Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Vai trò tri thức khoa học đối với quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.02 KB, 9 trang )

Họ và tên: Doangchay Keomisay
Lớp: CH17B
BÀIKIỂMTRATRIẾTHỌC
Đề bài: Vai trò tri thức khoa học lại có quan trọng đối với quá trình
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
1. Cơ sở lý luận
- Khái niệm về tri thức:
Tri thức là một yếu tốđặc trưng quan trọng của ý thức con người. Cùng
với xúc cảm, tri thức của con người về tự nhiên, về xã hội đã tạo nên ý thức, ý
thức theo nhận xét của Các Mác và Ph.Ăngghen trong "hệ tư tưởng Đức" ngay
từđầu là sản phẩm của xã hội và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn
tại.
Xét về nguồn gốc, tri thức bắt nguồn từ trong quá trình lao động và giao
tiếp giữa con người với con người. Phương tiện giao tiếp đầu tiên chính là tiếng
nói, ngôn ngữ; Nhờ có tiếng nói lần đầu tiên con người có thể biểu đạt được
những suy nghĩ, những tình cảm và sự nhận thức của mình ra thế giới bên ngoài.
Từđó có thểđưa ra những hoạch định, những quy định có tính mục đích xác định
đó là những tri thức đầu tiên của con người.
Như vậy tri thức nói riêng, ý thức nói chung là sự kết hợp giữa đối tượng
nhận thức thế giới hiện thực với bộ não có cấu tạo đặc biệt với tư cách là tổ chức
vật chất cao nhất của con người . Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức về
thế giới hiện thực của con người. Trong quá trình đó các sự vật, hiện tượng
trong thế giới hiện thực đã tác động lên bộ não con người thông qua các giác
quan và nhờđó có bộ não tiến hóa nhất, tư duy con người đã tái hiện lại những
mối quan hệ bản chất, những thuộc tính… từđó chúng được khái quát hóa, trừu
tượng hóa thành những khái niệm, phạm trù, phán đoán, quy luật… vàđược biểu
đạt dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác nhau. Do đó sự tác
động của thế giới hiện thực lên bộ não con người chính là nguồn gốc của tri
thức.
Tri thức có nguồn gốc từ thế giới hiện thực, là sự phản ánh thế giới đó
trong đầu óc con người thông qua quá trình nhận thức. Cho nên bản chất của tri


thức là hình ảnh của thế giới hiện thực trong đầu óc con người. Hình ảnh đó
càng ngày càng được nhận thức của con người bổ sung cho chi tiết, chính xác
hơn trên con đường nhận thức và cải biên tự nhiên.
- Khái niệm về tri thức khoa học:
1
Trong lịch sử phát triển tư duy của nhân loại có rất nhiều quan niệm khác
nhau về khoa học, một mặt nó phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội, mặt
khác phụ thuộc vào trình độ của nhận thức. Xét về phương diện xã hội khoa học
là một hiện tượng xã hội có nhiều mặt, trong đó biểu hiện sự thống nhất giữa
những yếu tố vật chất và những yếu tố tinh thần. Về phương diện nhận thức,
khoa học là giai đoạn cao nhất của nhận thức, nhận thức lí luận về phương diện
triết học, khoa học là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt. Khoa học không chỉ
phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào xã hội, những chân lý của nóđược thực
tiễn xã hội kiêm nghiệm mà khoa học còn là kết quả của quá trình sáng tạo
logic, của trực giác thiên tài: Khoa học là yếu tố ngày càng có vai tròđặc biệt
quan trọng của lực lượng sản xuất, quyết định trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất nói riêng, của phương thức sản xuất và của xã hội nói chung.
- Tri thức và tri thức khoa học đối với sự phát triển của xã hội.
Tri thức rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Bởi vì mọi việc
mà chúng ta làm đều phụ thuộc vào tri thức một cách đơn giản làđể sống, chúng
ta phải biến đổi những nguồn lực mà chúng ta có thành những đồ vật mà chúng
ta cần vàđiều đó cần phải có tri thức. Trong lao động sản xuất ra của cải phát
triển, con người phải nắm bắt, nhận thức được đối tượng lao động và công cụ
lao động để dùng những tri thức đó tạo ra vật chất, những tri thức về xã hội sẽ
giúp con người phát triển quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất từđó tạo ra sự phát triển về phương thức sản xuất. Trong chính trị
- xã hội, con người sử dụng những tri thức của mình để tạo ra một xã hội ổn
định hoà bình, văn minh, đời sống văn hoá tinh thần, không ngừng được nâng
cao. Nói tóm lại, xã hội muốn phát triển được thì cần phải có tri thức, tri thức là
chìa khoáđể phát triển sản xuất, phát triển xã hội. Đặc biệt, là tri thức khoa học,

