Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

công tác xã hội với người nhiễm HIV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.68 KB, 29 trang )

Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

Lời mở đầu
Hiện nay, kinh tế xã hội đang từng ngày phát triển mạnh mẽ. Thế giới đang đi lên
trong kỉ nguyên khoa học công nghệ. Nền kinh tế thị trường đã mang lại cho nhân
loại những bước tiến kinh ngạc về tất cả mọi mặt. Tuy nhiên, chính sự phát triển
mạnh mẽ đó lại mang theo nhiều những mặt trái của xã hội, một trong những số đó là
tệ nạn xã hội, mà trong đó phải nói tới đại dịch HIV/AIDS. Điều này đã gây ra rất
nhiều những khó khăn, cản trở đối với sự phát triển của các quốc gia trên thế giới.
HIV/AIDS là một đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với tính amngj, sức
khỏe con người và tương lai, nói giống của quốc gia, các dân tộc trên toàn cầu, tác
động trực tiếp tới sự phát triển kinh tế, văn hóa, trật tự, an toàn xã hôi, đe dọa sự phát
triển bền vững của đất nước. Kể từ khi loài người phát hiện trường hợp đầu tiên
nhiễm HIV trên thế giới, không lâu sau, Việt Nam cũng không phải là một nước
ngoại lệ đới với đại dịch này, cho đến nay Việt Nam đã hơn 20 năm đươcng đầu và
đối phó với đại dịch HIV/AIDS. Theo số liệu thống kê của “ Uỷ ban Quốc gia phòng
chống HIV/AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm” đến cuối năm 2010 cả
nước có 183.938 người nhiễm HIV đang còn sống, trong đó có 44.022 người ở giai
đoạn AIDS và kể từ đầu vụ dịch đến nay đã có 49.477 người tử vong do HIV/ AIDS
đã xuât hiện ở 100% tỉnh, thành phố từ năm 1998, đến cuối năm 2010, 97,9% số
quận, huyện và trên 75,23% số xã,phường có người nhiễm HIV được báo cáo.
Vì tính cấp thiết của dịch HIV/AIDS nên em chọn đề tài “Công tác xã hội với
người nhiễm HIV” làm đề tài tiểu luận của mình.
Ngoài mở đầu và kết luận bài tiểu luận gồm 4 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận.
Phần 2: Thực trạng
Phần 3: Công tác trợ giúp và phòng chống kỳ thị.
Phần 4: Nhận xét và kiến nghị.

1




Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

Phần 1: Cơ sở lý luận.
1. HIV/AIDS là gì?
HIV/AIDS (Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, viết tắt từ Human
immunodeficiency virus infection / acquired immunodeficiency syndrome của tiếng
Anh) hay bệnh liệt kháng (tê liệt khả năng đề kháng) là một bệnh của hệ miễn dịch,
gây ra do bị nhiễm virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV). Giai đoạn đầu khi vừa
nhiễm virus, người bệnh thường có những triệu chứng giống bệnh cúm trong một thời
gian ngắn. Sau đó, bệnh nhân không có dấu hiệu gì trong một thời gian dài. Khi bệnh
tiến triển, nó gây ảnh hưởng ngày càng nhiều với hệ miễn dịch, làm cho bệnh nhân dễ
mắc phải các nhiễm trùng, như các loại nhiễm trùng cơ hội hoặc các khối u, là những
bệnh mà người có hệ miễn dịch hoạt động bình thường khó có thể mắc phải.
HIV lây truyền chủ yếu qua quan hệ tình dục không an toàn (bao gồm cả quan hệ
tình dục qua đường hậu môn và thậm chí bằng miệng), qua việc truyền máu từ nguồn
đã bị nhiễm bệnh, qua dùng chung kim tiêm, và từ mẹ sang con: trong khi mang thai,
khi sinh (lây truyền chu sinh), hoặc khi cho con bú.Một số chất dịch của cơ thể như
nước bọt và nước mắt không lây truyền HIV. Phòng chống lây nhiễm HIV, chủ yếu
thông qua các chương trình trao đổi kim tiêm và tình dục an toàn, là một chiến dịch
quan trọng để kiểm soát sự lây lan của căn bệnh này. Tuy bệnh không thể chữa lành
hoặc có thuốc chủng ngừa, tuy nhiên điều trị bằng thuốc kháng virus có thể làm chậm
tiến trình của bệnh và kéo dài tuổi thọ của người bệnh gần như người thường. Tuy
điều trị bằng thuốc kháng virus có thể làm giảm nguy cơ tử vong và các biến chứng
từ bệnh này, nhưng rất tốn kém và có thể gây ra các tác dụng phụ.
Nhiễm HIV ở người được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xem như là đại dịch.
Việc chủ quan đối với HIV càng làm tăng nguy cơ bị lây bệnh.Từ khi phát hiện ra
HIV vào năm 1981 cho đến năm 2006, AIDS đã giết chết hơn 25 triệu người. Khoảng

0,6% dân số thế giới bị nhiễm HIV. Năm 2009, toàn thế giới có 1,8 triệu người mắc
bệnh AIDS, giảm so với mức đỉnh là 2,1 triệu người trong năm 2004.Khoảng 260.000
trẻ em chết vì AIDS trong năm 2009.Một con số không cân xứng của số người tử
vong do AIDS ở vùng Châu Phi hạ Sahara đã làm chậm tăng trưởng kinh tế và làm
trầm trọng thêm gánh nặng của nghèo đói. Trong năm 2005, ước tính ở châu Phi có
khoảng 90 triệu người bị nhiễm HIV, kết quả là một ước lượng tối thiểu sẽ có 18 triệu
trẻ mồ côi. Điều trị bằng thuốc kháng retrovirus có thể làm giảm cả hai tỉ lệ tử vong

2


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

và bệnh tật ở người nhiễm HIV. Mặc dù thuốc kháng retrovirus vẫn không có sẵn để
dùng rộng rãi, nhưng việc mở rộng các chương trình điều trị bằng thuốc kháng
retrovirus từ năm 2004 đã làm giảm số lượng các ca tử vong ở người mắc bệnh AIDS
và số ca nhiễm mới ở nhiều nơi trên thế giới.Tăng cường việc nhận thức và các biện
pháp phòng ngừa đối với người dân, cũng như quá trình diễn tiến tự nhiên của dịch
bệnh, cũng đóng một vai trò quan trọng. Thế mà, ước tính vẫn có khoảng 2,6 triệu
người mới bị nhiễm HIV trong năm 2009.
Hầu hết những người nhiễm HIV-1 nếu không được chữa trị sẽ tiến triển sang
giai đoạn AIDS.Người bệnh thường chết do nhiễm trùng cơ hội hoặc do các bệnh ác
tính liên quan đến sự giảm sút của hệ thống miễn dịchHIV tiến triển sang AIDS theo
một tỷ lệ biến thiên phụ thuộc vào sự tác động của các virus, cơ thể vật chủ, và yếu tố
môi trường. hầu hết sẽ chuyển sang giai đoạn AIDS trong vòng 10 năm sau khi nhiễm
HIV: một số trường hợp chuyển rất sớm, một số lại lâu hơn.Điều trị bằng kháng
retrovirus (ARV) có thể kéo dài tuổi thọ của người bị nhiễm HIV. Ngay cả khi HIV
chuyển sang giai đoạn AIDS với những triệu chứng đặc trưng, thì việc điều trị bằng
kháng retrovirus cũng có thể kéo dài tuổi thọ của bệnh nhân ước tính trung bình là

hơn 5 năm (thống kê năm 2005). Trong khi đó, nếu không điều trị bằng kháng
retrovirus thì bệnh nhân AIDS thường sẽ chết trong vòng 1 năm.
2. Luật pháp, chính sách về phòng chống HIV
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001.
Căn cứ Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân ngày 30 tháng 6 năm 1989.
Căn cứ Pháp lệnh Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn
dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) ngày 31 tháng 5 năm 1995.
Căn cứ Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang
Bộ.
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Y tế quyết định:
Điều 1. Phê duyệt Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến
năm 2010 và tầm nhìn 2020 (bản kèm theo) với những nội dung chủ yếu sau:
1. Quan điểm:

3


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

a) HIV/AIDS là đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với sức khỏe, tính mạng
của con người và tương lai nòi giống của dân tộc. HIV/AIDS tác động trực tiếp đến
phát triển kinh tế, văn hóa, trật tự và an toàn xã hội của quốc gia. Do đó, phòng,
chống HIV/AIDS phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu dài, cần
phải tăng cường phối hợp liên ngành và đẩy mạnh việc huy động toàn xã hội tham
gia.
b) Đầu tư cho công tác phòng, chống HIV/AIDS là đầu tư góp phần tạo ra sự phát
triển bền vững của đất nước mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội trực tiếp và gián tiếp.
Nhà nước bảo đảm việc huy động các nguồn lực đầu tư cho phòng, chống HIV/AIDS

từ nay đến năm 2010 và sau 2010 phù hợp với khả năng và điều kiện phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.
c) Chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người bị nhiễm HIV/AIDS, tăng cường
trách nhiệm của gia đình, xã hội với người nhiễm HIV/AIDS và của người nhiễm
HIV/AIDS với gia đình, xã hội.
d) Việt Nam cam kết thực hiện các Điều ước quốc tế về phòng, chống HIV/AIDS
đã ký kết hoặc gia nhập. Bảo đảm hệ thống pháp luật quốc gia về phòng, chống
HIV/AIDS phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế.
đ) Tăng cường hợp tác song phương, đa phương, mở rộng quan hệ, hợp tác quốc
tế với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và trên thế giới trong phòng,
chống HIV/AIDS.
e) Các hoạt động ưu tiên đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS trong thời
gian tới là:
Tăng cường thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi. phối hợp với
các chương trình khác để ngăn ngừa, giảm thiểu lây nhiễm HIV/AIDS.
Đẩy mạnh các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại.
Tăng cường tư vấn, chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV/AIDS.
Tăng cường năng lực quản lý, theo dõi, giám sát và đánh giá chương trình.

