BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHẠM NHƯ NGỌC
ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT THỎA THUẬN ĐỘC QUYỀN TRONG HỢP
ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN
Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này
Tác giả luận văn
Phạm Như Ngọc
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Hạn chế cạnh tranh
HCCT
Kinh tế thị trường
KTTT
Luật Cạnh tranh
LCT
Nhượng quyền thương mại
NQTM
Pháp luật cạnh tranh
PLCT
Sở hữu công nghiệp
SHCN
Sở hữu trí tuệ
SHTT
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
TTHCCT
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
2. Tình hình nghiên cứu
2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4
5. Phương pháp nghiên cứu
5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
5
7. Kết cấu của luận văn
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN
ĐỘC QUYỀN TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN
THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng nhượng quyền thương mại
7
7
7
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại
7
1.1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng nhượng quyền thương mại
13
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của thỏa thuận độc quyền trong hợp
đồng nhượng quyền thương mại
1.1.2.1. Khái niệm thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại
1.1.2.2. Đặc điểm của thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại.
17
1.2. Lý luận pháp luật về thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với thỏa thuận
độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại
1.2.2. Nội dung pháp luật về thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại
Kết luận Chương 1
17
18
21
21
23
27
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN, XỬ LÝ HÀNH VI THỎA THUẬN ĐỘC QUYỀN
TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
2.1. Thực trạng pháp luật về thỏa thuận độc quyền trong hợp
đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
2.1.1. Khái quát quy định của pháp luật Việt Nam về thỏa thuận
độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại dưới góc
nhìn so sánh với pháp luật một số quốc gia
2.1.1.1. Thỏa thuận liên quan đến duy trì tính đặc trưng và uy tín của
mạng lưới nhượng quyền thương mại
2.1.1.2. Thỏa thuận về li-xăng (license)
29
29
29
29
33
2.1.1.3. Thỏa thuận độc quyền lãnh thổ
35
2.1.1.4. Thỏa thuận phân phối và cung ứng độc quyền
40
2.1.1.5 Thỏa thuận ấn định giá bán lại
44
2.1.2. Hậu quả pháp lý và việc xử lý các thỏa thuận độc quyền
trong hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt
Nam
2.1.2.1. Những hậu quả pháp lý do các hành vi thỏa thuận độc quyền
trên thị trường
2.1.2.2. Xử lý các thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại
49
2.2. Thực tiễn thực hiện và xử lý các hành vi thỏa thuận độc
quyền trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
2.2.1. Những ưu điểm
55
2.2.2. Những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân
56
2.2.2.1. Một số bất cập trong xử lý hành vi
56
2.2.2.2. Bất cập trong quy định về thỏa thuận nhằm duy trì tính đặc
trưng và uy tín của mạng lưới nhượng quyền thương mại
2.2.2.3. Bất cập trong quy định về thỏa thuận độc quyền cung cấp
sản phẩm
2.2.2.4. Bất cập trong quy định về kiểm soát thỏa thuận áp đặt
58
49
52
55
59
60
giá bán lại
Kết luận Chương 2
62
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN ĐỘC QUYỀN
TRONG HỢP ĐỒNG
3.1. Một số định hướng hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận độc
quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật trên cơ sở ghi nhận quy luật khách
quan của cạnh tranh và tính đặc thù của hợp đồng nhượng quyền
thương mại
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật trên cơ sở ghi nhận thỏa thuận độc
quyền như một “ngoại lệ hợp lý” của pháp luật cạnh tranh theo
hướng phù hợp với bản chất của hợp đồng nhượng quyền thương
mại
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật phải đảm bảo tính phù hợp giữa pháp
luật cạnh tranh và pháp luật về nhượng quyền thương mại
3.1.4. Xây dựng hành lang pháp lý thống nhất để điều chỉnh thỏa
thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao cơ chế thực
thi pháp luật để kiếm soát thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận độc quyền
trong hợp đồng nhượng quyền thương mại
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao cơ chế thực thi pháp luật
để kiểm soát thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại
Kết luận Chương 3
81
KẾT LUẬN
82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
63
63
63
63
65
66
69
69
77
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với vai trò tích cực của mình, nhượng quyền thương mại đã và đang
được xem là cách thức hiệu quả để các bên mở rộng quy mô sản xuất, kinh
doanh bằng cách khai thác các thương hiệu thành công thông qua việc chuyển
giao quyền sử dụng quyền thương mại của bên nhượng quyền đối với bên
nhận quyền. Khi thực hiện kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, bên
nhượng quyền phải chuyển giao toàn bộ “quyền thương mại” (bao gồm tất cả
các yếu tố tạo nên thương hiệu của bên nhượng quyền như nhãn hiệu, tên
thương mại, bí quyết kinh doanh…) cho bên nhận quyền sử dụng. Ngược lại,
về phía bên nhận quyền, sau khi đã bỏ ra một chi phí rất lớn để nhận quyền
kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại, bên nhận quyền
cũng mong muốn sẽ được đảm bảo một tỷ lệ thành công. Tuy nhiên, sẽ khó
thực hiện dễ dàng khi mà việc kinh doanh của bên nhận quyền sẽ phải thực
hiện theo một phương thức để duy trì tính thống nhất và đồng bộ của hệ
thống. Vì vậy, khi thiết lập quan hệ nhượng quyền thương mại các bên thường
có xu hướng thực hiện những hành vi nhằm kiểm soát lẫn nhau do bản chất
vốn có của quan hệ nhượng quyền. Những hành vi này thường chứa đựng yếu
tố hạn chế cạnh tranh như buộc bên nhận quyền phải mua hàng hóa/nguyên
liệu từ một nguồn nhất định do bên nhượng quyền chỉ định, thỏa thuận bên
