Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

VAI TRO CONG NGHIEP VAN HOA DOI VOI KINH TE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.96 KB, 19 trang )

CNVH là hoạt động sản xuất, dịch vụ gắn với sáng tạo (vì vậy
còn được coi là ngành Công nghiệp sáng tạo – Creative
Industries), nằm giữa kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa; giữa
lĩnh vực kinh tế công nghiệp, kinh tế dịch vụ và kinh tế liên kết số;
là điểm giao của nghệ thuật, kinh doanh và khoa học – công nghệ;
giữa bản sắc văn hóa quốc gia và hội nhập quốc tế. Phát triển
CNVH không chỉ là mục tiêu và động lực phát triển kinh tế mà
trong thực tế, CNVH đã được thừa nhận như một ngành sản xuất,
như lực lượng sản xuất văn hóa, có khả năng tạo ra các sản phẩm
tinh thần cao đẹp cho xã hội, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế,
góp phần bảo đảm cho sự phát triển đất nước. Ở Việt Nam, là nơi
có điều kiện thuận lợi về tài nguyên văn hóa và đã dần hình thành
môi trường thúc đẩy sáng tạo, xu hướng tất yếu phát triển ngành
CNVH góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế tạo sự phát
triển bền vững, hài hòa, hướng đến mục tiêu tất cả vì hạnh phúc
con người.
Thuật ngữ “CNVH” (the culture industry) lần đầu tiên xuất
hiện năm 1947, trong cuốn sách Dialectic of Enlightenment (Biện
chứng của Khai sáng) của hai nhà nghiên cứu người Đức là
Adorno và Horkneimer. Họ cho rằng CNVH làm cho văn hóa bác
học và văn hóa bình dân gặp gỡ; đồng thời, phản bác quan điểm
văn hóa tự nảy sinh từ đại chúng. Vì theo họ, các sản phẩm văn
hóa đã được tính toán kỹ cho nhu cầu của đại chúng, do đó, chúng
ít nhiều được sản xuất theo kế hoạch. Ở đây, chữ “công nghiệp”
không nhằm chỉ quá trình sản xuất mà chỉ sự tiêu chuẩn hóa các
sản phẩm, cũng như hợp lý hóa kỹ thuật liên quan đến việc cung
ứng, phân phối sản phẩm văn hóa. Tuy nhiên, Adorno và
Horkneimer cũng có ý phê phán sự khai thác thương mại tính sáng
tạo của con người.
1



Năm 1982, UNESCO cho rằng “CNVH xuất hiện khi các
hàng hóa và dịch vụ văn hóa được sản xuất và tái sản xuất, được
lưu trữ và phân phối trên dây chuyền công nghiệp và thương mại,
tức là trên quy mô lớn, phù hợp với chiến lược kinh tế hơn là phát
triển văn hóa”. Trong những tài liệu gần đây của UNESCO,
CNVH là những ngành sản xuất ra những sản phẩm hữu hình hoặc
vô hình mang tính nghệ thuật, sáng tạo và có tiềm năng tạo ra thu
nhập, của cải thông qua việc khai thác các tài sản văn hóa, sản
xuất hàng hóa, dịch vụ dựa trên tri thức (cả truyền thống và đương
đại). Các lĩnh vực thuộc CNVH có điểm chung là đều vận dụng
tính sáng tạo, tri thức văn hóa và sở hữu trí tuệ để tạo ra các sản
phẩm, dịch vụ với ý nghĩa văn hóa, xã hội. Khái niệm “công
nghiệp” liên quan đến sản xuất hàng hóa, còn khái niệm “văn hóa”
thường diễn đạt ý niệm trừu tượng về giá trị. Ghép hai khái niệm
này với nhau làm bộc lộ sức mạnh tiềm ẩn của văn hóa về phương
diện kinh tế mà trước đây chúng ta ít chú ý tới. Trong thời đại
bùng nổ thông tin và phát triển mạnh mẽ của khoa học – kỹ thuật
và công nghệ, công nghiệp văn hóa có vai trò to lớn trong phát
triển kinh tế. Tuy nhiên, công nghiệp văn hóa cũng tạo ra sự phân
hóa sâu sắc về kinh tế đòi hỏi các quốc gia phải quan tâm giải
quyết.
Ngành CNVH có tiềm năng đóng góp cho sự phát triển kinh tế
của mỗi khu vực, quốc gia và trên qui mô toàn cầu. Ở các nước
phát triển, CNVH và sáng tạo đã và đang trở thành ngành mũi
nhọn trong nền kinh tế. Sự đóng góp về kinh tế của các ngành
CNVH có thể xét trên phương diện trực tiếp và gián tiếp trên
nhiều góc độ đa dạng. Trước hết, các ngành CNVH có khả năng
tạo ra thu nhập cho nền kinh tế quốc dân và việc làm cho người
dân. Đây là những đóng góp trực tiếp, mang tính định lượng của