4


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

2. Mục tiêu Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đến năm
2010:
a) Mục tiêu chung:
Khống chế tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư dưới 0,3% vào năm
2010 và không tăng sau 2010. giảm tác hại của HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh

tế - xã hội.
b) Mục tiêu cụ thể:
100% các đơn vị, địa phương trên cả nước, đưa hoạt động phòng, chống
HIV/AIDS trở thành một trong các mục tiêu ưu tiên của chương trình phát triển kinh
tế - xã hội tại các đơn vị và địa phương.
Nâng cao hiểu biết của người dân về dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS: 100% nhân
dân khu vực thành thị và 80% ở khu vực nông thôn, miền núi hiểu đúng và biết cách
dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
Khống chế lây nhiễm HIV/AIDS từ nhóm nguy cơ cao ra cộng đồng thông qua
việc triển khai đồng bộ các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại: thực hiện các biện
pháp can thiệp đối với tất cả các đối tượng có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS.
100% tiêm chích an toàn và sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục có nguy cơ.
Bảo đảm người nhiễm HIV/AIDS được chăm sóc và điều trị thích hợp: 90%
người lớn nhiễm HIV/AIDS, 100% các bà mẹ mang thai nhiễm HIV/AIDS, 100% trẻ
em bị nhiễm hoặc bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS được quản lý, điều trị, chăm sóc và tư
vấn thích hợp, 70% bệnh nhân AIDS được điều trị bằng các thuốc điều trị đặc hiệu.
Hoàn thiện hệ thống quản lý, theo dõi, giám sát, đánh giá chương trình phòng,
chống HIV/AIDS: 100% tỉnh, thành phố có khả năng tự đánh giá và tự dự báo về
diễn biến của nhiễm HIV/AIDS ở địa phương, 100% xét nghiệm HIV tuân thủ quy
định tư vấn xét nghiệm tự nguyện.
Ngăn chặn lây nhiễm HIV/AIDS qua các dịch vụ y tế: bảo đảm 100% các đơn vị
máu và chế phẩm máu được sàng lọc HIV trước khi truyền ở tất cả các tuyến. 100%
cơ sở y tế thực hiện đúng quy định về vô khuẩn, sát khuẩn phòng lây nhiễm
HIV/AIDS.

5


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh


3. Tầm nhìn 2020:
a) Đẩy mạnh công tác phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2004 - 2010 để sau
năm 2010 giảm dần số lượng tuyệt đối người nhiễm HIV/AIDS, làm giảm các ảnh
hưởng kinh tế, xã hội do HIV/AIDS gây ra cho giai đoạn sau năm 2010.
b) Giai đoạn 2010 - 2020 nhà nước ta tiếp tục tăng cường chỉ đạo, đầu tư và đẩy
mạnh phối hợp liên ngành trong công tác phòng, chống HIV/AIDS nhằm giảm thiểu
tác động của dịch HIV/AIDS đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
c) Giai đoạn 2010 - 2020 chương trình phòng, chống HIV/AIDS sẽ phải tập trung
giải quyết hậu quả của HIV/AIDS. biện pháp dự phòng đặc hiệu bằng vắc xin, thuốc
điều trị HIV/AIDS có thể sẽ được sử dụng rộng rãi.
Ưu tiên của công tác phòng, chống HIV/AIDS trong giai đoạn 2010 - 2020 là:
Dự phòng bằng các biện pháp kỹ thuật đặc hiệu.
Chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV/AIDS.
Chăm sóc các đối tượng bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
4. Các giải pháp chủ yếu:
a) Nhóm giải pháp về xã hội:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với công tác phòng, chống
HIV/AIDS. đưa công tác phòng, chống HIV/AIDS trở thành mục tiêu trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương.
Các cấp chính quyền địa phương đưa hoạt động phòng, chống HIV/AIDS vào kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Huy động toàn dân tham gia phòng,
chống HIV/AIDS nhằm từng bước ngăn chặn, đẩy lùi HIV/AIDS.
Xây dựng chương trình phòng, chống HIV/AIDS thành chương trình phối hợp
liên ngành, toàn diện, đặc biệt chú trọng việc lồng ghép có hiệu quả với các chương
trình phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm để ngăn ngừa lây nhiễm HIV/AIDS. huy
động mọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.

6



Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

Khuyến khích các tổ chức xã hội, tổ chức tôn giáo, tổ chức từ thiện, tổ chức phi
chính phủ, các doanh nghiệp, nhóm cộng đồng, người nhiễm HIV/AIDS cùng gia
đình tham gia công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chế độ, chính sách trong công tác phòng,
chống HIV/AIDS nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế và phù hợp với xu hướng hội nhập
của hệ thống pháp luật quốc gia trong phòng, chống HIV/AIDS với pháp luật quốc tế.
Tăng cường việc phổ biến, giáo dục pháp luật, tổ chức kiểm tra, thanh tra, giám sát
việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS.
Đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục và truyền thông thay đổi các hành vi có
nguy cơ. nâng cao số lượng, chất lượng, tính phù hợp và hiệu quả của các hoạt động
thông tin, giáo dục và truyền thông. Xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên gắn liền với
đội ngũ cộng tác viên y tế thôn, bản và cán bộ các ban, ngành, đoàn thể ở cơ sở xã,
phường. Phân công trách nhiệm cụ thể về thực hiện công tác thông tin, giáo dục và
truyền thông thay đổi hành vi cho từng Bộ, ngành, địa phương. đưa các nội dung về
dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS, giáo dục sức khỏe sinh sản vào trong chương trình
đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, giáo dục dạy
nghề và phổ thông.
Tăng cường tuyên truyền về chương trình can thiệp giảm thiểu tác hại nhằm tạo
môi trường thuận lợi cho việc thực hiện các biện pháp can thiệp. Triển khai chương
trình can thiệp giảm thiểu tác hại một cách đồng bộ bao gồm chương trình bơm kim
tiêm sạch, chương trình bao cao su. Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế để xây dựng và
áp dụng các mô hình triển khai chương trình bơm kim tiêm sạch, chương trình bao
cao su và các chương trình can thiệp khác ở Việt Nam.
Xây dựng hệ thống chăm sóc, hỗ trợ toàn diện cho người nhiễm HIV/AIDS.
khuyến khích việc hình thành các trung tâm chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm dựa vào
cộng đồng. nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người nhiễm HIV/AIDS đối với bản

thân, gia đình và cộng đồng để ngăn ngừa lây nhiễm HIV/AIDS.
b) Nhóm giải pháp về chuyên môn kỹ thuật:
Tăng cường hệ thống giám sát quốc gia về HIV/AIDS, xây dựng các phòng xét
nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế, từng bước triển khai hệ thống giám sát
đến các quận, huyện. Triển khai chương trình giám sát toàn diện (thế hệ 2) và tăng