nhận quyền được phép kinh doanh độc quyền trong một khu vực nhất định
(độc quyền lãnh thổ)… Dưới cách nhìn của pháp luật cạnh tranh hiện nay,
những hành vi này sẽ bị cấm khi hội tụ đủ một số điều kiện nhất định. Tuy
nhiên, dưới góc nhìn của một hành vi thương mại, những thỏa thuận này lại
không thể không tồn tại trong một quan hệ nhượng quyền vốn có nhiều tiềm
năng cũng như rủi ro phải đối mặt với các bên. Đặc thù này đòi hỏi pháp luật
điều chỉnh trực tiếp hoạt động nhượng quyền thương mại phải được đặt trong
mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh. Bởi lẽ, những thỏa thuận gây hạn chế
cạnh tranh này có thể gây ra những hệ quả nhất định đối với môi trường cạnh
2
tranh lành mạnh, cho nên, các bên phải hết sức cẩn thận khi đưa các điều kiện
này vào trong hợp đồng, vì nếu một điều khoản nào đó trái với pháp luật về
cạnh tranh thì hợp đồng có thể vô hiệu. Luật Thương mại và Luật Cạnh tranh
của Việt Nam không có những quy định cụ thể điều chỉnh các thỏa thuận độc
quyền trong hoạt động thương mại nói chung và hoạt động nhượng quyền
thương mại nói riêng. Điều này dẫn đến những tác động tiêu cực đối với nền
kinh tế từ các hành vi thỏa thuận độc quyền không được kiểm soát trên mọi
phương diện và trong từng hoạt động thương mại riêng biệt.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu để tìm hiểu rõ hơn về các hành vi
thỏa thuận độc quyền trong hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
và việc điều chỉnh, kiểm soát nó bằng pháp luật hiện nay như thế nào là yêu
cầu có tính cần thiết. Với cách tiếp cận như trên, tác giả lựa chon đề tài “Pháp
luật thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại ở
Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu Luận Thạc sĩ luật học – chuyên ngành Luật
Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, pháp luật cạnh tranh và pháp luật về nhượng quyền
thương mại đều là hai mảng pháp luật được nhiều nhà khoa học quan tâm và
nghiên cứu. Mặc dù cùng nằm trong tổng thể pháp luật thương mại nói chung,
song hai lĩnh vực này vẫn có những điểm đặc thù và được quy định cũng như
điều chỉnh bởi hai hệ thống pháp luật riêng. Do vậy, khi đề cập đến vấn đề
thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại thì đây được
coi là một vấn đề tương đối mới mẻ và có nhiều nội dung cần nghiên cứu,
phân tích. Cho đến nay, nghiên cứu về pháp luật điều chỉnh các thỏa thuận
độc quyền và hợp đồng nhượng quyền thương mại đã có các công trình như:
(i) Đặng Vũ Huân, “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam”. Luận văn Tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà
Nội, 2002; (ii) Nguyễn Duy Thành, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong
việc kiểm soát giá độc quyền ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại
học Luật Hà Nội, 2003; (iii) Phan Thị Vân Hồng, “Độc quyền và pháp luật về
3
kiểm soát độc quyền ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại
học Luật Hà Nội, 2005…
Về hoạt động nhượng quyền thương mại dưới góc độ của pháp luật
cạnh tranh (PLCT), có một số công trình đã đề cập đến như: (i) Đào Đặng
Thu Hường, “Hợp đồng nhượng quyền thương mại trong pháp luật Việt
Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2007; (ii) Vũ Đặng
Hải Yến, “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh nhượng
quyền thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ
luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2008; (iii) Nguyễn Thị Như Nguyên, “Pháp
luật điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại – Thực trạng và giải
pháp hoàn thiện”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2012; (iv)
Trần Thị Hồng Thúy, “Kiểm soát hợp đồng nhượng quyền thương mại theo
quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ”, Luận văn
Thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012…
Nhìn chung, các công trình này về cơ bản mới chỉ tiếp cận từng mảng
nội dung pháp luật cạnh tranh về hành vi độc quyền nói chung hoặc pháp luật
về nhượng quyền thương mại, một số tác phẩm khác thì có phạm vi bao quát
rộng nhưng cũng chỉ phân tích ở các khía cạnh chung nhất và cơ bản về vấn
đề độc quyền và việc kiểm soát độc quyền ở Việt Nam mà chưa gắn cụ thể
thỏa thuận độc quyền trong Hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Bên cạnh đó, còn có công trình phân tích và nhận diện rõ hơn các dấu
hiệu của các thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại
như: “Các điều khoản độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại”
của TS. Bùi Ngọc Cường, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện nhà nước và
pháp luật, Số 7/2007, song tác phẩm này mới chỉ tập trung phân tích các điều
khoản độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại mà chưa đi sâu
vào nghiên cứu lý luận, phương thức kiểm soát và lấy dẫn chứng về những
vấn đề thực tiễn của các điều khoản độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại.
4
Tuy nhiên, dựa trên cơ sở tình hình nghiên cứu này, Luận văn sẽ kế
thừa một số luận điểm nghiên cứu, phân tích chuyên sâu pháp luật về thỏa
thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại nói chung và thực
tiễn thi hành, kiểm soát các thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại ở Việt Nam.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận và thực
tiễn của pháp luật về thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại, từ đó, kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm soát thuận độc quyền trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại tại Việt Nam.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu ở trên, Luận văn đã đặt ra các nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
- Thực hiện nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về thuận
độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về thuận độc quyền trong
hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam, chỉ ra những bất cập, tồn tại
của hệ thống pháp luật cũng như thực tiễn quá trình áp dụng.
