Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Quyền tự do công đoàn của người lao động ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.48 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ MÙI

ĐỀ TÀI
QUYỀN TỰ DO CÔNG ĐOÀN CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ MÙI

ĐỀ TÀI
QUYỀN TỰ DO CÔNG ĐOÀN CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Xuân Thu

Hà Nội – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

Tác giả Luận văn

Nguyễn Thị Mùi


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLLÐ

: Bộ luật Lao động

BLHS
CÐCS

: Bộ luật hình sự
: Công đoàn cơ sở


HÐLÐ:

: Hợp đồng lao động

ICESCR

: Công ước các quyền kinh tế, xã hội và vãn hóa

ICCPR

: Công ước về các quyền dân sự, chính trị

ILO

: Tổ chức Lao động Quốc tế

NLÐ

: Ngýời lao động

NSDLÐ

: Người sử dụng lao động

PLLÐ

: Pháp luật lao động

TDHH


: Tự do hiệp hội

TLĐLĐVN

: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

TƯLĐTT

: Thỏa ước lao động tập thể

VGCL

: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 : Số liệu đình công từ năm 1995 – tháng 6-2015, phân theo loại hình
doanh nghiệp
Bảng 2.2 : Tổng hợp kết quả phát triển đoàn viên năm 2016
Bảng 2.3 : Tổng hợp kết quả phát triển công đoàn cơ sở năm 2016


Mục lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO CÔNG ĐOÀN
CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG.......................................................................................7
1.1. Khái niệm quyền tự do công đoàn của người lao động .......................................7
1.2. Nội dung quyền tự do công đoàn của NLĐ .......................................................12
1.2.1. Quyền thành lập công đoàn ............................................................................12

1.2.2. Quyền gia nhập công đoàn .............................................................................15
1.2.3. Quyền hoạt động công đoàn ...........................................................................17
1.3. Các đảm bảo quyền tự do công đoàn của người lao động .................................19
1.3.1. Đảm bảo về chính trị .......................................................................................19
1.3.2. Đảm bảo về pháp lý.........................................................................................21
1.3.3. Đảm bảo về xã hội...........................................................................................23
1.4. Quyền tự do công đoàn của người lao động theo quy định của pháp luật quốc tế
...................................................................................................................................25
1.4.1. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (UDHR) .................................25
1.4.2. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) ........................26
1.4.3. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (ICESCR) ...............27
1.4.4. Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di trú và
các thành viên gia đình họ ........................................................................................30
1.4.5.Văn kiện của ILO .............................................................................................31
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................36
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO CÔNG ĐOÀN CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG Ở VIỆT
NAM .........................................................................................................................37
2.1. Quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của người lao động ..........37
2.1.1. Quyền thành lập công đoàn ............................................................................37
2.1.2. Quyền gia nhập công đoàn .............................................................................46
2.1.3. Quyền hoạt động công đoàn ...........................................................................50
2.2. Các đảm bảo quyền tự do công đoàn của người lao động .................................55
2.2.1. Đảm bảo về chính trị .......................................................................................55


2.2.2. Đảm bảo về pháp lý.........................................................................................57
2.2.3. Đảm bảo về xã hội...........................................................................................62
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................67
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC

HIỆN QUYỀN TỰ DO CÔNG ĐOÀN CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG Ở VIỆT
NAM .........................................................................................................................68
3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về quyền tự do công đoàn của người lao
động ở Việt Nam .......................................................................................................68
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tự do
công đoàn của người lao động ở Việt Nam ..............................................................73
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về quyền tự do công đoàn của người lao động ............73
3.2.2. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quyền tự do công đoàn của người
lao động .....................................................................................................................84
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................88
KẾT LUẬN..............................................................................................................88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập mạnh mẽ như hiện nay, khi đời sống
vật chất, tinh thần của mỗi người dân được nâng cao thì quyền con người ngày càng
được luật pháp quốc tế, quốc gia tôn trọng, bảo vệ. Hòa chung trong dòng chảy đó,
Việt Nam cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, vượt bậc trong lĩnh vực dân chủ,
nhân quyền và được toàn thế giới công nhận và đánh giá cao. Điều đó được thể hiện
rõ trong hầu hết các khuôn khổ đối thoại và hợp tác về quyền con người, về dân
chủ, nhân quyền cả song phương lẫn đa phương, các nước và các đối tác quốc tế
đều bày tỏ ghi nhận đối với những thành tựu Việt Nam đã đạt được, nhất là trong
các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an ninh lương thực, an sinh xã hội, thực
hiện tốt các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Tự do hiệp hội là một trong những quyền con người cơ bản được ghi nhận và

bảo vệ trong Luật nhân quyền quốc tế và trong Hiến pháp của hầu hết quốc gia trên
thế giới. Cùng với tự do hội họp hòa bình, tự do lập hội có tác dụng bảo vệ khả
năng của người dân tập hợp với nhau để cùng hành động vì những điều tốt đẹp. Tự
do lập hội là phương tiện để thực thi nhiều quyền dân sự, văn hóa, kinh tế, chính trị,
xã hội khác. Đặc biệt, tự do hiệp hội đóng vai trò quyết định trong việc hình thành
và tồn tại của các hệ thống dân chủ hiệu quả. Vì lẽ đó, trong hệ thống chính trị hay
pháp lý của các quốc gia, quyền tự do lập hội thường được xếp ở bậc cao nhất và
được Nhà nước xem là có giá trị bảo vệ hơn các quyền khác. Đặc biệt, quyền tự do
công đoàn của người lao động nằm trong khuôn khổ của quyền tự do lập hội.
Có thể thấy, Việt Nam hiện chưa gia nhập công ước nào của Tổ chức Lao
ðộng Quốc tế về quyền tự do lập hội, công đoàn. Tuy nhiên, theo Tuyên ngôn về
các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lĩnh vực lao động (1998) của Tổ chức lao
động quốc tế, mọi thành viên của ILO (trong đó có Việt Nam) dù chưa phê chuẩn
các công ước liên quan vẫn có nghĩa vụ tôn trọng, thúc đẩy và hiện thực hóa các
nguyên tắc liên quan đến các quyền cơ bản nêu trong các công ước về quyền tự do
công đoàn và một số quyền cơ bản khác như xóa bỏ lao động cưỡng bức, lao động
trẻ em, phân biệt đối xử. Chính vì vậy, việc ghi nhận và đảm bảo quyền tự do công


