Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.44 KB, 37 trang )

MỤC LỤC
Chương I : Những khái niệm cơ bản về nhượng quyền thương mại
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài gồm 3 chương:
1.1. Khái niệm về nhượng quyền thương mại
1.2. Những yếu tố cấu thành của mô hình nhượng quyền thương mại
1.2.1. Nhãn hiệu (the Brand)
1.2.2 Hệ thống kinh doanh (Business system)
1.2.3. Phí nhượng quyền (Fees)
1.3. Những hình thức nhượng quyền thương mại điển hình
1.3.1. Nhượng quyền phân phối sản phẩm (Product distribution franchise)
1.3.2. Nhượng quyền phương thức kinh doanh (Business format franchise)
1.4. Một số mô hình nhượng quyền thương mại điển hình
1.4.1.Nhượng quyền đơn vị (Unit franchising)
1.4.2. Nhượng quyền phát triển vùng (Area development franchising)
1.4.3 Nhượng quyền lại hay nhượng quyền thứ cấp (Subfranchising)
1.4.4 Nhượng quyền thông qua công ty liên doanh (Joint venture)
1.5. Những lợi ích và rủi ro của hoạt động nhượng quyền thương mại
1.5.1. Những lợi ích từ nhượng quyền thương mại
1.5.2. Những rủi ro trong hoạt động nhượng quyền thương mại.
Chương II: Thực trạng áp dụng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
1. Thực trạng phát triển hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
1.1.Thực trạng khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động nhượng quyền thương mại tại
Việt Nam
1.1.1. Các quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
1.1.2. Thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền
thương mại tại Việt Nam.
1.2. Thực trạng phát triển hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
1.2.1. Các hệ thống nhượng quyền mang thương hiệu của Việt Nam
1.2.2. Hệ thống nhượng quyền của các doanh nghiệp nước ngoài
2. Đánh giá về thực trạng phát triển hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
2.1. Những kết quả đạt được


2.2. Những tồn tại và nguyên nhân
2.2.1. Những tồn tại
2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển nhượng quyền thương mại
ở Việt Nam
1. Về phía Nhà nước
2. Về phía các doanh nghiệp.
2.1. Đối với doanh nghiệp nhượng quyền
2.2..Đối với doanh nghiệp nhận quyền tiềm năng
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Với những ưu thế như số dân đông hơn 80 triệu người, trong đó khoảng 60% dưới 30
tuổi, tình hình chính trị ổn định, sức mua ngày càng tăng, ngành công nghiệp bán lẻ chiếm tỷ
trọng lớn trong GDP, thị trường bán lẻ Việt Nam được đánh giá là vô cùng hấp dẫn đối với các
nhà đầu tư nước ngoài. Trên thực tế từ năm 2000, các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia đã xâm nhập
vào thị trường Việt Nam. Các nhà bán lẻ này với tiềm lực về vốn to lớn cộng với phương thức
kinh doanh chuyên nghiệp đã dần chiếm lĩnh được thị trường và ngày càng mở rộng qui mô
mạng lưới của mình. Việt Nam đã gia nhập WTO, các rào cản về việc gia nhập và rút khỏi hệ
thống bán lẻ đang dần được loại bỏ theo lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế và kèm theo đó
là các cải cách của Chính Phủ nhằm tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thông thoáng, cởi mở
hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh đó, bên cạnh các tập đoàn phân phối nước
ngoài hiện đã có mặt tại Việt Nam như Big C (tập đoàn Bourbon- Pháp), Metro (tập đoàn Metro
Cash & Carry - Đức), Corra,... sẽ xuất hiện thêm những tập đoàn siêu thị lớn trên thế giới như
Wal - Mart (Mỹ), Carrefour (Pháp),... Thêm nữa một lực lượng khá đông đảo người Việt Nam
đang kinh doanh ở nước ngoài, nhất là tại Nga và các nước Đông Âu cũng được dự báo là sẽ
tham gia vào thị trường bán lẻ, đồng thời trở thành một mắt xích quan trọng trong việc phân
phối hàng Việt Nam, nhưng mang thương hiệu quốc tế. Như vậy, hệ thống phân phối không
còn là đặc quyền của các doanh nghiệp trong nước và cách duy nhất để các doang nghiệp
không bị gạt ra rìa là phải tăng cường khả năng cạnh tranh và chủ động tham gia sân chơi này.
Một trong những biện pháp mà các doanh nghiệp có thể thực hiện đó là áp dụng phương thức