tri thức khoa học hình thành và phát triển trên cơ sở sản xuất và hoạt động thực
tiễn. Vai trò của tri thức khoa học ngày càng tăng lên đối với sự phát triển của
xã hội. Ngày nay, tri thức khoa học đã thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vai trò
của nó thể hiện ở chỗ khoa học trở thành điểm xuất phát, ra đời, những ngành
sản xuất mới, công nghệmới, nguyên liệu mới. Khoa học trở thành yếu tố tri
thức không thể thiếu được của người lao động biến người lao động thành người
điều khiển kiểm tra quá trình sản xuất. Đội ngũ các nhà khoa học, kỹ thuật viên
trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất vật chất với quy mô ngày càng lớn.
Cùng với khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội như
kinh tế học, luật học, xã hội học… cũng không ngừng phát triển vàđóng vai trò
quan trọng trong đời sống xã hội. Khoa học không chỉ góp phần nâng cao chất
2
lượng cuộc sống mà còn giúp con người cóđầu óc tư duy sáng tạo, tầm nhìn suy
rộng. Điều này đặc biệt cóý nghĩa đối với các nhà lãnh đạo vì phải nắm bắt được
cơ sở khoa học thực tế thì mới hoạch định được chính sách, đường lối phát triển
của một tổ chức hay một quốc gia. Ngày nay việc quản lý xã hội, trong đó quan
trọng là quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước, thành công đến mức nào là tuỳ thuộc
vào khả năng xử lý thông tin. Không theo kịp những biến đổi hết sức mới trong
lĩnh vực này mà khư khư giữ lấy cách quản lý cũ, lạc hậu thì không tránh khỏi
bỏ lỡ thời cơ có thể vươn lên để tiến kịp cùng thời đại và thoát ra sự trì trệ. Cùng
với những biến đổi về chất lượng trong lực lượng sản xuất, trong kinh tế và
trong quản lý xã hội, tiến bộ khoa học, kỹ thuật còn tạo nên những biến đổi ghê
gớm trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự, trong việc tạo ra những phương tiện phá
hoại và huỷ diệt sự sống, làm gay gắt những vấn đề toàn cầu của thời đại. Nhờ
tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà càng ngày người ta càng tạo ra được nhiều loại
nguyên liệu và vật liệu có thể thay thế những thứ từ trước đến nay chỉ có thể dựa
vào sự cung cấp của thiên nhiên. Vì vậy tiến bộ khoa học kỹ thuật đang làm ưu
thế dưới dạng tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên trở nên tương đối. Tiến bộ
khoa học kỹ thuật một mặt tạo thời cơ thuận lợi cho các nước thoát ra khỏi sự
lạc hậu và trì trệ nếu như biết định hướng đúng, nếu có một tiềm năng nhất định

nào đó về nguồn vốn và nguồn nhân lực có trình độ cần thiết để tiếp thu các
công nghệ tương đối hiện đại khi đã có những kỹ thuật và công nghệ mới, tiến
bộ thì vấn đềđặt ra tiếp theo là giải quyết việc làm cho số lao động dôi ra tìm thị
trường tiêu thụ sản phẩm…. Nếu giải quyết tốt thì chúng khả năng hội nhập của
các nước này với trào lưu chung của thế giới là hiện thực. Song tiến bộ khoa học
- kỹ thuật thời đại chúng ta còn có một mặt khắc nghiệt ngã là hoàn toàn có khả
năng nhấn các nước kém phát triển chìm sâu hơn trong cảnh lạc hậu và phụ
thuộc, đồng thời còn tạo nên một khoảng cách còn lớn gấp bội so với khoảng
cách đã từng tồn tại trước đây giữa họ và các nước phát triển nếu như họ không
tìm ra con đường thích hợp hoặc cố tình duy trì cách làm ăn cũ, thói quen cũ,
không thích nghi với những biến đội của thời đại.
Như vậy, tri thức khoa học ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của xã hội
và thế giới ngày nay, nó là người bạn đồng hành của xã hội văn minh tiến bộ.
2. Vai trò của tri thức và tri thức khoa học đối với quá trình tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoáở Việt Nam
- Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động
3
thủ cong là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
côngnghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển
của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã
hội cao. Công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Hiện đại hoá trong sản
xuất trước hết là hiện đại hoá trong lực lượng sản xuất. Xu hướng vận động
chung của lực lượng sản xuất hiện đại là không ngừng thay thế dần các thiết bị,
các quy trình công nghệ chưa hoàn thiện bằng các trang thiết bị, quy trình công
nghệ cao, công nghệ sạch.
Nước ta đang ở vào một thời kỳ phát triển mới - thời kỳđẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong đường lói và chiến lược phát triển kinh tế xã hội
của Đại hội Đảng lần thứ 9 của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định:

"Đường lối kinh tế của Đảng ta là: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
xây dựng nền kinh tếđộc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp" và chỉ rõ "phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ
trung tâm". Bởi vì, chỉ có bằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta
mới có thể thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, mới có thể hoà vào dòng thác phát
triển chung của toàn nhân loại. Vậy phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá bằng cách nào?
- Tri thức, tri thức khoa học là tiền đề vàđộng lực cho quá trình tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã
xác định rõ "Công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước phải bằng và dựa vào khoa
học công nghệ"; "khoa học công nghệ phải trở thành nền tảng vàđộng lực cho
công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Đến đại hội IX của Đảng điều này lại được
khẳng định lại một lần nữa lại được khẳng định: "Phát huy nguồn lực trí tuệ và
sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi sự phát triển giáo dục vàđào tạo,
khoa học và công nghệ là nền tảng vàđộng lực của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá".
Mục đích quan trọng nhất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát triển
sản xuất xã hội, trước hết là phát triển lực lượng sản xuất nhằm thoả mãn các
nhu cầu ngày càng tăng của con người và thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Lực
lượng sản xuất bao gồm những yếu tố cơ bản: tư liệu sản xuất (đối tượng lao
động, công cụ lao động, khoa học công nghệ, hạ tầng cơ sở…) và con người.
Ngày nay tri thức đã thật sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong nền
kinh tế tri thức mà một số nước công nghiệp phát triển đang thực hiện, tri thức
khoa học đặc biệt là tri thức của một số lĩnh vực như tin học, điều khiển học,
4
sinh học… đã trực tiếp gia nhập vào quá trình sản xuất và dịch vụ của xã hội.
Bằng cách này lực lượng sản xuất sẽ không ngừng được bổ sung vàđổi mới theo
hướng gia tăng tính hiện đại, tiên tiến. Xu hướng vận động chung của lực lượng
sản xuất hiện đại là không ngừng thay thế dần các trang thiết bị, các qui trình

công nghệ chưa hoàn thiện (cho năng suất thấp, tiêu hao nhiên liệu, gây ô
nhiễm….) bằng các trang thiết bị, quy trình công nghệ cao, công nghệ sạch.
Điều đó là dựa vào tri thức khoa học. Như vậy tri thức khoa học đã thúc đẩy sự
phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng hiện đaịi vàđó là nền tảng cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nền sản xuất xã hội.
Tri thức khoa học có vai trò to lớn quyết định trong việc biến đổi yếu tố
con người trong lực lượng sản xuất theo chiều hướng hiện đại. Bằng tri thức con
người có thể nhanh chóng vận hành tốt và thích nghi với những trang thiết bị
hiện đại, tiên tiến trong sản xuất, cũng nhưđủ sức giải quyết những tình huống
phức tạp, có vấn đề trong sản xuất vàđời sống. Mặt khác, do sự thường xuyên
đổi mới của trang thiết bị sản xuất vàđời sống nó buộc con người thường xuyên
học tập, trau dồi kiến thức để khỏi bịđào thảo ra khỏi quá trình sản xuất xã hội
vàđể thích ứng với cuộc sống hiện tại. Trình độ chất lượng của đội ngũ người
lao động trong lực lượng sản xuất không ngừng được nâng cao và hoàn thiện.
Do đó với tư cách là yếu tố thuộc lực lượng sản xuất, tri thức khoa học có vai trò
cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của sản xuất. Ngoài ra nhờ có tri thức khoa học
mà quan hệ sản xuất phát triển con người nắm bắt, truyền đạt thông tin nhanh
hơn nhờđó thúc đẩy sản xuất. Ngày nay tri thức khoa học liên quan chặt chẽ và
tác động trực tiếp, mạnh mẽ lên cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Bên
cạnh đó tri thức khoa học còn có vai trò trong hoàn thiện cơ chế tổ chức, quản lý
sản xuất, kinh doanh, nhằm mục tiêu thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và tri thức khoa học đóng góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục
tiêu phát triển bền vững của xã hội.
- Thực tiễn vận dụng tri thức và tri thức khoa học vào công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoáở Việt Nam.
Thực tiễn trong những năm qua ở Việt Nam cho thấy ởđâu có sự sáng tạo
trong công cuộc đổi mới các giải pháp khoa học công nghệ thìởđó có sự tiến bộ
vượt bậc. Về nông nghiệp sự sáng tạo của Đảng trong chính sách khoán áp dụng
trong nông nghiệp những năm 80 là một ví dụđiển hình cho thấy vai trò của

chính sách trong việc tạo ra mức tăng trưởng sản lượng kỷ lục về lương thực mà
không có một yếu tố sản xuất thông thường nào như: vốn, lao động vật tư có
5

×