- Đề xuất, kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống các quy định pháp luật
điều chỉnh hành vi thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại được quy định trong Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Thương
mại 2005 và các văn bản liên quan như: Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, Nghị
định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006 của Chính phủ quy định chi tiết về
hợp đồng nhượng quyền thương mại (sau đây viết tắt là Nghị định số
35/2006/NĐ-CP), Thông tư số 09/2006/NĐ-CP của Bộ Thương mại về hướng
dẫn đăng ký hợp đồng nhượng quyền thương mại (sau đây viết tắt là Thông tư
5
số 09/2006/BTM) và các văn bản, quy định pháp luật liên quan của các quốc
gia khác trên thế giới.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực trạng pháp luật và thực tiễn
thực hiện, xử lý hành vi thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại ở Việt Nam từ khi Luật Cạnh tranh 2004, Luật Thương mại 2005
được ban hành cho đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra, tác giả nghiên
cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương
pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm sảng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về
thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại và những khó
khăn từ phía bên nhận quyền và bên nhượng quyền; phương pháp so sánh
giữa các quy định của pháp luật về thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại giữa các văn bản pháp luật liên quan như Luật Thương
mại, Luật Cạnh tranh, giữa pháp luật Việt Nam với các quốc gia trên thế giới.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách tập trung và có hệ thống về
pháp luật thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần xây dựng cơ chế thực thi
pháp luật về vấn đề này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự vận hành phương
thức kinh doanh của nhượng quyền thương mại, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế, hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo có giá trị cho nghiên cứu, giảng
dạy và học tập về pháp luật thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
luận văn gồm 3 chương:
6
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về thuận độc quyền trong
hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam và thực tiễn thực hiện, xử
lý thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kiểm
soát thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN ĐỘC
QUYỀN TRONG HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng nhượng quyền thương mại
1.1.1.1. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại
Ở Việt Nam, nhắc đến hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại
(franchise) không phải là xa lạ. Hình thức này được du nhập từ những năm
1990, nhiều thương hiệu nổi tiếng toàn cầu chuyên về đồ ăn nhanh và đồ uống
như MCDonald’s, Kentucky Fried Chicken (KFC), Qualitea, Dilmah… đã
nhanh chóng thâm nhập thị trường Việt Nam trong những năm qua, trở thành
phổ biến và quen thuộc với người tiêu dùng. Mặc dù, hiện nay ở nước ta có
rất nhiều hệ thống kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại
(NQTM) đang hoạt động, tuy nhiên, nói về thuật ngữ NQTM thì vẫn được
xem là mới mẻ trong khoa học pháp lý Việt Nam. Hiện nay trên thế giới vẫn
chưa có một định nghĩa thống nhất về NQTM.
Theo Hiệp hội NQTM Quốc tế (IFA) - Hiệp hội lớn nhất nước Mỹ và
thế giới đã định nghĩa NQTM: “Nhượng quyền thương mại là mối quan hệ
theo hợp đồng giữa bên nhượng quyền với bên nhận quyền, theo đó bên
nhượng quyền đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp
của bên nhận quyền trên các khía cạnh như: Bí quyết kinh doanh, đào tạo
nhân viên. Bên nhận quyền hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hóa, phương thức,
phương pháp kinh doanh do bên nhượng quyền sở hữu hoặc kiểm soát; và bên
nhận quyền đang hoặc sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp
bằng nguồn lực của mình”. Theo đó, vai trò của bên nhận quyền kinh doanh
trong việc đầu tư vốn và điều hành doanh nghiệp được đặc biệt nhấn mạnh so
với trách nhiệm của bên giao quyền. Trong khi đó, Cộng đồng chung Châu
Âu EC (nay là Liên minh Châu Âu EU) lại định nghĩa nhượng quyền kinh
8
doanh theo hướng nhấn mạnh tới quyền của bên nhận, khi sử dụng một tập
hợp quyền SHTT. Mặc dù ghi nhận vai trò của thương hiệu và hệ thống, bí
quyết kinh doanh của bên giao quyền, định nghĩa này không đề cập tới những
đặc điểm khác của việc nhượng quyền kinh doanh. Cụ thể, EC định nghĩa
nhượng quyền kinh doanh là một “tập hợp những quyền sở hữu công nghiệp
(SHCN) và SHTT liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu
cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết, hoặc sáng
chế sẽ được khai thác để bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử
dụng cuối cùng”. Nhượng quyền kinh doanh có nghĩa là việc chuyển nhượng
quyền kinh doanh được định nghĩa ở trên1. Chương 54 Bộ luật Dân sự của
Liên bang Nga định nghĩa bản chất pháp lý của NQTM như sau: “Theo hợp
đồng NQTM, một bên (bên có quyền) phải cấp cho bên kia (bên sử dụng) với
một khoản thù lao, theo một thời hạn, hay không thời hạn, quyền được sử
dụng trong các hoạt động kinh doanh của bên sử dụng một tập hợp các quyền
độc quyền của bên có quyền bao gồm, quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương
mại, quyền đối với bí mật kinh doanh, và các quyền độc quyền theo hợp đồng
đối với các đối tượng khác như nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ…”.
Định nghĩa này tương tự như định nghĩa của EU đều nhấn mạnh tới việc Bên
giao quyền giao một số quyền SHTT độc quyền cho bên nhận để đổi lấy
những khoản chi phí nhất định, mà không đề cập đến vai trò, nghĩa vụ của bên
nhận2.