nhượng quyền thương mại.
Phương thức kinh doanh này đã được áp dụng trên thế giới từ những năm 50 của thế kỉ
trước và đã mang lại nhiều thành công. Phương thức này cũng được đánh giá là phù hợp với
điều kiện của nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay (cả các doanh nghiệp lớn) còn đang e
ngại trong việc áp dụng phương thức kinh doanh này. Một trong các nguyên nhân là do đây là
phương thức kinh doanh còn mới mẻ với các doanh nghiệp, từ trước tới nay chưa từng có mô
hình nào được áp dụng nên các doanh nghiệp còn thiếu hiểu biết về mô hình này, hệ thống luật
pháp điều chỉnh hoạt động này cũng chưa được hoàn thiện gây khó khăn cho các doanh nghiệp
trong việc áp dụng. Chính vì thế em đã chọn và nghiên cứu đề tài "Một số suy nghĩ về
nhượng quyền kinh doanh ở Việt Nam" với mong muốn đóng góp một số giải pháp nhằm
đẩy mạnh hơn nữa việc áp dụng phương thức kinh doanh này ở Việt Nam.
1
Mục đích nghiên cứu của đề tài
* Làm rõ các vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại
* Nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam nhằm
tìm ra những hạn chế và những nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình áp dụng
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
* Trên cơ sở những lý luận đã nghiên cứu cùng những hạn chế, nguyên nhân đã rút ra
được, đễ xuất các giải pháp nhằm thúc đấy sự phát triển của nhượng quyền thương mại ở Việt
Nam
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài đi sâu vào nghiên cứu thực tế áp dụng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện
nay và những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của nhượng quyền thương mại ở Việt
Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, đề tài được nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phép duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, đề tài cũng sử dụng kết hợp các phương pháp như: phương
pháp thống kê, phương pháp đối chiếu, so sánh, phương pháp tổng hợp, phân tích,… Các bảng,
biểu, mô hình,… cũng được sử dụng để hỗ trợ cho việc trình bày nội dung nghiên cứu.

2
Chương I:
NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỂ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm về nhượng quyền thương mại.
Nhượng quyền thương mại hay còn được gọi là nhượng quyền kinh doanh là một quan hệ
thương mại trong đó bên nhượng quyền (franchisor - chủ thương hiệu) cho phép bên được
nhượng quyền - bên nhận quyền (franchisee) bán và phân phối hàng hoá của bên nhượng quyền
đồng thời được sử dụng thương hiệu của bên nhượng quyền trong một thời gian nhất định.
Theo định nghĩa của từ điển Webster, thì nhượng quyền thương mại (franchise) là một
đặc quyền được trao cho một người hay một nhóm người để phân phối hay bán sản phẩm của
chủ thương hiệu tại một khu vực nhất định.
Hiệp hội nhượng quyền quốc tế (IFA) định nghĩa nhượng quyền thương mại là "một quan
hệ được duy trì giữa bên nhượng quyền và bên được nhượng quyền trong đó bên nhượng quyền
cấp cho bên được nhượng quyền giấy phép đặc quyền kinh doanh, bao gồm cả việc hỗ trợ tổ
chức đào tạo nhân viên, bán hàng và quản lý. Đổi lại, bên được nhượng quyền phải trả cho bên
nhượng quyền một khoản tiền".
Trong Luật Thương mại sửa đổi năm 2005 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2006) của Việt
Nam cũng định nghĩa nhượng quyền thương mại như sau: "nhượng quyền thương mại là một
hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền chấp nhận trao quyền và cung cấp những hỗ
trợ cho bên nhận quyền để bên đó bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hoá, hệ
thống, phương thức do bên nhượng quyền xác định trong một khoảng thời gian và phạm vi nhất
định". Quyền được nhượng quyền bao gồm quyền sử dụng các bí quyết nghề nghiệp; cách thức
tổ chức bán hàng, cung ứng dịch vụ; tên thương mại; nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ; khẩu hiệu
kinh doanh; biểu tượng của bên nhượng quyền và quyền sử dụng các trợ giúp khác để bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ. Định nghĩa này cũng nhấn mạnh tới nghĩa vụ của bên nhượng quyền.
Như vậy, tất cả những hoạt động kinh doanh tiến hành theo phương thức này đều gồm 3
yếu tố cơ bản là: nhãn hiệu (the Brand), hệ thống kinh doanh (Bussiness system), phí nhượng
quyền (Fees).
3
1.2. Những yếu tố cấu thành của mô hình nhượng quyền thương mại

1.2.1. Nhãn hiệu (the Brand)
Trong mỗi một hợp đồng nhượng quyền, bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền
được sử dụng nhãn hiệu (trade mark), nhãn mác (service mark - thường được sử dụng để nhận
biết các dịch vụ hơn là hàng hoá, tương đương với nhãn hiệu), biểu tượng hay các hình ảnh
quảng cáo của bên nhượng quyền hay do bên nhượng quyền thực hiện.
Việc sử dụng nhãn hiệu chung của bên nhượng quyền cho phép tất cả các bên tham gia
được hưởng lợi từ các hoạt động quảng cáo hay uy tín của bất cứ một đơn vị nào hoạt động
trong hệ thống bất kể đó là bên nhượng quyền hay bên nhận quyền.
1.2.2. Hệ thống kinh doanh (Business system)
Tất cả các bên tham gia nhượng quyền bao gồm người nhượng quyền và những người
nhận quyền đều tiến hành một phương thức kinh doanh chung. Một hệ thống kinh doanh đòi
hỏi đáp ứng được các yêu cầu như: tiêu chuẩn về hàng hoá, tiêu chuẩn về sản xuất hàng hoá,
tiêu chuẩn về cung ứng dịch vụ, tiêu chuẩn về vị trí, các tiện nghi, về việc dự trữ, về hệ thống
kế toán (sổ sách), kiểm soát hàng tồn kho, các chính sách tiêu thụ, v.v ...Ở một số hệ thống
nhượng quyền, bên nhượng quyền quản lý hầu như toàn bộ các quá trình hoạt động, thậm chí cả
những chi tiết hêt sức nhỏ nhặt. Nhưng cũng có một số hệ thống trong đó bên nhượng quyền
can thiệp ít hơn và dành cho bên nhận quyền sự độc lập tương đối trong công tác điều hành nếu
chúng không liên quan trực tiếp đến những vấn đề quan trọng của hệ thống.
1.2.3. Phí nhượng quyền (Fees)
Trong tất cả các hệ thống nhượng quyền, bên nhận quyền đều phải trả phí cho bên nhận
quyền để được sử dụng nhãn hiệu của bên nhượng quyền và tham gia vào hệ thống của họ. Phí
được chia thành phí ban đầu, phí định kỳ (thường được tính trên tỷ lệ doanh thu hoặc một
khoản phí cố định), phí dịch vụ, phí cấp phép, phí quảng cáo. Các loại phí khác về cung cấp các
dịch vụ cho bên nhận quyền có thể được thoả thuận giữa hai bên.
Ngoài 3 yếu tố trên, phương thức kinh doanh này có đặc điểm cơ bản là bao gồm những
thực thể độc lập. Mỗi người nhận quyền đều tự chịu trách nhiệm về công việc kinh doanh của
mình. Những người nhận quyền đều tự tiến hành hoạt động kinh doanh, có toàn quyền với lợi
nhuận mà họ kiếm được, tự chịu trách nhiệm về việc đóng thuế cho hoạt động kinh doanh cũng
như trả lương cho công nhân, nhân viên của họ. Họ chỉ nhất thiết phải trả một khoản phí cho
người nhượng quyền bất kể công việc kinh doanh có lãi hay không.