2


văn hóa đối với nền kinh tế quốc gia. Ở nhiều nước, CNVH đã trở
thành ngành kinh tế then chốt, mang lại đóng góp không nhỏ cho
tổng thu nhập quốc nội. Nói cách khác, tỷ trọng của CNVH ưong
nền kinh tế quốc dân của nhiều nước đã tăng lên nhanh chóng.
Chính vì vậy, các ngành CNVH đã làm thay đổi nhìn nhận của xã
hội về hoạt động văn hóa; nói cách khác, giúp xã hội thấy được
tiềm năng và giá trị kinh tế của hoạt động này. Các tổ chức và
doanh nghiệp văn hóa không còn bị nhìn nhận như là những phần
phụ đối với nền kinh tế “thực sự”, nơi những hàng hóa “hữu ích”
và “bền” được sản xuất.
CNVH đã phát triển ở nhiều nước, đặc biệt mạnh mẽ vào giữa
thế kỷ XX, và trở thành ngành trụ cột trong nhiều nền kinh tế, các
ngành CNVH đã thu hút một lực lượng nhân công đáng kể, mang
lại nhiều việc làm cho xã hội. Không chỉ dừng lại ở biên giới của
mỗi quốc gia, công nghiệp văn hóa còn có đóng góp lớn đối với
nền thương mại quốc tế. Hiện nay, việc xuất khẩu các sản phẩm
công nghiệp văn hóa trở thành một mũi nhọn trong chính sách
thương mại của nhiều quốc gia. Doanh thu của việc xuất khẩu các
sản phẩm công nghiệp văn hóa cùng với “sức mạnh mềm” mà các
sản phẩm này mang lại đã hấp dẫn các nhà đầu tư, các nhà lãnh
đạo quản lý trên thế giới. Chính vì vậy, thị trường sản phẩm công
nghiệp văn hóa quốc tế không ngừng phát triển.
Theo bản báo cáo có tên Thời đại Văn hóa: Bản đồ toàn cầu
đầu tiên về Công nghiệp Văn hóa và sáng tạo của UNESCO năm
2015, thì CNVH và Sáng tạo có tổng doanh thu lên đến 2.250
nghìn tỷ USD và tạo công ăn việc làm cho 29,5 triệu lao động trên
toàn cầu. Ðặc biệt hơn, đây là ngành công nghiệp trẻ theo cả nghĩa

đen lẫn nghĩa bóng khi có tới gần 20% thành phần lao động ở độ
tuổi từ 15 đến 29 (nhiều hơn bất kỳ lĩnh vực nghề nghiệp nào).
3


Tại một số nước công nghiệp văn hóa đóng góp rất lớn vào sự
phát triển của nền kinh tế. Theo số liệu thống kê năm 2016 của
Chính phủ Anh, ngành công nghiệp sáng tạo của Anh đã đem lại
cho nước này 84,1 tỷ bảng Anh và chiếm 5,2% tổng giá trị gia
tăng của toàn nền kinh tế Anh, chiếm 10-15% thị phần CNVH thế
giới; có khoảng 120.000 doanh nghiệp công nghiệp sáng tạo với
doanh thu chiếm 7,3% tổng thu nhập kinh tế quốc dân. Các ngành
này tạo ra 1,9 triệu việc làm và hiện là khu vực phát triển nhanh
nhất trong nền kinh tế.
Tại Nhật Bản, CNVH với doanh thu ròng hàng năm chiếm
khoảng 7% doanh thu nền kinh tế và thu hút 5% nhân công lao
động của toàn quốc. Theo thống kê của Bộ Kinh tế và Công
nghiệp Nhật Bản năm 2013, nếu chỉ tính riêng thị trường nội địa
của ngành công nghiệp nội dung số, lĩnh vực cốt lõi của CNVH,
đã đạt khoảng 12 nghìn tỷ yên. Xuất khẩu năm 2013 của ngành
này đạt 550 tỷ USD, với mục tiêu mở rộng thị trường tại khu vực
Châu Á, Chính phủ Nhật Bản kỳ vọng sẽ đạt 75,8 tỷ USD vào
năm 2020.
Hàn Quốc cũng là quốc gia có những chính sách ưu tiên đầu tư
cho công nghiệp sáng tạo văn hóa trên nhiều lĩnh vực, nhất là các
loại hình giải trí: điện ảnh, truyền hình, âm nhạc, đã đem lại sự
phát triển mạnh mẽ cho đất nước. Theo số liệu của Viện Chính
sách Văn hóa – Du lịch Hàn Quốc, tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của
CNVH khoảng 10%, nếu tính riêng bốn lĩnh vực chủ đạo (phim,
âm nhạc, phát thanh truyền hình, games) thì dự báo tăng trưởng

trung bình hàng năm tới 22,8%.
Theo UNESCO, ở các nước có nền kinh tế phát triển (OCDE),
khu vực văn hóa chiếm 4% tổng thu nhập quốc nội (GDP), còn ở
các nước đang phát triển, tỉ lệ này là từ 1% đến 3% (ví dụ ở Brazil
4


là 1%, ở Nam Phi là 3%). Ở Canada, khoảng 5% lực lượng lao
động làm việc trong các ngành CNVH, trong khi đó ở Mỹ là 2,8%.
Qua đó có thể thấy được đóng góp không nhỏ của các ngành
CNVH trong việc tạo ra của cải và việc làm cho xã hội.
Phát triển CNVH đang dần trở thành nhận thức chung của
nhiều quốc gia. Tỷ trọng CNVH trong hệ thống kinh tế của nhiều
nước đã được nâng lên với tốc độ nhanh và CNVH trở thành một
ngành công nghiệp trụ cột trong nhiều nền kinh tế. Lợi nhuận
khổng lồ của CNVH đã khiến cho rất nhiều doanh nghiệp lớn trên
thế giới đua nhau tham gia. Tác động của các ngành công nghiệp
văn hóa đã và đang làm thay đổi chiến lược đầu tư phát triển của
nhiều quốc gia, sự xuất khẩu của những sản phẩm văn hóa ngày
càng phong phú ra thế giới tác động mạnh đến văn hóa dân tộc của
các nước đang phát triển.
Bên cạnh những giá trị cụ thể có thể “đong đếm” được do công
nghiệp văn hóa mang lại cho nền kinh tế, thì làm thế nào để có thể
“đo đếm” được tài năng, kỹ năng của nghệ sỹ hay người sáng tạo?
Làm thế nào để ý tưởng sáng tạo, tài năng, bí quyết của cá nhân và
tổ chức, vốn là những giá trị phi vật thể, tạo ra lợi ích về kinh tế,
văn hóa cho chính họ và xã hội? Các ngành CNVH có thể đưa lại
câu trả lời cho vấn đề này. Thông qua quá trình tổ chức sản xuất,
phân phối của ngành, tiềm năng sáng tạo của con người mang tính
trừu tượng, định tính có thể được vật chất hóa, khách quan hóa