Ở Việt Nam, Luật Thương mại năm 2005 đã đưa ra khái niệm về
NQTM như sau: “Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo
đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành
việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây: (i) Việc
mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức
kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng
1
Nguyễn Thị Như Nguyễn (2011), Pháp luật điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại –
Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr.6.
2
Bộ Công thương, Cục Quản lý Cạnh tranh, Báo cáo Rà soát các quy định của Luật cạnh tranh
Việt Nam, ngày 8/10/2012.
9
hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng
kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; (ii) Bên nhượng quyền có
quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công
việc kinh doanh” 3. Với khái niệm này, pháp luật thương mại Việt Nam khẳng
định hoạt động NQTM là một hoạt động thương mại, vì vậy, hoạt động này
phải do thương nhân thực hiện và có mục đích kinh doanh. Ngoài ra, khái
niệm này cũng chỉ rõ tính chất ràng buộc qua lại giữa các bên có liên quan,
nhất là khẳng định sự giám sát của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền
thương mại.
Như vậy, mặc dù quan điểm của các nhà làm luật tại mỗi nước đưa ra
định nghĩa khác nhau về NQTM, tuy nhiên, dựa trên bản chất được rút ra
trong các định nghĩa, có thể đưa định nghĩa chung nhất về NQTM như sau:
“NQTM là một quan hệ pháp luật được thiết lập trên cơ sở hợp đồng giữa các
bên, trong đó, bên NQTM cho phép bên nhận quyền thương mại sử dụng một
nhóm các quyền thương mại của mình mà chủ yếu là các quyền liên quan đến
đối tượng của quyền SHTT để tiến hành kinh doanh với tư cách pháp lý độc
lập. Đổi lại, bên nhận quyền phải trả phí nhượng quyền cho bên NQTM, phí
này có thể bao gồm phí nhượng quyền ban đầu và phí nhượng quyền định kỳ
trả dựa trên doanh thu hàng tháng, hàng năm của bên nhận quyền thương mại.
Ngoài ra, bên NQTM có thể ràng buộc bên nhận quyền thương mại bởi các
thỏa thuận nhằm duy trì tính hệ thống hoặc để kiểm soát hoạt động của bên
nhận quyền thương mại trên cơ sở có hỗ trợ về mặt kỹ thuật và đào tạo nhân
lực cũng như các cơ sở vật chất cần thiết cho bên nhận quyền thương mại”.
Nhận quyền thương mại, có nghĩa là bên nhận quyền mua quyền sử
dụng của một thương hiệu hoặc một mô hình kinh doanh cụ thể. Doanh
nghiệp nhận quyền điều hành về cơ bản cũng giống như mọi doanh nghiệp
khác được vận hành dưới cùng một quyền thương mại. Để làm được điều này,
3
Điều 284, Luật Thương mại số 36/2005/QH11 của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành
ngày 14/6/2005.
10
bên nhận quyền thường phải mua nhiều thứ từ bên nhượng quyền thương mại
như các sản phẩm, công cụ trợ giúp về quảng cáo, dịch vụ đào tạo.
Từ sự phân tích khái niệm nhượng quyền thương mại nêu trên, xuất
phát từ góc độ kinh tế và góc độ pháp lý của hoạt động NQTM, có thể đưa ra
khái niệm về hợp đồng NQTM như sau:
“ Hợp đồng NQTM là thỏa thuận giữa bên nhận quyền và bên nhượng
quyền về các nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ này. Bên nhượng
quyền cho phép bên nhận quyền được sử dụng “quyền thương mại” thuộc sở
hữu của mình theo cùng một kế hoạch hệ thống tiếp thị của bên nhượng
quyền và được nhận lại khoản phí hoặc % doanh thu của bên nhận quyền tùy
theo thỏa thuận. Trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng, bên nhượng quyền
có trách nhiệm giúp đỡ, hướng dẫn và đào tạo cũng như có quyền kiểm soát
đối với việc sử dụng “quyền thương mại” đã được chuyển giao. Và hợp đồng
NQTM sẽ là căn cứ để phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên, cũng như là
căn cứ giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện thỏa thuận
giữa các bên”.
Ở Việt Nam, pháp luật không đưa ra định nghĩa về hợp đồng NQTM
mà chỉ quy định về hình thức của loại hợp đồng này tại Điều 285 Luật
Thương mại 2005. Như vậy, có thể hiểu, trên phương diện pháp luật, hợp
đồng NQTM là một loại hợp đồng được các thương nhân ký kết trong quá
trình thực hiện hoạt động thương mại, mà cụ thể ở đây là hoạt động nhượng
quyền thương mại. Vì vậy, hợp đồng này cũng phải có những đặc điểm chung
của hợp đồng được quy định trong Bộ luật Dân sự và đáp ứng đầy đủ các điều
kiện mà pháp luật dân sự đặt ra dưới góc độ của một loại giao dịch dân sự.
Thêm vào đó, về cơ bản, nó phải thể hiện được bản chất của giao dịch NQTM
đã được định nghĩa tại Điều 284 Luật Thương mại.
Không đưa ra định nghĩa cụ thể về hợp đồng NQTM nói chung nhưng
Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006 của Chính phủ lại nêu định
nghĩa về các dạng đặc biệt của hợp đồng NQTM như “hợp đồng phát triển
11
quyền thương mại”
4
hoặc “hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp”5.