1.3. Những hình thức nhượng quyền thương mại điển hình
Có nhiều hình thức nhượng quyền khác nhau, việc phân chia phụ thuộc vào mối quan hệ
giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Nhìn chung, có hai hình thức nhượng quyền
thương mại điển hình là nhượng quyền phân phối sản phẩm và nhượng quyền phương thức
kinh doanh.
4
1.3.1. Nhượng quyền phân phối sản phẩm (Product distribution franchise)
Ở hình thức này, bên nhận quyền thường không nhận được sự hỗ trợ đáng kể nào từ phía
nhượng quyền ngoài trừ việc được phép sử dụng nhãn hiệu, nhãn mác, thương hiệu, biểu tượng,
khẩu hiệu và phân phối sản phẩm, dịch vụ của bên nhượng quyền trong một phạm vi không
gian và thời gian nhất định. Như vậy, bên nhận quyền sẽ quản lý cửa hàng nhượng quyền của
mình khá độc lập, ít bị ràng buộc nhiều bởi những qui định của bên nhượng quyền. Thậm chí
bên nhận quyền có thể chế biến cung cách phục vụ và kinh doanh theo ý mình. Hình thức này
tương tự với hình thức kinh doanh cấp phép (licensing) mà ta đã đề cập ở trên, trong đó bên
nhượng quyền quan tâm nhiều đến việc phân phối sản phẩm của mình và không quan tâm mấy
đến hoạt động hàng ngày hay tiêu chuẩn hình thức của nhà hàng nhượng quyền. Mối quan hệ
giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền thường là mối quan hệ giữa nhà sản xuất, nhà cung
cấp với người bán buôn hay nhà sản xuất, nhà cung cấp với người bán lẻ. Hình thức này rất phổ
biến ở phương Tây, với ngành kinh doanh các trạm xăng dầu, các đại lý bán ô tô và các công ty
sản xuất nước giải khát Coca – Cola hay Pepsi.
1.3.2. Nhượng quyền phương thức kinh doanh (Business format franchise)
Đối với hình thức này thì hợp đồng nhượng quyền bao gồm thêm việc chuyển giao kỹ
thuật kinh doanh và công thức điều hành quản lý. Các chuẩn mực của mô hình kinh doanh phải
tuyệt đối được giữ đúng. ở đây, không chỉ nhãn hiệu, nhãn mác, khẩu hiệu, biểu tượng,… được
nhượng quyền mà là cả quyền sử dụng toàn bộ phương thức kinh doanh, bao gồm kế hoạch
kinh doanh, hệ thống quản lý, hình ảnh và chất lượng sản phẩm. Tiêu chuẩn, sự tuân thủ và tính
hệ thống trên tất cả các mặt là nét đặc trưng của hình thức này. Điều đó đòi hỏi mối quan hệ
hợp tác giữa bên nhượng quyền và bên nhượng quyền phải rất chặt chẽ và liên tục. Trong mối
quan hệ này, người nhượng quyền phải duy trì sự hỗ trợ, hợp tác chặt chẽ, thường xuyên liên
tục với bên nhận quyền. Sự hỗ trợ bao gồm các hoạt động: lập kế hoạch và chính sách