7


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

cường sử dụng các dữ liệu giám sát phục vụ việc hoạch định chính sách. Tăng cường
và nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn, xét nghiệm tự nguyện HIV/AIDS.
Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật bảo đảm an toàn trong truyền
máu và chế phẩm máu, sàng lọc HIV 100% đơn vị máu và chế phẩm máu trước khi
truyền, từng bước nâng cao chất lượng xét nghiệm HIV trong sàng lọc máu, tăng
cường tuyên truyền, vận động và phát triển bền vững phong trào hiến máu nhân đạo.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho người dân về cách dự phòng lây nhiễm
HIV/AIDS qua các dịch vụ y tế và dịch vụ xã hội, cung cấp trang thiết bị vô trùng,
tiệt trùng cho các cơ sở y tế đặc biệt là y tế quận, huyện, xã, phường, hướng dẫn và
quản lý công tác dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS qua các dịch vụ y tế tại tất cả các cơ
sở y tế tư nhân.
Tăng cường khả năng tiếp cận với các thuốc điều trị đặc hiệu HIV/AIDS, xây
dựng chính sách về tiếp cận thuốc, đảm bảo cơ chế thuận lợi cho lưu thông và phân
phối thuốc điều trị đặc hiệu HIV/AIDS. Bảo đảm tính sẵn có, dễ tiếp cận đối với
thuốc điều trị đặc hiệu HIV/AIDS, khuyến khích việc nghiên cứu, áp dụng các thuốc
đông y trong điều trị hỗ trợ cho bệnh nhân HIV/AIDS.
Nâng cao nhận thức của người dân trong độ tuổi sinh đẻ về nguy cơ lây nhiễm
HIV/AIDS và khả năng lây truyền HIV/AIDS từ mẹ sang con, tổ chức điều trị dự

phòng lây truyền HIV/AIDS từ mẹ sang con và tổ chức tốt việc chăm sóc, điều trị trẻ
bị nhiễm HIV/AIDS và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Xây dựng mạng lưới giám sát các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục,
cung cấp trang thiết bị xét nghiệm, tăng cường chẩn đoán, điều trị các nhiễm khuẩn
lây truyền qua đường tình dục, tăng cường đào tạo cán bộ, lồng ghép triển khai hoạt
động phòng, chống HIV/AIDS với phòng, chống các nhiễm khuẩn lây truyền qua
đường tình dục.
Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan khoa học và các tổ chức nghiên cứu có
liên quan trong cả nước dưới sự điều phối thống nhất của tổ chức phòng, chống
HIV/AIDS. Hỗ trợ các tổ chức, cơ quan nghiên cứu khoa học triển khai các hoạt
động nghiên cứu, đầu tư ngân sách cho các hoạt động nghiên cứu, tăng cường các
hoạt động trao đổi, chuyển giao kỹ thuật và đào tạo chuyên gia giữa các cơ sở nghiên

8


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

cứu trong và ngoài nước. Tiến hành đánh giá chương trình phòng, chống HIV/AIDS
sau 02 năm, 05 năm thực hiện.
c) Nhóm giải pháp về nguồn lực và hợp tác quốc tế :
Tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ chuyên trách phòng, chống HIV/AIDS,
đẩy mạnh việc phân cấp và quản lý chương trình, xây dựng cơ chế phù hợp cho việc
thúc đẩy các tổ chức, cộng đồng kể cả người nhiễm tham gia quá trình xây dựng kế
hoạch phòng, chống HIV/AIDS. Ngoài ngân sách của trung ương cấp, ủy ban nhân
dân các cấp có trách nhiệm chủ động bố trí ngân sách của cấp mình đầu tư cho công
tác phòng, chống HIV/AIDS.
Khuyến khích và có các chính sách hỗ trợ cho việc nghiên cứu, sản xuất các loại
trang thiết bị, sinh phẩm, thuốc điều trị trong phòng, chống HIV/AIDS, tăng cường

việc chuyển giao kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và khuyến khích đầu tư.
Tăng dần mức đầu tư, bảo đảm kinh phí cho các hoạt động phòng, chống
HIV/AIDS, tăng cường huy động nguồn lực hỗ trợ từ các nước, các tổ chức quốc tế
và các nguồn kinh phí khác từ trong và ngoài nước cho chương trình phòng, chống
HIV/AIDS. Phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Mở rộng hợp tác quốc tế về phòng, chống HIV/AIDS, củng cố các mối quan hệ
hợp tác đã có, đồng thời tìm kiếm các khả năng hợp tác mới theo hướng đa phương
hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ. Phát huy tính chủ động quốc gia trong việc điều
phối, quản lý, sử dụng các dự án viện trợ. Ưu tiên cho các dự án hợp tác về hỗ trợ
vốn, hỗ trợ kỹ thuật và chuyển giao các công nghệ hiện đại. Tiếp tục cam kết và thực
hiện mạnh mẽ các quy định các tuyên bố mà nhà nước ta đã tham gia ký kết hoặc gia
nhập.
Điều 2. Các chương trình hành động của Chiến lược:
1. Chương trình thông tin giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi phòng lây
nhiễm HIV/AIDS. phối hợp với các chương trình phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại
dâm để ngăn ngừa lây nhiễm HIV/AIDS.
2. Chương trình can thiệp giảm thiểu tác hại dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
3. Chương trình chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS.

9


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

4. Chương trình giám sát HIV/AIDS, theo dõi, đánh giá chương trình.
5. Chương trình tiếp cận điều trị HIV/AIDS.
6. Chương trình dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS từ mẹ sang con.
7. Chương trình quản lý và điều trị các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình
dục.

8. Chương trình an toàn truyền máu.
9. Chương trình tăng cường năng lực và hợp tác quốc tế trong phòng, chống
HIV/AIDS.
Điều 2. Các chương trình hành động của Chiến lược:
1. Chương trình thông tin giáo dục và truyền thông thay đổi hành vi phòng lây
nhiễm HIV/AIDS. phối hợp với các chương trình phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại
dâm để ngăn ngừa lây nhiễm HIV/AIDS.
2. Chương trình can thiệp giảm thiểu tác hại dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS.
3. Chương trình chăm sóc, hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS.
4. Chương trình giám sát HIV/AIDS, theo dõi, đánh giá chương trình.
5. Chương trình tiếp cận điều trị HIV/AIDS.
6. Chương trình dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS từ mẹ sang con.
7. Chương trình quản lý và điều trị các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình
dục.
8. Chương trình an toàn truyền máu.
9. Chương trình tăng cường năng lực và hợp tác quốc tế trong phòng, chống
HIV/AIDS.
Điều 3. Tổ chức thực hiện
1. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm
trực tiếp chỉ đạo, triển khai thực hiện nội dung và các chương trình hành động của

10


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn 2020
trên địa bàn tỉnh, thành phố. Xây dựng và xác lập các mục tiêu phòng, chống
HIV/AIDS trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố. Ngoài

nguồn ngân sách trung ương cấp, các địa phương chủ động đầu tư ngân sách, nhân
lực, cơ sở vật chất cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS. Tập trung chỉ đạo triển
khai các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại bao gồm chương trình bơm kim tiêm
sạch, chương trình bao cao su dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS. Tổ chức tốt việc chăm
sóc, điều trị hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS.
2. Bộ Y tế có trách nhiệm hướng dẫn việc triển khai thực hiện Chiến lược quốc
gia phòng, chống HIV/AIDS từ nay đến 2010 và tầm nhìn 2020. phối hợp với các Bộ,
ngành là thành viên của ủy ban Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS và phòng, chống
tệ nạn ma túy, mại dâm và các cơ quan Trung ương có liên quan tổ chức chỉ đạo, triển
khai các nội dung của Chiến lược trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Bộ Y tế chỉ đạo theo ngành dọc các cơ quan phòng, chống HIV/AIDS các cấp.
Các cơ quan phòng, chống HIV/AIDS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có
trách nhiệm tham mưu giúp Chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp tổ chức triển khai
thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trong Chiến lược. theo dõi, giám sát việc thực hiện, tổ
chức sơ kết định kỳ, tổng kết và báo cáo kết quả thực hiện về Bộ Y tế để tổng hợp
báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
3. Bộ Văn hóa - Thông tin chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan Trung
ương, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam chỉ đạo cơ quan thông tin các cấp đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục,
truyền thông nhằm thay đổi hành vi phòng lây nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn toàn
quốc. Tập trung đưa thông tin đến người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn, đưa thông tin tiếp cận với các nhóm đối tượng có hành vi nguy cơ cao.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan Trung
ương, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai
chương trình giáo dục kiến thức và huấn luyện kỹ năng phòng, chống HIV/AIDS vào
trong chương trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, giáo dục dạy nghề và phổ thông phù hợp với yêu cầu của từng đối tượng.

11



Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Tài
chính và các Bộ, ngành liên quan, nghiên cứu xây dựng các chế độ, chính sách phù
hợp phục vụ công tác phòng, chống HIV/AIDS.
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm bố trí và cấp kịp thời
kinh phí cho các hoạt động của chương trình phòng, chống HIV/AIDS theo kế hoạch
ngân sách được Quốc hội phân bổ hàng năm. Tích cực huy động các nguồn tài trợ
trong và ngoài nước đầu tư cho công tác phòng, chống HIV/AIDS.
7. Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam
chủ trì, phối hợp với các cơ quan truyền thông, chỉ đạo các đài truyền hình, đài phát
thanh các cấp đưa các thông tin về dự phòng, chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS
thành nội dung thường xuyên của chương trình phát sóng. Xây dựng các chuyên mục,
chuyên đề về phòng, chống HIV/AIDS, chủ động đầu tư kinh phí cho việc xây dựng
và phát sóng các chương trình về phòng, chống HIV/AIDS.
8. Các Bộ, ngành là thành viên ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng,
chống tệ nạn ma tuý, mại dâm, các cơ quan thuộc Chính phủ, có trách nhiệm chủ
động xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS theo chức
năng, nhiệm vụ được giao và theo đặc thù của Bộ, ngành mình. chủ động đầu tư ngân
sách cho công tác này.
9. Đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng các đoàn thể chính trị xã hội tích cực
tham gia triển khai thực hiện Chiến lược này trong phạm vi hoạt động của mình.
Điều 4. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công
báo.
Điều 5. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu
trách nhiệm thi hành Quyết định này.


