Tải bản đầy đủ (.docx) (195 trang)

LATS Y HỌC Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ người Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi tỉnh Sơn La và hiệu quả can thiệp (FULL TEXT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.22 MB, 195 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƯƠNG

------------------*-----------------

BÙI HỮU TOÀN

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
ĐẾN KIẾN THỨC, THỰC HÀNH RỬA TAY BẰNG XÀ PHÒNG
CỦA CÁC BÀ MẸ NGƯỜI MÔNG ĐANG NUÔI CON
DƯỚI 5 TUỔI TỈNH SƠN LA VÀ HIỆU QUẢ CAN THIỆP

CHUYÊN NGÀNH: Vệ sinh xã hội học và Tổ chức Y tế
MÃ SỐ:

62 72 01 64

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

HÀ NỘI, 2018


2

ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo báo cáo của Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), hàng năm vẫn còn
có khoảng 1,9 triệu trẻ em dưới 5 tuổi ở các quốc gia nghèo chết do tiêu chảy [114].
Thống kê các bệnh truyền nhiễm của Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế cho thấy khoảng một


nửa các bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ mắc cao nhất là những bệnh có liên quan tới nước
sạch, vệ sinh môi trường và các hành vi vệ sinh cá nhân, trong đó có hành vi rửa tay
[10], [4].
Những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong các Chương trình mục tiêu
quốc gia về Y tế, Môi trường đã thu được những thành tựu đáng kể tỉ lệ người dân được
sử dụng nguồn nước sạch [1],[5]. Xong kiến thức, thái độ và thực hành về vệ sinh môi
trường và vệ sinh cá nhân của người dân nông thôn Việt Nam tại thời điểm hiện tại vẫn
còn nhiều yếu kém. Mức độ nghiêm trọng tăng dần theo từng vùng miền từ đồng
bằng đến miền núi, theo nhóm người dân tộc từ đa số đến thiểu số, theo trình độ học
vấn từ cao đến thấp và theo mức độ thu nhập từ không nghèo đến nghèo, tỷ lệ người
dân được sử dụng nguồn nước và nhà tiêu hợp vệ sinh còn rất thấp, điều kiện kinh tế
ở nhiều vùng còn rất khó khăn, nhiều phong tục tập quán lạc hậu, thói quen mất vệ sinh
của người dân còn khá phổ biến, nguy cơ phát sinh, phát triển dịch bệnh nêu trên là rất
lớn. Để nhanh chóng khắc phục những khó khăn, tồn tại trên rất cần có sự quan tâm
đầu tư của Nhà nước, sự phối kết hợp chặt chẽ của các ban ngành đoàn thể từ trung
ương đến địa phương và sự tham gia tích cực của người dân trong việc cải thiện các điều
kiện vệ sinh môi trường kết hợp với vệ sinh cá nhân như là một trong các giải pháp đồng
bộ nhằm từng bước khống chế và giảm tỷ lệ mắc của các bệnh dịch này.
Rửa tay bằng xà phòng (RTBXP) được coi là cách phòng bệnh có chi phí thấp nhất
nhưng lại mang lại hiệu quả phòng các bệnh tiêu chảy, giun sán, nhiễm khuẩn hô hấp
cao hơn so với các biện pháp khác trong các chương trình can thiệp về nước sạch và
vệ sinh môi trường (NS&VSMT). Thói quen RTBXP trước khi ăn và sau khi đại, tiểu
tiện giúp loại bỏ mầm bệnh theo tay bẩn xâm nhiễm vào thức ăn, nước uống, vào cơ thể
gây ra những bệnh tật nguy hiểm cho con người [19], [113].


Theo số liệu điều tra của Cục Y tế dự phòng năm 2007, tỷ lệ người không rửa
tay sau khi đi tiểu là cao nhất (33,6%); tỷ lệ người không rửa tay trước khi ăn và và sau
khi đại tiện ít chênh lệch nhau (16,5% và 14,3%) [9].
Dân tộc Mông được cho là nhóm cần được quan tâm đặc biệt do đang đối diện

trước những nguy cơ rất lớn về lây nhiễm các bệnh nhiễm trùng: Tỷ lệ người Mông
mù chữ rất cao (76,8%). Tỷ lệ người dân không được tiếp cận với các phương tiện
truyền thông cao hơn các nhóm dân khác.
Tỉ lệ không rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh của người Mông khá cao so
với các nhóm dân tộc phía Bắc trong nhiều nguyên nhân chủ yếu vẫn do thói quen
và thiếu nước [3].
Sơn La là một tỉnh miền núi, là địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào dân tộc
Mông. Cùng với các cộng đồng dân tộc khác, dân tộc Mông tại tỉnh Sơn La đang
phải đối diện với các vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng với điều kiện sống khó khăn, thiếu
nước sinh hoạt và tỷ lệ bệnh truyền nhiễm ngày càng gia tăng trong những năm gần
đây và không có xu hướng thuyên giảm hoặc có thì chỉ giảm rất ít. Năm 2008- 2010,
Tiêu chảy là một trong 5 bệnh luôn có số ca mắc cao nhất như năm 2008 với 1507,9
trường hợp/100.000 dân; năm 2009 là 1441,9/100.000 dân; năm 2010 là 1318,1 trường
hợp/100.000 dân. Dân tộc Mông là dân tộc có số dân đứng thứ 3 tại tỉnh Sơn La
(147.516 người) và tỷ lệ mắc bệnh trên 100.000 dân luôn cao nhất so với các dân tộc
khác trong tỉnh. Năm 2008 tỷ lệ mắc tiêu chảy dân tộc Mông là 2.685 trường
hợp/100.000 dân, năm 2009 là 2.634/100.000 dân, năm 2010 tỷ lệ trên vẫn là
2.348/100.000 dân [12]. Tỷ lệ này luôn cao hơn tỷ lệ chung toàn tỉnh ở tất cả các
bệnh truyền nhiễm khác không riêng gì tiêu chảy. Với những lý do trên, để tìm kiếm
một mô hình truyền thông can thiệp nhằm cải thiện hiểu biết và hành vi rửa tay, rửa tay
bằng xà phòng phù hợp cho dân tộc Mông, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Thực
trạng và một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành rửa tay bằng xà phòng
của các bà mẹ người Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi tỉnh Sơn La và hiệu quả can
thiệp”.


MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ Mông
đang nuôi con dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại tỉnh Sơn La năm 2013.
2. Đánh giá hiệu quả can thiệp Truyền thông - Giáo dục sức khỏe đối với hành vi rửa

tay bằng xà phòng của đối tượng nghiên cứu năm 2014-2016.


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Rửa tay và rửa tay bằng xà phòng
Bàn tay là công cụ đa năng nhất trong lao động và các sinh hoạt hàng ngày
của con người, nhưng nó cũng là phương tiện chính để truyền tải phát tán mầm
bệnh. Các nghiên cứu cho thấy rằng bàn tay của một người có thể mang tới 4,6 triệu
mầm bệnh. Theo đó, vi khuẩn cư trú trên bàn tay (tập trung số lượng lớn ở kẽ tay và
kẽ móng tay), đặc biệt, tụ cầu khuẩn thường xuyên có trên bề mặt da và trong niêm
mạc mũi của người khỏe mạnh, loại vi khuẩn rất nguy hiểm này truyền nhiễm sang
người khác qua tiếp xúc thông thường [15]. Các mầm bệnh trên bàn tay bao gồm:
loại bám dính, loại tạm trú, và loại thường trú. Theo sự ước lượng của các nhà khoa
học thì có vào khoảng từ 10.000 đến 100.000.000 mầm bệnh hiện diện trên hai bàn
tay và đặc biệt là dưới khe của các móng tay. Trong bối cảnh này, một số mầm bệnh
có thể tồn tại trong nhiều phút thậm chí trong nhiều giờ. Đó là trường hợp của các
loại virus gây các bệnh cảm nhiễm như cảm cúm, rối loạn tiêu hóa, bệnh feu
sauvage (herpes labial), bệnh impétigo (chốc lở) và các bệnh ngộ độc thực phẩm...
Một vài loại vi khuẩn độc hại hơn có nguồn gốc từ phân, ch ng hạn như vi khuẩn
Salmonella (gây bệnh thương hàn) cũng có thể lây nhiễm từ hai bàn tay. Mỗi khi bắt
tay với nhau là mỗi người có thể sau đó đem truyền sang cho 6 người khác… [14].
Vi khuẩn Staphylococcus là một loại vi khuẩn kị khí, thường xuyên có mặt trên bề
mặt da và trong niêm mạc mũi ở khoảng 25% người khỏe mạnh bình thường.
Staphylococcus aureus là một vi khuẩn được xem là khá nguy hiểm vì chúng có khả
năng sản xuất ra nhiều độc tố có thể làm cho người bị nhiễm dễ mắc bệnh. Các bệnh
có liên quan đến vi khuẩn S.aureus bao gồm viêm dạ dày ruột. Chúng được truyền
nhiễm sang người khác qua tiếp xúc thông thường. Chỉ khi cơ thể bị thương hoặc
giảm sức đề kháng, vi khuẩn mới có cơ hội gây bệnh [22].
Việc giữ gìn cho bàn tay luôn sạch thông qua hành vi rửa tay bằng xà phòng
có vai trò rất lớn trong việc phòng chống lây nhiễm bệnh tật. Các nhà khoa học đã

2

xác định, trên 1cm da của người bình thường chứa tới 40.000 vi khuẩn. Đặc biệt số
lượng này còn nhiều hơn ở trên da bàn tay, vốn là nơi thường xuyên tiếp xúc với đủ


mọi vật trong cuộc sống thường ngày [22]. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) chỉ
một động tác rửa tay sạch đã làm giảm tới 35% khả năng lây truyền vi khuẩn
Shigella, vốn là nguyên nhân gây các bệnh tiêu chảy và làm tử vong hàng triệu
người mỗi năm trên thế giới [115]. Một số nghiên cứu cho thấy việc rửa tay có thể
làm giảm rủi ro nhiễm khuẩn tiêu chảy tới 47%, nhiễm khuẩn đường hô hấp tới 1945%. Theo báo cáo của UNICEF, trung bình mỗi ngày trên thế giới có khoảng
5.000 trẻ em dưới 5 tuổi chết do tiêu chảy. Còn ở Việt Nam, hai nguyên nhân chính
gây tử vong nhiều nhất ở trẻ là bệnh viêm đường hô hấp cấp và bệnh tiêu chảy.
Theo số liệu của Bộ Y tế, trong tháng 5/2008, cả nước có thêm 1.386 trường hợp
mắc tiêu chảy cấp nguy hiểm, trong đó có 170 trường hợp tả. Như vậy, tính từ đầu
năm 2008 tới nay, cả nước có 3.394 ca tiêu chảy cấp nguy hiểm, trong đó có 497
trường hợp dương tính tả [13].
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới và Bộ Y tế Việt Nam: Việc
không rửa tay bằng xà phòng vào các thời điểm quan trọng như trước khi ăn, sau
khi tiểu/đại tiện, trước khi cho con ăn và sau khi chăm sóc trẻ,… đang làm gia tăng
các bệnh tiêu chảy, tả, lỵ, giun sán, đây là các bệnh rất phổ biến và chiếm tỷ lệ cao
trong số các bệnh thường gặp ở các vùng nông thôn Việt Nam. Đặc biệt, năm nay
với diễn biến phức tạp của dịch cúm A (H5N1) trên thế giới và ở Việt Nam, nguy
cơ có thể gây nên một đại dịch lớn thì vấn đề nâng cao ý thức người dân về các
hành vi vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường trong đó việc thực hành thường xuyên
rửa tay bằng xà phòng để phòng tránh dịch bệnh là rất cần thiết.
Theo Curtis, Motarjemi và Esrey ước tính khoảng 70% các trường tiêu chảy
trẻ em năm 2000 có liên quan đến thực phẩm và nguồn nước và phần chủ yếu không
rửa tay sau khi đi đại , tiểu tiện và trước khi ăn [51].
1.2. Giải phẫu sinh lý da và các phổ vi khuẩn trên da.

1.2.1. Cấu trúc, sinh lý của da.
Da là cơ quan bao bọc và chiếm 15% trọng lượng cơ thể. Da bảo vệ cơ thể
chống lại các tác nhân như vật lý, hoá học, cơ học, sinh học (vi trùng, vi nấm...), ở
môi trường chung quanh. Cấu trúc da thay đổi theo tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp


và theo vị trí. Da dày nhất là ở lòng bàn tay, lòng bàn chân: 0,8 mm, mỏng nhất ở
mí mắt: 0,6mm. Da gồm có 3 phần: thượng bì, trung bì và hạ bì [21], [25].
Thượng bì: Gồm 5 lớp tế bào [25].
Trong cùng là màng đáy chỉ có một tế bào hình trụ gọi là tế bào đáy, xen kẽ
với một số tế bào tạo ra sắc tố đen gọi là hắc tế bào, đây là lớp duy nhất có khả năng
sinh sản những tế bào mới thay thế tế bào cũ, vì vậy nếu bị loét da, mất lớp này thì
khi lành sẽ có sẹo.
Tiếp theo đó là lớp tế bào gai: đây là lớp dày nhất thượng bì, có khoảng một
chục hàng tế bào, có những cầu liên bào rất chắc giúp da dai chắc.
Kế tiếp là lớp tế bào hạt: gồm những tế bào hình thoi, chứa nhiều hạt
Keratohyalin.
Lớp sáng: chỉ có ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, gồm 2 dến 3 hàng tế bào
Cuối cùng là lớp sừng: gồm những tế bào sừng, không nhân, xếp thành những
phiến mỏng chồng chất lên nhau. Bình thường, những tế bào sừng phía ngoài tách
rời rồi tróc ra liên tục tạo nên những vảy nhỏ bám vào quần áo hay lẫn mồ hôi, chất
bã. Như vậy, thượng bì luôn luôn ở tình trạng sinh sản những tế bào mới ở lớp đáy
tế bào, già cỗi ở lớp hạt, rồi tróc ra ở lớp sừng.
Trung bì: Được cấu tạo bởi các sợi keo, sợi đàn hồi, sợi lưới, các tế bào sợi,
mô bào, dưỡng bào. Lớp này có nhiều mạch máu, dây thần kinh, là bộ phận rất quan
trọng vì là nơi các thuốc điều trị theo các mạch máu thấm vào thượng bì cũng như
nang lông, tuyến mồ hôi, tuyến bã nhờn giúp da lành bệnh.
Hạ bì
Chủ yếu là các tế bào mỡ xếp thành từng thùy, có nhiệm vụ nâng đỡ da.
1.2.2. Chức năng da.

Da có những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng:
Da làm nhiệm vụ che chở cơ thể chống lại các tác nhân bên ngoài như tác
nhân vật lý, cơ học, hóa học, sinh học, da đàn hồi và chắc chắn nhờ các sợi đàn hồi
và sợi keo. bình thường da hơi căng nhưng khi bóp da sẽ thun lại. tính giãn của da


mạnh ở người trẻ vì lúc này da có nhiều sợi đàn hồi, khi già, đọ thun của da sẽ giảm
vì số lượng sợi đàn hồi, sợi keo và mô mỡ dưới da giảm, vì vậy da người già nhão,
chảy xệ và có nhiều nếp nhăn.
Chức năng điều hòa nhiệt độ: lớp sừng và chất bã cách nhiệt rất tốt, nhưng
tùy theo nhiệt độ không khí bên ngoài mà da có thể nóng hay lạnh. Sự đổ mồ hôi
làm giảm thân nhiệt còn có các phản xạ vận mạch đưa đến hoặc một sự giãn mạch
khi nóng hoặc một sự co mạch khi lạnh [21].
1.2.3. Các phổ vi khuẩn thường có trên da bàn tay
Khi bàn tay tiếp xúc với bề mặt bất kỳ đồ vật, dụng cụ nào cũng có thể bị ô
nhiễm vi sinh vật trên đó. Các vi sinh vật tìm thấy trên bàn tay gồm vi khuẩn, vi rút,
nấm trong đó vi khuẩn là tác nhân thường gặp nhất gây ra. Khi tiếp xúc với bệnh
nhân trong các thao tác sạch như trải ga giường, bắt mạch, đo huyết áp, bàn tay có
thể bị ô nhiễm từ 100 – 1000 Vi khuẩn Klebsiella spp. Khi tiếp xúc với máu, dịch
cơ thể như hút đờm, đặt catheter tĩnh mạch, thay băng vết mổ, các đầu ngón tay
nhân viên y tế (NVYT) có thể bị ô nhiễm tới 3000 tế bào vi khuẩn [17].
Mật độ vi khuẩn trên bàn tay mỗi người đều khác nhau, nhưng ít thay đổi ở
một người. Năm 1938, Price PB chia các vi khuẩn phân lập được trên da bàn tay
làm 2 nhóm: vi khuẩn vãng lai và vi khuẩn định cư [99].
1.2.4. Vi khuẩn định cư
Trên da cơ thể người luôn có vi khuẩn định cư, da ở những khu vực khác nhau
2

của cơ thể có lượng vi khuẩn hiếu khí định cư khác nhau. Ví dụ, một cm da đầu chứa
6


5

4

1 x 10 vi khuẩn, tương tự 5 x 10 vi khuẩn ở da vùng hõm nách, 4 x 10 vi khuẩn ở
4

da vùng bụng, và 1 x 10 vi khuẩn trên da vùng c ng tay. Lượng vi khuẩn trên bàn
4

6

2

tay của NVYT dao động từ 3,9 x 10 đến 4,6 x 10 trong 1 cm [100].
Nhóm vi khuẩn này gồm:
 Các cầu khuẩn Gram dương:S. epidermidis, S. aurers, S. hominis...
Nghiên cứu tại một đơn vị Hồi sức tích cực ở một Bệnh viện nước Đức thấy 18,4%
y tá và 36% bác sĩ có S. aureus thường trú trên bàn tay [63].




Các vi khuẩn Gram âm:Acinetobacter, Enterobacter... Theo nghiên cứu

của Lanson, 21% NVYT có vi khuẩn Acinetobacter và các vi khuẩn thuộc nhóm
Klebsiella-Enterobacter cư trú trên bàn tay [21], [61]. Casewell và Phillips đã có
những thông báo về các vụ dịch NKBV do lây truyền Klebsiella từ tay của các nhân
viên y tế (NVYT). Vi khuẩn Gram âm thường chiếm tỷ lệ cao ở tay của nhân viên

đơn vị Hồi sức Cấp cứu, đặc biệt là ở những người rửa tay dưới 8 lần trong ngày [61].
Phần lớn các vi khuẩn định cư có độc lực thấp, ít có khả năng gây nhiễm
khuẩn trừ khi chúng xâm nhập vào cơ thể qua các thủ thuật xâm lấn như phẫu thuật,
đặt catheter tĩnh mạch [20].
Vi khuẩn định cư thường cư trú ở lớp sâu của da, có khả năng tồn tại và nhân
lên trên da, thường xuyên phân lập được trên da tay. Vi khuẩn định cư có mật độ
thay đổi tuỳ theo từng vùng trên bàn tay. Loại vi khuẩn này tập trung cao nhất ở
xung quanh móng tay, móng tay và kẽ ngón tay và khó loại bỏ bằng các biện pháp
cơ học (rửa tay với nước và xà phòng thường) khó loại bỏ được hoàn toàn các vi
khuẩn này khỏi bàn tay, nhưng có thể loại bỏ bằng hoá chất khử khuẩn. Do vậy,
trước khi thực hiện các thủ thuật xâm lấn, đặc biệt là trước khi phẫu thuật, NVYT
cần vệ sinh tay bằng hóa chất khử khuẩn như cồn hoặc chlorhexidine với thời gian
nhất định nhằm loại bỏ vi khuẩn này.
1.2.5. Vi khuẩn vãng lai
Loại vi khuẩn này xuất hiện ở bàn tay khi thăm hoặc tiếp xúc với các đồ vật
bẩn trong môi trường (chăn ga giường, dụng cụ phương tiện sử dụng...), trong quá
trình chăm sóc và điều trị. Mức độ ô nhiễm bàn tay phụ thuộc vào loại thao tác sạch
hay bẩn và thời gian thực hiện thao tác. Các vi khuẩn vãng lai chỉ tồn tại trên da
dưới 24 giờ, không có khả năng tự nhân lên và có thể loại bỏ hầu hết các vi khuẩn
này bằng biện pháp vệ sinh thường quy (VSTQ) (với nước và xà phòng thường
hoặc chà xát tay bằng dung dịch chứa cồn) [38].
Phổ vi khuẩn vãng lai gồm mọi vi sinh vật có mặt trong môi trường (Vi khuẩn,
vi rút, nấm, ký sinh trùng), nhưng thường gặp là: liên cầu, E. coli, trực khuẩn mủ
xanh. Vi


khuẩn vãng lai là thủ phạm chính gây nên [100]. Do vậy, VSTQ trước và sau khi tiếp
xúc là biện pháp đơn giản và quan trọng nhất trong phòng ngừa nhiễm khuẩn.
Bàn tay khi động chạm vào bất kỳ bề mặt môi trường nào cũng có thể bị ô
nhiễm vi sinh vật.

1.3. Một số nghiên cứu về rửa tay xà phòng trên thế giới
Theo các nhà khoa học Mỹ, rửa tay bằng xà phòng có thể giảm 1/2 số trẻ em
nhiễm viêm phổi, căn bệnh gây tử vong hàng đầu cho trẻ dưới 5 tuổi trên toàn thế
giới [41].
Nghiên cứu tại Trung tâm Kiểm soát Bệnh dịch (CDC) Atlanta cũng cho biết
động tác đơn giản này còn có thể giảm thiểu các trường hợp mắc bệnh tiêu chảy,
chốc lở, nhiễm trùng da [44].
Mỗi ngày trên thế giới, hầu hết ở các nước đang phát triển, có tới hơn 27.000
trẻ em dưới 5 tuổi chết vì những nguyên nhân lẽ ra có thể phòng tránh được. Viêm
phổi và các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cướp đi sinh mạng khoảng 2 triệu trẻ
em mỗi năm, gần 3/4 con số này là trẻ dưới 1 tuổi [61].
Tại Mỹ, trong một cuộc khảo sát qua điện thoại, kết quả cho thấy, hơn 90%
người được hỏi cho biết họ sẽ rửa tay sau khi đi vệ sinh ở nơi công cộng. Tuy nhiên,
khi các nhà nghiên cứu quan sát hành vi đi vệ sinh ở nơi công cộng thì thấy: chỉ hơn
75% nam giới và 90% phụ nữ có rửa tay sau khi ra khỏi nhà vệ sinh [59].
Mỗi năm ở Anh có khoảng 100.000 người bị nhiễm khuẩn bệnh viện và
5.000 người bị chết gây tốn kém cho hệ thống y tế Quốc gia của nước này 1 tỷ đô la
Mỹ mỗi năm. Trên 30% các nhiễm trùng bệnh viện này có thể kiểm soát được bằng
hành vi rửa tay xà phòng [70].
Rửa tay xà phòng đặc biệt quan trọng đối với trẻ em ở độ tuổi vườn trẻ,
chúng có nguy cơ lây nhiễm bệnh đường tiêu hóa rất cao và dễ dàng lây nhiễm cho
gia đình và các thành viên khác trong cộng đồng [71]. Để tránh cho trẻ bị mắc các
bệnh lây truyền theo đường tiêu hóa, cần hướng dẫn và giám sát chúng rửa tay
thường xuyên và đúng quy trình.


Tỷ lệ người dân thường xuyên rửa tay xà phòng rất cao ở các nước phát triển,
tháng 8 năm 2005, một nghiên cứu tiến hành quan sát hành vi rửa tay xà phòng của
6.336 người tại một số công trình vệ sinh công cộng ở 4 thành phố lớn của Mỹ năm
2005 cho thấy, tỷ lệ người dân rửa tay xà phòng sau khi sử dụng nhà vệ sinh công

cộng là 83%, tỷ lệ này cao hơn ở phụ nữ (90%) và thấp hơn ở nam giới (75%) [68].
Tỷ lệ người dân rửa tay xà phòng thường xuyên rất thấp ở các nước đang phát triển.
Ở Ghana, một nghiên cứu quan sát đã chỉ ra rằng chỉ có 4% người dân rửa tay bằng
xà phòng [39].
Nhóm do tiến sĩ Stephan Luby thuộc CDC (Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh
của Mỹ) đứng đầu đã nghiên cứu tại một khu dân cư ở thành phố Karachi (Pakistan)
đã so sánh ảnh hưởng của rửa tay xà phòng hàng ngày đối với 900 hộ gia đình sống
ở các cụm dân cư này trong vòng 1 năm. Khoảng 600 trong số 900 hộ này thường
xuyên được cung cấp xà phòng thường và xà phòng diệt khuẩn trong khi 300 hộ còn
lại (nhóm đối chứng) chỉ được trang bị các kiến thức về vệ sinh [88]. Những gia
đình này đều được ghé thăm hàng tuần và được khuyến khích giữ vệ sinh tốt hơn.
Kết quả, so với những gia đình trong nhóm đối chứng, các ca tiêu chảy và viêm
phổi giảm 50% ở những gia đình thuộc nhóm còn lại. Bệnh chốc lở da ở trẻ em dưới
15 tuổi cũng giảm 34%. Mỗi năm bệnh viêm phổi và tiêu chảy làm hơn 3,5 triệu trẻ
em trên thế giới tử vong. Như vậy thói quen đơn giản và rẻ tiền này rất cần thiết cho
những quốc gia đang phát triển. Không có sự khác biệt giữa các gia đình dùng xà
phòng thường và xà phòng diệt khuẩn. Theo Luby, để giảm thiểu mầm bệnh, rửa tay
bằng xà phòng đặc biệt quan trọng trước khi chuẩn bị đồ ăn và ăn, sau khi đi vệ sinh
và sau khi tắm cho trẻ. Thực tế đã chứng minh giữ gìn vệ sinh đôi tay nên là ưu tiên
hàng đầu trong chăm sóc sức khỏe bản thân và cộng đồng [88], [89].
Tại Colombia, nơi có tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy cao, một cuộc điều tra cơ bản
đã được tiến hành tại 500 hộ gia đình thuộc diện nghèo, phân bố đều tại các vùng
địa lý chính của Colombia, kể cả ở thành thị hay nông thôn (ít nhất một hộ gia đình
có một trẻ em dưới 5 tuổi). Cuộc điều tra xác định tỷ lệ rửa tay ở những bà mẹ và
những người chăm sóc trẻ dưới 5 tuổi. Dưới đây là một số kết quả chính [40], [92]:
10% trẻ em dưới 5 tuổi có triệu chứng tiêu chảy tại ngày trước khi tiến hành cuộc


điều tra; 22% trẻ em dưới 5 tuổi có triệu chứng tiêu chảy trước hai tuần tiến hành
cuộc điều tra; Chỉ 20,7% trường hợp có rửa tay tại thời điểm quan sát; Chỉ 38%

trong số trường hợp rửa tay là có sử dụng xà phòng; Tỷ lệ rửa tay tại thời điểm sau
tiểu tiện, đại tiện (32,2%) cao hơn đáng kể so với tỷ lệ rửa tay trước khi ăn (17,5%);
Sau khi tiếp xúc với phân, hơn một nửa số trường hợp rửa tay bằng xà phòng. Còn
tại thời điểm trước khi ăn, chỉ dưới 1/3 số đối tượng quan sát có rửa tay bằng xà
phòng.
Victor Rhee thuộc Trường Y tế cộng đồng Johns Hopkins Bloomberg và các
đồng sự đã có được số liệu từ 1 cuộc nghiên cứu quan sát trên 23.662 trẻ sơ sinh
trong suốt 28 ngày tuổi ở vùng nông thôn phía bắc Nepal từ năm 2002-2006. Các bà
mẹ của những trẻ sơ sinh được đưa những bảng câu hỏi sau khi sinh và sau đó 2
tuần để xác định các thói quen rửa tay của mẹ và người đỡ đẻ [46], [72].
Hơn 90% các trẻ được sinh ở nhà hay ngoài trời trong khi bà mẹ đang được
chuyển đến 1 nơi đầy đủ tiện nghi. Những người đỡ đẻ rửa tay trước khi đỡ thì có
59,2% trẻ sinh ra còn sống, trong khi đó chỉ có 14,8% các bà mẹ rửa tay bằng xà
phòng và nước hay chất khử trùng trước khi chạm vào đứa con. Tỷ lệ tử vong toàn
thể là có 32,1/1.000 trẻ sinh ra còn sống [48].
Những trẻ sơ sinh mà người đỡ đẻ của chúng rửa tay trước khi đỡ thì nguy cơ
tử vong thấp hơn 25% so với những trẻ mà người đỡ đẻ đã không rửa tay. Những trẻ
sơ sinh mà mẹ của chúng rửa tay trước khi sờ vào chúng thì nguy cơ tử vong của trẻ
thấp hơn 60% so với những trẻ mà mẹ của chúng đã không rửa tay trước khi chạm
vào chúng. Nói chung, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh thấp hơn 41% nếu người đỡ đẻ
và mẹ của chúng rửa tay trước khi chạm vào chúng [51].
Ở các nước đang phát triển, nơi mà phần lớn trẻ được sinh tại nhà, thì người
ta không nhận thức rõ ràng về khái niệm rửa tay bằng xà phòng trước khi đỡ đẻ để
bảo vệ chúng khỏi mắc bệnh lây nhiễm. Các phương pháp củng cố và tăng cường
việc rửa tay của các bà mẹ và người đỡ đẻ có thể cải thiện được tỷ lệ tử vong của trẻ
sơ sinh.
Rửa tay xà phòng được coi là cách phòng bệnh có chi phí thấp nhất nhưng lại
mang lại hiệu quả phòng các bệnh tiêu chảy, giun sán, nhiễm khuẩn hô hấp cao hơn



so với các biện pháp khác trong các chương trình can thiệp về nước sạch và vệ sinh
môi trường [34]. Thói quen rửa tay xà phòng trước khi ăn và sau khi đại, tiểu tiện
giúp loại bỏ mầm bệnh theo tay bẩn xâm nhiễm vào thức ăn, nước uống, vào cơ thể
gây ra những bệnh tật nguy hiểm cho con người. Theo tiến sỹ Anthony Komaroff
tại đại học Harvard Health Letter (Mỹ), các nghiên cứu cho thấy, rửa tay bằng xà
phòng với nước trong 15 giây có thể loại bỏ được 90% vi khuẩn [40].
Nhìn chung, tỷ lệ người dân thường xuyên rửa tay xà phòng rất cao ở các
nước phát triển. Tháng 8 năm 2005, một nghiên cứu tiến hành quan sát hành vi rửa
tay xà phòng của 6.336 người tại một số công trình vệ sinh công cộng ở 4 thành phố
lớn của Mỹ năm 2005 cho thấy, tỷ lệ người dân rửa tay xà phòng sau khi sử dụng
nhà vệ sinh công cộng là 83%, tỷ lệ này cao hơn ở phụ nữ (90%) và thấp hơn ở nam
giới (75%) [68]. Trong khi đó, tỷ lệ người dân rửa tay xà phòng thường xuyên rất
thấp ở các nước đang phát triển. Một nghiên cứu quan sát ở Ghana đã chỉ ra rằng
chỉ có 4% người dân rửa tay bằng xà phòng [39]. Những trẻ sơ sinh mà người đỡ đẻ
của chúng rửa tay trước khi đỡ thì nguy cơ tử vong thấp hơn 25% so với những trẻ
mà người đỡ đẻ đã không rửa tay. Những trẻ sơ sinh mà mẹ của chúng rửa tay trước
khi sờ vào chúng thì nguy cơ tử vong của trẻ thấp hơn 60% so với những trẻ mà mẹ
của chúng đã không rửa tay trước khi chạm vào chúng. Nói chung, tỷ lệ tử vong của
trẻ sơ sinh thấp hơn 41% nếu người đỡ đẻ và mẹ của chúng rửa tay trước khi chạm
vào chúng [46].
1.4. Các nghiên cứu về rửa tay xà phòng ở Việt Nam
Ở Việt Nam, hành vi rửa tay xà phòng nói chung vẫn chưa được người dân
quan tâm. Theo kết quả điều tra vệ sinh môi trường tại 3 huyện Quảng Trạch, Bố
Trạch, Phú Lộc thuộc Bắc Trung bộ năm 2005, tỷ lệ đối tượng nghiên cứu trả lời
thường xuyên rửa tay xà phòng rất thấp (dưới 2%), trong đó rửa tay xà phòng trước
khi ăn là 1,7%, sau khi ăn là 1,8% [10].
Kết quả điều tra vệ sinh môi trường tại 3 huyện Quản Bạ, Yên Minh, Chiêm
Hóa thuộc khu vực miền núi phía Bắc năm 2005, hầu hết người dân ở các vùng
miền núi này đều không có thói quen rửa tay xà phòng trước khi ăn và sau khi đại



tiểu tiện. Chỉ có 0,2% đối tượng thường xuyên rửa tay xà phòng trước khi ăn và
0,8% đối tượng rửa tay xà phòng sau khi đại tiểu tiện [4].
Theo kết quả điều tra thực trạng quản lý phân người và kiến thức, thái độ,
thực hành của cộng đồng một số tỉnh phía Bắc của Lê Văn Chính năm 2005 cho
thấy tỷ lệ đối tượng thường xuyên rửa tay xà phòng trước khi ăn là 17,2% và sau
khi đi đại, tiểu tiện là 41%.
Kết quả điều tra của Hội chữ thập đỏ Mỹ về hành vi rửa tay xà phòng của các
bà mẹ tại 6 tỉnh Việt Nam hiện đang chăm sóc con nhỏ dưới 24 tháng tuổi ở hai thời
điểm rửa tay xà phòng sau khi đại tiện và một trong các thời điểm: sau khi rửa đít
cho con hoặc trước khi chuẩn bị bữa ăn hoặc trước khi ăn hoặc trước khi cho con ăn
chỉ đạt 17% tổng số bà mẹ được quan sát [36].
Một nghiên cứu khác là cuộc điều tra về vệ sinh môi trường do Bộ Y tế tiến
hành đầu năm 2006 trên 37.000 hộ gia đình tại 20 tỉnh đặc trưng cho vùng nông
thôn Việt Nam. Tất cả các đối tượng từ 16 - 60 tuổi trong gia đình đều được hỏi là
có rửa tay xà phòng thường xuyên hay không trước khi ăn, sau khi tiểu tiện và sau
khi đại tiện? Điều tra viên đã kết hợp phỏng vấn và trực tiếp quan sát có xà phòng
hay không tại nơi rửa tay để kh ng định tính xác thực trong hành vi rửa tay của đối
tượng. Kết quả điều tra như sau [10]: Tỷ lệ đối tượng rửa tay xà phòng rất thấp ở cả
ba thời điểm, trước khi ăn là 12%, sau tiểu tiện là 12,2% và sau đại tiện là 15,6%.
Kết quả của cuộc điều tra này cũng đã xác nhận hành vi rửa tay xà phòng chưa phải
thói quen của người dân nông thôn Việt Nam, đặc biệt là với các đối tượng học vấn
thấp, thu nhập thấp, nam giới, dân tộc thiểu số, các vùng miền núi phía Bắc, Trung
bộ và Tây Nguyên. Đối với họ, rửa tay xà phòng còn là một việc rất xa lạ.
Ở các nhóm đối tượng có trình độ học vấn cao hoặc thu nhập cao, phụ nữ,
dân tộc Kinh, các vùng ĐBSH, Đông Nam Bộ, ĐBSCL có tỷ lệ rửa tay cao hơn h n
so với các nhóm còn lại, tuy nhiên vẫn còn ở mức thấp. Xác suất một người thuộc
nhóm có học vấn từ trung học cơ sở trở lên có kiến thức phòng bệnh giun và tiêu
chảy bằng cách rửa tay xà phòng cao hơn 2,2 lần so với nhóm có học vấn từ tiểu
học trở xuống. Tỷ lệ phụ nữ thường xuyên có rửa tay xà phòng trước khi ăn và sau



đại tiểu tiện là gần 20%, cao hơn so với nam giới khoảng 1,5 lần. Xác suất một đối
tượng thuộc gia đình có thu nhập bình quân trên 200.000 đồng/người/tháng có rửa
tay xà phòng cao hơn từ 2,3 – 3,2 lần so với nhóm thu nhập từ 200.000
đồng/người/tháng trở xuống. Phân tích theo vùng sinh thái, xác suất một đối tượng
thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long thường xuyên có
rửa tay xà phòng cao hơn trên 10 lần, vùng Đông Nam Bộ cao hơn từ 26 đến 30 lần.
Tại trường học, kết quả điều tra cho thấy, tỷ lệ điểm trường có học sinh rửa
tay bằng xà phòng rất thấp ở tất cả các bậc học và các vùng sinh thái. Trong tổng số
học sinh được quan sát ở những điểm trường có khu vực rửa tay, chỉ có một tỷ lệ rất
nhỏ học sinh có rửa tay bằng xà phòng sau khi đi tiểu tiện (4,6%) và sau khi đi đại
tiện (11,5%). Kết quả đã kh ng định rằng đại đa số học sinh không có thói quen rửa
tay xà phòng sau khi sử dụng công trình vệ sinh mặc dù trường các em có khu vực
rửa tay và từ nhỏ các em đã được dạy điều này. Thêm vào đó, tình trạng thiếu nước
và đặc biệt là thiếu xà phòng tại khu rửa tay cũng đã làm giảm tỷ lệ học sinh rửa
tay bằng xà phòng. Kết quả điều tra về tính sẵn có của xà phòng tại khu vực rửa tay
là chỉ có 4,6% tổng số điểm trường điều tra có khu vực rửa tay có xà phòng và chỉ có
29% số điểm trường điều tra có khu vực rửa tay có đủ nước (Theo Báo cáo Vệ sinh
môi trường nông thôn Việt Nam, 2006 - Bộ Y tế [9].
Về hành vi rửa tay, trong số những hoạt động vệ sinh cá nhân, rửa tay bằng xà
phòng chỉ được 5% số bà mẹ được phỏng vấn đề cập đến đầu tiên. Trường hợp rửa
tay thường xuyên nhất là sau khi đi vệ sinh, theo đó là trước bữa ăn, sau khi lau chùi
cho trẻ và sau khi nấu ăn. Theo quan sát, tỷ lệ rửa tay xà phòng thực tế là 5% trước
khi cho trẻ ăn và 3% sau khi cho trẻ ăn. Sau khi cho trẻ đi đại tiện, chỉ có 1/4 số
người được phỏng vấn có rửa tay bằng xà phòng bánh - tỷ lệ này bằng với tỷ lệ khi
người dự vấn trực tiếp đi đại tiện, 1/4 sử dụng loại chất tẩy rửa khác. Trẻ em rửa
tay ít hơn nhiều so với các bà mẹ. Một kết luận có ý nghĩa được đưa ra là: Nơi để
xà phòng rất quan trọng trong việc hình thành thói quen rửa tay của người dân; và
sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn ảnh hưởng rõ rệt tới hoạt động vệ sinh,

đặc biệt là rửa tay [24].


Tìm hiểu về những động lực và cản trở hình thành thói quen rửa tay xà
phòng, báo cáo nhận định, trước hết là do sự thiếu hiểu biết. Mọi người dân đều biết
là vi khuẩn tồn tại, nhưng hầu hết các bà mẹ (đặc biệt là những người có trình độ
học vấn thấp) chỉ nhận thức rằng vi khuẩn là các vết bẩn nhìn thấy được bằng mắt
thường, do vậy, họ chỉ rửa tay với xà phòng khi tay bẩn hoặc có mùi khó chịu.
Những người dự vấn cũng nghĩ rằng các bệnh hay gặp là do các nhân tố khác, chứ
không phải do thực hiện vệ sinh kém, do vậy, họ thiếu động cơ để rửa tay xà phòng.
Một số nhân tố thực tiễn cũng có vai trò quyết định là thời gian, giá cả và hậu cần.
Những phụ nữ nghèo thường rất bận bịu, trong khi đó, rửa tay xà phòng mất nhiều
thời gian hơn so với việc chỉ rửa tay bằng nước không - hoặc không cần rửa tay.
Mặc dù mỗi gia đình đều có sử dụng chất tẩy rửa, nhưng xà phòng thơm ít phổ biến
hơn vì đó là phần chi phí thêm. Nơi để xà phòng cũng rất quan trọng, và trên thực
tế, nhà vệ sinh/khu vực tắm thường ở xa nơi nấu ăn cũng như nơi để các chất tẩy rửa.
Mặt khác, nước và hệ thống vệ sinh thường có chất lượng rất kém [24].
Kết quả nghiên cứu đầu kỳ (trước can thiệp) trong khuôn khổ dự án “Hiện
trạng rửa tay xà phòng tại địa bàn dự án do Quỹ Unilever tài trợ” tại 10 xã thuộc
các tỉnh Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Nam, Hà Tây và Hải Phòng từ tháng 12/2006 đến
tháng 1/2007 [11] cho thấy: tỷ lệ người dân trong cộng đồng có thực hiện hành vi
rửa tay xà phòng rất thấp. Chỉ có 6,1% số đối tượng được quan sát có rửa tay xà
phòng trước khi ăn, 0,8% rửa tay xà phòng sau tiểu tiện và 14,6% có thực hiện hành
vi rửa tay xà phòng sau khi đi đại tiện. Tỷ lệ các bà mẹ rửa tay xà phòng trước khi
cho trẻ ăn, sau khi lau/rửa đít và đổ phân cho trẻ cũng rất thấp (2,6%, 10,5% và
16,1%). Tại các nơi công cộng như trường học, trạm y tế, UBND xã chỉ có: 2,5% số
người có rửa tay bằng xà phòng sau khi đi đại tiện (trong đó 2,3% là học sinh mầm
non và 15% số người đi đại tiện ở trạm y tế, 0% tại các bậc học lớn hơn và UBND
xã); 6,3% số người đi tiểu tiện ở trạm y tế là có rửa tay bằng xà phòng, còn tất cả
học sinh (mầm non, tiểu học, trung học cơ sở) cũng như những người ở UBND xã

đều không có thói quen này. Điều tra còn cho thấy: tỷ lệ rửa tay xà phòng của người
dân trong cộng đồng còn thấp không h n do thiếu nước sinh hoạt (90% gia đình của
những người được điều tra có đủ nước sinh hoạt hàng ngày), cũng không h n do nơi


rửa tay cách quá xa nơi ăn hay nơi đại tiểu tiện (khoảng một nửa số gia đình quan
sát có nơi rửa tay cách xa nơi ăn và đại tiểu tiện không quá 5m). Trình độ học vấn,
mức thu nhập của gia đình khá và vị trí để xà phòng gần với nơi rửa tay có ảnh
hưởng hỗ trợ cho việc thực hiện hành vi rửa tay xà phòng. Yếu tố có tác động rất rõ
tới hành vi rửa tay xà phòng là việc sẵn có xà phòng rửa tay và đặc biệt là nhận thức
đúng về tác dụng của rửa tay xà phòng. Bên cạnh việc thiếu nước và xà phòng cho
rửa tay tại trường học, thì ý thức rửa tay bằng xà phòng của học sinh sau đại tiểu
tiện còn chưa tốt. Nếu như ở trường tỷ lệ học sinh rửa tay xà phòng sau đại tiểu tiện
thấp là do không có sẵn xà phòng thì ở tại gia đình trong điều kiện nước và xà
phòng không quá thiếu thì tỷ lệ học sinh rửa tay xà phòng trước khi ăn và sau đại
tiểu tiện cũng rất thấp và thấp hơn cả người lớn trong gia đình. Như vậy, giáo dục
hành vi vệ sinh cá nhân cho học sinh, đặc biệt là rửa tay xà phòng chưa đạt được
mục tiêu học đi đôi với hành.
Cuộc điều tra đánh giá hiệu quả can thiệp thông qua việc so sánh với kết quả
đánh giá ban đầu của dự án “Hiện trạng rửa tay xà phòng tại địa bàn dự án do Quỹ
Unilever tài trợ”, được tiến hành tại 10 xã thuộc các tỉnh Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Hà
Nam, Hà Tây và Hải Phòng từ tháng 12/2007 đến tháng 1/2008, đã tiến hành quan
sát hành vi rửa tay của 390 trẻ em từ 6-15 tuổi, 390 người từ 16-60 tuổi và 390 bà
mẹ đang nuôi con dưới 5 tuổi tại hộ gia đình trong vòng 14 giờ (từ 5 giờ sáng đến
20 giờ tối); hành vi rửa tay của những người sử dụng công trình vệ sinh ở trường
học, trạm y tế, trụ sở UBND từ 7 giờ đến 17 giờ [11] cho thấy: Hiểu biết của người
dân nói chung và học sinh nói riêng về các bệnh có thể bị lây nhiễm do bàn tay
không sạch sau can thiệp tuy chưa thật cao và toàn diện nhưng đã được cải thiện
đáng kể. Tỷ lệ đối tượng được phỏng vấn kể được các bệnh có thể bị lây nhiễm do
bàn tay không sạch như tiêu chảy, tả, lỵ thương hàn sau can thiệp đã tăng lên rất

đáng kể so với trước can thiệp. Ngược lại, tỷ lệ đối tượng điều tra không kể được
tên một bệnh nào do bàn tay không sạch gây ra sau can thiệp đã giảm xuống còn
10,4%, thay vì 23,1% trước can thiệp. Hiểu biết đúng và đầy đủ về qui trình rửa tay
xà phòng tuy chưa cao nhưng đã được cải thiện đáng kể sau can thiệp. Nhóm trẻ em
(6-15 tuổi) hiểu biết về qui trình rửa tay xà phòng tốt hơn so với nhóm 16-60 tuổi


(36,9% số trẻ em kể được đầy đủ và đúng trình tự 6 bước rửa tay xà phòng, còn
nhóm 16-60 chỉ đạt 7,9%). Tỷ lệ đối tượng được quan sát trong điều tra cuối kỳ có
rửa tay xà phòng trước khi ăn cao hơn nhiều so với trước can thiệp (54% so với
6,1%). Tỷ lệ đối tượng có rửa tay xà phòng sau tiểu tiện trong điều tra cuối kỳ đã
được cải thiện nhưng vẫn còn rất thấp (11,8% sau can thiệp so với 0,8% trước can
thiệp). Hành vi rửa tay xà phòng sau khi đi đại tiện của đối tượng điều tra sau can
thiệp đã cao hơn rất nhiều so với trước can thiệp (63,8% so với 14,6%).
Theo khuyến cáo của WHO và Bộ Y tế Việt Nam: Việc không rửa tay bằng
xà phòng vào các thời điểm quan trọng như trước khi ăn, sau khi tiểu/đại tiện, trước
khi cho con ăn và sau khi chăm sóc trẻ,… đang làm gia tăng các bệnh tiêu chảy, tả,
lỵ, giun sán. Đây là các bệnh rất phổ biến và chiếm tỷ lệ cao trong số các bệnh
thường gặp ở các vùng nông thôn Việt Nam. Đặc biệt, với diễn biến phức tạp của
dịch cúm A (H5N1) trên thế giới và ở Việt Nam, nguy cơ có thể gây nên một đại
dịch lớn thì vấn đề nâng cao ý thức người dân về các hành vi vệ sinh cá nhân, vệ
sinh môi trường trong đó việc thực hành thường xuyên rửa tay bằng xà phòng để
phòng tránh dịch bệnh là rất cần thiết.
Cuộc điều tra về vệ sinh môi trường do Bộ Y tế tiến hành đầu năm 2006 trên
37.000 hộ gia đình tại 20 tỉnh đặc trưng cho vùng nông thôn Việt Nam cho thấy: Tỷ
lệ đối tượng rửa tay xà phòng rất thấp ở cả ba thời điểm, trước khi ăn là 12%, sau
tiểu tiện là 12,2% và sau đại tiện là 15,6%. Kết quả của cuộc điều tra này cũng đã
xác nhận hành vi rửa tay xà phòng chưa phải thói quen của người dân nông thôn
Việt Nam, đặc biệt là với các đối tượng học vấn thấp, thu nhập thấp, nam giới, dân
tộc thiểu số, các vùng miền núi phía Bắc, Trung bộ và Tây Nguyên. Đối với họ, rửa

tay xà phòng còn là một việc rất xa lạ [11].
Kết quả điều tra của Hội chữ thập đỏ Mỹ về hành vi rửa tay xà phòng của các
bà mẹ tại 6 tỉnh Việt Nam hiện đang chăm sóc con nhỏ dưới 24 tháng tuổi ở hai thời
điểm rửa tay xà phòng sau khi đại tiện và một trong các thời điểm: sau khi rửa đít
cho con hoặc trước khi chuẩn bị bữa ăn hoặc trước khi ăn hoặc trước khi cho con ăn
chỉ đạt 17% tổng số bà mẹ được quan sát [36].


Một nghiên cứu khác cho thấy, tỷ lệ bà mẹ có rửa tay bằng xà phòng/chất tẩy
rửa ở một số thời điểm quan trọng còn rất thấp: trước khi ăn là 15,3%, sau khi đi
tiểu tiện là 4,7%, sau khi đi đại tiện là 25%, trước khi cho trẻ ăn là 13,2%, sau khi
lau/rửa đít cho trẻ là 25% và sau khi dọn phân/đổ bô cho trẻ là 29,3%.
“Nghiên cứu thói quen sinh hoạt của người dân” là một Dự án Quốc gia về
vấn đề rửa tay do công ty IndoChina tiến hành điều tra tại 8 tỉnh nước ta. Tổng số
đối tượng được dự vấn (quan sát, phỏng vấn, theo dõi) là 720 bà mẹ có con nhỏ
dưới 5 tuổi, đang sống tại các thị trấn & khu vực nông thôn các xã. Kết quả cho
thấy: đại đa số đối tượng rửa tay ít nhất 3 lần/ngày, tuy vậy, phân nửa số đó chỉ rửa
tay với nước, 1/4 dùng xà phòng thơm và phần còn lại dùng các chất tẩy rửa khác;
60% số người dự vấn chỉ rửa tay với nước cho biết họ thấy xà phòng không cần
thiết và việc sử dụng xà phòng để rửa tay có mối tương quan trực tiếp đối với trình
độ học vấn của người dự vấn [24].
Trong cuộc điều tra Các thói quen và hành vi liên quan đến việc rửa tay ở
nhóm các bà mẹ có con dưới 5 tuổi do Bộ Y tế tiến hành cho thấy: Chỉ có 30% số
bà mẹ được phỏng vấn rửa tay trước khi cho con ăn và 20% rửa tay sau khi cho con
ăn. Trong hầu hết các trường hợp, họ chỉ rửa tay bằng nước. Điều tra cũng cho thấy
chỉ có 22,5% các bà mẹ rửa tay sau khi cho con đi vệ sinh và hơn một nửa trong số
họ cũng chỉ rửa tay bằng nước và không dùng xà phòng hay bất kỳ một loại hoá
chất tẩy rửa nào. Chỉ 12% người dân có thói quen rửa tay bằng xà phòng trước khi
ăn và sau khi vệ sinh.
1.5. Nghiên cứu về TT - GDSK trong phòng, chống bệnh lây truyền

Truyền thông - Giáo dục sức khỏe là một phương tiện hữu hiệu để thay đổi
thói quen truyền thống như: sử dụng màn và màn tẩm hóa chất xua diệt muỗi phòng
chống bệnh sốt rét, thói quen ăn gỏi cá của người dân trong các vùng lưu hành bệnh
sán lá gan và thói quen sử dụng bao cao su trong việc phòng chống lây qua đường
tình dục như AIDS... là không thể thay đổi trong giai đoạn ngắn. Sự khuyến khích
chuẩn bị thức ăn đúng cách, cung cấp màn và khuyến khích người dân sử dụng màn
dường như là biện pháp có hiệu quả nhất thông qua kết hợp nhiều loại hình truyền


thông gián tiếp và trực tiếp. Tuy nhiên, những cán bộ y tế cần sử dụng các kỹ thuật
giao tiếp tốt hơn cho thông điệp này. Sự tuyên truyền giáo dục kiên trì và liên tục
nhấn mạnh vào lợi ích việc nằm màn, của nấu chín cá nước ngọt được coi là biện
pháp có hiệu quả để phòng, chống các bệnh này [84].
1.6. Nghiên cứu về TTGDSK trong cộng đồng người dân tộc ít người và người
Mông.
1.6.1. Ngu n gốc và lịch sử, văn hóa d n tộc Mông
Dân tộc Mông là dân tộc ít người nằm trong đại gia đình 54 dân tộc Việt Nam.
Dân tộc Mông có nhiều tên gọi khác nhau, các thuật ngữ, "Miêu" và "Mông" , H’
Mông ("Mèo" và "Mông" tại Việt Nam), hiện thời đều được sử dụng để chỉ một
trong những nhóm thổ dân ở Trung Quốc. Họ sống chủ yếu ở miền nam Trung
Quốc, trong các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây và Hồ
Bắc.
Dân tộc Mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Dân tộc Mông cư trú thường ở độ cao từ 800 đến
1500m so với mực nước biển gồm hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa
bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn đến
Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây bắc Việt Nam
như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La... Do tập quán du mục nên một số người
Mông trong những năm 1980, 1990 đã di dân vào tận Tây Nguyên, sống rải rác ở
một số nơi thuộc Gia Lai và Kon Tum [23].

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Mông ở Việt Nam có
dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt
Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Mông cư trú tập trung tại
các tỉnh: Hà Giang (227.909 người, chiếm 31,8 % dân số toàn tỉnh và 21,7 % tổng
số người Mông tại Việt Nam), Điện Biên (168.542 người, chiếm 34,2 % dân số toàn
tỉnh và 16,0 % tổng số người Mông tại Việt Nam), Sơn La (147.516 người, chiếm
13,9 % dân số toàn tỉnh và 14,7 % tổng số người Mông tại Việt Nam), Lào Cai
(143.795 người, chiếm 23,3 % dân số toàn tỉnh và 13,7 % tổng số người Mông tại
Việt Nam), Lai Châu (81.829 người), Yên Bái (36.837 người), Cao Bằng (50.167
người), Nghệ An (28.992 người), Đắk Lắk (22.760 người), Đắk Nông (21.952


người), Bắc Kạn (17.470 người), Tuyên Quang (16.974 người), Thanh Hóa (15.116
người) [12], [29].
Dân tộc Mông là một dân tộc có lịch sử lâu đời, hầu hết các chuyên gia
nghiên cứu về người Mông trên thế giới đều cho rằng, người Mông đã từng sinh
sống ở lưu vực sông Hoàng Hà và là một trong những chủ nhân của nhà nước Tam
Miêu [32], nền văn hóa phát triển khá rực rỡ với nền văn minh lúa nước, có chữ viết
và vương quốc riêng. Truyền thuyết của người Hán cho rằng, người Mông xuất hiện
sớm nhất ở lưu vực sông Hoàng Hà và người Mông theo Suy Vưu chống lại Hoàng
Đế, nhưng Suy Vưu đã bị Huy Viên là người Hán đánh bại và xưng vua, nên người
Mông buộc phải di cư về hồ Động Đình và hồ Bành Lãi, xây dựng nên nước Tam
Miêu và đóng đô ở Trường Sa. Sách Chiến quốc ghi rõ địa vực cư trú của người
Mông thời Hạ Vũ, và theo lời của Ngô Khởi thì nước Tam Miêu xưa ở phía tả có hồ
Động Đình, phía hữu có hồ Bành Lãi, phía nam là núi Văn Sơn, phía bắc là núi
Hành Sơn, tức thuộc các vùng Giang Tây, An Tây, Hồ Nam ngày nay. Theo Bách
khoa thư văn hoá cổ điển Trung Quốc của Nguyễn Tôn Nhan [26], người Mông
xuất hiện ở khu vực trung và hạ lưu sông Trường Giang, ngày nay là vùng Hồ Bắc,
Hồ Nam và Giang Tây với vương quốc Cửu Lê do vua Suy Vưu đứng đầu bao gồm
9 bộ lạc, mỗi bộ lạc có 9 thị tộc, có khả năng dùng đồng chế tạo vũ khí. Bị liên

minh bộ lạc của Hoàng đế - Viêm đế đánh bại sau mấy chục trận chiến ở cánh đồng
Trác Lộc, một bộ phận Cửu Lê không chịu khuất phục, đã rút lui về lưu vực Giang
Hán Phương Nam và lập nên bộ lạc liên minh Tam Miêu. Ở thời kỳ của vua
Nghiêu, Thuấn, Vũ, vương quốc “Tam Miêu” của người Mông đã được xây dựng
và khá hùng mạnh. Sau khi Sở Trang Vương xưng vương, đã dời đô từ lưu vực
Giang Hán Phương Nam về vùng Hồ Bắc, phần lớn người dân “Tam Miêu” cùng
các tộc người ở miền trung lưu vực sông Trường Giang thuộc vương quốc “Kinh
sở”. Nước Kinh sở thời Chiến quốc và Miêu tộc ngày nay là hậu duệ của cửu Lê,
Tam Miêu. Đến thời nhà Hán, việc mở rộng lãnh thổ và chính sách đàn áp rất khốc
liệt đã đẩy người Mông lui dần xuống phía nam của sông Hoàng Hà và rút về lưu
vực sông Dương Tử, rồi vượt sông Dương Tử đi về phía Nam và Tây Nam. Vào
khoảng thế kỷ IV sau công nguyên, lợi dụng sự suy yếu của triều đình nhà Hán,


người Mông đã kiểm soát vùng Hồ Bắc, Hồ Nam và lập ra vương quốc Mông. Đến
thế kỷ IX, vương quốc Mông bị nhà Hán đánh bại, người Mông lại bị truy diệt và
phải di cư xuống vùng Quý Châu, Tứ Xuyên, Quảng Tây, Vân Nam để tránh các
cuộc tàn sát liên tục của các triều đại nhà Hán. Từ cuối thế kỷ VIII đến giữa thế kỷ
XIX, các cuộc khởi nghĩa chống chế độ chia rẽ và áp bức dân tộc vẫn liên tiếp nổ ra.
Từ năm 1840 đến năm 1869, người Mông ở Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây đã
kiên cường nổi dậy, tham gia phong trào Thái Bình Thiên quốc chống nhà Thanh,
điển hình là cuộc khởi nghĩa Hàm Đông năm 1853 dưới sự lãnh đạo của Trương Tú
Mi bắt đầu từ đông nam Quý Châu lan sang các tỉnh Hồ Nam và Vân Nam, kéo dài
suốt 18 năm. Khi đó, riêng vùng Quý Châu có trên 60 vạn người Mông, sau khởi
nghĩa chỉ còn sót lại vài vạn người. Các vùng đất và vương quốc cuối cùng của
người Mông ở vùng Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây, Hải Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu
và Vân Nam bị nhà Thanh thôn tính vào thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX [32].
Một số nhà nghiên cứu về người Mông đã coi Đông Nam A lục địa là vùng
đất tổ thứ ba bởi hầu hết người Mông sinh sống ở khắp nơi trên thế giới hiện nay
(trừ Trung Quốc) đều coi Việt Nam, Lào, và Thái Lan là vùng đất cội nguồn của

dân tộc và luôn tìm cách giữ quan hệ với quê hương. Theo công trình nghiên cứu
Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) của Viện Dân tộc học do Nhà
xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1978, bộ phận người Mông đầu tiên di cư
từ Quý Châu xuống Vân Nam (Trung Quốc) và Mèo Vạc, Đồng Văn (Việt Nam)
được bắt đầu cách đây khoảng 350 năm và đợt thiên di rất lớn là sau sự kiện Hiệp
ước Thiên Tân (Pháp - Mãn Thanh) năm 1884 về việc xác định biên giới giữa Việt
Nam và Trung Quốc. Từ Đồng Văn, Mèo Vạc, Lào Cai, một bộ phận lớn người
Mông đã di cư đến Tây Bắc Việt Nam và di cư tiếp đến nước Lào. Cao nguyên
Đồng Văn thuộc tỉnh Hà Giang luôn được coi là quê hương của phần lớn người
Mông ở Việt Nam, là nơi lưu giữ được những yếu tố văn hoá cổ truyền nhất của
người Mông ở Đông Nam Á cũng như người Mông đang cư trú ở trên thế giới, là
nơi thử thách bản lĩnh sinh tồn và đặc tính tâm lý của dân tộc Mông [27].
Nền kinh tế tự cung tự cấp đã biến mỗi gia đình Mông trở thành một đơn vị
kinh tế độc lập. Trừ dầu hỏa và muối ăn phải trao đổi, mua bán, mỗi gia đình Mông


đã nổi tiếng từ lâu với nhiều nghề thủ công như: xe lanh dệt vải, in hoa văn trên áo
váy bằng sáp ong, rèn đúc mang đậm tính nghệ thuật và bản sắc văn hóa độc đáo.
Người Mông có kỹ thuật rèn dao, búa, cuốc, cào cỏ rất sắc bén và kỹ thuật khoan
nòng sũng kíp rất khéo léo, dùng được lâu và được nhiều người ưu thích. Do nhu
cầu của dời sống kinh tế cũng như tín ngưỡng, tôn giáo, chăn nuôi gia súc là một
ngành rất phát triển ở dân tộc Mông, nhất là kinh nghiệm lựa chọn và chăn nuôi
trâu, bò, lợn, gà. Người Mông ăn nhiều thịt mỡ lợn và rau cải, nấu rượu ngon và
thường dùng rượu để cưới xin, tang ma và thể hiện tình cảm nhưng ít khi say. Sự
kết hợp hài hòa giữ hoạt động kinh tế và văn hóa được thể hiện rất sinh động ở chợ
phiên, nhất là Tết độc lập (ngày 2/9 hằng năm) được đồng bào Mông rất mong đợi
và yêu thích [31], [32].
Tình hình kinh tế - xã hội có những tiến bộ quan trọng và thu được nhiều
thành tựu về các lĩnh vực ăn, mặc, ở, học tập, chữa bệnh, giao thông, nước sinh
hoạt, điện thắp sáng, ứng dụng khoa học- công nghệ mới vào sản xuất, chuyển đổi

tập quán sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa, xóa đói giảm nghèo, cải
biến tín ngưỡng cổ hủ lạc hậu, tiếp thu các yếu tố văn hóa tiên tiến, v.v. Đây là
những yếu tố thuận lợi cho việc can thiệp truyền thông thay đổi các hành vi vệ sinh
cá nhân trong cộng đồng dân tộc Mông. Tuy vậy, đời sống kinh tế - xã hội ở dân tộc
Mông cũng như nhiều dân tộc thiểu số khác ở miền núi nước ta đang còn gặp nhiều
khó khăn như: trình độ sản xuất và dân trí còn thấp; cơ sở hạ tầng còn mỏng và
thiếu; tỷ lệ đói nghèo vẫn còn ở mức cao như Tuyên Quang (13,95%), Thanh Hóa
(72,4%) và diện chưa ổn dịnh định canh định cư còn lớn [28].
Dân tộc Mông có một nền văn hoá tinh thần phong phú và đặc sắc. Trong
quá trình lịch sử, dân tộc Mông hình thành nên những đặc điểm văn hoá có tính bền
vững và riêng biệt. Sinh hoạt văn hoá truyền thống của người Mông thường gắn với
nội dung tín ngưỡng và góp phần củng cố quan hệ cộng đồng ở dân tộc Mông.
Ở Việt Nam, dân tộc Mông có bốn nhóm: Mông trắng, Mông đen, Mông
hoa, Mông xanh, nhưng có một tiếng Mông chung và giàu tính thẩm mỹ, là phương
tiện sinh hoạt văn hoá tinh thần và văn học, nghệ thuật.


Dân tộc Mông có nhiều thành tựu về văn hoá, nhất là văn học, nghệ thuật, có
ý thức bảo tồn và lưu giữ bằng hình thức truyền miệng bao gồm thần thoại, truyền
thuyết, truyện cổ tích, thơ cổ, cố ca, tình ca, tục ngữ, kịch nói, múa khèn, trang trí
hoa văn trên đồ trang sức và trang phục, v.v.. Đặc biệt, hát, múa khèn, thổi sáo, thổi
lá là sở thích của người Mông.
Dân tộc Mông có nhiều phong tục tập quán tốt đẹp như: đoàn kết, gắn bó với
nhau, kết bạn, thuỷ chung với bạn bè, nhập họ, giúp đỡ lẫn nhau, trọng nghĩa khinh
tài, nhân ái vị tha; ghét gian, tà, áp bức, bất công; luôn sống khiêm nhường, kiên
nhẫn, thận trọng, kín đáo, tế nhị, lịch sự, giữ gìn tôn ti trật tự theo thứ bậc, tuổi tác
và quan hệ xã hội; có những quy ước kiêng kỵ rất chặt chẽ của gia đình, dòng họ và
bản làng (họ Giàng kiêng kỵ với quả tim của các loài động vật, họ Ly kiêng kỵ với
lá lách của mọi con vật, họ Lầu kiêng không ăn chim xanh Đa lâu, họ Vàng kiêng
ăn quả xanh cùng trong bữa cơm, họ Vàng quy định con dâu không được ăn cơm

cùng bố chồng, anh chồng và không được vào buồng ngủ của bố mẹ chồng, họ Sùng
quy định con dâu không được trèo lên gác xép, v.v...) [27].
Trong quá trình phát triển, với phong cách tư duy cụ thể, thiết thực, ngại
những điều trừu tượng, phức tạp, chồng chéo, đan xen, người Mông vừa bảo tồn
bản sắc văn hoá của dân tộc mình, vừa ra sức tiếp thu những tinh hoa văn hoá tốt
đẹp của các dân tộc khác ở nước ta và trên thể giới. Trong quá trình đó, đã và đang
diễn ra mạnh mẽ sự đan xen cộng sinh giữa văn hoá truyền thống và văn hoá mới,
có những thành tố văn hoá truyền thống được cải biến nâng cao và phát triển trở
thành văn hoá hiện đại, một số thành tố văn hoá truyền thống bị mai một và mất đi
trong đời sống tinh thần người Mông, tạo dựng nên các giá trị văn hoá mối sâu sắc
và góp phần làm phong phú bản sắc văn hoá của cộng đồng dân tộc Việt Nam
Ở nước ta, hơn 90% dân số dân tộc Mông theo tín ngưỡng nguyên thuỷ, đa
thần, chịu ảnh hưởng của đạo giáo ngành phù thuỷ, trong đó đặc biệt coi trọng tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên, những người thân đã khuất, những vị thần bản mệnh của
cá nhân, của dòng họ và dân tộc Mông. Tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống có vai trò
rất quan trọng trong sự cố kết cộng đồng dòng họ nói riêng và cả dân tộc Mông nói


chung. Theo luật tục của dân tộc Mông, dưới mái nhà của một gia đình Mông phải
có nơi thờ cúng tổ tiên ở vách tường thuộc gian giữa đối diện với cửa chính của
ngôi nhà để tổ chức các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Chỗ thờ cúng tổ tiên là nơi
thiêng liêng nhất chỉ chủ nhà mới được đến gần và thực hiện lễ nghi thờ cúng tổ
tiên. Chỗ thờ cúng tổ tiên của người Mông có bàn thờ với ống hương hay lư hương
và mảnh giấy tiền hình chữ nhật làm bằng giấy bản được gắn lên vách nhà. Người
Mông rất tôn kính đối với tổ tiên, những người đã khuất thuộc các thế hệ từ thế hệ
cha ông trở về trước, những người đã làm nên sự nghiệp để lại cho con cháu và luôn
giám sát con cháu xây dựng cuộc sống, luôn phù hộ cho con cháu và dòng họ phát
triển phồn vinh, nên phải biết ơn và thờ cúng tổ tiên. Việc thờ cúng tổ tiên vừa thể
hiện lòng biết ơn đối với cha ông, với tổ tiên, vừa thể hiện sự cầu mong xin tha thứ
và phù hộ. Lễ cúng tổ tiên được tiến hành rất trang nghiêm tại các “lễ cúng tết”, “lễ

vào nhà mới”, “lễ cưới xin”, “lễ cơm nước”, “lễ đặt tên trẻ sơ sinh”, “lễ trưởng
thành”, “lễ gọi vía”, “lễ tang ma”, “lễ đuổi ma tà”, “lễ thả hồn”, “lễ cúng bò nhớ ơn
bố mẹ”, “lễ thần nhà, thần cửa”, v.v.. Các vị thần nhà, thần cửa (thần cột ma nhà,
thần cửa chính Trung Ta, thần cửa Trung Trua, thần cửa buồng, thần thuốc, thần
vườn, thần bếp) được người Mông rất biết ơn và luôn thờ cúng vì sự chi phối nhất
định của các vị thần đối với con người [32].
Ở dân tộc Mông, mỗi dòng họ đều có một tổ chức tự quản riêng gồm có
trưởng họ, thầy thần quyền, bà cô. Trưởng họ là người có tín nhiệm, công tâm, ngay
th ng, có bản lĩnh, giỏi lý lẽ, am hiểu cuộc sống, đảm nhiệm việc đối nội, đối ngoại,
quyết định thành lập hội đồng dòng họ khi có việc lớn và tuyên bố khi có chiến
tranh, bảo đảm cho sự đoàn kết và phát triển đúng hướng của dòng họ mình trong
cộng đồng các dòng họ Mông và các dân tộc anh em trong một quốc gia. Thầy thần
quyền là người rất am hiểu nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo của dòng họ, phụ trách nghi
lễ của dòng họ và làm cố vấn cho trưởng họ trong đối ngoại. Bà cô có uý tín được
lựa chọn sẽ tham gia những việc chung của dòng họ, giám sát thầy thần quyền và
mọi thành viên trong việc thực hiện luật tục quyết định việc sửa đổi một số nghi lễ
tín ngưỡng của dòng họ khi thấy không còn phù hợp và có ý kiến trong việc hôn
nhân của các thành viên. Có thể nói, trong xã hội truyền thống, tổ chức dòng họ ở


×