marketing, đưa ra các tiêu chuẩn về điều hành, về hệ thống kinh doanh, hỗ trợ việc quản lý và
điều hành công việc kinh doanh, đào tạo đội ngũ công nhân viên, kiểm soát chất lượng, hướng
dẫn và giám sát các hoạt động,… Đổi lại, bên nhận quyền phải trả một khoản phí cho bên
nhượng, có thể là một khoản phí trọn gói, có thể là phí định kỳ dựa trên doanh thu hoặc một
khoản cố định, và cũng có thể tổng hợp cả hai khoản phí trên. Khoản phí phải trả cao hay thấp
là tuỳ thuộc vào uy tín thương hiệu, chủ trương của bên nhượng quyền cũng như sự thoả thuận
giữa hai bên. Ví dụ: tại Mỹ, đối với ngành kinh doanh nhà hàng ăn uống, phí nhượng quyền dao
động trung bình từ 15.000 – 35.000 USD.
Đây là hình thức nhượng quyền thương mại phổ biến nhất, phát triển nhanh nhất và hiệu
quả nhất hiện nay. Trên thực tế, nó được áp dụng trong hầu hết các ngành nghề trong nền kinh
tế. Nó có nhiều hệ thống nhượng quyền hơn, nhiều cơ sở nhượng quyền hơn, tạo ra nhiều việc
làm và nhiều cơ hội hơn hình thức nhượng quyền phân phối sản phẩm.
5
1.4. Một số mô hình nhượng quyền thương mại điển hình
Để mở rộng mạng lưới nhượng quyền của mình, các nhà nhượng quyền thường sử dụng
một vài mô hình nhượng quyền khác nhau. Có 4 mô hình nhượng quyền thương mại thường
gặp là: nhượng quyền đơn vị, nhượng quyền phát triển vùng, nhượng quyền lại hay nhượng
quyền thứ cấp, nhượng quyền thông qua công ty liên doanh.
1.4.1. Nhượng quyền đơn vị (Unit franchising)
Đây là hình thức nhượng quyền cơ bản nhất. ở hình thức này, người nhượng quyền cho
phép người nhận quyền chỉ được mở một cơ sở kinh doanh ở một vị trí hay trong một khu vực
nhất định. Mối quan hệ trong hình thức này chỉ bao gồm hai chủ thể đó là người nhượng quyền
và người nhận quyền.
Hình thức này chỉ thích hợp với những bên nhượng quyền không có nhu cầu phải mở
rộng mạng lưới nhượng quyền của mình thật lớn hay việc nhượng quyền ra các nước khác nằm
trong cùng một khu vực.
1.4.2. Nhượng quyền phát triển vùng (Area development franchising)
Ở hình thức này, người nhượng quyền cho phép người nhượng quyền (còn được gọi là
người phát triển vùng) được mở một số lượng nhất định theo thoả thuận các cơ sở kinh doanh
trong một vùng lãnh thổ nhất định. Bên nhận quyền không được phép bán lại franchise cho bất

cứ ai nhưng cũng không phải cung cấp dịch vụ cho bất cứ ai. Để được nhượng quyền, người
phát triển vùng phải trả một khoản phí nhượng quyền ban đầu tương đối cao. Đồng thời, người
nhận quyền phải ký hai thoả thuận với người nhượng quyền, một bản thoả thuận về phát triển
vùng trong đó nêu rõ vùng lãnh thổ và chương trình (lịch trình) triển khai các cơ sở kinh doanh
và trước khi mỗi một cơ sở kinh doanh được mở người nhận quyền phải ký thêm một bản thoả
thuận nhượng quyền đơn vị. Thông thường, nếu người nhận quyền không đảm bảo số lượng cơ
sở hoạt động như thoả thuận thì người nhượng quyền có quyền huỷ bản thoả thuận phát triển
vùng nhưng vẫn cho phép các cơ sở mà người nhận quyền đã lập được tiếp tục hoạt động. Hình
thức này cũng chỉ bao gồm hai chủ thể như hình thức trên.
1.4.3. Nhượng quyền lại hay nhượng quyền thứ cấp (Subfranchising)
Nhượng quyền lại hay nhượng quyền thứ cấp gần giống như nhượng quyền phát triển
vùng nhưng có sự khác biệt đó là sự xuất hiện của chủ thể thứ ba. Trong một bản thoả thuận
nhượng quyền thứ cấp điển hình, người nhượng quyền cho phép người nhượng quyền thứ cấp
(subfranchisor), trong một vùng lãnh thổ nhất định, có thể mở các cơ sở kinh doanh hoặc
nhượng quyền lại cho một chủ thể thứ ba theo thoả thuận với người nhượng quyền.
Đây là hình thức nhanh nhất và phổ biến nhất để bành trướng thương hiệu ra nước ngoài.
Khi đó, người ta hay sử dụng thuật ngữ nhượng quyền độc quyền khu vực (master franchise) và
người nhận quyền gọi là đại lý độc quyền (master franchisee). Thông thường, bên nhượng
quyền sẽ chọn và chỉ định một đối tác địa phương tại quốc gia mà mình muốn xâm nhập làm
đối tác mua franchise độc quyền kinh doanh và phân phối thương hiệu. Đối tác này có thể là
một cá nhân hay một công ty, và phạm vi khu vực được độc quyền có thể là một thành phố hay
cả một quốc gia. Để được độc quyền như vậy, bên nhận quyền phải trả một khoản phí nhượng
6
quyền ban đầu riêng biệt thường là cao hơn nhiều so với hợp đồng nhượng quyền đơn vị. Bù
lại, họ có quyền chủ động tự mở thêm nhiều cửa hàng hay bán lại franchise cho bất kì ai nằm
trong khu vực mà mình kiểm soát.
1.4.4. Nhượng quyền thông qua công ty liên doanh (Joint venture)
Ở hình thức này, chủ thương hiệu sẽ liên doanh với một đối tác địa phương ở nước ngoài
và liên doanh này sẽ đóng vai trò của một đại lý độc quyền. Việc lựa chọn đúng công ty đối tác
để liên doanh là tối quan trọng vì một khi chọn nhầm đối tác để liên doanh thì cả một thị trường