Phần 2: Thực trạng
1. Thực trạng HIV/AIDS ở Việt Nam
Tính đến ngày 31/8/2008, tổng số trường hợp nhiễm HIV trên toàn quốc là
132.048 người; số bệnh nhân đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 27.579 người; số ca
tử vong do nhiễm HIV là 40.717 người. Dịch đã lan rộng 100% tỉnh/thành phố,

12


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

97,37% quận/huyện và 67,48% xã/phường, trong đó, các tỉnh/thành phố có tỷ lệ
người nhiễm HIV hiện đang còn sống cao nhất là Thành phố Hồ Chí Minh có 31.917
người, Hà Nội có 13.447, Hải Phòng 6.161 người, Sơn La 5.080 người. Hiện nay,
diễn biến dịch ngày càng phức tạp hơn, số người chuyển sang giai đoạn AIDS và sẽ
tử vong có xu hướng tăng nhanh. Tỷ lệ nhiễm trung bình trên toàn quốc là 28,6% với
các tỷ lệ khác nhau ở các tỉnh/thành phố. Một số tỉnh có tỷ lệ nhiễm trung bình cao
như Quảng Ninh 54,5%; Thành phố Hồ Chí Minh 47,6%; Hải Phòng 46,25%; Cần
Thơ 45,0%; Thái Nguyên 40,75% và Điện Biên 36,83%
Phần lớn trường hợp nhiễm HIV ở Việt Nam nằm trong độ tuổi trẻ từ 20-39 tuổi
chiếm 83,39%, trong đó số người nhiễm HIV từ 20-29 tuổi chiếm 52,20%; từ 30-39
chiếm 31,19%. Tỷ lệ nhiễm ở độ tuổi từ 40-49 tuổi chiếm 8,05% và trên 50 tuổi
chiếm 1,75%. Nhiễm HIV ở lứa tuổi vị thành niên từ 14-19 tuổi chiếm 4,22%, các
trường hợp nhiễm ở trẻ em dưới 13 tuổi chiếm 1,78%. ở nước ta, HIV chủ yếu qua
con đường tiêm chích ma tuý không an toàn. Đầu những năm 90, có tới 80% người
nhiễm HIV là do tiêm chính ma tuý, đến cuối những năm 90 tỷ lệ này tuy có giảm
xuống song vẫn còn khoảng 70%. Đến nay, số người nhiễm HIV do tiêm chính ma
tuý giảm xuống còn 44,35%.
Có sự khác biệt lớn về thời gian xuất hiện dịch HIV tại các địa phương. Dịch

HIV xuất hiện đầu tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số nơi thuộc vùng Đông
Bắc, trong khi các vùng miền khác của đất nước, dịch mới xuất hiện gần đây. Sự khác
biệt này đã đưa đến thực tế là các ca nhiễm HIV tập trung theo vùng địa lý, tại một số
tỉnh và các thành phố lớn, nơi có dịch chủ yếu xảy ra trong các nhóm tiêm chích ma
tuý, mại dâm, tình dục đồng giới. Lây nhiễm có liên quan đến sử dụng ma tuý tập
trung chủ yếu tại các tỉnh thành lớn phía Bắc như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Lạng Sơn
và Hà Nội. Tại các tỉnh phía Nam, lây nhiễm HIV lan nhanh theo 2 đường lây song
hành: lây nhiễm qua đường tình dục khác giới và tiêm chích ma tuý. Các tỉnh gần
hoặc giáp biên giới với Campuchia như An Giang, Kiên Giang và Cần Thơ có tỉ lệ
lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục khác giới rất cao.
Trong thực tế, Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn trong công cuộc đấu tranh
phòng, chống HIV/AIDS, song bệnh dịch HIV/AIDS tiếp tục gia tăng, số người
nhiễm HIV/AIDS vẫn tăng nhanh, đối tượng nhiễm HIV có xu hướng trẻ hoá, diễn
biến ngày càng phức tạp về quy mô, hình thức lây nhiễm. Do đó, việc “khống chế tỷ
lệ nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư dưới 0,3% vào năm 2010 và không tăng
sau 2010; giảm tác hại của HIV/AIDS đối với sự phát triển kinh tế - xã hội”, là nhiệm
vụ chiến lược của Đảng, Chính phủ và toàn xã hội. Để thực hiện được mục tiêu này,

13


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

công tác tổ chức, chỉ đạo thực hiện phòng, chống HIV/AIDS phải được coi làm
nhiệm vụ chính trị. Đó chính là quá trình hiện thực hoá chủ trương, đường lối, chính
sách phòng, chống HIV/AIDS của Đảng, Nhà nước vào điều kiện, hoàn cảnh của
từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đơn vị cụ thể. Đảng ta chỉ rõ: “Các cấp Uỷ
đảng và các cấp chính quyền cần xác định rõ phòng, chống HIV/AIDS là nhiệm vụ
vừa cấp bách, vừa lâu dài”. Mặt khác, cần đánh giá, rà soát lại các văn bản, chỉ thị,

nghị quyết về phòng chống HIV/AIDS và kịp thời bổ sung, sửa đổi các văn bản cho
phù hợp với tình hình mới, đặc biệt chú trọng Chỉ thị 52-CT/TW và Chỉ thị 54/CTTW của Ban Bí thư Trung ương Đảng; Chỉ thị 02/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ;
Pháp lệnh Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
ở người (HIV/AIDS) đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Khoá IX thông qua. Đối
với các địa bàn đại dịch HIV/AIDS phát triển mạnh, cần có các nghị quyết chuyên đề
riêng phù hợp với địa phương mình.
HIV/AIDS tác động trực tiếp đến kinh tế, văn hoá và trật tự an toàn xã hội, là mối
hiểm hoạ đối với sức khoẻ, tính mạng của con người và tương lai nòi giống của dân
tộc. Do vậy, phòng, chống HIV/AIDS là trách nhiệm của các cấp, ngành và toàn xã
hội chứ không chỉ là công việc của một vài ngành chức năng, một vài nhóm người
đơn lẻ. Không chỉ những cán bộ, cơ quan được phân công hay có chuyên môn mới có
nhiệm vụ tham gia phòng, chống HIV/AIDS mà trái lại, mỗi người dù ở cương vị,
cấp nào, làm ở đâu, đều phải là một hạt nhân tích cực, tiêu biểu trong công cuộc
phòng, chống HIV/AIDS. Trong thực tế, không được sao nhãng, coi nhẹ công tác
phòng, chống HIV/AIDS cho dù tại địa phương, ngành, đơn vị vấn đề HIV/AIDS
chưa đến mức nghiêm trọng. Phòng, chống HIV/AIDS phải coi là nhiệm vụ ưu tiên,
vừa cấp bách, vừa lâu dài và đầu tư cho công tác phòng, chống HIV/AIDS là đầu tư
góp phần tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước.
HIV/AIDS là một bệnh mới nổi lên trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ XX. Cấp độ
toàn cầu, dịch HIV/AIDS là một trong những mối đe doạ nguy hiểm nhất đối với phát
triển con người. Hiểm hoạ HIV/AIDS mang tính toàn cầu và đang gia tăng nhanh ở
các nước đang phát triển. Những hậu quả mà HIV/AIDS gây ra là rất nguy hiểm, ảnh
hưởng rất lớn tới sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc và toàn thế giới. Ở Việt Nam
tình hình lây nhiễm HIV/AIDS vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp. HIV/AIDS xuất hiện
ở tất cả các tỉnh, thành phố và có xu hướng ngày càng lan rộng. Ngoài các nhóm có
nguy cơ lây nhiễm cao như: tiêm chích ma tuý, mại dâm, tình dục đồng giới..., tỷ lệ
nhiễm HIV/AIDS ở phụ nữ mang thai, trẻ em và thanh niên tăng nhanh. HIV/AIDS
đang đe doạ trực tiếp đến sức khoẻ, tính mạng con người, trật tự an toàn xã hội, đến

