp lý hóa, một mặt nâng cao vị thế cho các bên tham gia, đồng thời cũng là


17


cơ sở quan trọng để ràng buộc trách nhiệm của họ cũng như tạo điều kiện thuận lợi
cho việc giải quyết khi có tranh chấp phát sinh ( Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2010).
Trong các nguyên tắc của liên kết kinh tế trên thì ba nguyên tắc đầu tiên là
quan trọng nhất và nhất thiết phải đản bảo. Các nguyên tắc của liên kết kinh tế có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên khi vận dụng vào thực tiễn cần phải được coi
trọng và kết hợp hài hòa, vì bất cứ nguyên tắc nào nếu bị vi phạm đều có thể khiến
cho liên kết không đạt hiệu quả mong muốn.
2.1.2.4 Mục tiêu và ý nghĩa của liên kết kinh tế
* Mục tiêu của liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế đã phát triển vô cùng mạnh mẽ ở nhiều cấp độ khác nhau với
nhiều loại hình đa dạng, bao gồm: Liên kết ngang, liên kết dọc, liên kết nghiêng,
liên kết hình sao, doanh nghiệp liên doanh, tập đoàn kinh doanh. Tuy nhiên, cho dù
ở cấp độ nào đi nữa, liên kết kinh tế cũng sẽ mang lại những lợi ích nhất định cho
các bên tham gia trên nhiều mặt.
Liên kết kinh tế nhằm tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua hợp đồng
kinh tế hoặc các quy chế hoạt động của từng tổ chức liên kết để tiến hành phân công
sản xuất chuyên môn hóa và hợp tác hóa, nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng của đơn
vị tham gia liên kết, góp phần nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm, nâng cao
thu nhập của các bên tham gia liên kết, cũng như tăng thu ngân sách cho Nhà nước
(Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2014).
Liên kết tạo ra thị trường chung, phân định hạn mức sản lượng cho từng đơn
vị thành viên, giá cả cho từng loại sản phẩm để bảo vệ lợi ích kinh tế của nhau, tạo
cho nhau có khoản lợi nhuận cao nhất.
Liên kết kinh tế giúp đỡ nhau có kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh và quản
lý, giúp đỡ nhau về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật và cán bộ quán lý, công
nhân kỹ thuật, cũng như thực hiện cho nhau các công việc cung ứng vật tư, tiêu thụ


18


sản phẩm, dịch vụ vận chuyển, thông tin, xử lý thông tin,.. các hoạt động này được
ghi thành hợp đồng kinh tế.
Tuy nhiên, liên kết kinh tế cũng có mặt tiêu cực là có thể tạo ra sự độc
quyền, không khuyến khích cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia thị trường, dẫn
đến gây thiệt hại cho người mua hoặc người bán. Ngoài ra, liên kết còn có thể dẫn
tới tình trạng sụp đổ dây chuyền khi một trong những chủ thể tham gia bị phá sản,
… gây mất ổn định cho nền kinh tế (Vũ Đức Hạnh, 2015).
Vì vậy, để đảm bảo sự thành công của các liên kết kinh tế, cần phải có một
môi trường chính sách minh bạch, bình đẳng giữa các thành phần tham gia. Mức độ
phát triển liên kết kinh tế còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, thiện chí hợp tác của các bên tham gia,…
* Ý nghĩa của liên kết kinh tế trong nền kinh tế xã hội
Loại bỏ được vai trò của tầng lớp trung gian nên trực tiếp bảo vệ được người
sản xuất khi tiêu thụ sản phẩm. Khuyến khích phát triển sản phẩm cung cấp cho
người tiêu dùng và nguyên liệu cho các ngành chế biến.
Liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến với hộ nông dân cung cấp nguyên
liệu cho phép xóa bỏ độc quyền với doanh nghiệp ép cấp, ép giá khi mua sản phẩm
của người nông dân.
Tương cường liên minh công nông: việc chuyển đổi phương thức sản xuất
nông nghiệp tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa thì việc liên minh công nông có
ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó giúp quá trình sản xuất, tiêu thụ hiệu quả hơn,.
Thực hiện quan hệ hợp tác: qua liên kết tăng cường quan hệ hợp tác giữa các
bên, giúp cho quan hệ cung cầu phù hợp và hiệu quả hơn.
Giải quyết quan hệ phân phối: thông qua liên kết vấn đề phân phối thu nhập,
trách nhiệm quyền hạn của các bên tham gia liên kết được cụ thể hóa hơn, sản phẩm
đến với người tiêu dùng nhanh hơn.


19


Thúc đẩy nhanh tiến bộ khoa học – kỹ thuật: liên kết giúp cho việc vận dụng,
sử dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào trong sản xuất sẽ đem lại hiệu quả cao hơn, chất
lượng sản phẩm làm ra tốt hơn (Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2010).
Tạo sự gắn kết bốn nhà khi cùng tham gia liên kết thì hiệu quả kinh tế sẽ cao
hơn, đồng bộ hơn trong thực hiện. Với việc tham gia liên kết thì tình trạng chồng
chéo về cơ chế chính sách sẽ được hạn chế tối đa thay vào đó là một chính sách
đồng bộ trong sản xuất. Sự có mặt của các nhà khoa học, tiến bộ kỹ thuật được cập
nhật và áp dụng thường xuyên trong sản xuất thay thế những kỹ thuật lạc hậu không
hiệu quả, giống cây, con cho năng suất hiệu quả thấp. Còn với doanh nghiệp và hộ
nông dân họ yên tâm hơn trong sản xuất, mạnh dạn đầu tư, ổn định các yếu tố đầu
vào và thị trường đầu ra, giảm thiểu rủi ro cũng như được chia sẻ rủi ro trong sản
xuất với sự liên kết như vậy sẽ đạt hiệu quả kinh tế cao nhất trong quá trình sản xuất
kinh doanh (Trần Văn Hiếu, 2005).
Nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất lưu thông hàng hóa, giúp cho nền
kinh tế nói chung và nền nông nghiệp nói riêng ngày càng phát triển bền vững phù
hợp với quá trình hội nhập và phát triển của nền kinh tế đất nước theo định hướng
XHCN.
Như vậy, liên kết không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế mà còn có
ý nghĩa về mặt xã hội, nó giúp nâng cao hiệu quả trong quá trình sản xuất kinh
doanh, giá cả, sản lượng, thị trường cung cầu sản phẩm và thu nhập của người dân
ổn định. Thông qua liên kết giúp cho nền kinh tế và nền nông nghiệp ngày càng
phát triển bền vững phù hợp với xu thế hội nhập chung và sự phát triển của nền
kinh tế thế giới.
Từ lợi ích nhiều mặt của mối liên kết này đem lại mà việc nghiên cứu, duy trì
và phát triển loại hình liên kết này là một xu thế, là tất yếu của hội nhập phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia.


20


×