sẽ xem như bế tắc. Trong nhiều trường hợp, chủ thương hiệu góp vốn liên doanh bằng chính
thương hiệu, bí quyết kinh doanh và đôi khi thêm tiền mặt và được qui ra tỷ lệ phần trăm vốn
góp tuỳ thoả thuận giữa hai bên. Đối tác nước ngoài thường góp vốn bằng tiền mặt và kiến thức
địa phương. Đây là mô hình nhượng quyền mà chủ thương hiệu không mấy ưu tiên do phải
chấp nhận rủi ro về mặt tài chính một khi liên doanh thất bại. Do đó mô hình này thường chỉ
được áp dụng trong trường hợp chủ thương hiệu muốn xâm nhập vào một thị trường nào đó mà
không có đối tác mua quyền thương mại thuần tuý.
Ngoài các mô hình nhượng quyền thương mại điển hình trên ta còn có thể gặp một số mô
hình nhượng quyền khác như: nhượng quyền chuyển hoá (Affiliatiion hay Conversion
franchising), nhượng quyền kiểu mới (Nontraditonal franchising),…
1.5. Những lợi ích và rủi ro của hoạt động nhượng quyền thương mại
1.5.1. Những lợi ích từ nhượng quyền thương mại.
Đối với bên nhượng quyền:
Đối với bên nhượng quyền, việc nhượng quyền thương mại đem lại những lợi ích chủ yếu
sau:
 Nhân rộng mô hình kinh doanh.
 Tăng doanh thu.
 Phí nhượng quyền ban đầu (Initial fee/Upfront fee):
 Phí định kỳ (Royalty, thường được tính theo tháng, khi đó còn
được gọi là Monthly fee): Đây là phí mà bên nhận quyền phải trả cho việcduy trì sử dụng nhãn
hiệu, thương hiệu của bên nhượng quyền và những dịch vụ mang tính chất tiếp diễn liên tục
như đào tạo huấn luyện nhân viên, tiếp thị, quảng bá, nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới,…
 Bán các nguyên liệu đặc thù:
Tiết giảm chi phí.
Các doanh nghiệp có áp dụng phương thức nhượng quyền kinh doanh đều có ưu thế mua
hàng giá rẻ hơn do mua với số lượng lớn hơn (để phân phối cho các cửa hàng nhượng quyền
trong một số trường hợp). Ngoài ra, các chi phí về tiếp thị, quảng cáo cũng được tiết giảm nhờ
ưu thế có thể chia nhỏ ra cho nhiều đơn vị cùng mang một nhãn hiệu chia sẻ với nhau thông
qua phí định kỳ của các bên nhận quyền.
 Thuận lợi trong việc huy động vốn.

Như vậy, đối với bên nhượng quyên, những lợi ích có được xuất phát từ: vốn do bên nhận
quyền bỏ ra, việc quyết tâm quản lý kinh doanh của bên nhận quyền. Bên nhượng quyền thu
7
được phí nhượng quyền và một khoản tiền mặt liên tục thông qua tiêu thụ sản phẩm và các
khoản phí định kỳ mà không phải cung cấp thêm vốn hoặc trực tiếp quản lý bên nhận quyền.
Nhượng quyền thương mại đã thể hiện một chiến lược có hệ thống và tiết kiệm chi phí để phát
triển nhanh chóng hệ thống tiếp thị với sự tham gia trực tiếp và đầu tư tài chính tối thiểu.
Đối với bên nhận quyền.
 Xác suất thành công cao.
xác suất thành công của các doanh nghiệp nhận quyền cao hơn rất nhiều so với các doanh
nghiệp mới bắt đầu thử nghiệm mô hình kinh doanh lần đầu và nhãn hiệu thì chưa ai biết đến.
Có được xác suất thành công cao là do các doanh nghiệp nhận quyền được kinh doanh dưới
nhãn hiệu, danh tiếng sẵn có của bên nhượng quyền đồng thời, doanh nghiệp nhận quyền cũng
được sử dụng công thức, mô hình kinh doanh của bên nhượng quyền khi mà nó đã được chứng
minh là thành công.
Luôn nhận được sự hỗ trợ từ bên nhượng quyền.
Bên nhận quyền luôn nhận được sự giúp đỡ từ bên nhượng quyền từ trước, và sau khi cửa
hàng nhượng quyền khai trương. Đây là một lợi thế lớn, đặc biệt đối với những người mới tự
kinh doanh lần đầu. Sự hỗ trợ của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền chủ yếu trên các
mặt sau:
 Hỗ trợ tài chính
Do xác suất thành công cao hơn, nên các ngân hàng thường tin tưởng và cho các doanh
nghiệp nhận quyền vay tiền. Nói đúng ra, hầu như tất cả các doanh nghiệp cho nhượng quyền
lớn trên thế giới đều chủ động xây dựng các mối quan hệ thân thiết với các ngân hàng hoặc các
tổ chức tài chính để đàm phán, thuyết phục họ ủng hộ các đối tác mua franchise tiềm năng của
mình bằng cách cho vay với lãi suất thấp, hay cho vay với số lượng lớn hơn cả giá trị tài sản
đem thế chấp của bên nhận quyền. Nói khác đi, bên nhượng quyền thường đóng vai trò cầu nối
giúp bên nhận quyền vay được tiền ngân hàng hoặc chính mình đứng ra cho vay, nhằm phát
triển và nhân rộng mô hình kinh doanh nhanh hơn.
Sức mạnh buôn bán theo nhóm