14



Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

sự phát triển của đất nước, tương lai của giống nòi. Do đó, cần đẩy mạnh xã hội hoá
công tác phòng, chống HIV/AIDS nhằm phát huy truyền thống tương thân, tương ái,
chăm sóc, giúp đỡ của cộng đồng, chống kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm
HIV/AIDS. Chỉ có như vậy, công tác phòng, chống HIV/AIDS mới đem lại những
kết quả to lớn, nó không chỉ góp phần ổn định xã hội trong giai đoạn trước mắt mà
còn đảm bảo sự phát triển bền vững, thịnh vượng của quốc gia, dân tộc.
2. Thực trạng HIV/AIDS tại tỉnh Nam Định
Tính đến ngày 30-10-2013 toàn tỉnh có trên 4.750 người nhiễm HIV được phát
hiện ở 96% số xã, phường của 10 huyện, thành phố trong tỉnh, trong đó, số bệnh nhân
AIDS là 2.374 người, số bệnh nhân AIDS đã tử vong là gần 1.200 người. Với sự “vào
cuộc” tích cực của ngành chức năng, các ban, ngành, đoàn thể và sự giúp đỡ của các
dự án Life Gap, Quỹ Toàn cầu phòng, chống HIV/AIDS, dự án Ngân hàng Thế giới
(WB), tỉnh ta đã có được sự chuẩn bị cả về cơ chế, chính sách, hệ thống tổ chức, nhân
lực, vật lực cho mục tiêu “Không còn người nhiễm mới HIV”, công tác phòng, chống
HIV/AIDS ở tỉnh ta đã đạt được kết quả đáng ghi nhận so với giai đoạn 2005-2010.
Tỷ lệ lây nhiễm HIV cơ bản được khống chế, thể hiện ở việc tỷ lệ nhiễm mới HIV đã
giảm dần qua các năm (năm 2006 phát hiện 506 trường hợp, năm 2011 là 255 trường
hợp và năm 2012 là trên 240 trường hợp). Số tử vong do AIDS cũng giảm dần qua
các năm (năm 2006 là 153 trường hợp, năm 2011 là 69 trường hợp và năm 2012 là 57
trường hợp).
Tuy nhiên, công tác phòng, chống HIV/AIDS vẫn chưa thực sự bền vững, còn
nhiều khó khăn thách thức. Đội ngũ cán bộ chuyên trách phòng, chống HIV/AIDS ở
tất cả các tuyến từ tỉnh đến huyện, xã còn thiếu; trong đó tuyến xã, phường chủ yếu
cán bộ làm việc kiêm nhiệm; nhiều cán bộ có kinh nghiệm xin chuyển công tác do
công việc căng thẳng, vất vả mà chưa có chế độ đãi ngộ, phụ cấp ngành nghề đặc thù.

Bên cạnh đó, độ bao phủ các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS chưa cao, 4 huyện
chưa có phòng khám ngoại trú, 3 huyện chưa triển khai Chương trình can thiệp giảm
tác hại. Chương trình Methadone mới triển khai được ở 4 huyện, thành phố. Kinh phí
đầu tư cho công tác phòng, chống HIV/AIDS hằng năm đều tăng song vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu, công tác quản lý người nhiễm còn gặp nhiều khó khăn do họ
thường xuyên thay đổi nơi sinh sống. Nhiều trường hợp khi làm xét nghiệm phát hiện
HIV nhưng không muốn công khai danh tính hoặc công khai danh tính không chính
xác gây khó khăn cho việc quản lý, chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm… Trong khi đó,

15


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

dịch HIV/AIDS vẫn tiếp tục có các diễn biến phức tạp. Theo Trung tâm phòng, chống
HIV/AIDS tỉnh, đường lây truyền HIV đang có chiều hướng thay đổi. Những năm
trước, HIV lây truyền chủ yếu qua đường máu song hiện nay đang có xu hướng giảm
dần (năm 2005 là 26,8%, năm 2012 là 8%), nhưng lại gia tăng nhanh lây qua đường
tình dục (năm 2006, chỉ chiếm 18%, đến tháng 6-2013 tăng lên gần 30%) và có tính
chất nguy hiểm vì nó hướng tới cả những đối tượng có nguy cơ thấp, khó phát hiện
để phòng, chống. Nhiều đối tượng có các yếu tố hành vi lây nhiễm kép (vừa mua bán
dâm, vừa nghiện ma túy)… Do đó, mặc dù đã làm giảm được tốc độ lây lan của HIV,
nhưng dịch HIV/AIDS vẫn diễn biến khó lường... Một khó khăn nữa là các dự án tài
trợ nước ngoài đã gần hết thời hạn (Dự án WB giai đoạn 2 từ tháng 7-2010, kết thúc
vào năm 2013) và chuyển sang giúp đỡ về mặt kỹ thuật, chuyên môn, dẫn đến thiếu
hụt nguồn kinh phí duy trì các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS, trong khi Chương
trình mục tiêu quốc gia phòng, chống HIV/AIDS vẫn đang được triển khai toàn diện
với các hoạt động: truyền thông thay đổi hành vi; can thiệp giảm tác hại: phân phát
bơm kim tiêm sạch, bao cao su, điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện

bằng Methadone, chăm sóc điều trị cho bệnh nhân AIDS tại các phòng khám ngoại
trú, tại nhà và tại cộng đồng… Việc cắt giảm các dự án tài trợ ảnh hưởng không nhỏ
tới công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Để giải quyết khó khăn, tỉnh ta đã đề ra các giải pháp như: Tăng cường sự lãnh
đạo, chỉ đạo của Đảng và chính quyền các cấp đối với công tác phòng, chống
HIV/AIDS; tổ chức thực hiện tốt pháp luật và các chế độ chính sách đối với người
nhiễm HIV; đẩy mạnh công tác dự phòng lây nhiễm HIV; thực hiện tốt công tác điều
trị, chăm sóc người nhiễm HIV; tăng cường giám sát dịch HIV/AIDS… Trong đó,
biện pháp đầu tiên để phòng, chống HIV là việc truyền thông cung cấp kiến thức
nhằm giúp cho người dân “hiểu đúng bệnh để phòng bệnh”. Tuy nhiên, việc triển
khai các hoạt động truyền thông phòng, chống HIV/AIDS cũng gặp khó khăn do một
bộ phận nhân dân thiếu kiến thức về HIV/AIDS... Mặt khác, công tác điều trị cho
bệnh nhân AIDS cũng gặp trở ngại, do khi bị nhiễm HIV/AIDS, người bệnh thường
có nguy cơ cao nhiễm trùng cơ hội khác trong khi đa phần người nhiễm AIDS là
những người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không có khả năng chi trả cho việc
kết hợp điều trị các bệnh phát sinh. Tình trạng phân biệt đối xử của cộng đồng đối với
người bệnh cũng là một rào cản khiến người bệnh không dám tiếp cận với các dịch
vụ chăm sóc, điều trị.

16


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

Để thực hiện mục tiêu “Không còn người nhiễm mới HIV”, cần phối hợp
Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống HIV/AIDS với các dự án khác đang
triển khai trên địa bàn tỉnh để tăng cường hoạt động thông tin giáo dục, truyền thông
trong cộng đồng dân cư. Tăng cường công tác tập huấn, nâng cao năng lực, cập nhật
thông tin thường xuyên cho CTV, cán bộ trạm y tế huyện, xã, phường nâng cao tinh

thần trách nhiệm phục vụ công tác phòng, chống HIV/AIDS; tổ chức đào tạo nâng
cao năng lực và cập nhật thông tin thường xuyên cho đội ngũ CTV, giáo dục viên
đồng đẳng hằng năm. Các cấp, các ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội và các tầng
lớp nhân dân trong tỉnh cần tiếp tục nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và hành vi
về phòng, chống HIV/AIDS, tạo phong trào quần chúng sâu rộng trong công cuộc
phòng, chống HIV/AIDS.