Đây là các dạng biến thể của hợp đồng NQTM, thể hiện sự đa dạng về hình
thức và phương thức nhượng quyền nên việc đưa ra định nghĩa cụ thể về
những loại hợp đồng này trong luật là hợp lý. Tuy nhiên, khi giải thích về
nghĩa của cả hai loại hợp đồng nói trên, các nhà làm luật vẫn sử dụng thuật
ngữ “hợp đồng nhượng quyền thương mại” để làm cầu nối. Như vậy, việc
pháp luật thương mại không đưa ra định nghĩa về hợp đồng NQTM mà lại
dùng chính thuật ngữ này để giải thích cho các thuật ngữ khác có liên quan là
chưa đảm bảo tính hệ thống và tính chính xác cần phải có đối với các quy
định pháp luật hiện nay.
Mặc dù không có một khái niệm cụ thể nào cho hợp đồng NQTM, tuy
nhiên hợp đồng NQTM luôn được xác định với những đặc trưng cơ bản trong
các vấn đề cụ thể sau:
Một là, hợp đồng NQTM thường có tính “mẫu” nhằm đảm bảo được
tính ổn định của một hệ thống nhượng quyền và bảo vệ quyền lợi của bên
nhượng quyền6. Tính “mẫu” của hợp đồng NQTM được hiểu là sự giống nhau
về nội dung của hợp đồng NQTM mà bên nhượng quyền đã đưa ra để các bên
nhận quyền xem xét, cân nhắc từ đó tiến đến giao kết hợp đồng. Thực tế là,
bên nhượng qyền khi quyết định giao kết hợp đồng với bên nhận quyền mới
phải đối mặt trước tất cả các bên nhận quyền còn lại khi có một bên nhận
quyền không trung thành với hệ thống nhượng quyền làm ảnh hưởng tới lợi
ích của cả hệ thống. Do đó, với bất kỳ một hệ thống NQTM lớn nào trên thế
giới, bên nhượng quyền bao giờ cũng xây dựng cho hệ thống quyền thương
mại của mình một bản hợp đồng NQTM vững chắc theo hướng có lợi cho
mình. Bản hợp đồng này được coi là hợp đồng NQTM của cả hệ thống và
4
Khoản 8, Điều 3 Nghị định 35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật
thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại.
5
Khoản 10, Điều 3 Nghị định 35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật
thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại.
6
Đinh Thị Ngọc Châm (2015), Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội, tr.13.
12
được áp dụng cho tất cả các chủ thể muốn tham gia nhận quyền. Như vậy,
hợp đồng giữa bên nhận quyền với các đối tác nhận quyền khác nhau sẽ có
cấu trúc, nội dung, các quyền lợi, nghĩa vụ, mức phí và các thỏa thuận khác
tương tự nhau. Tuy yếu tố này hạn chế sự thể hiện ý chí của bên nhận quyền
trong hợp đồng NQTM nhưng đây cũng chính là yếu tố mang tính cam kết
cao, đảm bảo cho sự phát triển đồng bộ của hệ thống nhượng quyền, là yếu tố
cơ bản mang lại thành công cho hệ thống nhượng quyền.
Hai là, hợp đồng NQTM bảo vệ tính đồng bộ của hệ thống nhượng
quyền. Trước hết, dưới góc độ kinh tế, thương hiệu là một tài sản trí tuệ. Đây
là tài sản cốt lõi của doanh nghiệp được xây dựng bằng nhiều yếu tố gồm
nhãn hiệu hàng hóa/dịch vụ bảo hành…Trong một mối quan hệ NQTM, bên
nhượng quyền đã cấp phép cho bên nhận quyền được cùng sử dụng tên
thương hiệu và mô hình kinh doanh gồm: nhãn hiệu, biểu tượng, khẩu hiệu,
tiêu chí quảng cáo, bí quyết kinh doanh và những biểu tượng thương mại khác
đã được khách hàng và thị trường công nhận. Do vậy, khi sử dụng sản
phẩm/dịch vụ được NQTM, rất khó để phân biệt đâu là sản phẩm của bên
nhượng quyền và bên nhận quyền. Hợp đồng NQTM được bên nhượng quyền
soạn thảo. Trong đó nội dung hợp đồng bao gồm các điều khoản khác nhau và
đều hướng đén mục tiêu duy trì tính đồng bộ, thống nhất và lợi ích của cả hệ
thống.
Ba là, hợp đồng NQTM quy định việc kiểm soát và hỗ trợ vừa là quyền
và nghĩa vụ của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền. Điều 284 và Điều
287 Luật Thương mại có quy định bên nhượng quyền có nghĩa vụ hướng dẫn,
đào tạo bên nhận quyền có thể vận hành và phát triển mô hình kinh doanh của
bên nhượng quyền. Nghĩa vụ này phải được bên nhượng quyền thực hiện
trước khi khai trương cửa hàng hoặc thành lập doanh nghiệp và cả trong quá
trình bên nhận quyền tiến hành kinh doanh trong thời hạn hợp đồng. Bên cạnh
đó, pháp luật việt nam cũng quy định cho bên nhượng quyền quyền kiểm soát
việc sử dụng “quyền thương mại” của bên nhận quyền có thể đột xuất hoặc
định kỳ. Và ngược lại đối với bên nhận quyền, nghĩa vụ của họ là tuân thủ
13
nghiêm túc tất cả những điều kiện, yêu cầu về sự đồng bộ của hệ thống
nhượng quyền do bên nhượng quyền đưa ra.