Để đảm bảo tính đồng bộ, bên nhượng quyền thường chỉ định các bên nhận quyền mua
hàng của một nhà cung cấp. Như vậy, với lợi thể mua với số lượng lớn, họ thường được mua
hàng với giá thấp hơn những doanh nghiệp mua hàng riêng lẻ khác. Đây có thể là một lý do để
các cơ sở nhận quyền có được lợi nhuận ban đầu vốn rất cần thiết để phát triển kinh doanh.
Ngoài ra, nhượng quyền kinh doanh cũng mang lại lợi ích cho người tiêu dùng và nền
kinh tế. Cụ thể:
* Đối với nền kinh tế – xã hội.
Hoạt động nhượng quyền kinh doanh khuyến khích hoạt động của doanh nhân; nâng cao
tính cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ; khuyến khích việc đa dạng hóa và phục vụ các phân
đoạn thị trường; thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ và kỹ thuật được thực hiện một cách gọn
nhẹ, nhanh chóng và thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế.
* Đối với người tiêu dùng.
8
Nhượng quyền kinh doanh giúp người tiêu dùng có khả năng lựa chọn lớn nhất, sự tin
tưởng và sự thuận tiện đối với hàng hoá, dịch vụ; chất lượng hàng hoá cũng như giá cả của
cùng một loại hàng hoá, dịch vụ đồng nhất, tiện lợi, làm giảm sự rủi ro và tính không ổn định
cho người tiêu dùng khi mua hàng.
1.5.2. Những rủi ro trong hoạt động nhượng quyền thương mại.
 Mô hình kinh doanh của bên nhượng quyền không phải lúc nào cũng thành công
Sự thành công của chủ thương hiệu đạt được trong những điều kiện nhất định về thời
điểm, không gian cụ thể,… Không có sự bảo đảm chắc chắn rằng mô hình kinh doanh của họ sẽ
luôn thành công ở bất cứ nơi đâu, vào bất cứ thời điểm nào. Những tiêu chuẩn mà bên nhượng
quyền đưa ra đối với bên nhận quyền chủ yếu dựa trên những kinh nghiệm trong việc điều hành
kinh doanh của bản thân khi hoạt động tại những địa điểm, những thị trường nhất định. Có thể
những kinh nghiệm này cũng đúng với địa phương hay thị trường hoạt động của bên nhận
quyền mà cũng có thể không. Thông thường, bên nhượng quyền sẽ tiến hành điều tra khu vực
và thị trường của bên nhận quyền để điều chỉnh cho mô hình kinh doanh trở nên phù hợp hơn,
và có thể chấp nhận một vài sự thay đổi trong cách thức điều hành. Nhưng về cơ bản là không
khác nhiều so với mô hình của bên nhượng quyền và không phải lúc nào việc điều chỉnh cũng
thành công. Và phải luôn ghi nhớ lời cảnh báo của ngành công nghiệp chứng khoán: “sự thành

công trong quá khứ không đảm bảo chắc chắn cho lợi nhuận trong tương lai”.
 Quan điểm, quản lý và chủ sở hữu của thương hiệu có thể thay đổi
Một doanh nghiệp quyết định mua franchise của một chủ thương hiệu vì tin tưởng vào
tầm nhìn và những kĩ năng quản lý của người sáng lập hay giám đốc điều hành hiện thời tổ
chức nhượng quyền. Tuy nhiên, vì một lý do gì đó mà chủ sở hữu hay người quản lý của bên
nhượng quyền có thể thay đổi. Người chủ mới hay người quản lý mới có thể có quan điểm hay
cách quản lý khác với người tiền nhiệm, điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của hệ
thống nhượng quyền.
 Phụ thuộc vào sự thành công của toàn bộ hệ thống
Tham gia vào một hệ thống nhượng quyền giống như là tham gia vào một đội bóng, trong
đó các bên nhận quyền là các cầu thủ và người nhượng quyền là huấn luyện viên, chiến thuật
của huấn luyện viên trong mỗi cuộc chơi được triển khai qua các cầu thủ. Trong bất kỳ một đội
bóng nào, tất cả các thành viên đều không có sức mạnh như nhau, và mỗi một cầu thủ ở đội
khác mà họ có trách nhiệm kèm cũng có sức mạnh khác nhau. Điều tương tự cũng xảy ra với
phương thức nhượng quyền thương mại, với từng thị trường riêng lẻ hay toàn bộ hệ thống
nhượng quyền. Không phải tất cả các doanh nghiệp nhận quyền đều có sức mạnh ngang nhau
cũng như các đối thủ mà từng doanh nghiệp nhận quyền phải cạnh tranh cũng giống nhau.
 Sự độc lập của bên nhận quyền bị hạn chế
Không giống như một doanh nghiệp bắt đầu kinh doanh độc lập có thể làm bất cứ gì mà
họ muốn, chỉ cần có cảm giác là điều đó là tốt hay đó là việc cần phải làm, doanh nghiệp nhận
quyền phải điều hành doanh nghiệp của mình theo một cách thức nhất định của bên nhượng
quyền mà không được vi phạm các nguyên tắc, thủ tục và yêu cầu của bên nhượng quyền.
9
Phương thức nhượng quyền kinh doanh đòi hỏi sự đồng bộ trong nguồn gốc và chất lượng của
hàng hoá, dịch vụ trong toàn hệ thống. Tại mỗi thời điểm định trước, bên nhận quyền phải nộp
cho bên nhượng quyền những bản báo cáo về các công việc cũng như tình hình kinh doanh của
bên nhận quyền, nếu không bản hợp đồng có thể bị chấm dứt. Ngược lại, bên nhượng quyền lại
có thể quyết định những vấn đề quan trọng mà không nhất thiết phải có sự đồng ý của bên nhận
quyền. Vì thế có trường hợp bên nhượng quyền lạm dụng ưu thế của mình để o ép, đòi hỏi điều
kiện đối với bên nhận quyền, thậm chí có trường hợp gian lận.