thành các sản phẩm mang tính cụ thể, định lượng. Nói cách khác,
ngành CNVH có khả năng chuyển biến các yếu tố phi vật thể
thành những sản phẩm và dịch vụ hữu hình mang lại giá trị nhiều
mặt về kinh tế, văn hóa và xã hội. Thông qua quá trình sản xuất và
phân phối, các ngành CNVH biến giá trị phi vật thể thành sản
phẩm, dịch vụ. Ví dụ, khi bàn về khai thác công thức nấu ăn. Ý
5


tưởng và kỹ thuật nấu ăn của một đầu bếp là yếu tố mang tính phi
vật thể. Tài năng nấu ăn của đầu bếp thể hiện ở việc sáng tạo các
công thức nấu ăn, trong đó phối hợp những nguyên liệu cần thiết
theo tỉ lệ hợp lý và chế biến theo phương thức cụ thể trong những
khoảng thời gian thích hợp. Bí quyết nghề nghiệp này có thể được
sử dụng để tạo thành sản phẩm vật chất là những món ăn cụ thể.
Các món ăn rõ ràng mang lại giá trị kinh tế qua việc được phục vụ
tại các nhà hàng, khách sạn. Không những thế, các món ăn này
còn thể hiện nét đặc sắc trong văn hóa ẩm thực của một nhà hàng,
một vùng, miền hay quốc gia. Bên cạnh đó, kỹ thuật nấu ăn có thể
được viết thành sách và với sự hỗ trợ của ngành công nghiệp xuất
bản, có thể được in ấn và phát hành rộng rãi, tài năng nấu ăn còn
được khai thác trong các chương trình dạy nấu ăn trên truyền hình
hoặc đài truyền thanh nhờ sự hỗ trợ của ngành công nghiệp phát
thanh và truyền hình. Kỹ thuật nấu ăn cũng có thể trở thành một
sản phẩm du lịch trong tour du lịch văn hóa, giúp khách du lịch có
những hiểu biết và trải nghiệm về văn hóa ẩm thực. Ngoài ra, bí
quyết nấu ăn còn là sản phẩm và dịch vụ tham gia các lễ hội và sự
kiện văn hóa v.v... Tóm lại, các giá trị phi vật thể như tài năng nấu
ăn có thể được khai thác trong nhiều ngành CNVH khác nhau để
tạo ra những sản phẩm và dịch vụ cụ thể, hiện hữu, có thể đo, đếm

được và mang lại giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nền kinh tế thế giới đã trải qua các giai đoạn phát triển từ kinh
tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp đến kinh tế hậu công nghiệp,
hay còn gọi là kinh tế tri thức. Khi nói đến kinh tế tri thức, người
ta thường nghĩ đến các ngành khoa học công nghệ cao như công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, vật liệu mới, công nghệ năng
lượng... Tuy vậy, hiện nay, thế giới đã nhìn nhận các ngành CNVH
là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế tri thức vì các ngành
6


này tạo ra nội dung và giá trị sáng tạo mang hàm lượng trí tuệ cao.
Cũng chính vì tạo ra các nội dung và giá trị sáng tạo nên ngành
này còn được gọi là ngành “công nghiệp nội dung” và “công
nghiệp sáng tạo”. Các ngành CNVH đều tạo ra nội dung, ý tưởng
và tri thức. Ví dụ, ngành văn học tạo ra nội dung là những suy
nghĩ, trăn trở, cảm nhận về cuộc sống thông qua ngôn từ và hình
tượng văn học giàu tính thẩm mỹ... Các nội dung này tạo thành
các tác phẩm văn học như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, công trình
nghiên cứu, phê bình văn học. Nội dung được sáng tạo bởi ngành
mỹ thuật là tranh, ảnh, tượng, phù điêu, tác phẩm nghệ thuật sắp
đặt... chuyển tải quan niệm, tìm tòi về thẩm mỹ, phản ánh đời sống
thực tại và tinh thần của nghệ sỹ. Ngành thời trang tạo ra mẫu thiết
kế trang phục, thể hiện quan niệm về cái đẹp, kết hợp tính thẩm
mỹ và chức năng trong các loại trang phục. Với ngành âm nhạc thì
đó là những giai điệu, tiết tấu, ca từ của ca khúc, chương trình biểu
diễn âm nhạc trực tiếp hoặc album âm nhạc. Tất cả nội dung trên
đều hàm chứa tài năng, trí tuệ, ý tưởng và sự sáng tạo của con
người. Nội dung là yếu tố cốt lõi, tạo nên ý nghĩa và sự sống động
của các hệ thống thông tin xã hội. Nội dung là yếu tố quan trọng