Phần 3: Công tác trợ giúp và phòng chống kỳ thị.
1. Vấn đề kỳ thị và công tác phòng chống kỳ thị người có HIV tại Nam Định
Những năm trước, sự phân biệt, kỳ thị đối xử với người nhiễm HIV/AIDS trên
địa bàn tỉnh rất nặng nề, đặc biệt là với người sử dụng ma túy bị nhiễm HIV. Tuy
nhiên, thời gian gần đây, sau khi thực hiện nhiều biện pháp cụ thể, mức độ phân biệt
đối xử, kỳ thị đã giảm đáng kể, từ đó góp phần phòng, chống HIV/AIDS hiệu quả
hơn.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 100% huyện, xã, phường có ban chỉ đạo phòng,
chống HIV/AIDS; 96 xã, phường, thị trấn được triển khai chương trình giảm tác hại.
Năm 2009 về trước, sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người có H. trên địa bàn rất nặng
nề. Do mọi người quan niệm, HIV/AIDS và nghiện ma túy là tệ nạn xã hội gắn với
hành vi xấu nên cần cách ly, bị coi thường, thậm chí là khinh thường, ngược đãi.
Những gia đình có người nhiễm HIV sống cách ly, cho người có H. ở riêng, bỏ rơi
hoặc đuổi khỏi nhà. Nhiều dịch vụ xã hội cũng có biểu hiện phân biệt, kỳ thị với
người nhiệm HIV/AIDS, như: Đùn đẩy và cách ly bệnh nhân, cho học sinh ngồi ăn và
chơi riêng, từ chối phục vụ người nhiễm H… Trước thực trạng đó, các cấp, ban,
ngành trên địa bàn tỉnh đã tích cực thực hiện nhiều biện pháp để giảm sự phân biệt,
kỳ thị đối với người nhiễm HIV/AIDS. Trong đó, chú trọng công tác thông tin, truyền
thông và trợ giúp những người nhiễm HIV/AIDS.
Do bị kỳ thị và phân biệt đối xử tại nơi làm việc, những người nhiễm HIV bị rơi
vào tình trạng thất nghiệp hoặc buộc phải thay đổi công việc thường xuyên, phải thay

17



Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

đổi nơi ở hoặc không thuê được nhà ở, phải vật lộn để bảo đảm kế sinh nhai cho bản
thân. Ngoài ra, sự kỳ thị và phân biệt đối xử còn xảy ra ở các cơ sở phi chính quy, ở
gia đình, cộng đồng, bạn bè và hàng xóm, như bị vợ, chồng bỏ rơi hoặc người thân
trong gia đình ruồng rẫy, bị cộng đồng xã hội tẩy chay, mất công ăn việc làm và tài
sản; bị đuổi học, bị từ chối khám sức khỏe tại các cơ sở y tế, thiếu sự chăm sóc và hỗ
trợ, thậm chí bị bạo hành. Chưa kể đến việc phải đối mặt với nguy cơ bị kỳ thị và
phân biệt đối xử, hoặc sợ bị kỳ thị và phân biệt đối xử có thể dẫn tới hậu quả là số
lượng người đi xét nghiệm tự nguyện ít đi, ít bộc lộ tình trạng nhiễm HIV của mình
với người khác, ít thực hiện những hành vị bảo vệ và tiếp cận các dịch vụ điều trị,
chăm sóc, hỗ trợ.
Với các hình thức kỳ thị phổ biến như xì xào, bàn tán, xúc phạm, nhục mạ, thậm
chí bị bạo hành về thân thể. Do vậy mà người nhiễm HIV đã cố tình che dấu không
tiết lộ tình trạng nhiễm HIV của mình ra ngoài phạm vi gia đình, đặc biệt có tỷ lệ
đáng kể người nhiễm HIV không cho chồng, vợ hoặc bạn tình biết họ bị nhiễm HIV.
Có thể thấy, sự kỳ thị đối với các hành vi liên quan đến HIV và AIDS có tác động rất
lớn đến người nhiễm HIV, có thể khiến họ cảm thấy không an toàn trong xã hội, hình
thành tâm lý bị cách ly, cô lập và tình trạng trở nên trầm trọng hơn khi xuất hiện sự tự
kỳ thị của chính bản thân người nhiễm HIV.
Kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV ngày càng ảnh hưởng nghiêm
trọng đến các hoạt động dự phòng, chăm sóc cũng như tiếp cận các dịch vụ thiết yếu
của người nhiễm HIV/AIDS. Để chống sự kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người
nhiễm HIV/AIDS hiệu quả hơn và có thể cải thiện cuộc sống của người nhiễm HIV
ngày càng tốt hơn, thời gian tới cần nỗ lực hơn nữa để bảo đảm tính bảo mật của
người nhiễm HIV trong quá trình từ xét nghiệm đến điều trị, đặc biệt là tại các cơ sở
y tế và dịch vụ xã hội. Đồng thời, tiến hành nghiên cứu nhằm đưa ra các quy định

pháp luật cụ thể để bảo vệ quyền của người nhiễm HIV, cùng với đó là nỗ lực hơn
nữa để bảo đảm việc tuân thủ và triển khai thực hiện các chính sách liên quan. Mặt
khác, cũng cần có cơ chế để hỗ trợ chính những người nhiễm HIV/AIDS trong việc
tìm kiếm trợ giúp pháp lý để giải quyết các vi phạm về quyền của họ như khi bị buộc
thôi việc, bị cản trở không được khám chữa bệnh hoặc học tập vì lý do nhiễm HIV.
Ngoài ra, việc giáo dục và huy động sự tham gia của cộng đồng và xã hội cũng
rất quan trọng, vì đa số trường hợp kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV
bắt nguồn từ trong cộng đồng. Trong đó, giáo dục cần bao gồm cả nâng cao nhận

18


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

thức về HIV, hành vi nguy cơ để giảm bớt sự lo lắng và sợ hãi của cộng đồng, bởi
đây đang là nguyên nhân dẫn tới sự kỳ thị của họ đối với HIV/AIDS. Thúc đẩy để
cộng đồng và xã hội tham gia mạnh mẽ hơn nữa vào các hoạt động phòng, chống
HIV/AIDS, với các biện pháp cụ thể nhằm giúp người nhiễm HIV xây dựng lòng tự
tin, giảm kỳ thị và học về các quy định luật pháp liên quan về chống kỳ thị và phân
biệt đối xử.
Để giảm phân biệt, kỳ thị với người có H. hoạt động truyền thông được đẩy mạnh
với nhiều hình thức: Truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng và tại
cộng đồng, trong đó, ưu tiên cho các nhóm có nguy cơ cao. Trung bình, mỗi năm trên
địa bàn tỉnh đã truyền thông cho trên 9.000 lượt người nghe; phát hành trên 20.000
tài liệu, tổ chức mít tinh, diễu hành nhân tháng hành động quốc gia phòng, chống
HIV/AIDS với trên 10.000 người tham gia. Đẩy mạnh hoạt động chống phân biệt, kỳ
thị, từ năm 2009 đến nay, hội nghị vận động sự đồng thuận cấp tỉnh và cấp huyện, thị
xã về công tác phòng, chống HIV/AIDS được tổ chức thường xuyên từ cấp tỉnh đến
cấp huyện. Qua mỗi buổi đồng thuận đã khuyến khích, tạo điều kiện cho người nhiễm

HIV/AIDS và người tiêm chích ma túy thành lập các nhóm tự lực, câu lạc bộ phòng,
chống HIV/AIDS; thực hiện phong trào “3 tự”, công khai danh tính và tham gia các
hoạt động phòng, chống HIV/AIDS ở cộng đồng.
Trợ giúp những người nhiễm HIV/AIDS đặc biệt với trẻ em, từ đầu năm đến nay,
Trung tâm đã phối hợp với phòng giáo dục – đào tạo các huyện mở 5 trường học có
học sinh nhiễm HIV/AIDS không bị phân biệt, kỳ thị. Các cán bộ y tế cũng thường
xuyên xuống các trường học, gần gũi, động viên và giúp đỡ các em. Từ đó, trẻ có H.
không chỉ được học tập mà còn có cơ hội hòa nhập với cộng đồng. Cùng với đó, từ
đầu năm đến nay, các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức từ thiện cũng vận động, quyên
góp trên 300 triệu đồng ủng hộ người nhiễm HIV, đặc biệt là trẻ em nhiễm HIV và trẻ
bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Các câu lạc bộ nhóm, như: Hoa Hướng Dương, Tia
Nắng Mới, Chân Trời Mới… thành lập và hoạt động đã giúp hàng trăm người nhiễm
HIV/AIDS và người nghiện chích ma túy có cơ hội giao lưu, học hỏi, tham gia các
diễn đàn để tự nói lên ý kiến, mong muốn của mình. Một trong những nhóm được
thành lập đi vào hoạt động đã phát huy hiệu quả đó là Hoa Hướng Dương với 245
phụ nữ nhiễm HIV tham gia sinh hoạt không chỉ chăm sóc sức khỏe và phòng lây
nhiễm mà còn tạo công ăn việc làm cho người có H., giúp nhau phát triển kinh tế,
vươn lên xóa đói giảm nghèo.

19


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

Với nhiều biện pháp tích cực, tình trạng phân biệt, kỳ thị đối với người nhiễm
HIV/AIDS giảm đáng kể. Đến nay, tỉnh ta là địa phương được Bộ Y tế đánh giá có
mức độ kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS ở mức độ thấp trong
toàn quốc.


2. Công tác trợ giúp người nhiễm HIV tại Nam Định
Qua thời gian 2 năm triển khai thực hiện thí điểm hoạt động trợ giúp pháp lý cho
người nhiễm HIV/AIDS từ tháng 9/2007 đến tháng 11/2009 trên địa bàn tỉnh Nam
Định, trung tâm đã thực hiện tư vấn cho 16 vụ việc, tham gia tố tụng 6 vụ việc. Nội
dung vướng mắc pháp luật của người nhiễm HIV chủ yếu là liên quan đến việc giải
quyết chế độ chính sách bảo trợ xã hội và một số vướng mắc liên quan đến đất đai; 06
vụ việc tham gia bào chữa để bảo vệ quyền lợi tại phiên toà liên quan đến các tội
Trộm cắp tài sản; Mua bán trái phép chất ma tuý. Những yêu cầu trợ giúp pháp lý của
đối tượng đã được Trung tâm tư vấn hướng dẫn cũng như cử Trợ giúp viên, Luật sư
tham gia tố tụng để bào chữa cho các đối tượng.
Về hoạt động truyền thông, bằng các hình thức tập huấn nghiệp vụ, sinh hoạt Câu
lạc bộ, trợ giúp pháp lý lưu động, nói chuyện chuyên đề về HIV, Biên soạn tờ gấp
pháp luật tuyên truyền về Luật phòng chống HIV. Cụ thể, Trung tâm đã phát 70 bộ tài
liệu về chủ đề HIV/AIDS tại Hội nghị tập huấn và 1.000 bản tờ gấp pháp luật về Luật
phòng chống HIV/AIDS tại các đợt sinh hoạt Câu lạc bộ, trợ giúp pháp lý lưu động;
chiếu băng đĩa VCD truyền thông về Luật phòng, chống HIV/AIDS, tuyên truyền
những hiểu biết cơ bản về HIV/AIDS và cách phòng tránh tại 13 đợt sinh hoạt Câu
lạc bộ cho hơn 600 đối tượng. Tổ chức lồng ghép tuyên truyền pháp luật về chủ đề
Luật phòng chống HIV/AIDS trên 20 đợt trợ giúp pháp lý lưu động với hơn 700
người dân tham gia. Các đối tượng được truyền thông là hội viên Câu lạc bộ, người
dân thuộc hộ nghèo, đối tượng chính sách và những đối tượng khác (là những đối
tượng có nguy cơ cao) trên địa bàn; Ngoài ra, đã phối hợp với Trung tâm phòng,
chống HIV/ADIS tổ chức sinh hoạt chuyên đề, hái hoa dân chủ về những kiến thức
pháp luật liên quan đến HIV tại buổi sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL xã Vĩnh Giang. Đặc
biệt trong năm 2009 Trung tâm đã phối hợp với Trung tâm phòng chống HIV/AIDS
tiến hành 6 đợt tập huấn về chủ đề HIV tại 03 Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý. Việc tuyên
truyền pháp luật HIV/AIDS giúp cho những đối tượng được trợ giúp pháp lý và nhân

20



Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

dân trên địa bàn có sự nhận thức đúng đắn với căn bệnh HIV và hạn chế thái độ phân
biệt kỳ thị đối với người nhiễm HIV trong cộng đồng, tổ chức 02 hội nghị tập huấn
nghiệp vụ trợ giúp pháp lý với các nội dung như: Luật phòng, chống HIV/AIDS;
Những hiểu biết cơ bản về HIV/AIDS và Kỹ năng Trợ giúp pháp lý cho người nhiễm
HIV/AIDS, chiếu Video về HIV/AIDS cho các đại biểu là các cộng tác viên cấp xã,
các thành viên chủ chốt của các Câu lạc bộ TGPL trong toàn tỉnh. Bên cạnh đó được
sự phối hợp với Sở Y tế, Trung tâm tham dự và tiến hành tập huấn về Luật HIV/AIDS
cho cán bộ y tế tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh và cán bộ y tế làm công tác HIV tại các
huyện, thị xã. Tham gia 01 buối sinh hoạt về chủ đề Luật phòng, chống HIV/AIDS tại
Câu lạc bộ của những người nhiễm HIV trên địa bàn tỉnh.
Tiến hành xây dựng và đã ký kết Chương trình phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam tỉnh, Sở Y Tế, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Cơ sở Giáo Dục
Hoàn Cát (thuộc Bộ Công An). Theo chương trình phối hợp, Sở Tư pháp thông qua
Trung tâm TGPL là cơ quan đầu mối chủ trì các hoạt động liên quan đến trợ giúp
pháp lý và tuyên truyền pháp luật cho người nhiễm HIV, xây dựng các kế hoạch khảo
sát nhu cầu trợ giúp pháp lý của người nhiễm HIV và giám sát hoạt động TGPL cho
người nhiễm HIV trên địa bàn tỉnh. Đối với Sở Y tế, thông qua Trung tâm phòng
chống HIV/AIDS có trách nhiệm phối hợp với Sở Tư pháp trong hoạt động khảo sát
cũng như phối hợp thực hiện hoạt động tuyên truyền, truyền thông nhằm thay đổi
hành vi phòng chống HIV/AIDS cho người dân.
Để hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV đạt kết quả, cần xây dựng
Chương trình phối hợp đối với các cơ quan liên quan đặc biệt là Sở Y tế, Trung tâm
phòng, chống HIV/AIDS, để thuận lợi trong việc phối hợp xác nhận và tiếp cận với
người nhiễm HIV/AIDS..
Cần tranh thủ các cộng tác viên ở cấp cơ sở xã, phường, thị trấn để khảo sát nhu
cầu trợ giúp của đối tượng nhiễm HIV. Đặc biệt là tranh thủ sự hợp tác của cán bộ y

tế trực tiếp làm công tác điều trị cho người nhiễm HIV để qua đó nắm bắt được hoàn
cảnh cũng như vướng mắc pháp luật của người nhiễm HIV để tìm biện pháp tiếp cận
hỗ trợ.
Hình thức sinh hoạt Câu lạc bộ về chủ đề HIV cần phong phú như: Tổ chức sinh
hoạt tại trụ sở hoặc tổ chức sinh hoạt văn nghệ quần chúng, hái hoa dân chủ trong đó
có chiếu Video về chủ đề HIV.

21


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

Gắn hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động của Trung tâm trợ giúp pháp lý và sinh
hoạt CLB tại địa phương với các hoạt động truyền thông và trợ giúp pháp lý cho
người nhiễm HIV tại cơ sở.
Theo Luật phòng chống HIV/AIDS thì người bị nhiễm HIV/AIDS được giữ bí
mật về danh tính nên chỉ có một số đối tượng được biết danh sách người nhiễm
HIV/AIDS nên trong quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn trong công tác xác định
đối tượng trợ giúp pháp lý.
Người nhiễm HIV/AIDS chưa thực sự chủ động đến với hoạt động trợ giúp pháp
lý nên công tác khảo sát nhu cầu trợ giúp pháp lý là rất quan trọng để phát hiện nhu
cầu trợ giúp pháp lý của người nhiễm HIV/AIDS.
Từ thực tiễn công tác trợ giúp pháp cho đối tượng người nhiễm HIV trên địa bàn
tỉnh Nam Định, để nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nhiễm
HIV cần xác định công tác trợ giúp pháp cho đối tượng người nhiễm HIV là nhiệm
vụ mang tính xã hội sâu sắc vì vậy cần có chính sách hỗ trợ đặc biệt, Cục trợ giúp
pháp lý cần hỗ trợ kinh phí để tổ chức sơ kết và rút kinh nghiệm giữa các cơ quan
tiến hành phối hợp, khảo sát nhu cầu trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV trên địa
bàn tỉnh. Thực hiện công tác phòng ngừa tại cộng đồng bằng hình thức tuyên truyền

pháp luật để nâng cao nhận thức cho người dân tại cơ sở và gắn hoạt động trợ giúp
pháp lý lưu động của Trung tâm trợ giúp pháp lý và sinh hoạt CLB tại địa phương với
các hoạt động truyền thông và trợ giúp pháp lý cho người nhiễm HIV tại cơ sở.
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 2 Nghị định 07/2007/NĐ-CP người bị nhiễm
HIV là đối tượng được trợ giúp pháp lý phải là người mất năng lực hành vị dân sự mà
không có nơi nương tựa. Hiện nay theo hỗ trợ của dự án trợ giúp pháp lý thì tất cả đối
tượng người nhiễm HIV đều được trợ giúp pháp lý tuy nhiên đến cuối năm 2009 sẽ
kết thúc hỗ trợ của dự án, do vậy việc thực hiện trợ giúp pháp lý cho đối tượng này sẽ
gặp rất nhiều khó khăn.
Các cơ quan thực hiện chương trình phối hợp cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ,
đặc biệt tư vấn xét nghiệm và điều trị cho người nhiễm HIV rất quan trọng cho việc
tiếp cận thực hiện hỗ trợ pháp lý một cách kịp thời.

22


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

Tăng cường công tác phối hợp giữa Trung tâm trợ giúp pháp lý và Trung tâm
phòng chống HIV/AIDS trong hoạt truyền thông và trợ giúp pháp lý cho người dân
tại cơ sở.
3. Đánh giá thực trạng tuân thủ luật pháp, chính sách trợ giúp, hoạt động
trợ giúp người có HIV người có HIV ở Nam Định.
Thực hiện Quy chế phối hợp triển khai hoạt động phòng chống HIV/AIDS ở khu
vực biên giới giai đoạn 2013-2015 và những năm tiếp theo đã được ký kết giữa Sở Y
tế và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, tháng 7/2013, Trung tâm Phòng chống
HIV/AIDS đã phối hợp Bộ Chỉ huy Bộ độ Biên phòng tỉnh tổ chức lớp tập huấn
phòng chống HIV/AIDS cho cán bộ y tế Bộ đội Biên phòng. Tham gia lớp tập, 42
cán bộ y tế làm việc tại Bệnh xá Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh, các đồn biên

phòng, đại đội, tiểu đoàn huấn luyện cơ động, trạm y tế quân-dân y kết hợp trên địa
bàn đã được cung cấp các kiến thức cơ bản về HIV/AIDS, kỹ năng tư vấn xét nghiệm
HIV tự nguyện và một số điều của Luật Phòng chống HIV/AIDS liên quan. Sau tập
huấn, cán bộ y tế Bộ đội Biên phòng có thể tổ chức lồng ghép các buổi nói chuyện về
HIV/AIDS, tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện vào các hoạt động chăm sóc sức khỏe
ban đầu cho người dân tại địa phương có đơn vị đóng quân, đặc biệt là với đồng bào
dân tộc ít người.
Trong năm 2013, ở tỉnh Nam Định đã có một lớp tập huấn đặc biệt do Hội Phòng
chống HIV/AIDS Việt Nam tổ chức với sự sự hỗ trợ của Cục Phòng chống
HIV/AIDS (Bộ Y tế) và sự phối hợp của Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS tỉnh.
Đây là lớp tập huấn rất đặc biệt bởi toàn bộ thời gian và nội dung tập huấn về phòng
chống HIV/AIDS đều dành trọn cho 45 thành viên của Câu lạc bộ Yêu thương- câu
lạc bộ (CLB) của những người nhiễm HIV/AIDS ở tỉnh Quảng Trị. Tham dự lớp tập
huấn có PGS.TS Trần Văn Chiến- ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Hội và các
giảng viên đến từ Hội Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam; đại diện lãnh đạo Sở Y tế
và Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS. Lần đầu tiên tập huấn về phòng chống
HIV/AIDS cho CLB Yêu thương, các giảng viên đến từ Hội Phòng chống HIV/AIDS
Việt Nam đã chia sẻ và hướng dẫn các thành viên của CLB cách dự phòng và điều trị
các bệnh nhiễm trùng cơ hội ở người nhiễm HIV/AIDS, biện pháp dự phòng lây
truyền HIV từ mẹ sang con, tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện, mối liên quan giữa
HIV với các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục và sức khỏe sinh sản, truyền
thông thay đổi hành vi trong phòng chống HIV/AIDS, Luật Phòng chống HIV/AIDS,

23


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

phòng chống HIV/AIDS tại nơi làm việc, chống kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan

đến HIV/AIDS,... Với phương pháp giảng dạy tích cực của giảng viên và thái độ học
tập nghiêm túc, các học viên đã tiếp cận với các thông tin mới trong phòng chống
HIV/AIDS, cùng chia sẻ những khó khăn, thắc mắc của cá nhân về các vấn đề sức
khỏe, chế độ dinh dưỡng và tuân thủ điều trị HIV/AIDS để duy trì sức khỏe, kéo dài
sự sống. Và chính những chia sẻ chân tình này đã làm nên sự xúc động, nét đặc biệt
của lớp tập huấn do Hội Phòng chống HIV/AIDS Việt Nam lần đầu tổ chức cho CLB
của những người nhiễm HIV/AIDS tại tỉnh Quảng Trị, góp phần giúp các thành viên
của CLB có thêm kiến thức và kỹ năng trong chăm sóc bản thân, phòng chống lây
nhiễm HIV trong gia đình và cộng đồng cũng như có thêm nghị lực sống.
Trong khuôn khổ các hoạt động nhằm nâng cao năng lực phòng chống
HIV/AIDS, trong ba ngày từ 21-23/10/2013, Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS tỉnh
Nam Định đã tổ chức khóa tập huấn Nâng cao kiến thức, kỹ năng truyền thông phòng
chống HIV/AIDS và lợi ích của tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện cho các trưởng
nhóm nhân viên tiếp cận cộng đồng cùng nhân viên y tế thôn, bản của 9 huyện, thị,
thành phố trong toàn tỉnh và các thành viên Ban Chủ nhiệm CLB Yêu thương. Lớp
tập huấn đã tập trung cung cấp các kiến thức cơ bản về HIV/AIDS, các bước giảm
hại trong tiêm chích ma túy, kỹ năng truyền thông thay đổi hành vi. Tại lớp tập huấn,
các học viên đã thực hành tư vấn cá nhân, thảo luận nhóm, chia sẻ kỹ năng truyền
thông bằng thơ, ca, hò, vè, kịch tương tác và trao đổi kinh nghiệm tư vấn xét nghiệm
HIV tự nguyện, cùng các giảng viên thảo luận về kế hoạch triển khai tiếp thị xã hội
bao cao su. Đồng thời, khóa tập huấn cũng đã giới thiệu chương trình Điều trị nghiện
các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone và thảo luận kế hoạch giới
thiệu khách hàng đến cơ sở điều trị. Cuối khóa tập huấn, Trung tâm Phòng chống
HIV/AIDS đã cấp giấy chứng nhận cho 19 nhân viên y tế thôn, bản tham gia tập
huấn.
Thông qua các lớp, các khóa tập huấn, Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS tỉnh
Nam Định hướng tới mục tiêu củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới
phòng chống HIV/AIDS trên địa bàn, góp phần đẩy mạnh chương trình can thiệp
giảm tác hại dự phòng lây nhiễm HIV trong năm 2013 và những năm tiếp theo.


Phần 4: Nhận xét, kiến nghị.
1. Nhận xét

24


Đề tài: Công tác xã hội với người nhiễm HIV
Sinh viên: Nguyễn Phương Linh

Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh đã quan tâm chỉ đạo các
ngành, các cấp tại địa phương triển khai nhiều giải pháp về phòng, chống HIV/AIDS,
phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm và cơ bản đạt các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra. Dịch
HIV/AIDS và tệ nạn ma túy, mại dâm bước đầu được khống chế: (số nhiễm mới HIV
được phát hiện giảm 26,7% so với cùng kỳ 2011 và số người nghiện ma túy giảm 44
người) song thực tế vẫn không giảm do số tái nghiện và tăng mới, tình hình dịch HIV
cũng như tệ nạn ma túy còn diễn biến phức tạp, là tỉnh miền núi nhưng trọng điểm cả
về ma túy và HIV.
Tính đến 30/6/2012 toàn tỉnh có 6.418 người nhiễm HIV trong đó 3.483 trường
hợp chuyển sang giai đoạn AIDS; 2.162 trường hợp đã tử vong; 3.747 trường hợp
còn sống quản lý được chiếm 0,74% dân số trong tỉnh, cao gấp 3 lần tỷ lệ nhiễm
trong dân số bình quân trong cả nước (tỷ lệ nhiễm HIV trên dân số bình quân trong cả
nước là 0,21%). 6 tháng đầu năm 2012 phát hiện 472 trường hợp nhiễm mới. Dịch đã
xuất hiện ở cả 9/9 huyện, thị xã, thành phố và 91/112 xã, phường, thị trấn thuộc tỉnh
(chiếm 81,2% số xã có người nhiễm HIV) cao hơn 16% so với cả nước (cả nước có
75,2% số xã có người nhiễm HIV). Tỉ lệ lây nhiễm qua đường máu (chủ yếu là tiêm
chích ma túy) tới 65,8%, qua đường tình dục là 30,7% (chủ yếu là mại dâm) là những
hình thức lây nhiễm rất khó kiểm soát.
Nguyên nhân:
Nhận thức của Lãnh đạo các cấp chính quyền một số địa phương và các tầng lớp
nhân dân đặc biệt vùng sâu, vùng xa chưa đầy đủ về phòng chống HIV/AIDS, phòng

chống tệ nạn ma túy, mại dâm;
Sự quan tâm, đầu tư về lĩnh vực cai nghiện ma túy và quản lý sau cai chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra: đầu tư xây dựng Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao
động xã hội còn giàn trải, kéo dài; chưa triển khai công tác quản lý sau cai nghiện;
chưa chú trọng đến công tác dạy nghề, tạo việc làm cho người sau cai; chưa có giải
pháp đồng bộ trong cai nghiện tại cộng đồng.
2. Đề xuất, kiến nghị
Để có thể thực hiện tốt hơn nữa công tác phòng chống mại dâm, ma túy,
HIV/AIDS. Đoàn công tác kiến nghị như sau:
Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh:

25


×