Nói như thế không có nghĩa là bên nhận quyền không thể có bất cứ sự thay đổi nào, hay
không thể ghi dấu ấn cá nhân lên công việc kinh doanh của mình. Hầu hết những nhà nhượng
quyền khuyến khích các đối tác nhượng quyền của họ có những cống hiến cho sự phát triển của
cả hệ thống miễn là nó không vi phạm các nguyên tắc mà bên nhượng quyền đã đề ra.
 Các chính sách của bên nhượng quyền có thể ảnh hưởng tới lợi nhuận của
bên nhận quyền.
Một hợp đồng nhượng quyền điển hình thường cho phép bên nhượng quyền có quyền
kiểm soát rất nhiều lĩnh vực trong cách điều hành của bên nhận quyền. Bên nhượng quyền có
thể qui định số giờ hoạt động tối thiểu của bên nhận quyền, số lượng nhân viên tối thiểu tại bất
cứ thời điểm nào, khối lượng vật tư hàng hoá mà bên nhận quyền phải dự trữ, phải nhập hàng
từ nguồn nào và đôi khi cả giá bán tối đa,… Bên nhượng quyền có thể cung cấp hàng hoá, dịch
vụ cạnh tranh với bên nhận quyền thông qua thương mại điện tử, bên nhượng quyền cũng có
thể yêu cầu bên nhận quyền cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho một chủ thể nào đó với giá và điều
kiện ít có lợi hơn họ thường được hưởng. Sở dĩ như vậy là do bên nhượng quyền thì chú trọng
vào việc tăng doanh thu của bên nhận quyền từ đó tăng khoản thu từ phí định kỳ, trong khi bên
nhận quyền thì chú trọng vào việc tăng lợi nhuận mà đôi khi việc này không đi kèm với việc
tăng doanh thu.
 Khó chuyển nhượng cơ sở kinh doanh
Trong các bản hợp đồng nhượng quyền thường có chứa một số điều khoản chống lại việc
mua bán hay chuyển nhượng các cơ sở nhượng quyền. Điều này rõ ràng là hạn chế quyền kinh
doanh của bên nhượng quyền. Họ khó có thể thu hồi vốn đầu tư khi bán hay chuyển nhượng cơ
sở cho người khác khi cần. Tuy nhiên điều này là cần thiết. Để lựa chọn được đối tác nhượng
quyền, bên nhượng quyền phải trải qua quá trình chọn lựa cẩn thận, và họ cho rằng đối tác mà
họ đã chọn là người thích hợp nhất cho cơ sở nhượng quyền tại khu vực và vùng thị trường đó.
Chính vì vậy, họ thường không dễ chấp nhận một sự thay đổi chủ sở hữu của cơ sở nhượng
quyền.
Ngoài những rủi ro nêu trên phương thức nhượng quyền kinh doanh còn tiềm ẩn một số
rủi ro khác. Chẳng hạn, đây là mô hình dễ nảy sinh tranh chấp, nhất là những tranh chấp về
doanh thu. Bên nhượng quyền có thể kiểm soát được từng khoản doanh thu cụ thể của bên nhận
quyền để tính phí, và quyền quản lý lại hoàn toàn thuộc về bên nhận quyền. Mặt khác, nếu đối

tác mua franchise quá mạnh thì sẽ tiềm ẩn một nguy cơ rất lớn là nó sẽ lấn lướt, thao túng và
thay thế luôn quyền kiểm soát của bên nhượng quyền. Một vấn đề nữa đặt ra là thời hạn một
10
hợp động franchise thường dài (từ 5 đến 20 năm), trong đó các quyền lợi và nghĩa vụ đã được
cam kết ngay từ khi kí kết hợp đồng và nó không dễ thay đổi. Đôi khi những bản hợp đồng này
không thể tính đến những điểm thay đổi căn bản có thể xảy ra trong kinh doanh. Chẳng hạn,
trước năm 1999, không một hợp đồng nhượng quyền nào có đề cập đến vấn đề Internet sẽ gây
ra bất kì một sự thay đổi nào trong cách điều hành công việc kinh doanh của hệ thống nhượng
quyền. Và không một bản hợp đồng nhượng quyền nào trong lĩnh vực nhà nghỉ khách sạn đề
cập đến việc tất cả các phòng trong nhà nghỉ, khách sạn phải được trang bị hệ thống dây cáp
phục vụ khách hàng sử dụng Internet. Tuy nhiên, với sự bùng nổ của mạng Internet, nhu cầu về
nó ngày càng tăng khiến các hệ thống nhà nghỉ khách sạn trên rất bối rối. Cuối cùng thì các
điều khoản cũng phải sửa đổi để phù hợp với yêu cầu mới. Ngày nay, các hợp đồng nhượng
quyền đều yêu cầu bên nhận quyền phải tham gia và đóng góp vào hoạt động thương mại điện
tử, và cũng có thể yêu cầu bên nhận quyền phải trang bị hệ thống thông tin nối mạng Internet
mà ngày này được coi là chìa khoá thành công của hoạt động nhượng quyền.
Cần lưu ý rằng, tất cả những lợi ích và rủi ro ở trên là được xem xét một cách tổng thể. ở
mỗi mô hình nhượng quyền kinh doanh khác nhau mà ta đã xem xét ở phần 1.4 sẽ có những lợi
ích và rủi ro riêng. Không một mô hình nào có được tất cả các lợi ích và cũng chẳng có mô hình
nào là chứa đựng tất cả các rủi ro. Điều quan trọng là những người muốn mua franchise cần
phải nhận thức những lợi ích có thể có được và những rủi ro có thể gặp phải, từ đó so sánh,
đánh giá với mô hình nhượng quyền mà mình đang có ý định đầu tư vào và rút ra chọn lựa cho
mình. Cần phải nghiên cứu kĩ bản hợp đồng và những điều khoản được đưa ra bởi người
nhượng quyền, thảo luận với người nhượng quyền về các vấn đề mình quan tâm, và nếu thấy có
lợi thì mới tiến hành ký hợp đồng. Nhìn chung, các vấn đề doanh nghiệp nhận quyền cần quan
tâm khi tiến hành xem xét đó là: phí ban đầu, vốn đầu tư ban đầu, kinh nghiệm của bên nhượng
quyền trong lĩnh vực kinh doanh; kinh nghiệm của bên nhượng quyền tại khu vực mà bên nhận
quyền đang muốn kinh doanh; có những sự hỗ trợ về mặt tài chính nào từ bên nhượng quyền;
tổng vốn đầu tư cần thiết để thành lập cơ sở và hoạt động trong thời gian ngắn là bao nhiêu; bên
nhượng quyền yêu cầu phải mua hàng của họ hay từ các đối tác của họ; yêu cầu đối với tiêu

chuẩn hàng hoá và việc điều hành hoạt động; những dịch vụ mà bên nhương quyền sẽ cung
cấp;yêu cầu chung của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền; tình trạng hiện nay của
ngành kinh doanh mà bên nhận quyền đang muốn tham gia.
Chương II:
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM
1. Thực trạng phát triển hoạt động nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
11
1.1.Thực trạng khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động nhượng quyền thương mại tại
Việt Nam
1.1.1. Các quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam
Mặc dù đã xuất hiện ở Việt Nam từ đầu những năm 90 thế kỷ trước song đến nay phương
thức nhượng quyền thương mại tại Việt Nam vẫn mang tính mới mẻ không chỉ với các doanh
nghiệp mà còn đối với cả các nhà quản lý, các chuyên gia hoạch địch chính sách kinh tế. Từ
tháng 6/2005 trở về trước, hầu như chưa có một văn bản pháp lý nào của Việt Nam đề cập tới
khái niệm nhượng quyền thương mại.
Ở thời điểm này, hoạt động nhượng quyền thương mại mới chỉ được coi như một hoạt
động chuyển giao công nghệ đơn thuần. Chính vì vậy, nhượng quyền thương mại mới chỉ được
nhắc đến trong các văn bản pháp luật về chuyển giao công nghệ như:
- Thông tư 1254/1999/TT-BKHCNMT do Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ban
hành nhằm hướng dẫn chi tiết việc thực hiện Nghị định 45/1998/NĐ-CP về chuyển giao công
nghệ có nhắc tới cụm từ ‘Hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh
- Nghị định số 11/2005/NĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2005 quy định chi tiết về chuyển
giao công nghệ (sửa đổi) được áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài
thực hiện các hoạt động chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam; chuyển giao công
nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài có quy định:
- Luật Thương mại 2005. Chỉ gồm 8 điều trong tổng số 324 điều của Luật Thương mại
(từ Điều 284 đến Điều 291 nhưng những quy định về nhượng quyền thương mại trong luật
cũng giúp cho các nhà quản lý và doanh nghiệp Việt Nam bước đầu có những khái niệm cụ thể
về hoạt động này.

- Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/03/2006. Với 3 chương, 28 điều, mục tiêu của
Nghị định này nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể sau: quy định chi tiết Luật Thương mại về
điều kiện kinh doanh và trình tự, thủ tục đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại; hướng
dẫn về việc cung cấp thông tin trong hoạt động nhượng quyền thương mại; bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bên nhượng quyền, bên nhận quyền và người tiêu dùng.
1.1.2. Thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại tại
Việt Nam.
Công tác quản lý Nhà nước đối vơi hoạt động nhượng quyền thương mại trước khi Luật
Thương mại 2005 có hiệu lực chủ yếu là do Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Cục Sở
hữu Công nghiệp Việt Nam đảm trách vì khi đó nhượng quyền thương mại được coi là hoạt
động đồng thời chuyển giao công nghệ và chuyển nhượng quyền sử dụng thương hiệu dưới
dạng cấp phép sử dụng nhãn hiệu hàng hoá (theo hợp đồng li-xăng). Nếu cơ sở kinh doanh
nhượng quyền được thành lập dưới hình thức công ty liên doanh thì cơ sở đó sẽ phải xin giấy
phép đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, những thủ tục hành chính rườm rà, gây rất nhiều khó
khăn cho chủ đầu tư.
Theo Luật Thương mại sửa đổi năm 2005 và Nghị định 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết
về hoạt động nhượng quyền thương mại thì Bộ Thương mại sẽ là đơn vị “chịu trách nhiệm
12

×