trong các hệ thống thông tin xã hội. Trong hội nhập quốc tế, nội
dung chính là “vốn” mà mỗi quốc gia đưa ra để trao đổi với các
nước khác. Nền công nghiệp nội dung của một nước yếu kém thì
vị thế của nước đó trên thị trường quốc tế sẽ khó được đảm bảo.
Lúc này quốc gia sẽ không thể xuất khẩu nội dung (vì không có
nội dung hoặc nội dung có chất lượng kém không thể cạnh tranh)
và trở thành người chỉ nhập khẩu nội dung. Như vậy, có thể dẫn
đến tình trạng “nhập siêu” về nội dung, dẫn đến sự phụ thuộc vào
bên ngoài, từ đó có thể kéo theo các hệ lụy khác về kinh tế, văn
hóa và chính trị. Qua đó, có thể thấy được vai trò quan trọng của
7


các ngành công nghiệp nội dung không những đối với phát triển
kinh tế mà còn tác động to lớn đến văn hóa - xã hội.
Bên cạnh mặt nội dung, ngành CNVH còn tạo nên các giá trị
sáng tạo, nói cách khác là tạo ra sản phẩm có hàm lượng sáng tạo
cao, mang lại giá trị kinh tế lớn. Điều này sẽ giúp nền kinh tế thoát
khỏi tình trạng “gia công” nghĩa là chỉ thực hiện lao động có tính
chất phổ thông, tiến tới đảm nhiệm các công đoạn cao cấp mang
lại giá trị gia tăng cho sản phẩm. Ví dụ, trong một sản phẩm áo sơ
mi xuất khẩu của ngành may hàm chứa nhiều loại lao động từ thiết
kế, tạo mẫu, phối màu, cắt, may, trang trí (thêu, đính cườm), hoàn
thiện sản phẩm đến là, gấp, đóng hộp... Trong đó, phần sáng tạo
như thiết kế, tạo mẫu đem lại giá trị kinh tế cao nhất tính trên đầu
một sản phẩm. Các phần lao động thủ công thường được trả công
lao động thấp nên không mang lại nhiều giá trị kinh tế. Hiện nay,
chúng ta chủ yếu làm gia công, may theo mẫu mã và đơn đặt hàng
của nước ngoài. Chính vì vậy, ở ngành dệt may - thời trang, tỉ lệ
Việt Nam hóa trong sản phẩm rất thấp, thường chỉ từ 17-18%, thu

nhập tính trên mỗi sản phẩm cũng do đó mà không cao. Xuất khẩu
sản phẩm may mặc của nước ta mang lại ngoại tệ nhiều nhưng
phần giá trị kinh tế chúng ta được hưởng là rất ít vì đó là “tiền bán
mồ hôi” “chứ không phải từ các sản phẩm mang tính sáng tạo”.
Chính vì vậy, các ngành CNVH phát triển sẽ thúc đẩy yếu tố sáng
tạo, từ đó mang lại giá trị kinh tế cao hom cho sản phẩm nói riêng
và cho nền kinh tế nói chung. Tóm lại, các ngành CNVH tạo ra nội
dung và giá trị sáng tạo nên được coi là bộ phận quan trọng trong
nền kinh tế tri thức. CNVH phát triển sẽ thúc đẩy nền kinh tế tri
thức phát triển. Với điều kiện của Việt Nam hiện nay, khi nước ta
tồn tại song song cả 3 nền kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và
bước đầu có các yếu tố của nền kinh tế tri thức, các ngành CNVH
8


sẽ có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chủ trương “đi tắt đón
đầu” để phát triển kinh tế của Chính phủ. Phát triển các ngành
công nghiệp văn hóa sẽ là một trong những giải pháp nhằm thực
hiện mục tiêu mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã nêu là đến năm 2020, 50% tổng thu nhập
quốc nội sẽ từ các ngành kinh tế tri thức.
Bên cạnh những đóng góp trực tiếp cho nền kinh tế nói trên,
các ngành CNVH còn hỗ trợ gián tiếp cho sự phát triển của nhiều
ngành kinh tế khác. Những đóng góp này không mang tính định
luợng cụ thể, khó nhận biết hơn nhưng rất quan trọng. Một số tác
động có thể kể đến là nâng cao lợi thế cạnh tranh nhằm mang lại
hiệu quả kinh tế, tái phát triển vùng miền và hỗ trợ phát triển
nguồn nhân lực cho các lĩnh vực kinh tế. Nhiều công trình nghiên
cứu của các nước cho thấy, các thành phố lớn trên thế giới hiện
nay đang cạnh tranh gay gắt để thu hút những tài năng chất xám

đến sinh sống và làm việc. Những tài năng này sẽ là nhân tố thúc
đẩy sự phát triển, thậm chí quyết định sự thành công về kinh tế,
văn hóa, xã hội của các thành phố. Vậy, yếu tố gì hấp dẫn đối với
những tài năng chất xám này? Cũng theo kết quả nghiên cứu, đó
chính là môi trường sống và làm việc cởi mở, sáng tạo, chấp nhận
các khác biệt về văn hóa, đời sống văn hóa nghệ thuật giàu có và
đa dạng khơi nguồn cho cảm hứng sáng tạo... Những yếu tố này có
thể được ngành CNVH mang lại. Vì vậy, có thể nói CNVH phát
triển sẽ tạo nên môi trường hấp dẫn thu hút chất xám và thúc đẩy
kinh tế phát triển. Nhiều nhà nghiên cứu cũng nhấn mạnh vai trò
của CNVH trong nâng cao tính cạnh tranh của các thành phố, địa
phương nhằm thu hút đầu tư và hợp tác kinh tế. Bên cạnh những
điều kiện cơ bản như cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển công nghệ,
điều kiện nhân lực... chất lượng và sự đa dạng của môi trường văn
9


hóa là một trong những tiêu chí ngày càng được quan tâm, chú ý.
Chẳng hạn trong lĩnh vực tổ chức sự kiện, gặp gỡ, hội nghị, hội
thảo và trưng bày, những thành phố, quốc gia được đăng cai các sự
kiện quốc tế lớn sẽ kéo theo tác động nhiều chiều tích cực đến phát
triển kinh tế địa phương. Những thế mạnh về di sản, bản sắc văn
hóa thể hiện qua các sản phẩm và dịch vụ văn hóa địa phương là
một trong những căn cứ quan trọng để các nhà tổ chức và đối tác
chọn lựa, đặc biệt khi các “ứng cử viên” có trình độ phát triển về
cơ sở hạ tầng và công nghệ tưomg tự như nhau. Như vậy, các
ngành CNVH có thể tạo sự khác biệt và lợi thế cạnh tranh cho
nhiều lĩnh vực kinh tế.
Các ngành CNVH cũng là công cụ hiệu quả trong tái thiết
kinh tế - xã hội của các vùng miền. Kinh nghiệm của Vương quốc

Anh cho thấy, ở những nơi có nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội,
đầu tư phát triển các ngành CNVH có thể đem lại sức sống mới
cho khu vực. Ngành nghề mới phát triển mang lại thu nhập và việc
làm cho người dân, kéo theo sự phát triển của hạ tầng xã hội và
các vấn đề liên quan khác. Chính CNVH đã làm “tái sinh” nhiều
thành phố, khu vực như Halifax, Manchester, Glassgow, nơi đã
từng phát triển các ngành công nghiệp nặng như đóng tàu, dệt,
khai khoáng trước đây. Khi các ngành này bị đình đốn do không
thể cạnh tranh với các quốc gia mới phát triển có nguồn nguyên
liệu và nhân lực rẻ hơn, các thành phố này rơi vào tinh trạng
khủng hoảng kinh tế, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao, nhiều tòa nhà đông
đúc trước đây nay bị bỏ hoang, cư dân bỏ đi đến các thành phố lớn
để tìm việc. Đứng trước tình hình này, chính quyền địa phương đã
tìm cách thu hút những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa
nghệ thuật đến sinh sống và làm việc tại địa phưomg bằng cách
cho thuê các tòa nhà làm nơi sáng tác của nghệ sỹ (studio) với giá
10


rẻ, thậm chí miễn phí; hỗ trợ về thủ tục thành lập doanh nghiệp;
giảm thuế cho các doanh nghiệp v.v... Các thành phố này dần trở
thành những “điểm sáng” về các ngành sáng tạo và nghệ thuật,
mang lại thịnh vượng cho địa phương và nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân.
Bên cạnh đó còn có thể đề cập đến tác dụng của CNVH trong
phát triển nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế. Nhiều nghiên
cứu cho thấy, những người làm việc trong các ngành kinh tế như
tài chính, ngân hàng, thương mại, sản xuất nếu được tham gia các
hoạt động văn hóa sẽ có cơ hội phát triển những kỹ nàng cần thiết
như phương pháp tư duy linh hoạt, khả năng giải quyết vấn đề

sáng tạo, tự tin, làm việc có động lực, khả năng hợp tác và làm
việc theo nhóm, kỹ năng giao tiếp hiệu quả... Những kỹ năng này
còn được gọi là kỹ năng chuyển đổi hay kỹ năng mềm, nghĩa là có
thể áp dụng trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau. Chính vì
vậy, ở nhiều quốc gia như Anh và Hàn Quốc, các tổ chức “Nghệ
thuật và Kinh doanh” được thành lập để kết nối giữa khu vực văn
hóa nghệ thuật và kinh doanh, trong đó 2 bộ phận sẽ trợ giúp lẫn
nhau với khả năng và sở trường của mỗi bên. Chẳng hạn, khu vực
nghệ thuật có thể nhận được tài trợ về kinh tế của doanh nghiệp,
còn doanh nghiệp có cơ hội đào tạo nhân viên qua các hoạt động
nghệ thuật để phát triển các kỹ năng đề cập ở trên.
Hiện nay, CNVH đã nổi lên như một hiện tượng đáng chú ý
trong chiến lược tái cấu trúc kinh tế ở nhiều nước. Các ngành
CNVH được coi là tài sản chiến lược, tạo giá trị gia tăng tổng thể,
là chất xúc tác hay lực đẩy cho các ảnh hưởng về chính trị, kinh tế
của mỗi quốc gia trong một thế giới hội nhập, toàn cầu hóa, nó tác
động đối với cả hệ thống thể chế và thiết chế kinh tế. Vì thế, nhiều
nước ở khắp các châu lục trên thế giới đã lấy CNVH làm ngành
11


công nghiệp trụ cột trong phát triển. Việt Nam cũng không nằm
ngoài xu thế này. Đáp ứng yêu cầu thực tiễn và để biến công
nghiệp văn hóa trở thành một bộ phận quan trọng trong sức mạnh
tổng hợp để phát triển kinh tế, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 5,
khoá VIII (năm 1998), Đảng ta đã đưa ra chính sách “kinh tế trong
văn hóa” và chính sách “văn hóa trong kinh tế”, nhấn mạnh sự gắn
kết kinh tế với văn hóa; xây dựng cơ chế kinh doanh, dịch vụ văn
hóa theo hướng kinh tế thị trường; khuyến khích các thành phần
kinh tế tham gia các hoạt động văn hóa… Đây là những luận điểm