1.1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng nhượng quyền thương mại
Có thể hiểu, trên phương diện pháp luật, hợp đồng NQTM là một loại
hợp đồng được các thương nhân thực hiện. Do vậy, nó mang những đặc điểm
cơ bản của một hợp đồng thương mại nói chung như chủ thể của hợp đồng
phải có ít nhất một bên là thương nhân và phải chịu sự điều chỉnh của Luật
thương mại. Bên cạnh đó, dựa vào bản chất đã được phân tích qua khái niệm
nêu trên, hợp đồng NQTM còn có những đặc điểm nhất định, phân biệt hợp
đồng này với một số hợp đồng thương mại khác cùng chịu sự điều chỉnh của
Luật Thương mại:
Thứ nhất, về chủ thể hợp đồng
Chủ thể của hợp đồng NQTM bao gồm bên nhượng quyền và bên nhận
quyền. Trong đó, bên nhượng quyền trong hoạt động NQTM là thương nhân
cấp quyền thương mại, bao gồm cả bên nhượng quyền thứ nhất và bên
nhượng lại quyền; Bên nhận quyền là thương nhân nhận quyền thương mại để
khai thác, kinh doanh, bao gồm cả bên nhận quyền thứ nhất (bên nhận quyền
sơ cấp) và bên nhận quyền thứ hai (bên nhận quyền thứ cấp). Như vậy, một
đặc trưng nổi bật về chủ thể của hợp đồng NQTM đó là cả hai bên chủ thể
tham gia vào thỏa thuận bắt buộc đều phải là thương nhân theo quy định của
Luật Thương mại năm 2005. Sở dĩ có đặc điểm này là bởi để đáp ứng điều
kiện thực tế nhằm làm cho việc nhượng quyền có tính khả thi, bên nhượng
quyền bắt buộc phải có một hệ thống, cơ sở kinh doanh có lợi thế cạnh tranh
trên thị trường. Hệ thống kinh doanh này phải có sự trải nghiệm thị trường đủ
để tạo ra một giá trị “quyền thương mại” hợp lý và tạo niềm tin cho bên nhận
quyền. Mặt khác, dưới góc độ pháp luật, để đáp ứng yêu cầu của pháp luật,
bên nhận quyền là một doanh nghiệp độc lập về mặt pháp lý, tài chính và đầu
tư, đồng thời chấp nhận rủi ro đối với vốn bỏ ra để thực hiện việc tham gia
vào hệ thống nhượng quyền của bên nhượng quyền. Hơn nữa, NQTM là một
14
hoạt động đặc trưng của thương mại, vì vậy, hầu như hoạt động này chỉ dành
riêng cho các thương nhân.
Pháp luật thương mại Việt Nam chỉ ra các đối tượng có thể trở thành
chủ thể của một quan hệ NQTM, bao gồm: Bên nhượng quyền, bên nhận
quyền, bên nhượng quyền thứ cấp, bên nhận quyền sơ cấp và bên nhận quyền
thứ cấp7. Theo đó, hoạt động NQTM có thể được thực hiện dưới nhiều hình
thức. Hình thức cơ bản nhất, tồn tại các bên nhượng quyền và bên nhận
quyền; hình thức phức tạp hơn, các bên nhận quyền sơ cấp có thể được thực
hiện việc nhượng lại quyền thương mại cho các bên nhận quyền thứ cấp và
trở thành bên nhượng quyền thứ cấp. Quy định này đáp ứng được tính đa
dạng với nhiều biến thể mà hoạt động NQTM chứa đựng.
Thứ hai, về hình thức của hợp đồng
Điều 285 Luật Thương mại 2005 quy định: “Hợp đồng nhượng quyền
thương mại phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị
pháp lý tương đương”. Khoản 15 Điều 3 Luật Thương mại 2005 cũng quy
định: “Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex,
fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, hợp đồng nhượng quyền thương mại bắt buộc phải được lập thành
văn bản hoặc các hình thức tương đương như điện báo, telex, fax, thông điệp
dữ liệu khác...
Thứ ba, về đối tượng của hợp đồng
Đối tượng của hợp đồng NQTM là “quyền thương mại”. Đối tượng của
hoạt động NQTM phát triển rất phong phú, bao gồm hàng tiêu dùng, công
việc kinh doanh, dịch vụ, dịch vụ chuyên môn, dịch vụ đặc biệt (thuộc Chính
phủ), các phương thức kinh doanh. Do vậy, nội dung của khái niệm “quyền
thương mại” này cũng hết sức phong phú, gắn với các hoạt động cụ thể trên.
“Quyền thương mại” là đối tượng của hoạt động NQTM là một thuật ngữ mở,
7
Khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 3 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật
thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại.
15
cho phép các chủ thể của quan hệ nhượng quyền cụ thể hóa từng nội dung bao
gồm trong đó. “Quyền thương mại” có thể chỉ đơn giản là bí quyết kinh
doanh, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa, công nghệ sản xuất nhất định
hoặc là tổng hợp tất cả những quyền đối với hầu hết các đối tượng của quyền
sở hữu trí tuệ (SHTT) để bên nhận quyền có thể sử dụng để tạo ra những sản
phẩm, dịch vụ giống với những sản phẩm hoặc dịch vụ mà bên nhượng quyền
tạo ra. Sự phức tạp của nội dung khái niệm “quyền thương mại” làm cho đối
tượng của hoạt động NQTM khác biệt so với đối tượng của các hợp đồng
khác trong các hoạt động cùng liên quan tới quyền SHTT. Trong bối cảnh
chung là chưa có một khái niệm chính thức nào về “quyền thương mại” thì
nội dung của “quyền thương mại” sẽ phụ thuộc vào sự giải thích và thỏa
thuận của các bên trong từng quan hệ NQTM cụ thể. Tóm lại, đối tượng của
hợp đồng NQTM là một chỉnh thể thống nhất bao gồm nhiều yếu tố kết hợp
liên quan đến quyền SHTT, đặc biệt đối với tên thương mại hoặc nhãn hiệu
hàng hóa, dịch vụ thuộc sở hữu của thương nhân nhượng quyền. Tuy nhiên,
tất cả những đối tượng kể trên là những tài sản vô hình. Vì vậy, rất khó để
kiểm tra chất lượng cũng như giá trị trên thực tế. Có thể yêu cầu bên nhượng
quyền cung cấp thông tin để bên nhận quyền đánh giá, song cũng không có
cách gì kiểm soát được hành vi của bên nhượng quyền hay các bên nhận
quyền khác sau khi ký hợp đồng NQTM khi những hành vi này ảnh hưởng
đến uy tín của cả hệ thống nhượng quyền. Việc nhượng quyền thành công hay
không phụ thuộc vào việc bên nhượng quyền có quảng cáo hay phát triển hệ
thống nhượng quyền hay không.