2

đoàn của người lao động trong pháp luật nước ta cũng chính là việc thực hiện các
cam kết quốc tế về lao động.
Để bảo đảm quyền tự do công đoàn của người lao động, Nhà nước Việt Nam
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và
Hiến pháp 2013; Bộ luật Lao động 1994 (được sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006,
2007, 2012); Luật Công đoàn 1957, 1990, 2012 và nhiều văn bản pháp luật khác.
Có thể nói hệ thống văn bản pháp luật về quyền tự do công đoàn được hình thành
sớm và thường xuyên được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, đã tạo hành lang pháp lý
cho người lao động thực hiện quyền công đoàn của mình trên tất cả các mặt: quyền

thành lập, quyền gia nhập và quyền hoạt động công đoàn; qua đó đã phát huy tác
dụng góp phần giải phóng con người, động viên người lao động tích cực tham gia
xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ tiếp cận quyền con người và đảm bảo thực hiện
quyền tự do công đoàn trên thực tế cho người lao động, có thể thấy mặc dù nhà
nước Việt Nam thừa nhận quyền tự do công đoàn của tất cả mọi người, song lại
không chấp nhận chế độ đa công đoàn, người lao động chỉ có thể tham gia vào một
công đoàn duy nhất trong hệ thống tổ chức công đoàn Việt Nam, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, xuất phát từ tình
hình thực tế, tổ chức công đoàn chưa bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp một
cách tốt nhất cho người lao động hoặc việc thực hiện quyền đại diện cho người lao
động chỉ mang tính hình thức. Các cuộc đình công của người lao động liên tục xảy
ra trong những năm gần đây và đa số các cuộc đình công đều vắng mặt tổ chức công
đoàn trong việc lãnh đạo đình công và bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Vì vậy,
các cuộc đình công được tiến hành sôi nổi, rầm rộ với sự tham gia đông đảo của
người lao động trong doanh nghiệp để đòi quyền lợi cho tập thể người lao động
nhưng cuối cùng đều thất bại và bị dập tắt. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến
niềm tin của tập thể người lao động vào tổ chức đại diện lao động hiện nay. Một
thực trạng tồn tại phổ biến nữa là việc nhiều chủ doanh nghiệp tìm mọi cách né
tránh, trì hoãn, không tạo điều kiện để người lao động thực hiện quyền tự do công
đoàn. Sự cản trở, gây khó khăn của chủ doanh nghiệp với việc thực thi quyền công
đoàn lại diễn ra bằng nhiều hình thức, biện pháp tinh vi dẫn đến nhiều khó khăn


3

trong việc xử lý theo quy định của pháp luật. Yêu cầu cấp thiết đặt ra phải nhanh
chóng hoàn thiện pháp luật và đảm bảo quyền tự do công đoàn cho người lao động
một cách thiết thực và hiệu quả hơn, đặc biệt là việc ghi nhận một hay nhiều tổ chức
công đoàn độc lập, tổ chức đại diện cho tập thể người lao động cùng tồn tại với tổ

chức công đoàn hiện có, được thành lập theo khuôn khổ pháp luật, hoạt động và bảo
vệ tốt hơn quyền lợi cho người lao động. Lúc này người lao động có quyền lựa chọn
tham gia bất kì tổ chức công đoàn, nghiệp đoàn hoặc tổ chức đại diện tập thể người
lao động nào bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.
Chính vì vậy, học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Quyền tự do công đoàn
của người lao động ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu, hoàn thành Luận văn
Thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề công đoàn, quyền tự do công đoàn của người lao động ở Việt Nam
những năm gần đây đã được một số tác giả nghiên cứu và đề cập trong các công
trình nghiên cứu khoa học như:
“Bảo đảm quyền con người trong pháp luật lao động Việt Nam” PGS.TS Lê
Thị Hoài Thu, 2013; Các đề tài tập trung nghiên cứu các quyền của người lao động
trong pháp luật lao động dưới góc độ bảo đảm quyền con người, đánh giá để chỉ ra
những thành tựu cũng như hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành trong việc bảo
đảm quyền con người trong lĩnh vực lao động, từ đó chỉ ra những giải pháp hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc thực hiện quyền con người trong lĩnh vực
lao động trong đó có quyền tự do công đoàn.
“Cơ chế bảo đảm quyền của người lao động trong các loại hình doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay”, PGS.TS Lê Thị Châu, Đề tài khoa học cấp Bộ (Viện
nghiên cứu lập pháp); Đề tài tập trung nghiên cứu cơ chế bảo vệ quyền của người
lao động thông qua tổ chức đại diện cho tập thể người lao động – Công đoàn.
“Pháp luật công đoàn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Trần Thị Thanh Hà, Luận án Tiến sỹ Luật
học: 62.38.01.01; Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về
pháp luật công đoàn, từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật công đoàn trong


4


trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
“Pháp luật về đại diện lao động ở Việt Nam – Thực trạng và hướng hoàn
thiện”, Đào Mộng Điệp (2014), Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội; Đề tài tập trung
nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về đại diện lao động ở Việt Nam cũng
như thực tiễn thi hành các quy định về đại diện lao động, trên cơ sở đó đề xuất
hướng hoàn thiện pháp luật về đại diện lao động;
“Pháp luật về đại diện lao động ở Việt Nam”, Nguyễn Thị Tú (2015), Luận
văn Thạc sỹ Luật học: 60.38.01.07; Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận về đại diện lao động, các quy định của pháp luật đối với đại diện lao động, từ
đó đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về đại diện lao động ở Việt Nam hiện nay.
“Bảo vệ người lao động theo pháp luật lao động Việt Nam trong nền kinh tế
thị trường”, Nguyễn Thị Yến, Luận văn Ths Luật: 6.01.05; Đề tài tập trung nghiên
cứu khái quát biện pháp bảo vệ quyền lợi của người lao động thông qua tổ chức đại
diện cho tập thể người lao động – Công đoàn.
Dưới góc độ khoa học, các công trình trên rất có giá trị đối với những người
nghiên cứu lĩnh vực này. Tuy nhiên, để quyền lợi của người lao động thực sự được
bảo đảm, để công đoàn thực sự là tổ chức đại diện cho ý chí, tâm tư và nguyện vọng
của người lao động thì việc đi sâu nghiên cứu quyền tự do công đoàn dưới góc độ
quyền con người là một vấn đề mới cần được quan tâm nghiên cứu. Hơn nữa, tính
đến nay, chưa có công trình, đề tài nào nghiên cứu cụ thể về “Quyền tự do công
đoàn của người lao động ở Việt Nam hiện nay”. Do đó, việc tác giả lựa chọn nghiên
cứu đề tài này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Quyền tự do công đoàn của người lao động là đối tượng nghiên cứu của rất
nhiều ngành khoa học. Tuy nhiên, trong chuyên ngành đào tạo Luật kinh tế, Luận
văn chỉ nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ luật học, trong phạm vi pháp luật lao
động. Cụ thể, Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, nghiên cứu các quy định
của pháp luật về quyền tự do công đoàn của người lao động. Theo đó, nội dung
pháp luật về quyền tự do công đoàn của người lao động bao gồm: quyền thành lập,

quyền gia nhập và quyền hoạt động công đoàn.


5

Để làm sâu sắc vấn đề nghiên cứu, tùy từng nội dung và yêu cầu đặt ra, luận
văn tham khảo, đối chiếu với các quy định của pháp luật lao động và pháp luật có
liên quan của Việt Nam, quy định của pháp luật quốc tế trong các công ước, khuyến
nghị của Tổ chức Lao ðộng Quốc tế và pháp luật lao động một số nước trên thế giới
có liên quan đến các nội dung nêu trên.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là nghiên cứu có hệ thống một số vấn đề lý luận về
quyền tự do công đoàn của người lao động; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật
về quyền tự do công đoàn của người lao động. Trên cơ sở đó, Luận văn đề xuất các
giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tự do công
đoàn của người lao động ở Việt Nam trong thời gian tới.
Thực hiện mục đích nêu trên, Luận văn tập trung vào các nhiệm vụ chính sau
đây:
Thứ nhất, nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quyền tự do công
đoàn của người lao động và pháp luật về quyền tự do công đoàn của người lao
động. Cụ thể là về khái niệm, đặc điểm, nội dung quyền tự do công đoàn của người
lao động cũng như các đảm bảo quyền tự do công đoàn của người lao động.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật và thực
tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về quyền tự do công đoàn ở Việt Nam.
Thứ ba, luận giải về yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về quyền tự do
công đoàn trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay. Từ đó,
kiến nghị hoàn thiện pháp luật lao động hiện hành về quyền tự do công đoàn và các
giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tự do công đoàn của người lao động.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, bao gồm phép biện chứng duy vật và phương pháp luận duy vật lịch sử.

Theo đó, vấn đề pháp luật quyền tự do công đoàn của người lao động được nghiên
cứu luôn ở trạng thái vận động và phát triển trong mối quan hệ không tách rời với
các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn còn dựa
trên cơ sở các quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về quan hệ lao động
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.


6

Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn, gồm: Phương
pháp so sánh pháp luật; Phương pháp phân tích quy phạm và phương pháp đánh giá
thực trạng pháp luật; Phương pháp tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng
phương pháp dự báo khoa học, chứng minh. Các phương pháp được kết hợp với
nhau để cùng giải quyết vấn đề của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ và
phong phú các vấn đề lý luận về quyền tự do công đoàn của người lao động theo
pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật quốc tế; thực tiễn bảo đảm quyền tự do
công đoàn của người lao động ở Việt Nam hiện nay.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng
trong việc hoàn thiện pháp luật về quyền tự do công đoàn của người lao động. Kết
quả nghiên cứu đề tài là kênh thông tin bổ trợ giúp cơ quan có thẩm quyền thực thi
pháp luật về bảo đảm quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của người
lao động được hiệu quả hơn. Đặc biệt Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho
các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học về pháp luật lao động, cho người lao động
và đối tượng khác có mong muốn tìm hiểu về pháp luật lao động nói chung, pháp
luật về quyền tự do công đoàn của người lao động nói riêng.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm
3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền tự do công đoàn của người lao
động
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về quyền tự
do công đoàn của người lao động ở Việt Nam
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tự do
công đoàn của người lao động ở Việt Nam


7

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO CÔNG ĐOÀN
CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG
1.1. Khái niệm quyền tự do công đoàn của ngƣời lao động
Theo quan điểm của Liên Hợp Quốc, khái niệm "hội" (association) dùng để
chỉ bất cứ nhóm nào của các cá nhân hoặc các thực thể pháp lý tụ họp với nhau để
cùng hành động, bày tỏ, thúc đẩy, theo đuổi hoặc bảo vệ một lĩnh vực quan tâm
chung. Một số dạng phổ biến của hội bao gồm: các tổ chức xã hội dân sự, các câu
lạc bộ, các hợp tác xã, các tổ chức phi chính phủ, các hội mang tính tôn giáo, các
đảng chính trị, các nghiệp đoàn, các quỹ và các hội liên kết trực tuyến trong việc hỗ
trợ những công dân tích cực tham gia vào việc xây dựng xã hội dân chủ1.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “tự do” là một phạm trù triết học chỉ khả năng
biểu hiện ý chí, hành động theo ý muốn của mình trên cơ sở nhận thức quy luật phát
triển của tự nhiên và xã hội2. Tự do còn được hiểu là quyền được sống và hoạt động
xã hội theo ý nguyện của mình, không bị cấm đoán, ràng buộc, xâm phạm.
Tự do lập hội là quyền tự do kết giao, tổ chức bất kỳ các nhóm, tập hợp, câu
lạc bộ, hay các tổ chức mà con người muốn. Nó là một quyền quan trọng của chế độ
dân chủ tự do, nơi công dân có thể thành lập hay gia nhập bất kỳ đảng chính trị,
nhóm có chung sở thích, hay công đoàn nào mà không bị chính quyền ngăn cản hay
giới hạn. Tự do lập hội là quyền quan trọng giúp thực thi nhiều quyền dân sự, chính

trị, cũng như các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa khác. Quyền tự do hiệp hội (cũng
được gọi tắt là "tự do hiệp hội" - freedom of association) bao gồm quyền thành lập
và tham gia hội, quyền hoạt động tự do và được bảo vệ khỏi sự can thiệp phi lý,
quyền tiếp cận nguồn quỹ và các nguồn lực và quyền tham gia vào việc tiến hành
các hoạt động chung của xã hội3. Như vậy, quyền này bao quát tất cả các hành động
từ việc thành lập cho tới việc chấm dứt một hội. Từ một góc độ khác, tự do hiệp hội
(TDHH) bảo vệ quyền thành lập hoặc gia nhập một nhóm những người đồng quan
điểm để theo đuổi những mối quan tâm chung. Những nhóm này có thể chính thức
1

Khoa luật Đại học quốc gia (2015), Quyền con người - tập tài liệu chuyên đề của Liên hợp quốc, NXB
Công an nhân dân, tr. 67.
2
Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, tr. 1341.
3
Lã Khánh Tùng, Nghiêm Xuân Hoa, Vũ Công Giao (2015), Hội và Tự do Hiệp hội: Một cách tiếp cận dựa
trên quyền, NXB Hồng Đức, Hà Nội, tr. 11.


8

hoặc không chính thức, và không bắt buộc phải đăng ký mới có thể thực thi được
các quyền về TDHH.
Tuy nhiên, quyền tự do lập hội phải được xem xét dưới góc độ là quyền của
công dân nhưng quyền đó nằm trong khuôn khổ và phù hợp với yêu cầu chung nhất
là không trái pháp luật. Nếu sử dụng quyền tự do lập hội theo chiều hướng “chống
đối” “trái ngược” thì sẽ không được chấp nhận, thậm chí bị xóa bỏ, kể cả ở quốc gia
có nền dân chủ được coi là cao nhất. Chính vì vậy, về mặt thủ tục, để thực hiện
quyền tự do lập hội có thể pháp luật của mỗi quốc gia yêu cầu phải thỏa mãn những
điều kiện khác nhau như: chứng minh được tôn chỉ, mục đích hoạt động không trái

pháp luật, thực hiện các thủ tục cần thiết để nhà nước có thể kiểm soát được việc
thành lập, hoạt động của các “hội” này ở mức độ cần thiết… Ở góc độ này, những
điều kiện đặt ra không bị coi là cản trở quyền tự do lập hội của con người mà chính
là hành lang pháp lý để đảm bảo việc thực hiện quyền4.
Phù hợp với điều đó, theo Điều 2 Công ước số 87 (năm 1948) của ILO về
quyền tự do hiệp hội và việc bảo vệ quyền được tổ chức, NLĐ không phân biệt dưới
bất kỳ hình thức nào, đều không phải xin phép trước mà vẫn có quyền được tổ chức
và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của mình, với một điều kiện duy nhất là
phải tuân theo điều lệ của chính tổ chức đó.
Cũng theo cách hiểu trên, quyền tự do công đoàn (bao gồm quyền thành lập,
gia nhập và hoạt động công đoàn) của người lao động nằm trong khuôn khổ của
quyền tự do lập hội.
Quyền tự do công đoàn của NLĐ là vấn đề được đề cập đến dưới nhiều góc
độ nghiên cứu khác nhau và cũng đã được quy định trong các văn bản pháp lý mang
tính quốc tế cũng như trong hệ thống pháp luật của các quốc gia. Trên thế giới,
quyền tự do công đoàn đã được ghi nhận là một quyền cơ bản của NLĐ, là một
trong những nội dung của quyền con người. Công đoàn, về lịch sử là sự phản ánh
mâu thuẫn và cuộc đấu tranh về lợi ích và quyền giữa NLĐ và NSDLĐ ngay từ buổi
ban đầu của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong giai đoạn tích lũy nguyên thủy, chủ tư bản để có được giá trị thặng dư
đã thực hiện bóc lột tối đa đối với NLĐ. Các biện pháp như kéo dài thời gian lao
4

Lê Thị Hoài Thu (2013), Bảo đảm quyền con người trong pháp luật lao động Việt Nam, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 184.


9

động, tăng cường độ lao động, thuê mướn lao động trẻ em giá rẻ, môi trường làm

việc tồi tệ, cố gắng hạ thấp tiền lương… đã làm cho đời sống của NLĐ vô cùng khó
khăn, mâu thuẫn chủ - thợ ngày càng gay gắt. Nhiều hành động phản kháng của
công nhân đã diễn ra chủ yếu bằng các hình thức như đập phá máy móc, đốt nhà
xưởng, đánh đập chủ nhà máy… Tất nhiên hành vi phản kháng này đều bị giới chủ
đàn áp.
Quần chúng công nhân trong đấu tranh, dần ý thức được tầm quan trọng của
việc liên kết lại với nhau để chống lại sự đàn áp của giới chủ. Hình thức ban đầu của
tổ chức công đoàn là tổ chức giúp đỡ lẫn nhau do công nhân tự thành lập, như các tổ
chức bí mật “Hội tương trợ”, “Hội huynh đệ”, “Hội hữu nghị”...
Mặc dù bị chế độ tư bản chủ nghĩa trước đây cấm đoán và đàn áp song phong
trào công nhân và công đoàn vẫn phát triển ở khắp nơi. Các cuộc mít tinh, biểu tình
lớn, thậm chí, như mô tả của Ph.Ăngghen trong “Tình cảnh giai cấp công nhân
Anh” là “những cuộc chiến tranh xã hội đã xảy ra”. Phong trào công nhân và công
đoàn, mặc dù bị đàn áp đẫm máu, nhưng cũng đã buộc giai cấp tư sản phải đưa ra sự
điều chỉnh về thể chế để làm giảm áp lực xã hội lên chế độ. Các nhà nước tư bản
buộc phải lần lượt thừa nhận địa vị hợp pháp của công đoàn, thừa nhận quyền tự do
công đoàn của người lao động trong chế độ tư bản chủ nghĩa5.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” do C. Mác - Ph. Ăng-ghen soạn thảo và
công bố tháng 3-1848, đánh dấu sự trưởng thành về tư tưởng của giai cấp công nhân
và phong trào công đoàn. Về tổ chức, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã thành lập Hội
Liên hiệp Lao động quốc tế (Quốc tế thứ nhất) vào ngày 28-9-1864 ở Luân Đôn.
Quốc tế thứ nhất đồng thời làm nhiệm vụ của một Quốc tế Công đoàn, đã vạch ra
cương lĩnh cơ bản và tích cực đấu tranh cho các yêu cầu cụ thể của phong trào công
đoàn thế giới. Phong trào đấu tranh của công nhân và công đoàn theo đó ngày càng
diễn ra mạnh mẽ với chất lượng mới. Chủ nghĩa Mác đã từng bước trở thành tư
tưởng chủ đạo của phong trào công đoàn, dù phải đấu tranh quyết liệt với các luồng

5

G.E Ca-na-ep và A.S Pro-tô-pô-pôp (chủ biên), Bùi Năng (dịch) (1984), Các công đoàn trên thế giới, Nxb

Lao động, Hà Nội, tr. 51, 63, 144.


10

tư tưởng của chủ nghĩa kinh tế và chủ nghĩa cải lương và các loại tư tưởng phi mácxít trong phong trào công đoàn đương thời6.
Một đặc điểm quan trọng của phong trào công đoàn thời kỳ này là hướng đấu
tranh cho một xã hội mới: xã hội chủ nghĩa. Phong trào công đoàn được đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cùng với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính
đáng của người lao động, mục tiêu cao nhất của đấu tranh giai cấp là phá bỏ phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa cộng sản nhằm thực hiện triệt
để công bằng, bình đẳng trong lao động. Hình thức đấu tranh của công nhân trong
chế độ tư bản chủ nghĩa vừa kết hợp đấu tranh hợp pháp, vừa nửa hợp pháp và cao
nhất là đấu tranh giành chính quyền về tay giai cấp công nhân. C.Mác từng nhấn
mạnh: Công nhân không bao giờ được quên quyền khởi nghĩa của mình. Đằng sau
mỗi lá phiếu là những viên đá lát đường làm chiến lũy.
Từ khi ra đời cho đến nay, các tổ chức công đoàn đã có nhiều đóng góp to
lớn cho tiến trình cách mạng thế giới và tiến bộ xã hội. Ngày nay, công đoàn đã trở
thành một tổ chức quan trọng trong hệ thống chính trị của nhiều quốc gia. Trải qua
một thời gian dài phát triển, nhiều tổ chức công đoàn ở các quốc gia đã có đủ điều
kiện nhận thức và kinh nghiệm xây dựng tổ chức công đoàn, vai trò và vị thế của
công đoàn ngày càng được khẳng định. Theo đó, quyền thành lập, gia nhập, hoạt
động các công đoàn và ủy thác cho tổ chức công đoàn quyền bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của NLĐ là thành viên của công đoàn… được nhìn nhận như những
nội dung cơ bản về quyền tự do công đoàn của người lao động.
Lịch sử của phong trào công nhân và công đoàn thế giới cận đại và hiện đại
đã xác nhận rằng, để có được sự thừa nhận của pháp luật hiện hành về quyền tự do
công đoàn, giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn đã phải đấu tranh bền bỉ và
chấp nhận nhiều hy sinh, tổn thất.
Với khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của quan hệ lao động,

chúng ta đều thấy rõ sự thành lập tổ chức đại diện NLĐ (nghiệp đoàn công nhân) là
cả phong trào lớn trên thế giới, xuất hiện tại châu Âu vào đầu thế kỷ XIX đồng thời
với cuộc cách mạng kỹ nghệ, khi NLĐ có nhu cầu cần được bảo vệ trước NSDLĐ
6

Nguyễn An Ninh, Vũ Anh Đức (2016), Quyền công đoàn của người lao động và hiện thực hóa quyền này Kinh nghiệm của thế giới và thực tiễn Việt Nam hiện nay, tại địa chỉ:
ngày truy cập 20/4/2017.


11

và tự ý thức được giá trị của sức mạnh tập thể. Về phương diện chính trị, có những
nghiệp đoàn độc lập với chính Đảng (nghiệp đoàn của Mỹ, Pháp, Việt Nam cộng
hòa), có nghiệp đoàn chi phối chính Đảng (nghiệp đoàn Anh), lại có nghiệp đoàn lệ
thuộc chính Đảng (nghiệp đoàn ở các quốc gia theo chủ nghĩa xã hội). Từ khi ILO
ra đời, việc thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức của mình cũng là một nội
dung trong quyền tự do lập hội của NLĐ được quy định tại Công ước số 87 (năm
1948) và các văn bản có liên quan của ILO. Trong phạm vi quốc gia, NLĐ có thể
thành lập một hoặc nhiều tổ chức đại diện của mình tùy thuộc vào phạm vi quyền tự
do lập hội của NLĐ được thừa nhận đến mức độ nào bởi pháp luật quốc gia. Ở các
quốc gia không ủng hộ đa công đoàn thường chỉ tồn tại một loại tổ chức duy nhất
đại diện cho NLĐ. Ngược lại, ở những quốc gia ủng hộ đa công đoàn thường có
nhiều loại tổ chức khác nhau đại diện cho những nhóm NLĐ khác nhau. Các tổ
chức đại diện cho NLĐ của các quốc gia có quyền gia nhập tổ chức đại diện của
NLĐ trong khu vực và quốc tế, như Tổ chức khu vực châu Á – Thái Bình Dương
(APRO), Hội đồng Công đoàn ASEAN (ATUC), Công đoàn ngành nghề quốc tế,
Liên hiệp Công đoàn Thế giới (WFTU)7…
Theo đó, quyền tự do công đoàn là quyền của người lao động trong việc tự
do thành lập, gia nhập và hoạt động ở bất kì tổ chức công đoàn, đại diện lao động
nào theo ý chí nguyện vọng của mình mà không bị ngăn cản, giới hạn hay xâm

phạm, được pháp luật của mỗi quốc gia ghi nhận và đảm bảo nhằm bảo vệ tốt nhất
quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động.
Như vậy, có thể thấy một số dấu hiệu quan trọng để nhận diện quyền tự do
công đoàn:
- Là quyền tự do của người lao động trong việc thành lập, gia nhập và hoạt
động trong một tổ chức công đoàn, nhưng không được trái pháp luật;
- Điều kiện có tính chất quyết định cho việc thực hiện quyền tự do công đoàn
là chế độ dân chủ;
- Không bị sự ngăn cản, xâm phạm hay giới hạn bởi chính quyền.

7

Lê Thị Hoài Thu (2013), tlđd chú thích 4, tr. 185, 186.


12

1.2. Nội dung quyền tự do công đoàn của ngƣời lao động
1.2.1. Quyền thành lập công đoàn
Theo từ điển Tiếng Việt thuật ngữ “thành lập” có nghĩa là: chính thức lập
nên, dựng nên8 (thường nói về một tổ chức quan trọng). Theo cách hiểu thông
thường, thuật ngữ thành lập được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, là thành lập một tổ
chức mới (nghĩa rộng); thứ hai, là thành lập một thành viên mới của tổ chức đó
hoặc một bộ phận mới của tổ chức đó (nghĩa hẹp). Người lao động được pháp luật
hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi để lập nên tổ chức
công đoàn bảo vệ lợi ích của mình. Như vậy, quyền thành lập công đoàn của NLĐ
được hiểu là quyền của tập thể NLĐ được lập nên tổ chức công đoàn để bảo vệ cho
lợi ích của mình. Cần lưu ý rằng, cá nhân NLĐ không thể thực hiện quyền thành lập
công đoàn mà phải thực hiện quyền đó thông qua hành vi của một tập thể lao động.
Về điều kiện thành lập công đoàn: Điều kiện thành lập công đoàn thường

có các quy định liên quan đến: mục đích (phải hợp pháp), trụ sở và tài chính, điều lệ
và thành viên. Nhìn chung, đa dạng nhất là các quy định liên quan đến điều kiện về
thành viên, cụ thể như:
Thứ nhất, về quốc tịch, quyền thành lập công đoàn đương nhiên thuộc về
mọi công dân của quốc gia, trừ một số trường hợp luật định (chẳng hạn như công
chức lực lượng vũ trang...). Đối với quyền thành lập công đoàn của người nước
ngoài, các quốc gia có những cách điều chỉnh khác nhau. Luật hội Ba Lan phân biệt
người nước ngoài thành người cư trú (được tự do gia nhập hội) và người không cư
trú (tùy trường hợp).
Thứ hai, về độ tuổi, thông thường thì người lao động phải đủ 18 tuổi mới có
đầy đủ quyền thành lập công đoàn. Luật hội Ba Lan cho phép người chưa thành
niên từ 16 đển 18 tuổi trở thành thành viên của các hội, với điều kiện đa số thành
viên hội đồng quản trị của hội phải là người đã thành niên, có đủ năng lực để thực
hiện giao dịch hợp pháp. Trẻ em dưới 16 tuổi có thể trở thành thành viên của một
hội nếu quy chế của hội này cho phép và có sự đồng ý của người giám hộ hợp pháp,
nhưng họ có thể không được bầu cử hoặc biểu quyết tại phiên họp của hội.
8

Trung tâm từ điển học, "Từ điển tiếng Việt" (2011), NXB Đà Nẵng, tr. 916.


13

Thứ ba, về số lượng thành viên để thành lập công đoàn, có sự khác biệt lớn
giữa các quốc gia. Luật hội của Ecuador chỉ yêu cầu có 5 người để lập một hội,
trong khi Luật Ấn Độ cần phải có 7 người, Luật Ai Cập cần có 10 người, Luật Ba
Lan cần có 15 người, Luật Rumani cần có 21 người để lập một hội trong khi Luật của
Pháp quy định chỉ cần 2 người là có thể lập được hội9.
Đối với quốc gia xây dựng mô hình đa công đoàn nhưng có một công đoàn
nòng cốt, chủ đạo (Senegan, Angieri...) hay thừa nhận công đoàn là tổ chức duy

nhất thực hiện chức năng này (Trung Quốc, Việt Nam) hoặc cho phép tồn tại nhiều
hình thức đại diện song song với hình thức công đoàn (Đức, Bỉ, Áo, Singapo...) thì
các quốc gia này vẫn hướng đến quyền tự do liên kết thành lập tổ chức công đoàn
theo nội dung quy định trong các công ước quốc tế của tổ chức lao động thế giới.
Công ước số 87 về quyền tự do liên kết và việc bảo vệ quyền được tổ chức quy
định: “Những người lao động và những người sử dụng lao động, không hề phân
biệt, đều không phải xin phép trước mà vẫn có quyền hợp thành những tổ chức theo
sự lựa chọn của mình, có quyền gia nhập những tổ chức đó với một điều kiện duy
nhất là theo đúng điều lệ của tổ chức hữu quan” (Điều 2). Các quốc gia trên thế
giới đã nội luật hóa nội dung này với những góc độ khác nhau dù quốc gia đó đã
phê chuẩn hay chưa phê chuẩn công ước. Để cụ thể hóa quyền tự do liên kết, đa số
các quốc gia (Lat - via, Nga, Singapore, Trung Quốc, Philippin, Campuchia, Thái
Lan, Việt Nam...) đều thừa nhận quyền tự do thành lập tổ chức công đoàn cho NLĐ.
Trong đó, pháp luật của các nước quy định cụ thể đối tượng tham gia thành lập tổ
chức công đoàn. Luật Công đoàn Lat - via và Trung Quốc quy định dân cư, những
NLĐ chân tay và lao động trí óc đều có quyền tổ chức hoặc tham gia vào tổ chức
công đoàn. Không tổ chức hoặc cá nhân nào có thể cản trở hoặc hạn chế họ (Phần 2
Luật Công đoàn Lat - via 1990, Điều 3, Luật Công đoàn Trung Quốc). Ngoài ra,
pháp luật của một số nước còn quy định cụ thể độ tuổi được tham gia thành lập tổ
chức công đoàn.
Về quy trình, thủ tục thành lập công đoàn: Ở một số quốc gia, thủ tục thành
lập công đoàn được thực thi rất dễ dàng, chẳng hạn như, muốn thành lập hoặc gia
9

Vũ Công Giao (chủ biên) (2015), Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013, NXB Hồng Đức, Hà

Nội, tr. 38.


14


nhập công đoàn thì chỉ cần thông báo cho cơ quan nhà nước (thậm chí chỉ cần qua
Internet). Đa số quốc gia thì yêu cầu nộp hồ sơ đăng ký tại một cơ quan nhất định
(tòa án, cơ quan công chứng hoặc cơ quan chuyên trách). Có hai loại cơ quan
thường được các quốc gia trao quyền đăng ký thành lập công đoàn là tòa án (theo
luật hội của Ba Lan, Hungary, Rumani) và cơ quan công chứng (Bôlivia, Braxin,
Italia, Hà Lan.). Cũng có một số quốc gia có cơ quan chuyên trách việc đăng ký hội
(cơ quan đăng ký hội tại Malaysia). Ban vận động thành lập công đoàn thường phải
nộp cho cơ quan đăng ký (tòa án hoặc cơ quan công chứng) giấy đăng ký kèm theo
các loại văn bản như: quy chế (điều lệ), danh sách các thành viên, địa chỉ văn phòng
tạm thời.. .Sau một thời hạn, cơ quan đăng ký sẽ có trả lời về việc đăng ký.
Thủ tục thành lập công đoàn có tư cách pháp nhân được quy định khác nhau
trong pháp luật của các quốc gia, điều quan trọng là các cơ quan nhà nước giải
quyết thủ tục một cách thiện chí, nhanh chóng và bình đẳng. Thủ tục này càng đơn
giản, càng tiết kiệm thời gian và chi phí thì càng tốt. Chuyên gia của Liên Hợp
Quốc khuyến nghị rằng một “thủ tục thông báo” thì tốt hơn, phù hợp với luật nhân
quyền hơn là một “thủ tục cho phép trước” đòi hỏi phải có sự chấp thuận của cơ
quan nhà nước để thiết lập một pháp nhân. Trong thủ tục thông báo, công đoàn tự
động được trao tư cách pháp nhân ngay khi nhà chức trách nhận được thông báo bởi
các sáng lập viên rằng công đoàn đã được lập ra. Tại hầu hết các quốc gia, việc
thông báo này được thực hiện bằng văn bản, bao gồm một số nội dung thông tin mà
luật yêu cầu rõ ràng, nhưng đây không phải là điều kiện cho việc hiện diện một
công đoàn. Văn bản này là một thông báo để các cơ quan thống kê có thông tin về
công đoàn. Hệ thống thông báo này đang hoạt động tại ở nhiều quốc gia (Djibouti,
Maroc, Bồ Đào Nha, Senegal, Thụy Sỹ, Urugoay...)10. Cả hai thủ tục thông báo và
thủ tục cấp phép đều đòi hỏi sự nhanh chóng. Việc chậm trễ đăng ký, cấp phép cho
một công đoàn có thể coi là sự vi phạm quyền lập hội. Mặt khác, nếu từ chối đơn
xin thành lập công đoàn thì phải nêu rõ lý do và thông báo một cách rõ ràng cho chủ
thể đứng đơn thành lập. Những cá nhân, tổ chức bị từ chối có quyền được khiếu nại,
khiếu kiện ra trước một tòa án độc lập và không thiên vị. Ủy ban về tự do lập hội

của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã có phán quyết rằng: “việc không thể đưa ra
Báo cáo của Báo cáo viên về tự do hội họp hòa bình và hiệp hội (2012), Maina Kiai, A/HCR/20/27,
đoạn 95, 96.
10


15

trước cơ quan tư pháp để xem xét sự từ chối bởi cơ quan Bộ cho phép thành lập một
công đoàn là vi phạm các nguyên tắc tự do lập hội”. Đồng thời với việc thành lập,
các cá nhân có quyền gia nhập và rút lui (ra khỏi, rời bỏ) các công đoàn. Tương tự,
các công đoàn có quyền ngừng hoạt động và tự giải tán hội. Việc các cơ quan nhà
nước ngừng hoạt động và giải tán công đoàn phải tuân thủ chặt chẽ các quy định
của luật.
Đa số các quốc gia đều quy định các tổ chức công đoàn phải chuẩn bị đơn
đăng ký gửi kèm theo điều lệ, quy chế, tuyên bố thành lập, quyết định của đại hội,
danh sách, thông tin thành viên tham gia, danh sách những người chịu trách nhiệm
pháp lý, lệ phí đăng ký gửi đến cơ quan đăng ký hoặc cá nhân được trao quyền. Các
quốc gia quy định cơ quan đăng ký có thể là Bộ Tư pháp (Phần 3 Luật Công đoàn
Lat - via 1990; Điều 8, Luật Công đoàn Nga); có thể do Bộ trưởng chỉ định (Điều 4,
Luật Công đoàn Singapore); có thể do Bộ Lao động đăng ký (Điều 268, Luật Lao
động Campchia); có thể do Văn phòng quan hệ lao động tiến hành (Điều 235, Bộ
Luật Lao động Philippin 1974) hoặc cũng có thể do đăng ký viên thực hiện theo
Điều 87 Luật quan hệ lao động Thái Lan. Pháp luật của các quốc gia quy định sau
khi đơn đăng ký được gửi đến cơ quan có thẩm quyền, các cơ quan đăng ký phải
tiến hành thủ tục đăng ký cho tổ chức. Thời gian tiến hành được quy định trong 01
tháng (Lat - via, Singapore, Nga) hoặc 2 tháng (Campuchia) hoặc trong 30 ngày
(Philippin). Ngoài ra, một số quốc gia cũng quy định cụ thể về điều kiện đăng ký
thành lập tổ chức công đoàn như pháp luật của Lat - via, Singapore. Nếu Luật Công
đoàn Lat - via phần 3 quy đinh điều kiện đăng ký tổ chức công đoàn gồm “công

đoàn tập hợp được không ít hơn 50 người lao động trong một doanh nghiệp, một
đơn vị, một tổ chức, một ngành nghề” thì Luật Công đoàn Singapore Điều 9 lại quy
định “phải có chữ ký tối thiểu của 7 đoàn viên”.
1.2.2. Quyền gia nhập công đoàn
Theo từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “Gia nhập” nghĩa là đứng vào hàng ngũ,
trở thành thành viên của một tổ chức nào đó11. Ví dụ: gia nhập quân đội, gia nhập
Liên hợp quốc. Người lao động được pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được
hưởng, được làm, được tham gia đứng vào hàng ngũ của tổ chức công đoàn để bảo
11

Trung tâm Từ điển học (2011), tlđd chú thích số 8, tr. 614.


16

vệ lợi ích của mình. Bên cạnh đó, “gia nhập” còn được hiểu là một chủ thể (một
quốc gia, một tổ chức, một cá nhân) đủ điều kiện tán thành những quy định của tổ
chức đã có trong xã hội và tự nguyện xin vào tổ chức đó, được tổ chức đó chấp
thuận. Việc gia nhập tổ chức phải có ít nhất hai điều kiện: một là, bên gia nhập phải
đủ điều kiện mà tổ chức yêu cầu, đồng thời phải tự nguyện xin vào tổ chức; hai là,
phải được đồng ý, chấp thuận theo quy chế nội bộ của tổ chức.
Như vậy, quyền gia nhập tổ chức công đoàn của NLĐ được hiểu là quyền
của NLĐ được tự do gia nhập hoặc không gia nhập tổ chức công đoàn, không một
cá nhân, tổ chức nào có thể hạn chế, ngăn cản hoặc xâm phạm đến quyền tự do gia
nhập công đoàn của người lao động.
Việc gia nhập tổ chức công đoàn của NLĐ được quy định ở một số nội dung
chính như: quốc tịch, độ tuổi của người gia nhập công đoàn. Cũng giống như quy
định về thành lập tổ chức công đoàn, về quốc tịch, quyền gia nhập công đoàn đương
nhiên thuộc về mọi công dân của quốc gia, trừ một số trường hợp luật định. Có một
số quốc gia thì quyền gia nhập công đoàn thuộc về công dân của quốc gia đó, nhưng

cũng có quốc gia quy định quyền gia nhập công đoàn bao gồm cả công dân của
quốc gia và người nước ngoài.
Trong Điều 95, Luật Quan hệ lao động Thái Lan 1995 quy định: “Những
người muốn trở thành đoàn viên công đoàn phải là những NLĐ cùng làm cho một
NSDLĐ và phải từ 25 tuổi trở lên”. Luật Công đoàn của Singapore Điều 28 cũng
quy định những người trên 16 tuổi có thể gia nhập công đoàn đã đăng ký và quy
định điều kiện cho các đoàn viên là công chức nhà nước và cán bộ các cơ quan luật
pháp. Bên cạnh đó, Luật Công đoàn của Nga cũng quy định độ tuổi được tham gia
tổ chức công đoàn là 14 tuổi. Không giống như luật pháp của một số quốc gia khác,
Luật Công đoàn Nga còn mở rộng đối tượng được quyền gia nhập công đoàn và
thừa nhận cả những công dân nước ngoài và những người không quốc tịch sống trên
lãnh thổ Liên bang Nga đều được tham gia công đoàn. Đây là một trong những chìa
khóa làm gia tăng khối lượng thành viên đồng nghĩa với việc thúc đẩy sức mạnh
của tổ chức công đoàn. Ở các quốc gia đều khuyến khích việc tham gia tổ chức
công đoàn, đa số các tổ chức công đoàn cố gắng thu hút NLĐ tham gia tổ chức của


17

mình để tăng cường sức mạnh và khẳng định vị thể của tổ chức, vì vậy số lượng
người lao động đăng kí gia nhập tổ chức công đoàn không bị giới hạn.
Về thủ tục gia nhập công đoàn: Pháp luật các quốc gia trên thế giới tạo điều
kiện thuận lợi tối đa cho NLĐ gia nhập tổ chức công đoàn. Ở hầu hết các quốc gia,
việc gia nhập tổ chức công đoàn được thực hiện theo quy trình sau: NLĐ có mong
muốn gia nhập tổ chức công đoàn sẽ làm đơn gia nhập công đoàn và gửi tới tổ chức
công đoàn mà mình muốn tham gia hoạt động. Tổ chức công đoàn sẽ xem xét về
điều kiện gia nhập công đoàn của NLĐ, bao gồm quốc tịch (nếu quốc gia có quy
định) và độ tuổi gia nhập công đoàn. Nếu NLĐ đủ điều kiện gia nhập công đoàn thì
tổ chức công đoàn sẽ công nhận NLĐ là đoàn viên công đoàn (có thể làm lễ kết nạp
đoàn viên, trao thẻ đoàn viên). Cũng cần lưu ý rằng, song song với việc gia nhập tổ

chức công đoàn thì khi NLĐ là đoàn viên công đoàn cũng có quyền nộp đơn xin rút
khỏi tổ chức công đoàn khi không có mong muốn tham gia tổ chức công đoàn12.
1.2.3. Quyền hoạt động công đoàn
Một trong những nội dung của quyền tự do công đoàn được giải thích là
quyền hoạt động tự do của các tổ chức công đoàn trong khuôn khổ pháp luật và điều
này xác định các nghĩa vụ của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực thi
quyền này. Luật nhân quyền quốc tế đòi hỏi Nhà nước có nghĩa vụ thực thi các biện
pháp chủ động và thụ động nhằm bảo đảm các quyền tự do căn bản của người dân,
trong đó có quyền tự do lập hội. Ở mức tối thiểu, Nhà nước phải kiềm chế không
được can thiệp vào các hoạt động bình thường của các tổ chức công đoàn. Cụ thể,
Nhà nước có nghĩa vụ:
Thứ nhất, không được can thiệp vào các hoạt động bình thường của các tổ
chức công đoàn; quy chế, điều lệ của các tổ chức công đoàn được tự quyết và xây
dựng nên bởi các thành viên mà không có sự can thiệp của Nhà nước; quyền riêng
tư của các tổ chức công đoàn được bảo đảm; các cơ quan Nhà nước không được
thay đổi việc bầu chọn ban lãnh đạo của các tổ chức công đoàn, cử người của mình
vào ban lãnh đạo hay yêu cầu các tổ chức công đoàn nộp kế hoạch hoạt động của
năm. Các cơ quan độc lập do Nhà nước lập ra có quyền xem xét báo cáo của các tổ
chức công đoàn như là một cơ chế đảm bảo sự minh bạch và trách nhiệm giải trình,
12

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(ICCPR, 1966), NXB Hồng Đức, tr, 369 - 372.


18

nhưng một thủ tục như vậy không được mang tính chất tùy tiện và phải tôn trọng
nguyên tắc không phân biệt đối xử và quyền riêng tư của các tổ chức đó13.
Thứ hai, có các biện pháp hỗ trợ việc thành lập các tổ chức công đoàn cũng

như tạo dựng một môi trường thuận lợi, bình đẳng cho hoạt động của các tổ chức
công đoàn, cung cấp địa điểm mở văn phòng, tài trợ tài chính trong giai đoạn đầu
hoạt động. Chẳng hạn, các quốc gia cần đối xử một cách công bằng giữa các tổ
chức công đoàn và các doanh nghiệp, thể hiện ở việc không có những yêu cầu, thủ
tục phiền hà, không tương xứng hoặc tạo gánh nặng cho các tổ chức đó so với các
doanh nghiệp. Việc đăng ký thành lập một hội không nên quá khó khăn hoặc quá
tốn thời gian so với việc đăng ký của một doanh nghiệp hoạt động mục tiêu lợi
nhuận14. Các quốc gia có nghĩa vụ thiết lập các cơ chế khiếu nại hiệu quả và có thể
tiếp cận được cho mọi người dân và tổ chức. Các cơ chế này phải có khả năng tiến
hành điều tra một cách độc lập, nhanh chóng và kỹ lưỡng về những cáo buộc vi
phạm nhân quyền hoặc lạm quyền, trong đó có các cáo buộc liên quan đến quyền
TDHH.
Các nguồn lực về tài chính có vai trò đặc biệt đối với việc duy trì hoạt động
của các hội. Các khuyến nghị của Liên hợp quốc đều hướng đến việc hạn chế các
thủ tục phức tạp, mất thời gian với việc nhận tài trợ của các hội. Tự do hội họp,
triển khai các dự án, hoạt động tại các địa bàn khác nhau cũng là thành tố quan
trọng của tự do công đoàn. Nghĩa vụ nêu trên cũng đòi hỏi các Nhà nước phải tạo
điều kiện cho tổ chức công đoàn tiếp cận với các nguồn lực cho hoạt động. Khả
năng các tổ chức công đoàn có thể tìm kiếm, tiếp cận và sử dụng các nguồn lực
trong nước, ngoài nước và quốc tế được xem là một phần quan trọng và không thể
tách rời của quyền TDHH. Thuật ngữ "các nguồn lực" dùng để chỉ các nguồn tài
chính được chuyển giao, các đóng góp phi tài chính, các nguồn lực vật chất, nguồn
nhân lực... Việc tiếp nhận nguồn tài chính trong và ngoài nước của các hội không
nên bị yêu cầu phải được nhà chức trách cấp phép. Các tổ chức công đoàn, kể cả có
đăng ký hay không đăng ký, đều cần có quyền tự do tìm kiếm và đảm bảo nguồn tài
chính và các nguồn lực từ các chủ thể trong nước, ngoài nước và quốc tế.
13

Vũ Công Giao, tlđd chú thích 9, tr. 122, 123.
Lã Khánh Tùng, Nghiêm Hoa, Vũ Công Giao, Các yếu tô cơ bản của tự do hiệp hội, tại địa chỉ:

ngày truy cập: 20/04/2017.
14


×