quan trọng trong tư duy phát triển đất nước, thể hiện sự nhạy bén
của Đảng về phát triển văn hóa, đặt phát triển văn hóa trong sự
phát triển toàn diện và chỉ ra sự thẩm thấu, tác động lẫn nhau giữa
kinh tế và văn hóa. Đến Hội nghị Trung ương 10, khoá IX (năm
2004), nhận thức về vấn đề gắn kết giữa phát triển kinh tế và phát
triển văn hóa được mở rộng hơn một bước, trong đó, Đảng ta nhấn
mạnh: “Các hoạt động văn hóa không chỉ mang tính chất sự
nghiệp mà còn mang tính kinh doanh với sự tham gia của các
doanh nghiệp văn hóa; thị trường văn hóa cần phải được vận hành
và điều tiết theo quy luật kinh tế thị trường”. Từ những thành quả
bước đầu của thực tiễn đổi mới, năm 2009, “Chiến lược phát triển
văn hóa đến năm 2020” đã đưa ra nhận định: “Cơ chế thị trường
huy động được sự tham gia của các thành phần kinh tế vào sản
xuất, phổ biến các sản phẩm văn hóa, kích thích một số ngành sản
xuất kinh doanh trong lĩnh vực văn hóa xuất hiện, mở ra khả năng
giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, tạo tiền đề cho việc phát
triển “CNVH” ở nước ta”. Chiến lược cũng khẳng định: “Phát
triển CNVH đang là xu thế lớn và quan trọng trong chính sách văn
hóa của các nước trên thế giới”. Yêu cầu đẩy mạnh phát triển
CNVH một lần nữa được Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung
12


ương khóa XI nhấn mạnh trong Nghị quyết số 33/NQ-TW về
“Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững của đất nước” đã xác định, phát triển
CNVH là 1 trong 5 mục tiêu phát triển trong giai đoạn mới. Ngày
08/9/2016, tại Quyết định số 1755/QĐ –TTg, Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 với những quyết sách, chỉ

tiêu phấn đấu cụ thể. Chiến lược khẳng định: “Các ngành CNVH
là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân… Phát
triển các ngành CNVH dựa trên sự sáng tạo, khoa học công nghệ
và bản quyền trí tuệ; khai thác tối đa yếu tố kinh tế của các giá trị
văn hóa”, mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 doanh thu của các
ngành CNVH đóng góp khoảng 3% GDP, tạo thêm nhiều việc làm
cho xã hội, đến năm 2030 doanh thu đóng góp của CNVH khoảng
7% GDP.
Hiện nay sức mạnh tổng hợp của đất nước đang tăng lên, nhu
cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân được
nâng cao và trong tình hình nhiều loại tư tưởng văn hóa tác động
lẫn nhau trong phạm vi thế giới thì ý nghĩa của việc phát triển thật
nhanh ngành CNVH ngày càng trở nên bức thiết. Đảng và Nhà
nước ta coi việc xây dựng văn hóa phải đồng bộ và tương xứng
với tăng trưởng kinh tế. Hai việc này phải nâng đỡ bổ sung cho
nhau. Việt Nam muốn hiện đại hóa không những phải có sự phồn
vinh về kinh tế mà còn phải có sự phồn vinh về văn hóa. Cho nên
CNVH lấy phương thức sản xuất hiện đại hóa làm đặc trưng là cực
kỳ quan trọng trong quá trình thực hiện mục tiêu này. Phát triển
CNVH là nhu cầu của phát triển kinh tế quốc dân và xã hội. Mục
tiêu của chúng ta là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, do đó việc phát triển CNVH sẽ thúc đẩy việc xây
13


dựng và kiện toàn thể chế văn hóa thích ứng với thể chế kinh tế thị
trường. Những việc làm đó sẽ tác động trực tiếp tới tiến trình hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây
dựng đầy đủ CNVH có thể tối ưu hóa kết cấu công nghiệp nhà
nước, xúc tiến việc điều chỉnh kết cấu kinh tế quốc dân. CNVH là

một ngành công nghiệp có khả năng rõ rệt về mặt xúc tiến việc
làm. Mặt khác, phát triển CNVH sẽ thúc đẩy việc nâng cao văn
hóa quốc dân và thực hiện tiến bộ xã hội, tạo ra sự phát triển nhịp
nhàng giữa kinh tế và văn hóa, hình thành môi trường văn hóa tốt
đẹp.
Tóm lại, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sẽ góp
phần cơ cấu lại mô hình tăng trưởng, tạo ra những sản phẩm - dịch
vụ văn hóa có tính cạnh tranh cao, tạo thêm việc làm ổn định,
đóng góp tích cực cho nền kinh tế. Đây cũng là chiến lược để xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong
bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Sự dồi dào của hàng hóa - dịch vụ văn hóa Việt Nam
trên thị trường nội địa và quốc tế chính là “sức mạnh mềm” văn
hóa quan trọng của quốc gia, làm cho văn hóa thấm sâu vào đời
sống người dân, cũng như mang văn hóa Việt Nam ra với thế giới,
phát huy nội lực, quảng bá đất nước. Trong thời đại của kinh tế tri
thức và công nghệ thông tin, CNVH có khả năng biến văn hóa trở
thành bộ phận quan trọng của thương mại và cạnh tranh quốc tế,
giúp Việt Nam xây dựng được một nền kinh tế sáng tạo, thịnh
vượng, tự tin và độc đáo. Chính vì vậy, đã đến lúc Việt Nam cần
chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, vươn lên vị thế của một quốc
gia có các ngành CNVH phát triển.
Là cán bộ chỉ huy của cơ quan quân sự địa phương, bản thân
luôn xác định rõ nhận thức về vai trò, vị trí của CNVH trong phát
14


triển kinh tế - xã hội địa phương, nhiều năm qua, bản thân tích cực
tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp luôn quan tâm đến
công tác xây dựng và phát triển văn hóa, làm cho văn hóa thấm

sâu vào đời sống của đại bộ phận nhân dân trong cộng đồng dân
cư; tham mưu cho lãnh đạo Quận ủy, UBND quận thực hiện tốt Kế
hoạch của UBND thành phố về thực hiện chiến lược phát triển
ngành CNVH đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định
của UBND thành phố về việc phê duyệt quy hoạch phát triển văn
hóa thành phố đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Quyết
định của UBND thành phố phê duyệt Quy hoạch phát triển du lịch
thành phố đến năm 2020, định hướng đến năm 2030...; tích cực đề
xuất việc sửa đổi, bổ sung, đồng thời tham gia nghiên cứu, đề xuất
việc xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển đối với những
ngành công nghiệp văn hóa chưa có chiến lược, quy hoạch.
Bản thân đã cùng với các cơ quan chuyên môn tham mưu ban
hành nhiều văn bản quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa như:
Đề án nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”; Chỉ thị về việc tăng cường bảo tồn, phát
huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa, bia kỷ niệm và nhà bia ghi
danh liệt sĩ trên địa bàn; Đề án phát triển xã hội hóa các hoạt động
giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao; Quy định về thực hiện
nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội… Song
song đó, bản thân đã cùng cấp ủy và chính quyền các cấp tuyên
truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và toàn
thể người dân được biết về ý nghĩa mục đích, tầm quan trọng của
Chiến lược phát triển các ngành CNVH của Trung ương và thành
phố. Trong đó nêu rõ các bước đi cụ thể, lộ trình tiến hành và
những ngành được ưu tiên hàng đầu trong Chiến lược phát triển.
Tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách pháp
15


luật Nhà nước về phát triển các ngành CNVH, chống những quan

điểm sai trái như: Đồng nhất CNVH với… thương mại hóa văn
hóa nghệ thuật hoặc văn hóa không phải là sản phẩm hàng hóa,
văn hóa không tham gia thị trường, văn hóa không có chức năng
kinh tế...
Luôn tham gia đầy đủ các buổi hội thảo, tập huấn nhằm nâng
cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành, địa phương
và toàn xã hội nhất là đối với cán bộ chủ chốt các cấp về vị trí, vai
trò của các ngành CNVH trong phát triển kinh tế - xã hội; tích cực
vận động các doanh nghiệp trên địa bàn đầu tư cho văn hóa như là
một phần chiến lược kinh doanh và thể hiện trách nhiệm với xã
hội, cộng đồng. Tham mưu cho UBND các cấp chuyển dần các
đơn vị sự nghiệp văn hóa nghệ thuật sang hình thức doanh nghiệp
kinh doanh nhằm giảm nguồn chi ngân sách, tăng tính tự chủ, tự
hạch toán kinh doanh của các đơn vị sự nghiệp; tham gia xây dựng
cơ chế chính sách ưu đãi, khuyến khích các loại hình văn hóa
ngoài công lập.
Trên cương vị Ủy viên Ban Thường vụ Quận ủy, tôi luôn chú
trọng đóng góp ý kiến trong công tác quy hoạch, đào tạo, xây dựng
đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa các cấp, cùng với tập thể cấp ủy
địa phương xây dựng kế hoạch đào tạo đội ngũ kế cận có trình độ
chuyên môn cao, am hiểu về văn hóa biết áp dụng khoa học công
nghệ đối với các hoạt động văn hóa. Xây dựng tiêu chuẩn và cơ
chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý tham mưu lĩnh vực
văn hóa, văn nghệ có đủ năng lực, trình độ và phẩm chất đảm
đương công việc. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức và chuyên
gia đầu ngành trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; xây dựng đội
ngũ trí thức, văn nghệ sỹ tại địa phương đạt chất lượng cao. Tham
mưu cho cấp ủy địa phương thực hiện chính sách trọng dụng nhân
16



tài, ưu đãi văn nghệ sỹ có quá trình cống hiến, có nhiều tác phẩm
tốt, ảnh hưởng tích cực trong xã hội; có chế độ đãi ngộ phù hợp để
thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, được đào tạo cơ bản, có
kinh nghiệm chuyên môn từ các nước có trình độ phát triển cao về
CNVH đến địa phương làm việc. Cùng với cấp ủy địa phương tiếp
tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của các cấp
ủy đảng, quản lý của các cấp chính quyền trong kiểm tra, giám sát
công tác hoạt động văn hóa. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ giám sát
các công trình xây dựng cơ bản, các di tích lịch sử, văn hóa những
vấn đề quan trọng thuộc lĩnh vực văn hóa trên địa bàn. Tham mưu
đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính tránh gây phiền hà cho tổ
chức và công dân trong thu hút đầu tư các dự án trên lĩnh vực quản
lý quy hoạch, đầu tư và cấp phép các ngành nghề dịch vụ trong
lĩnh vực văn hóa để tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển
chung. Ngoài ra, còn tích cực tham mưu cho UBND tăng cường
các hoạt động tham quan, giao lưu, trao đổi về văn hóa giữa thành
phố với các tỉnh thành trên cả nước nhất là các thành phố lớn, qua
đó tạo cơ hội cho cán bộ, doanh nghiệp tiếp cận với nền CNVH
phát triển. Đồng thời, tích cực tham mưu cho địa phương phát
triển mạnh các ngành công nghiệp văn hóa có thế mạnh và truyền
thống ở địa phương như: Quảng cáo; Kiến trúc; Thiết kế; Mỹ
thuật, nhiếp ảnh, triển lãm; Truyền hình và phát thanh; Du lịch văn
hóa… đồng thời chú trọng phát triển thị trường tiêu dùng sản
phẩm, dịch vụ văn hóa trong và ngoài địa bàn
Bản thân đã triển khai và tổ chức thực hiện các giải pháp về
phát triển các ngành CNVH trên địa bàn đạt được nhiều kết quả
đáng trân trọng, đáp ứng có hiệu quả yêu cầu phát triển kinh tế gắn
với cũng cố quân sự – quốc phòng. Nổi bật là phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” giai đoạn 2000 - 2018

17


được đẩy mạnh và phát triển trở thành phong trào quần chúng rộng
rãi, được sự đồng tình hưởng ứng của quần chúng nhân dân, đã
từng bước góp phần làm thay đổi diện mạo địa phương, tạo điều
kiện phát triển du lịch, tạo ra nhiều doanh nghiệp và việc làm; mở
ra thị trường trong và ngoài địa bàn với các sản phẩm và dịch vụ
văn hóa mới; phục hồi, duy trì và phát triển các hoạt động văn hóa
khác như y học cổ truyền, ẩm thực, lễ hội…; thúc đẩy phát triển
các ngành kinh tế khác có liên quan. Từ đó, việc đầu tư cơ sở vật
chất cho văn hóa được chú trọng, các hoạt động văn hóa văn nghệ,
thể dục thể thao được duy trì thường xuyên và phát huy được hiệu
quả, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vui chơi giải trí, tham gia
sáng tạo và hưởng thụ đời sống văn hóa tinh thần cho các tầng lớp
nhân dân.
Đối với đơn vị, bản thân đã chỉ huy, chỉ đạo cơ quan quân sự
thuộc quyền phối hợp với cơ quan chức năng trên địa bàn làm tốt
công tác bảo vệ các công trình văn hóa, những sự kiện văn hóa –
chính trị – xã hội trọng điểm bảo đảm tuyệt đối an toàn, góp phần
tác động hiệu quả đến phát triển kinh tế địa phương, đặc biệt đối
với ngành văn hóa, du lịch. Đồng thời, luôn quan tâm, tạo điều
kiện cả về kinh phí, vật chất, thời gian cho các hoạt động văn hóa
tại đơn vị. Thực hiện tốt các chính sách đãi ngộ cho đội ngũ cán
bộ, chiến sỹ thực hiện công tác phong trào ở đơn vị tập trung vào
chế độ nhuận bút, chế độ thù lao luyện tập và tạo điều kiện thời
gian, công việc để phát huy sáng tạo các sản phẩm văn hóa trong
đơn vị. Chú trọng xây dựng cán bộ hoạt động phong trào thành hạt
nhân trong hoạt động văn hóa tại đơn vị, đồng thời đầu tư có trọng
điểm vào những sản phẩm, tiết mục văn hóa có chất lượng để tham

gia dự thi ở các cấp cũng như phục vụ biểu diễn tại địa phương.
Khuyến khích cán bộ các cấp ứng dụng khoa học công nghệ trong
18


hoạt động văn hóa và trong công tác; xây dựng các mô hình hoạt
động văn hóa tại đơn vị phù hợp với đặc thù Quân đội như: Đặt tên
các con đường nội bộ bằng tên các đảo của Việt Nam; tổ chức triển
lãm tranh ảnh tuyên truyền chủ quyền biển đảo; tổ chức hoạt động
Tết Quân dân với nhiều hoạt động văn hóa sôi nổi, thu hút đông
đảo nhân dân tham gia; thực hiện kế hoạch hành quân về nguồn
vừa ôn lại truyền thống vừa quảng bá di sản văn hóa địa phương,
… Đồng thời, tuyên truyền, vận động gia đình cán bộ, chiến sĩ và
nhân dân tiếp tục củng cố và hoàn thiện xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh phong phú và đa dạng, đưa phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực,
hiệu quả, xây dựng nếp sống văn hóa gia đình, khu dân cư, cơ
quan đơn vị, doanh nghiệp làm cho các gia trị văn hóa thấm sâu
vào đời sống. Tiếp tục tham mưu cho UBND quận cải tạo, nâng
cấp và đầu tư xây dựng mới các công trình văn hóa, nghệ thuật
hiện đại trong doanh trại bảo đảm vừa mang giá trị văn hóa vừa tạo
nguồn phát triển kinh tế cho cơ quan.
Phát triển CNVH có tác động lớn đối với kinh tế, văn hóa và
xã hội của một đất nước. Trên phạm vi quốc gia, sự phát triển
CNVH có khả năng đóng góp to lớn cho các chỉ tiêu thu nhập
quốc dân, tạo công ăn việc làm... Mặt khác, phát triển CNVH tạo
nên hệ thống sản xuất và phục vụ văn hóa nhiều chủng loại, cấp
độ, nhiều loại hình, đáp ứng yêu cầu về số lượng, chất lượng văn
hóa, thỏa mãn nhu cầu văn hóa ngày càng cao và đa dạng của nhân
dân. Lợi nhuận khổng lồ của CNVH đã khiến rất nhiều doanh

nghiệp lớn trên thế giới đua nhau tham gia. Việt Nam có một vốn
văn hóa dày dặn, nếu biết cách phát huy các di sản đó bằng những
phương thức hiện đại thì chúng sẽ trở thành một nguồn lực kinh tế
dồi dào cho đất nước./.
19



×