Thứ tư, về nội dung của hợp đồng
Theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP, “trong trường
hợp các bên lựa chọn áp dụng luật Việt Nam”, thì hợp đồng nhượng quyền
thương mại bao gồm các nội dung chính sau:
+ Điều khoản về đối tượng hợp đồng: Đối tượng của hợp đồng nhượng
quyền thương mại chính là quyền thương mại - là tập hợp tất cả các quyền
năng của chủ thương hiệu đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp như nhãn
16
hiệu, hàng hóa, bí quyết kinh doanh, tên thương mại. Ngoài ra, để giá trị
quyền thương mại được nâng lên thì đối tượng nhượng quyền thương mại còn
có thể chứa đựng thêm một số quyền năng khác như quyền được cấp quyền
thương mại chung, quyền phát triển hệ thống NQTM (theo khoản 6, Điều 3,
Nghị định số 35/2006/NĐ-CP).
+ Điều khoản quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên: Quyền và
nghĩa vụ cụ thể của bên nhượng quyền và bên nhận quyền do các bên thỏa
thuận. Nếu các bên không có thỏa thuận khác, thì nội dung quyền và nghĩa vụ
của các bên được thực hiện theo điều 286, 287, 288, và 289 Luật Thương mại
2005. Theo đó,
+ Điều khoản quy định về giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương
thức thanh toán: Điều khoản này do các bên thỏa thuận. Pháp luật không quy
định mức giá cố định cho từng hàng hóa mà các bên căn cứ vào uy tín của
hàng hóa, khu vực nhượng quyền và nhu cầu của thị trường, … để quyết định
giá, phí thanh toán. Đồng thời lựa chọn phương thức thanh toán cho phù hợp
với điều kiện của các bên. Pháp luật quy định như vậy đảm bảo quản lý ở tầm
vĩ mô không can thiệp quá sâu vào quan hệ giữa các bên.
+ Điều khoản thời hạn hiệu lực của hợp đồng: Pháp luật Việt Nam
không quy định một thời hạn cố định mà thời hạn của hợp đồng do các bên tự
quyết định. Bên cạnh đó tại Điều 13 Nghị định 35/2006/NĐ-CP cũng quy
định: “ Hợp đồng có thể chấm dứt trước thời hạn trong trường hợp quy định
tại điều 16 của Nghị định, đó là các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp
đồng”. Nghị định 35/2006/NĐ-CP cũng quy định thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng tại điều 14 theo hướng tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, nếu
không có sự thỏa thuận khác thì hợp đồng NQTM có hiệu lực tức thời tại thời
điểm giao kết. Ngoài ra, có thể xác định thời điểm giao kết hợp đồng theo quy
định tại Điều 388 Bộ luật Dân sự 2015.
+ Điều khoản gia hạn, chấm dứt hợp đồng và giải quyết tranh chấp: Khi
hợp đồng hết thời hạn các bên có thể thỏa thuận gia hạn hợp đồng. Đồng thời
17
các bên có thể thỏa thuận chấm dứt hợp đồng trước thời hạn hết hiệu lực của
hợp đồng.
Thông thường hợp đồng NQTM sẽ chấm dứt trong các trường hợp sau:
(i) Hết thời hạn thực hiện hợp đồng mà các bên không có thỏa thuận gia hạn;
(ii) Hợp đồng chưa hết thời hạn thực hiện nhưng các bên có thỏa thuận chấm
dứt; (iii) Một bên đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Việc quy
định quyền năng này để bảo vệ lợi ích của bên bị vi phạm và hạn chế những
thiệt hại có thể xảy ra cho bên bị vi phạm.8
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại
1.1.2.1. Khái niệm thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại.
Thỏa thuận độc quyền (TTĐQ) là sự thống nhất ý chí giữa các bên
trong một giao dịch, thỏa thuận này có thể được sử dụng ở nhiều lĩnh vực
khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, dưới góc độ của hoạt
động kinh doanh NQTM thì TTĐQ trong hợp đồng NQTM là một dạng của
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, theo đó, nó là sự thỏa thuận, thống nhất hành
động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép cạnh tranh
hoặc hạn chế khả năng hoạt động một cách độc lập giữa các đối thủ.
Khác với những dạng TTĐQ khác, TTĐQ trong hợp đồng NQTM được
xác lập thông qua giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền về các đối
tượng “quyền thương mại” được chuyển giao. Xét về bản chất, TTĐQ là một
dạng hợp đồng, bởi nội dung của nó là sự thống nhất ý chí giữa các bên. Song
hợp đồng này được xác lập thông qua sự thỏa thuận vi phạm điều cấm của
pháp luật, do vậy, nó được xác định là vô hiệu nếu sự thỏa thuận ấy vượt qua
giới hạn mà pháp luật cho phép.
8
Theo điều 16 Nghị định 35/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt
động nhượng quyền thương mại.
18
1.1.2.2. Đặc điểm của thỏa thuận độc quyền trong hợp đồng nhượng
quyền thương mại.
Các TTĐQ trong hợp đồng NQTM trên thực tế có thể được biểu hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau. Một trong những hình thức phổ biến thường
được các bên trong thỏa thuận lựa chọn đó là hợp đồng cung ứng hàng hóa
hay dịch vụ với điều khoản độc quyền, trong đó yêu cầu:
Một là, về chủ thể: TTĐQ diễn ra giữa bên nhượng quyền và bên nhận
quyền và là các doanh nghiệp hoạt động độc lập trên thị trường. Vậy hiểu thế
nào là một doanh nghiệp được coi là chủ thể thực hiện hành vi TTĐQ trong
hợp đồng NQTM? Theo Điều 2, Luật Cạnh tranh 2004, doanh nghiệp bao
gồm tổ chức, cá nhân kinh doanh, quy định này có phần khác biệt với quan
niệm về doanh nghiệp theo Luật thương mại 2005, khi Luật này quy định
doanh nghiệp chỉ có thể là tổ chức, không công nhận cá nhân có thể được gọi
là doanh nghiệp.
Theo pháp luật cạnh tranh (PLCT), các doanh nghiệp tham gia thỏa
thuận có thể là đối thủ cạnh tranh của nhau hoặc không phải là đối thủ cạnh
tranh của nhau tùy thuộc vào thỏa thuận dọc hoặc thỏa thuận ngang. Ngoài ra,
các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận phải hoạt động độc lập với nhau (về tài
chính, về ý chí) và không phải là những người liên quan đến nhau về mặt
pháp luật. Những hoạt động thống nhất của các đơn vị thành viên hạch toán
phụ thuộc trong một công ty không được PLCT coi là thỏa thuận bởi thực
chất các công ty nói trên cho dù bao gồm nhiều thành viên hạch toán phụ
thuộc cũng chỉ là một chủ thể thống nhất. Mặt khác, ý chí của các doanh
nghiệp tham gia thỏa thuận phải là ý chí độc lập của riêng doanh nghiệp mà
không phụ thuộc và không chịu tác động của bất kì ai.
Hai là, về hình thức: Sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh
nghiệp tham gia thỏa thuận được thể hiện công khai hoặc không công khai
(ngầm định, ngầm hiểu, ngầm thực hiện giữa các thành viên tham gia thỏa
thuận) hoặc nửa kín, nửa công khai. Cũng giống như bản chất của các thỏa
thuận khác thì dấu hiệu quan trọng của TTĐQ là có sự thống nhất ý chí cùng
19
hành động của các bên tham gia thỏa thuận để gây hạn chế cạnh tranh
(HCCT) với những nội dung theo quy định của pháp luật. Các hành vi giống
nhau của các doanh nghiệp chưa đủ để chứng minh có thỏa thuận giữa họ. Để
xác định hành vi hoặc tập hợp các hành vi của nhóm doanh nghiệp độc lập
cấu thành TTĐQ nằm trong quy định về các thỏa thuận HCCT bị cấm hoặc
các quy định về cấm các hành vi lạm dụng vị trí thống nhất, vị trí độc quyền,
cơ quan có thẩm quyền phải có đủ bằng chứng kết luận giữa họ đã tồn tại thỏa
thuận chính thức bằng văn bản hay đã có cam kết đáp ứng yêu cầu của các
bên tham gia mà không thể hiện bằng văn bản (thể hiện thông qua sự bàn bạc
trong các cuộc gặp mặt giữa các bên hoặc các tài liệu có liên quan). Vì vậy,
cơ quan có thẩm quyền dễ dàng tìm ra được những bằng chứng về TTĐQ đối
với các thỏa thuận công khai, nhưng vấn đề này lại khá phức tạp đối với
những thỏa thuận không công khai. Đặc biệt, hiện nay trên thực tế, tại các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển và kể cả ở Việt Nam có xu hướng
phổ biến những thỏa thuận độc quyền không công khai (hay còn gọi là những
thỏa thuận ngầm). Đối với những thỏa thuận này, dấu hiệu đầu tiên đặt ra nghi
vấn về sự tồn tại các thỏa thuận là các doanh nghiệp đã có sự phối hợp cùng
thực hiện một hành vi HCCT, từ đó, các cơ quan chức năng cần tìm thêm các
bằng chứng kết luận rằng họ đã tồn tại hợp đồng, bản ghi nhớ, các cuộc gặp
mặt cho thấy đã có thỏa thuận ngầm về giá, về hạn chế sản phẩm hay phân
chia thị trường… Tuy nhiên, quá trình tìm và chứng minh này trên thực tế còn
bế tắc và gặp nhiều khó khăn. Như vậy, hình thức biểu hiện của những TTĐQ
là vô cùng phong phú có thể là văn bản, bằng lời nói, bằng hành động, có khi
chỉ là những “cái gật đầu” cũng đã hình thành nên một thỏa thuận có thể làm
triệt tiêu cạnh tranh vốn là động lực của nền kinh tế. Do đó, việc phát hiện và
xử lý các TTĐQ hiện nay khá phức tạp. Thực tiễn kiểm soát các TTĐQ tại
Việt Nam còn nghèo nàn, chưa có nhiều vụ việc được xử lý công khai, triệt
để. Điều này được kiểm chứng rất rõ thông qua các vụ việc xử lý thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh.